ĐỀ TÀI THẢO LUẬN NHÓM 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài 3: Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Để xây dựng một nhà nước nói trên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh chúng ta phải làm gì?
ĐỀ CƯƠNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
1.Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động
1.1. Nhà nước của dân.
1.2. Nhà nước do dân.
1.3. Nhà nước vì dân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính
nhân dân và tính dân tộc của nhà nước
2.1. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
2.2. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
3.1.Xây dựng một nhà nước hợp hiến.
3.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào đời sống.
3.3.Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước đủ đức và đủ tài.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả.
4.1. Đề phòng và khắc phục các tiêu cực trong hoạt động của nhà nước.
4.2. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng.
II. Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân
2. Kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước
3. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
1.Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào
điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Chính quyền Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là Nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân; cơ sở xã
hội của Nhà nước là toàn dân tộc, nền tảng là liên minh công – nông, lao động trí óc dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân.
“Chánh cương vắn tắt” (3-2-1930) đã xác định nhiệm vụ chính trị của cách mạng Việt Nam
là: “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập. Dựng ra chính phủ công nông binh.Tổ chức ra quân đội công nông”
Đến tháng 5-1945, Nghị quyết trung ương tám đã khẳng định rõ về chế độ chính trị và chính
quyền Việt Nam là: “sau lúc đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân
chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyeenf cách mạng của nước dân chủ mới ấy không
pahỉ thuộc quyền riêng của giai cấp nào mà là của chung toàn thể dân tộc, chỉ trừ có tay sai của
bọn đế quốc Pháp - Nhật và những bọn phản quốc, những bọn thù”
Cách mạng tháng tám nămn 1945 thắng lợi, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích Nhật – Pháp,
lật chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Về thể chế của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Hiến pháp 1946 ghi: “Nước Việt
Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền hành trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” và “Đất nước Việt Nam
là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”.
Năm 1960, đánh giá kết quả của sự kiện này, Người viết: “Chế độ do Hiến pháp 1946 xác
nhậnđã đảm bảo độc lập dân tộc và một nền dân chủ rộng rãi của nhân dân…Đó là một chế độ
dân chủ mới”
Sự khác biệt của Nhà nước dân chủ kiểu cũ và Nhà nước dân chủ kiểu mới là ở điểm cơ bản:
Nhà nước dân chủ kiểu cũ là Nhà nước tư sản, mang bản chất giai cấp tư sản; còn Nhà nước dân
chủ kiểu mới là dân chủ của nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, là kết quả của cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân. Đó là nhà nước
của dân, do dân, vì dân; dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân.
1.1. Nhà nước của dân.
Nhà nước của dân có nghĩa là “bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”. Những người ở trong
bộ máy Nhà nước, bộ máy quyền lực, dù ở cấp nào cũng là đầy tớ của dân, đều do dân cử ra một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp để đại biểu cho dân mà thực thi quyền lực. Dân có quyền giám sát,
bãi miễn những người trong bộ máy Nhà nước do mình bầu ra mà không làm tròn trách nhiệm
đại biểu quyền lực cho dân.
Người đại diện cho dân nắm quyền nếu không có đạo đức, phẩm chất, không nhận thức đúng
vị trí, trách nhiệm của mình và không có cơ chế bảo đảm chặt chẽ thì dễ rơi vào tình trạng “lạm
quyền”, “đứng trên dân”, “ức hiếp dân”. Do đó, Người luôn nhắc nhở trách nhiệm làm người đại
biểu của dân và nghiêm khắc phê phán những hiện tượng vi phạm quyền lợi của dân.
với chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ trên lời nói mà trong mọi việc từ nhỏ đến lớn, Người
tôn trọng quyền dân chủ của dân. Ngay đối với chức vụ cao cả là chủ tịch nước mà toàn dân tín
nhiệm trao cho Người, Người quan niệm đó là: “người lính vâng mệnh lệnh của Quốc dân ra
trước mặt trận”.
1.2. Nhà nước do dân.
“Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã, do
dân tổ chức nên”. Dân bầu ra người đại diện cho mình để cầm quyền, đồng thời dân có quyền
kiểm tra, giám sát người mình bầu và bãi miễn khi họ không làm tròn sự uỷ thác, đại diện.
“Dân như nước, mình như cá”. “ Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết”, “Công việc đổi mới
xây dựng là trách nhiệm của dân”, Nhà nước muốn điều hành quản lí xã hội , nhất định phải dựa
vào dân. “Đem tài dân, của dân, sức dân làm lợi cho dân… Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ
động”, chứ không phải bao cấp, làm thay dân để làm cho dân ỷ lại, chờ đợi.
