Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Bài tiểu luận phật giáo và sự du nhập phật giáo vào việt nam liên hệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.12 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Khi đề cập đến sự tín ngưỡng tâm linh của người Việt thì không thể không nói đến
Phật giáo. Đa phần người dân Việt Nam điều tôn sùng đạo phật. vì lẽ đó mà Phật
giáp trở thành quốc đạo ở các thời Đinh, Lý, Trần… hiện nay Phật giáo giữ vai trò
quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. đảng và nhà nước ta đã
công nhận những thành quả tốt đẹp và những cống hiến to lớn của Phật giáo Việt
Nam cho toàn dân, toàn xã hội và đang khuyến khích phát huy những giá trị tốt đẹp
ấy.
Vậy Phật giáo do ai sáng lập, khi nào, ở đâu, giá trị của nó là gì. Phật giáo Việt
Nam hình thành và phát triển như thế nào. Để trả lời những câu hỏi này thì việc
nghiên cứu “Phật giáo và sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam” là một điều vô cùng
cần thiết, để giúp cho chúng ta biết được triết lý Phật giáo và vận dụng lý tưởng
Phật giáo vào cuộc sống hàng ngày.
I SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở
miền Bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước công nguyên (TCN). Do được truyền bá trong
một thời gian dài ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo
Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học.
Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo
hội với các giới luật chặt chẽ.
1.1.
2.2.1.

Sự ra đời của Phật giáo
Hoàn cảnh ra đời Phật giáo ở Ấn Độ

Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ: Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa dạng.
Đất nước này vừa có dãy núi Hymalaya hùng vĩ ở phía Bắt, vừa có biển Ấn Độ
Dương rộng mênh mông; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại có sông Hằng chảy
về phía Đông. Vì thế Ấn Độ có những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ, có vùng


nóng ẩm mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng xa
mạc khô cằn, nóng bức. Những điều kiên tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt ấy là cơ
sở để hình thành sớm những tư tưởng tôn giáo triết học.
Về kinh tế – xã hội: Từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm hửu nô lệ
Ấn Độ đã phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian và Sumerian
đã có nền văn minh khá cao. Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người Aryan thâm
nhập vào bán đảo Ấn Độ, dần dần chuyển sang định cư và sống bằng nghề nông.


Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế – xã hội của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn
tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế – xã hội theo mô hình “công xã nông
thôn”. Mô hình này có đặc trưng là ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước, gắn
liền với nó là sự bần cùng hoá của người dân trong công xã, và quan hệ giữa gia
đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội được phân chia thành các
đẳng cấp. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý
tộc, bình dân tự do và nô lệ cung đình. Sự phân chia đẳng cấp đó làm cho xã hội
xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng
cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học
đã ra đời, trong đó có Phật giáo.
Đặc điểm văn hóa – khoa học: Văn hoá Ấn Độ cổ – trung đại được chia làm ba giai
đoạn. Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi là nền văn minh sông Ấn, từ thế kỷ XV –
VII TCN gọi là nền văn minh Vêđa và từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ hình thành
các trường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống
và không chính thống. Tiêu chuẩn của chính thống và không chính thống là có thừa
nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bàlamôn hay không. Về khoa học, ngay từ thời
kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được những thành tựu về khoa học tự nhiên. Đặc
biệt là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y học…
Như vậy, tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói trên là cơ sở
cho sự nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ thời cổ, trung đại
với các hình thức phong phú đa dạng. Và Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối

sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm
đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ
Ấn Độ. Vì chống lại sự ngự trị của đạo Bàlamôn đặc biệt là quan điểm của kinh
Vêđa nên Phật giáo được xem là dòng triết học không chính thống
2.2.2.

Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca

Phật giáo là trào lưu tôn giáo triết học xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN. Người
sáng lập là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tât Đạt Đa (Siddhattha), họ là Cù Đàm
(Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa là thái tử của vua Tịnh Phạn, một nước
nhỏ nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan). Ông sinh ngày 8 tháng 4 năm
563 TCN, theo truyền thống Phật lịch thì là ngày 15/04 (rằm tháng tư) còn gọi là
ngày Phật Đản.
Mặc dù sống trong cảnh cao sang quyền quý, dòng dõi đế vương lại có vợ đẹp con
ngoan. Nhưng trước bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, với sự bất lực
của con người trước khó khăn của cuộc đời. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ con
đường vương giả xuất gia tu đạo. Sau 6 năn tu hành, năm 35 tuổi, Tất Đạt Đa đã
giác ngộ tìm ra chân chân lí “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”, tìm ra con
đường giải thoát nỗi khổ cho chúng sinh. Từ đó ông đi khắp nơi để truyền bá tư


tưởng của mình và đã trở thành người sáng lập ra tôn gáo mới là đạo Phật. Về sau
ông được suy tôn với nhiều danh hiệu khác nhau: Đức Phật, Thích Ca Mâu Ni,
Thánh Thích Ca…
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lý Phật giáo khăp Ấn Độ. Ông qua
đời ở tuổi 80 và để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật giáo vô cùng
quý báu. Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính
cuộc sống đức độ của con người, Phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và
niềm tin của đông đảo quần chúng lao động. Nó đã trở thành biểu tượng của lòng

từ bi bác ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc Châu Á. Kinh điển của phật
giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận gọi là “tam tạng kinh” bao gồm Tạng kinh, Tạng
luật và Tạng luận.
2.2.3.

Các tông phái Phật giáo

Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2500 năm và nó
lan toả từ Ấn Độ ra khắp nơi. Do đó, việc hình thành các bộ phái khác nhau có
phương pháp tu học và cách giải thích khác nhau về giáo lý cho thích hợp với tình
hình của mỗi xã hội mỗi thời điểm là chuyện tất yếu. Tuy vậy, bản thân giáo lý
Phật giáo không hề có sự phân chia tông phái này.
Sự phân chia thành bộ phái rõ nét đã bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập kinh điển
lần thứ II (khoảng 100 năm sau khi Thích Ca Mâu Ni mất). Lần phân chia đầu tiên
là do sự bất đồng về yêu cầu thay đổi 10 điều giới luật. Các điều này tuy không
phải là những thay đổi lớn lao nhưng đủ để gây ra sự tách biệt tăng đoàn thành Đại
Chúng bộ (Mahàsamghika) mà đa số là các tì kheo trẻ muốn thay đổi. Số còn lại
bảo thủ các giới luật nguyên thuỷ hình thành Thượng Tọa bộ (Theravada).
Các cuộc phân phái về sau trở nên phức tạp và đa dạng hơn. Đại Chúng bộ có
trung tâm hoạt động tại Amgotara, thuộc vùng Trung Ấn. Nguyên có hệ tư tưởng
cấp tiến nên đã xảy ra việc phân hoá trước. Các cuộc phân hoá này tất cả đều tách
ra từ Đại Chúng Bộ và hình thành tổng cộng thành 9 bộ phái trong đó quan trọng
về mặt lý luận bao gồm: Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê dận
bộ, Đa văn bộ, Thuyết giả bộ, Chế đa sơn bộ, Tây sơn trụ bộ và Bắc sơn trụ bộ. Sự
thay đổi về điều kiện xã hội và điạ lý và sự phân hoá trong Đại Chúng bộ có thể là
nguyên nhân gây ra sự chia phái của Thượng Tọa bộ thành tổng cộng 11 bộ. Các
phái có sự chuyển hoá về lý luận bao gồm: Tuyết sơn bộ, Thuyết nhất thiết hữu bộ,
Độc tử bộ, Pháp thượng bộ, Hiền vị bộ, Chánh lượng bộ, Mật lâm sơn bộ, Hóa địa
bộ, Pháp tạng bộ, Ẩm quang bộ và Kinh lượng bộ. [2]
Các bộ phái chính ngày nay [12]:

Theravada: Theravada còn gọi là Phật giáo nguyên thuỷ hay Phật giáo Nam tông,
tên quen gọi là Phật giáo Tiểu thừa. Tông phái này hình thành ngay trong thế kỷ


đầu tiên sau khi Thích Ca viên tịch. Chữ Theravada có nghĩa là “lời dạy của bậc
trưởng thượng”, do đó nhiều sách còn gọi nhóm này là Trưởng Lão bộ. Trong kỳ
kết tập kinh điển lần thứ III, hội đồng tham gia kết tập đã công nhận giáo pháp gọi
là thuyết trưởng lão. Sau đó, con trai của vua Asoka (A Dục) là Mahinda đã đem cả
ba tạng kinh đến Tích Lan (Sri Lanka ngày nay). Ba tạng kinh đã được dịch sang
tiếng Pali và các tạng kinh này trở thành nguồn kinh sử dụng của Theravada cho
đến ngày nay.
Mahayana: Mahayana có tên gọi khác là Phật giáo Đại thừa. Từ thế kỷ I TCN các
tư tưởng “đại thừa” đã bắt đầu xuất hiện và thuật ngữ Mahayana, hay “đại thừa”,
chỉ thực sự có khi nó được đề cập trong bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nói chung, ý
tưởng Mahayana là có xu hướng rộng rãi và tự do hơn là các phép tắc ràng buộc
của Theravada. Đến thế kỷ III khái niệm Mahayana mới được xác định rõ ràng qua
các trước tác của bồ tát Long Thọ (Nagarjuna) trong Trung Luận (hay Trung Quán
Luận), chứng minh tính không của vạn vật. Các ý này đã được Long Thọ khai triển
dựa trên khái niệm “Vô ngã” và “Duyên sinh” đã có từ trong các kinh điển Pali.
Vajrayana: Varayjana còn có tên gọi là Tantra, Mật tông hay Kim cương thừa.
Tông phái này xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI. Phái này chia sẻ chung nhiều tư
tưởng với Đại thừa nhưng có nhấn mạnh trong việc thực hành. Các truyền giảng
được tập trung vào nhiều phương pháp tu học thực nghiệm mãnh liệt để đẩy nhanh
việc thăng tiến và có thể ngay trong cuộc sống hiện tại sẽ đạt đuợc giác ngộ các
thực nghiệm này thường được gọi là phương tiện. Nếu như Đại thừa có nhiều tính
chất thiên về triết lý, tư duy thì Mật tông đi xa hơn về mặt thực nghiệm và cũng thể
hiện sự thích ứng linh hoạt của Phật giáo.
Tịnh Độ tông: Tịnh Độ Tông (Pure Land) xuất hiện vào giữa thế kỷ IV từ sự
truyền bá của sư Huệ Viễn (Hui-yuan). Tư tưởng về Tịnh Độ thì có sẵn trong Phật
giáo Ấn Độ nhưng tới khi sang Trung Quốc thì nó phát triển thành một tông phái.

Tịnh Độ tông cũng đuợc xem là một nhánh của Đại thừa song tông này không có
sự truyền thừa như các tông phái khác mà chỉ do sự đóng góp công sức để phát huy
giáo lý Tịnh Độ. Nguyên lý của tông phái dựa vào nguyện lực (tha lực) của Phật A
Di Đà và sự nhất tâm niệm danh hiệu Phật
Thiền tông: Thiền tông (Dhyana) còn có các tên khác là ZEN, ch’an, tên cũ là
Thiền na. Thiền là một phương tiện căn bản đã được đạo Phật sử dụng ngay từ
khởi thủy. Nhưng cho đến khi thiền sư sơ tổ của môn phái thiền Trung Hoa là Bồ
Đề Đạt Ma (Bodhidharma) du hành sang Trung Quốc (năm 520) và truyền lại thì
Thiền tông bắt đầu trở thành một tông phái riêng biệt. Đến đời thứ 6, sư Huệ Năng
(Hui-neng) đã đưa Thiền tông phát triển và nó đã thịnh hành hơn tất cả các tông
phái Phật giáo khác ở Trung Quốc. Huệ Năng cũng là người đã hủy bỏ thông tục
truyền thừa, nghĩa là không có sư tổ đời thứ 7 của Thiền Tông, thay vào đó là hàng