1.3. Nhà nước vì dân.
“Bao nhiêu lợi ích đều là của dân”. Do đó, “Việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được.
Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”.
Người yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định của pháp luật, pháp lệnh đều xuất
phát từ lợi ích của nhân dân. Cả lợi ích trước mắt và lâu dài; cả lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội
trong sự kết hợp hài hoà.Mọi cán bộ Nhà nước đều vì dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.
Về mối quan hệ giữa nhân dân và Chính phủ, Người chỉ rõ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ.
Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình
Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm phục vụ lợi ích nhân dân. Vì vây, nhân dân
lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỉ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của
Chính phủ, để Chính phủ làm trọn phận sự mà nhân dân giao phó”.
Của dân, do dân, vì dân là những nội dung thuộc về bản chất và là những phẩm chất gắn bó
chặt chẽ của Nhà nước kiểu mới, của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp
công nhân.
Tư tưởng Nhà nước “thân dân”, nhà nước của dân, do dân, vì dân đã sớm xuất hiện ở những
nhà chính trị kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng Nhà nước dân
chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân mới được thể hiện và phát triển sâu sắc, phong ohú về nội
dung, chất lượng; trở thành một quan điểm cách mạng, khoa học về bản chất Nhà nước Việt
Nam trong thời đại mới. Tư tưởng đó đã chỉ đạo sự nghịêp xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân
chủ cộng hoà mấy chục năm qua và đang là phương hướng của Đảng ta trong xây dựng Nhà
nước xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân, vì dân, về bản chất là Nhà nước của
giai cấp công nhân và của toàn dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân
dân và tính dân tộc của nhà nước
2.1. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu tranh giai cấp
xuất hiện, do đó, Nhà nước là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản
chất của một giai cấp nhất định, không có một Nhà nước nào lầ phi giai cấp, không có Nhà nước
đứng trên giai cấp. Như vậy, không phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có Nhà nướcngay và Nhà
nước không phải tồn tại mãi mãi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước ta đươc coi là nhà
nước của dân, do dân, vì dân nhưng bản chất giai cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công
nhân. Vì:
Một là, Nhà nước do Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện:
- Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước là một vấn đề rất cơ bản của
Hiến pháp.Lời nói đầu của Bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước dân
chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong
quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, một Nhà nước thể
hiện tích chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minhvẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh
công- nông – trí thức do giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng Sản Việt
Nam lãnh đạo.
- Đảng Cộng Sản lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp ở từng thời kì. Trong thời
kỳ Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước, đất nước ta vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngaọi
xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới. Song, trong tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của của Đảng chung
cho các thời kỳ. Đó là:
+ Đảng lãnh đạobằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hoá thành pháp
luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên của mình
trong bộ máy, cơ quan Nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự
phát triển của đất nước. Điều này đã được thể hiện ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà
mới ra đời ngày 2-9-1945 trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt
động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan Nhà nước, đồng thời phát huy cao độ tập
trung thống nhất quyền lực để tất cả quyền lực vào tay nhân dân.
2.2. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc.
Hồ Chí Minhlà người giải quyết rất thành công các mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp -
dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới. Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hoà, thống nhất
giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân,tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong nhưũng quan
điểm sau:
- Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài; gian khổ của rất nhiều thế hệ
ngưòi Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc.cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Trong cuộc đấu
tranh trường kì chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh
đạo của các nhà cách mạng tiền bổ rất oanh liệt tô thắm cho truyền thống yêu nước chống giặc
ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập, tự do của dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Từ 3-2-
1930 Đảng ta ra đời thì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiền phong của nó là Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã vượt qua tất cả các hạn chế và đã thắng lợi cuộc cách mạng tháng Tám
1945 đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
- Tính thống nhất của nó còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi
ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ
bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một.
- Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo
nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào
sự phát triển tiến bộ của thế giới.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
3.1.Xây dựng một nhà nước hợp hiến.
Trên cơ sở kế thừa truyền thống, học tập tinh hoa văn hoá pháp luật của các nước với các chế
độ khác nhau, khi trở về nước chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Hồ Chí Minh đã có một nhận thức rõ
ràng về Nhà nước Việt Nam: một chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân phải là một
chính quyền hợp hiến, hợp pháp.
Trước cách mạng Tháng Tám 1945, khhi cuộc đảo chính Nhật đảo chính Pháp nổ ra vào ngày
9-3-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ trung ương Đảng ta đã đề ra chủ trương: “Thành
lập chính quyền cách mạng” ở các căncứ địa, các khu giải phóng.