loạt các thiền sư có khả năng mở thành các phái thiền khác dựa theo sự phân biệt
về cung cách luyện tập và cách để đưa thiền giả đến chỗ chứng ngộ chân lý.
Khi tiếp cận với cách thức giải thích giáo lý Phật giáo của các bộ phái, nhiều nhà
phân tích phân chia Phật giáo thành 4 trường phái triết học chính là [12]:
Nhất Thiết Hữu bộ: Trường phái này ra đời khoảng thế kỷ III TCN và đã phát triển
ở Tây Bắc Ấn trong thời kỳ kết tập kinh điển lần thứ IV. Sau đó trở nên vững
mạnh trong cả vùng Bắc và Tây Bắc xứ Ấn trong khoảng một ngàn năm sau. Nó
mở ra tới Kashmir, Trung Á và cả Trung Hoa. Abhidharmakośa (Đại Tỳ Bà Sa
luận) của đạo sư Thế Thân là tác phẩm quan trọng nhất của phái này. Trường phái
này nhấn mạnh lời dạy của Phật rằng “bản chất đạo đức của các hành vi sẽ quyết
định những kinh nghiệm tương lai của người làm các hành vi ấy” (theo Andrew
Skilton). Phái này cho rằng các yếu tố không thể giản lược của hiện hữu (dharmas)
cũng thể hiện trong quá khứ và tương lai. Do đó, những dharmas đã tạo nên hành
vi trong quá khứ có thể tạo được ảnh hưởng ở một thời điểm sau đó. Sarvāstivādin
căn cứ trên tiền đề duyên khởi (Pratityasamutpàda) là: bởi có cái này nên có cái kia
để giải thích về các nhận thức tri thức. Vì phải có đối tượng (cảm nhận hay nhận

thức) mới có tri thức nên nếu thừa nhận hoạt động của tri thức thì cần chấp nhận sự
tồn tại của đối tượng. Học thuyết này còn tách biệt Phật bảo với Pháp bảo và cho
rằng Phật bảo là tập họp của những dharmas làm nên Phật cũng như các hiểu biết
và các cảm-hoạt (hay ngủ uẩn bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức — scandhas)
của Phật.
Kinh Lượng bộ: Tông phái này ra đời vào khoảng năm 50 TCN cho đến cuối thế
kỷ I. Phái này bác bỏ quan điểm dharmas của Sarvāstivādin và cho rằng mọi
dharmas chỉ hiện hữu tức thời. Để giải thích các vấn đề về nghiệp (karma), trường
phái này đưa ra tư tưởng về các bījas, hay hạt giống. Hạt giống được trồng bởi
những hành vi với đặc tính đạo đức nhất định, sau này mới đâm chồi, và khi điều
kiện cho phép sẽ cho quả phù hợp với hành vi tạo tác. Đối với phái này thì giáo lý
của Tạng kinh thường tồn sẽ tạo thành hạt giống trong tâm thức để khi có dịp sẽ
phát huy tính năng (Tên Kinh Lượng cũng do việc đề cao vai trò của tạng Kinh mà
có). Một hệ quả của lập luận này là ngoài tâm có pháp. Một cách diễn dịch dễ hiểu
hơn là chân lý nằm bên ngoài tâm thức. Họ cũng thừa nhận về lý duyên khởi (vì có
cái này nên có cái kia) nhưng cho rằng tính không được thể hiện trong mọi tình
huống của nhận thức.
Duy Thức Tông: Phái Duy thức ra đời vào khoảng đầu thế kỷ IV do đạo sư Vô
Trước (310-390) sáng lập. Trường phái này nhấn mạnh rằng “vạn pháp duy tâm”
(nghĩa là mọi vật đều do tâm). Từ kinh nghiệm thiền định, thuyết này chỉ ra sự sai
lầm của nhận thức về các đối tượng đối với sự hiện hữu thực sự của chúng. Điều
mà trường phái muốn nói không phải là mọi sự đều được làm thành bởi cái tâm,


nhưng muốn nói rằng toàn thể kinh nghiệm đều lệ thuộc vào hay nhờ vào tâm của
chúng ta. Mọi sự vật mà chúng ta biết, mọi yếu tố của nhận thức của chúng ta, cơ
bản đều là một thành phần của một quy trình của tâm. Trường phái này cho rằng
tâm thực sự hiện hữu (khác với Trung quán). Như vậy, tâm thì trống rỗng theo
nghĩa là tâm không có phân biệt chủ thể và khách thể.
Trung Quán Tông: Phái này do đạo sư Long Thọ (150–250) sáng lập. Phái Trung