Đầu tháng 8-1945, mặc dầu tình hình rất khẩn trương, việc liên lạc các địa phương trong nước
rất khó khăn, Người vẫn kiên quyết triệu tập đại hộiquốc dân Tân trào, cử ra “Uỷ ban dân tộc
giải phóng Việt Nam”. Lần đầu tiên một tổ chức có tính chất “tiền chính phủ” được đại biẻu của
nhân dân bầu ra bảo đảm tính hợp pháp để lãnh đạo nhân dân kiên quyết đấu tranh giành độc lập.
Người vạch rõ: “UỶ BAN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG VIỆT NAM cũng như chính phủ lâm thời
của ta lúc này. Hãy đoàn kết chung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh cỉa nó được thi
hành khắp nước”.
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, Người nêu vấn đề là cần có một bản Tuyên ngôn
độc lập để tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới về sự khai sinh của nước Việt Nam mới.
Trước khi quân đồng minh vào tước khí giới quân Nhật, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trước
cuộc mitting đông đảo, Củ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập và công bố danh
sách Chính phủ lâm thời với quốc dân đồng bào và thế giới.
Bản tuyên ngôn ngôn độc lập khẳng định nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời là hợp
pháp, Chính phủ lâm thời do ngưòi đứng đầu, do cuộc cách mạng của nhân dân lập nênlà hợp
pháp, hợp công lý. bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam là văn kiện chính trị, mang tính pháp lý
đặc biệt.
Một Nhà nước dân chủ, hợp pháp phải là một Nhà nước thật sự đại diện cho dân, do toàn dân
cử ra và quản lý xã hội bằng pháp luật. Xuất phát từ tư tưởng đó, sau ngày công bố tuyên ngôn
độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Người đề xuất sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó
nhiệm vụ thứ ba là “phải có một hiến pháp dân chủ” và mặc dầu tình hình đất nước đang đứng
trước muôn vàn khó khăn, Người vẫn đề nghị tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử.
Người nói: “ Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân
không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng
quyền tự do dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu”.
Trong thể lệ tổng tuyển cử, Người nêu: “Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền
ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống…”
Mặc dù, đế quốc Pháp và các thế lực phản động ra sưc phá hoại, cuộc tổng tuyển cử (6-1-
1946) vẫn được nhân dân khắp cả nước hưởng ứng nhiệt liệt và đã có trên 90% cử tri đi bỏ
phiếu. Ở nhiều nơi, cuộc tuyển cử đã diễn trong tiếng súng và sự uy hiếp của kẻ thù, hàng trăm
cán bộ nhân dân hy sinh khhi làm nhiệm vụ bầu cử.
Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta đã diễn ra thành công tốt đẹp, đã bầu 333
đại biểu Quốc hội. Trong phiên họp đầu tiên, Quốc hội đã nhất trí bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch
Chính phủ liên hiệp kháng chiến.
Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử chứng tỏ niềm tin sâu sắc của Đảng, của CHủ tịch Hồ Chí
Minh vào nhân dân và lòng tin mãnh liệt của nhân dân vào Chủ tịch Hồ Chí Minh và lực lượng
cách mạng do Người đứng đầu. Đồng thời nó cũng chứng tỏ ý thức sâu sắc của Người về tầm
quan trọng của Chính phủ dân cử hợp pháp, và quyết tâm biến nó từng bước thành một chính
quyền của nhân dânvững mạnh.
3.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào đời sống.
-Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức được vai trò của pháp luật trong điều hành, quản lý
xã hội.Nhà nước dân chủ, thì dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào
nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Hồ Chí
Minh viết: “Trăm dều phải có thần linh pháp quyền”. Ngay từ năm 1919, trong bản Yêu sách của
nhân dân An Nam gồm 8 điều gửi những người đứng đầu các nước thắng trận họp hội nghị
Vecxay, thì đã có 4 điều liên quan đến vấn đề pháp quyền. Để dễ phổ biến và tuyên truyền rộng
rãi trong người Việt Nam, Người đã chuyển bản Yêu sách thành “Việt Nam yêu cầu ca”. Trong
đó có câu:
“Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”
Những điều nêu trong Yêu sách đã chứng minh là Người đã chú ý sớm đến pháp luật, đến công
lý, đến quyền con người. Và tư tưởng “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” là một tư tưởng
rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, chứng tỏ Người đã thấy tầm quan trọng của Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật.
- Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp
luật đươc thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan Nhà nước và
trong nhân dân. Theo Người, công bố luật chưa phải là việc đã xong, phải tuyên truyền giáo dục
lâu dài mới thực hiện được tốt.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hoá,
chính trị và tính tích cực của công dân, khuyến khhích nhân dân tham gia vào các công việc của
Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.
- Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải lo “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết
dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. “Lúc dân biết và dám phê bình ngưòi lãnh
đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân, tức là đã đến mức dân chủ hoá khá cao”.
Hồ Chí Minh luôn nêu gương trong việc khuyến khhích nhân dân phê bình, giám sát công việc
của Chính phủ, đồng thời nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân
thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp. Người viết: “Các bạn là
những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương “phụng
công, thủ pháp, chí công, vô tư”, cho nhân dân noi theo”.
Theo Người, một xã hội có trật tự kỷ cương, một Nhà nước mạnh, có hiệu lực phải quản lý
bằng pháp luật, không một giờ, một phút nào thiếu pháp luật,coi thường pháp luật. Không quản
lý Nhà nước bằng pháp luật sẽ dẫn đến sơ hở, cán bộ dễ sinh lạm dụng quyền hành, vi phạm
quyền dân chủ của nhân dân, cũng như dân dễ có hành vi vi phạm tự do của người khác, của
cộng đồng và xã hội, dẫn đến hỗn loạn, vô Chính phủ. Chính vì vậy khi chưa xây dựng được
Hiến pháp mới và hình thành hệ thống pháp luật mới, Người đề nghị vận dụng những điều luật
cũ còn tương đối phù hợp với tình hình mới,trừ bỏ nhưũng điều vi phạm hoậctí với chủ quyền
của nhân dân.
Đồng thời, Người đã khẩn trương tổ chức soạn thảo Hiến pháp mới. Trong những năm trực tiếp
lãnh đạo Nhà nước, Người đã từng bước xây dựng hệ thống pháp luật. Người đã nhận thấy do sự
hạn chế của điều kiện chiến tranh và trình độ luật pháp của Nhà nước ta nên “luật pháp của
chúng ta hiện nay chưa đủ” và yêu cầu mọi người cần có trách nhiệm làm cho luật pháp của ta
tốt hơn, phải cố gắng làm cho Hiến pháp dân chủ ngay càng nhiều hơn, tốt hơn.
3.3.Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước đủ đức và đủ tài.
Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nói một cách tổng quát nhất về yêu cầu đối với đội ngũ
này là vừa có đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu
quả.
Đi vào những mặt cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau đây về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức:
Một: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên đói với đội ngũ cán bộ.
Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà
nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ,
trong mọi lĩnh vực công tác.
Hai: Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Chỉ có lòng nhiệt tình
không thôi thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà không xây được cái mới, cái
tốt. Hồ Chí Minh khẳng định: cán bộ Nhà nước phải biết quản lý Nhà nước. Người ký sắc lệnh
số 197 thành lập Khoa Pháp lý học tại Trường Đại học Việt Nam. Hồ Chí Minh mạnh dạn sử
dụng những công chức đã được đào tạo nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính ở chế độ cũ phục vụ
cho chính quyền cách mạng, đồng thời Người chú trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ, công
chức mới.
Hồ Chí Minh đăng báo “tìm người tài đức”, Người viết: công việc kiến thiết ngoại giao, kinh
tế, quân sự, giáo dục…, rất cần nhân tài. “Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu
chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm
nhiều”. Hồ Chí Minh quan tâm tới công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ. Hồ Chí Minh
đã ký sắc lệnh số 76 ban hành Quy chế công chức nêu rõ cách thức và nội dung thi tuyển để bổ
nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính trong bộ máy chính quyền.
Ba: Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Xuất phát từ nhận thức chỉ có trí tuệ và lòng
dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ và sáng suốt, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ
phải “thân dân”, gần dân, trọng dân, không được lên mặt “quan cách mạng” với dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự kiểm soát của dân. Đặc biệt, chống bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, hách dịch,
cửa quyền…đối với nhân dân dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất
của Nhà nước ta.
Bốn: Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách
nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”. Đó là
những người sẵn sàng làm công bộc , làm đầy tớ cho dân, những người cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, luôn học hỏi, thường xuyên tự phê
bình và phê bình.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu
quả.
4.1. Đề phòng và khắc phục các tiêu cực trong hoạt động của nhà nước.
Kiên quyết chống 3 thứ giặc nội xâm là: tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí Minh,
sức mạnh hiệu quả của nhà nước là dựa vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự
gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm quyền. Người đòi hỏi “cán bộ phải thực hành
chữ liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”.
Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra ba thứ giặc nội xâm, giặc trong lòng. Người nói: “tham ô, lãng phí,
quan liêu dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Nó làm hỏng
tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô trung ương. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật
thám”.
Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô lãng phí, quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc
trên mặt trận. “Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội
xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”.
Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên nhân, chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân quan trọng là
bệnh quan liêu. Người viết: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp
dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng.
Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề.
Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn…
thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng,
có kỉ luật mà không nắm vững… Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn
tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch nạn
quan liêu”
4.2. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, từ kinh tế tiểu nông đi tới xây dựng Nhà nước pháp quyền, trước hết phải
nhấn mạnh vai trò của pháp luật, khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh
việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân… đồng thời phải đặc biệt coi trọng vấn đề
giáo dục đạo đức. Hai hình thái ý thức xã hội này có thể kết hợp, bổ sung cho nhau trong thực tế
trị nước. Không bao giờ được tuyệt đối hoá địa vị độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào.
Hồ Chí Minh là mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn chú trọng giáo dục đạo đức
nhưng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật và thi hành pháp luật nghiêm minh
- Chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo đức; và đạo đức cao nhất, theo Hồ Chí
Minh là “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình,
gương mẫu trong mọi việc”.
- Đi đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh nhấn mạnh kịp thời ban hành pháp luật. Ngày
27/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ
từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26/1/1946,
Người kí Quốc lệnh khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình.
Để đưa luật vào cuộc sống, Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân hãy tham gia giám sát công việc của
Chính phủ. Hồ Chí Minh viết: từ ngày thành lập Chính phủ, trong nhân viên còn có nhiều khuyết
điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân, phì ra… Xin đồng bào
hãy phê bình, giám sát công việc của Chính phủ. Người đòi hỏi pháp luật của ta “phải thẳng tay
trừng trị những kẻ bất liêm, bất kì kẻ ấy ở địa vị nào làm nghề nghiệp gì”.
II. Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân
Quyền làm chủ thực sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng
nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Nhà nước đòi hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thực sự của
nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi
đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy quyền làm
chủ của nhân dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp
luật vào trong cuộc sống.Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người được bình đẳng trước pháp
luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm đó do tập thể
hoặc cá nhân nào gây ra. Có như vậy dân mới tin và mới bảo đảm được tính chất nhân dân của
Nhà nước ta.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài vấn đề thực thi nghiêm chỉnh
pháp luật, còn cần chú ý tới thực hiện những quy tắc dân chủ trong các cộng đồng dân cư, tùy
theo điều kiện của từng vùng, miễn là những quy tắc đó không trái với quy định của pháp luật.
Theo đó, cần thực hiện tốt các quy chế dân chủ ở cơ sở đã được Chính phủ ban hành.
2. Kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực này đòi hỏi chú trọng cải cách và xây dựng,
kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh. Muốn vậy, phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, phục vụ đắc lực và có hiệu quả đối với nhân dân. Kiên quyết khắc phục quan liêu, hách
dịch, cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, một bộ
phận không nhỏ cán bộ, công chức sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực thực hành
nhiệm vụ công chức kém cỏi.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay còn cần chú ý cải cách các thủ
tục hành chính; đề cao trách nhiệm trong công việc giải quyết các khiếu nại của công dân theo
đúng những qui định của pháp luật; tiêu chuẩn hoá cũng như sắp xếp lại đội ngũ công chức, xây
dựng một đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, tinh thông chuyên môn, nghiệp vụ.
Nguồn lực đội ngũ công chức yếu thì không thể nói đến một nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân mạnh được. Do vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải được đặt lên
hàng đầu và phải được tiến hành thường xuyên, bảo đảm chất lượng.
3. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đây là trách nhiệm cực kì quan trọng của Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền. Trong giai
đoạn hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và
phát huy vai trò quản lý của Nhà nước thể hiện ở những nội dung như: lãnh đạo Nhà nước, thể
chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò của
quản lí Nhà nước; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: lãnh đạo bằng
đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan Nhà nước, bằng vai trò tiên phong,
gương mẫu của đội ngũ Đảng viên hoạt động trong bộ máy Nhà nước, bằng công tác kiểm tra,
Đảng không làm thay công việc quản lý của Nhà nước. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ trong hệ thống chính trị trên cơ sở bảo đảm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước
theo luật định. Bản chất, tính chất của Nhà nước ta gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng
cầm quyền, do đó, đến lượt Đảng, một tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh
của Đảng Cộng Sản Việt Nam chính là yếu tố quyết định cho thành công của việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.