quán tập trung vào chủ đề tính không. Đây là thuộc tính của vạn vật. Vạn vật chỉ
do nhân duyên sinh ra, cho nên những sự vật hiện thấy có là không thực sự tồn tại.
Phái này có tên là Trung quán là vì nó chỉ ra con đường ở giữa chủ nghĩa hằng cửu
(mọi vật tồn tại vỉnh viễn) và chủ nghĩa hư vô (không có gì tồn tại). Chủ thuyết này
nhìn nhận sự hiện hữu thông thường của các đối tượng xuất hiện trong dòng chảy
liên tục của các nhân duyên. Không vật gì có thể tồn tại một cách độc lập với mọi
điều kiện bên ngoài (tính hỗ tương tồn tại). Đồng thời, có sự liên hệ phụ thuộc giữa
thành phần và toàn thể trong mỗi sự vật. Thêm vào đó, do tính chất vô thường trên
từng khoảnh khắc, không vật gì có thể hiện hữu tuyệt đối kể cả tâm và và thế giới
vật lý bởi vì chúng thiếu vắng đối tượng thực sự của sự hiện hữu. Như vậy tính
không ở đây so với trường phái Duy Thức, đã được nới rộng áp dụng lên vạn vật.
1.2.

Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật Giáo

Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết thành
văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng kinh
điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan điểm về
thế giới và con người.
1.2.1.

Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan

Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của 3
phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên.
Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các môn phái triết học tôn
giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng tạo
và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người
không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của 2

yếu tố là “Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận
được, nó bao gồm đất, nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh thần, không có
hình chất mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý
muốn để hành động) và thức (sự nhận thức).
Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao gồm sắc
(vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức), chúng
tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của sự


vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do
đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật, hiện
tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng, không
nghỉ theo chu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến
dạng và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là biến
đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một
trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến
biến dị rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vât,
hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng không
phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là diệt,
mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không phải là hết khổ mà chết
là điều kiện của một sinh thành mới.
Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả)
Bàlamôn Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất
đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là điều
kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở
thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như

vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “NhânQuả”, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là
hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không
thể có quả, nếu không có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.
Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điều kiện thuận lợi về không khí,
nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ phát triển thành “quả” là cây lúa.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phật giáo
đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con
người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các
yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên
hệ, vận động, biến đồi không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động , biến đồi nằm
trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn mọc mạc chất
phát nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật biện chứng về thế
giới.
1.2.2.

Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan


Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ
Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi
mọi người phải nhận thức được [8]. Tứ diệu đế là:
Khổ đế:
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không
trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của cuộc đời
là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ là : sinh
khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa nhau), oán
tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không đạt
được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của
hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học, khổ

đau là một thực tại như thực đối với con người. khổ đế là một chân lý khách quan
hiện thực. khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng lọat nhân duyên được tạo tác từ
tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi hình
thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con
người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải
đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con
người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác.
Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự
khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước
biển”.
Nhân đế (hay Tập đế):
là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết tập lại.
Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được
trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi.
Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập nhị
nhân duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người.
12 nhân duyên gồm:
1. Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng suốt.
Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường thoát khổ.
Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu Tứ diệu đế
cũng được gọi là Vô minh.
2. Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.


4. Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu

hủy, đón nhận.
6. Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là sắc,
thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
7. Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với lục
căn sinh ra cảm giác.
8. Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động của
thế giới bên ngoài.
9. Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm lấy,
giữ lấy không chịu buông ra.
10. Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già, ốm
đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung đều
cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho cái
kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải
thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và
thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết
quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy rõ
bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường
và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Chúng
ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay nói cách
khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không.
Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não khuấy động, chi phối,
ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
Diệt đế:
là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt được để
đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ
cũng được tận diệt. muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt

trừ vô minh.


Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực tướng
của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành động tạo
nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được vô
minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy
mới hết luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì
những nỗi lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu
óc tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn. Đó
là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những tư
tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ
hải mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện
tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của
bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng
giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần
hạnh phúc đến mức độ ấy.
Ðạo đế:
là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn thiện
đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và một khi
dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Chấm dứt
luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường
chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính
đạo bao gồm:
1.Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu
đế và giáo lí vô ngã.
2.Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của
bốn chân lí một cách không sai lầm.
3.Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.

4.Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc xấu,
nên làm việc thiện.
5.Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến
sát sinh.
6.Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát triển
nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7.Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn tỉnh giác
trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.


8.Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô ngã,
vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt tới
sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm
dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người và
xã hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất
vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo
(không trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư tưởng
biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghỉ thiện và làm việc
thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên trong triết lý nhân
sinh và con đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan
không tưởng và duy tâm về xã hội. Và những tư tưởng xã hội phật giáo đã phản
ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ – trung đại và nêu
lên ước vọng giải thoát nổi bi kịch cho con người lúc đó. Phật giáo cũng nói lên
được tự do bình đẳng trong xã hội nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính
chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội.

II: QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ và Trung
Quốc vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm khác biệt so với
Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo của các nơi khác trên thế giới. Phật giáo là tôn
giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam. Theo thống kê của Ban Tôn giáo
chính phủ Việt Nam năm 2005, hiện có gần 10 triệu tín đồ Phật giáo, còn theo số
liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy
y tam bảo, có 839 đơn vị gia đình Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự,
viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường… [9]
2.1.

Sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam

Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, là cái gạch nối địa lý giữa hai nước
lớn, hai nền văn minh cổ xưa nhất của Châu Á và có thể là của cả loài người là Ấn
Độ và Trung Quốc. Với một địa thế, nằm kẹp giữa hai nước lớn như vậy, Việt
Nam tất nhiên chịu ảnh hưởng từ cả hai phía, phía Ấn Độ và phía Trung Quốc.
Ngày nay, căn cứ các tài liệu và các lập luận khoa học của nhiều học giả, giới
nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất


sớm, nhất là từ cuối thế kỷ II đến đầu thế kỷ III qua hai con đường Hồ Tiêu và
Đồng Cỏ.
2.1.1.

Phật giáo du nhập qua con đường Hồ Tiêu

Con đường Hồ Tiêu (Chemi des epices) tức là đường biển, xuất phát từ các hải
cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam…lợi dụng được
luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu
vực Đông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán bằng

những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các thương nhân
thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị
tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á.
Ấn Độ là một bán đảo, cũng như bán đảo Đông Dương nhưng là một bán đảo
khổng lồ, cả một tiểu lục địa. Từ xa xưa trước công nguyên, thương nhân Ấn Độ
đã giao thương với các nước Ả rập, các nước ven biển Địa Trung Hải và nhất là
với đế quốc La Mã, tiêu thụ rất nhiều vàng ngọc, châu báu, hương liệu, lụa là, trầm
quế… Để có đủ hàng cung cấp cho thị trường phương Tây, thương nhân Ấn Độ
dong thuyền theo gió mùa Tây Nam đi về phía Đông Nam Á, đến Mã Lai, quần
đảo Nam Dương, vượt eo biển Malacca vào biển Đông, đến Việt Nam, rồi đến
Trung Hoa, Nhật Bản. Khi đi thì lựa theo gió mùa Tây Nam, khi về thì phải chờ tới
sang năm, theo mùa gió Đông Bắc. Ròng rã một năm ở lại, đủ thời giờ cho họ buôn
bán, và ảnh hưởng dần dà, sâu đậm đến các dân tộc địa phương trên mặt sản xuất,
văn hóa, sinh hoạt tôn giáo. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240 trước Tây lịch,
Mahoda-con vua A dục (Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam.
Dưới thời vua A-dục trị vì tại Ấn Độ (273 – 232 TCN), nhờ sự ủng hộ của nhà vua
nên đạo Phật đã được truyền đi nhiều xứ sở bên ngoài Ấn Độ. Các thương nhân
người Ấn theo đường biển đã đến Giao Chỉ buôn bán và mang theo đạo Phật mới
mẻ đến xứ này. Sau đó đến lượt các tăng sĩ người Ấn tới đây truyền đạo, góp phần
lập ra trung tâm đạo Phật tại Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh, Việt Nam), một trong những trung tâm lớn nhất của đạo Phật tại phương
Đông đầu Công nguyên cùng với hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành (nay
thuộc Trung Quốc).
Tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt của
đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trước công
nguyên 2879-258). Đó là truyện “Nhất Dạ Trạch”, chuyện kể Tiên Dung, con gái
vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng Tử. Đồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn bán
giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo một khách buôn ngoại
quốc đến núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ, tại đây Đồng Tử đã gặp một nhà sư
Ấn Độ tên Phật Quang. Phạt Quang đã truyền pháp cho Đồng Tử và Nhờ đó mà

Đồng Tử và Tiên Dung đã biết đến Đạo Phật. Qua dữ kiện này ta thấy sự hiện diện


của Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam khá lâu trước công
nguyên. [11]
Một bài nghiên cứu của Ngô Đăng Lợi, viện nghiên cứu khoa học Hải Phòng viết:
“Vùng Đồ Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê nơi có bảo
tháp của vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ III TCN, Đạo Phật đã được trực tiếp
truyền vào nước ta” [4, trang ].
Thiền Uyển Tập Anh cũng ghi nhận cuộc đàm luận giữa thiền sư Thông Biện và
Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về nguồn gốc Đạo Phật Việt
Nam vào dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai Quốc (nay là chùa
Trấn Quốc – Hà Nội) vào ngày rằm tháng 2 năm 1096) Thông Biện dẫn chứng lời
pháp sư Đàm Thiên (542-607) đối thoại với Tùy Cao Đế (?-604): “Một phương
Giao Châu, đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông (Trung
Hoa) chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 40 người, dịch
kinh được 15 quyển, vì nó có trước vậy, vào lúc ấy thì đã có Khâu Đà La, Ma Ha
Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó” [4 trang ]. Ma Ha
Kỳ vực, Khâu Đà La (188) người Ấn Độ hay Trung Á; Mâu Bác (165-170) người
Trung Hoa; Khương Tăng Hội (200-247) người Ấn Độ; Chi Cương Lương (?-264)
người xứ Nhục Chi, theo sử chép đó là các vị sư có mặt sớm nhất ở Giao Châu vào
khoảng thế kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ ba. Có lẽ đây chỉ là những vị được sử ghi lại
tên tuổi, kỳ thực đây không phải là phái đoàn truyền bá đầu tiên đến Việt Nam, vì
từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch đến thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch chắn chắc đã có
nhiều tăng sĩ đặt chân đến hoằng Pháp tại Việt Nam, cho nên Pháp sư Đàm Thiên
chỉ dẫn phần giới hạn và căn cứ vào sự có mặt của tác phẩm “Lý hoặc Luận” của
Mâu Bác.
Qua nhiều tài liệu lịch sử và dựa vào địa lý, thiên nhiên, cư dân, lịch sử có thể cho
chúng ta một kết luận chắn chắc rằng đạo Phật đã được truyền trực tiếp vào Việt
Nam chứ không thông qua Trung Hoa bằng con đường Hồ Tiêu. Tuy nhiên, cũng

có nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh rằng đạo Phật đồng thời được truyền vào Việt
Nam qua con đường Đồng Cỏ.
2.1.2.

Phật giáo du nhập qua con đường Đồng Cỏ

Con đường Đồng Cỏ (Chemin des Steppes) tức là đường bộ còn gọi là con đường
tơ lụa con đường này nối liền Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc Ấn Độ,
Assam hoặc phía Trung Á, một nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua các
vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện lạc
đà.
Các con đường bộ không thiếu nhưng vất vả và khó nhọc hơn. Trước hết là có
những con đường vừa thủy vừa bộ khá tiện lợi. Thay vì đi vòng xuống eo biển
Malacca, xa về phía Nam, thương nhân Ấn Độ có thể chuyển hàng hóa qua eo biển


Kra và bán đảo Mã Lai, theo những tuyến đường bộ tiện lợi, có thể vượt vài giờ,
nối liền biển nọ đến biển kia.
Từ Nam Ấn, thương nhân Ấn Độ có thể dùng thuyền không lớn vượt thủy đạo hẹp
giữa Andaman và Nicobar, hoặc là quá xuống phía Nam, thủy đạo giữa Nicobar và
Achin. Tuyến đường thứ hai dẫn tới điểm Kadah. Tại hai điểm này, các nhà khảo
cổ học đã khai quật được nhiều đồ vật cổ thuộc nền văn minh Ấn Độ thời xưa
Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các triền sông
Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam. “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”
(Hà Nội, 1988) có nói rõ: “Các thương nhân xuất phát từ Trung Ấn có thể dùng
tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ
Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố
Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn
tới vùng Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan.
Vương quốc này có thể là do những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên.

Rất có thể các tăng sĩ Ấn Độ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến
đất Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An”. [4, trang ].
Xa về phía bắc, thì con đường nối Ấn Độ với Nam Trung Quốc ngang qua Assam,
thượng Miến Điện, và Vân Nam. Tuyến đường này hình như đã được sử dụng từ
thế kỷ II và thậm chí trước đó nữa.
Những dữ kiện về con đường Hồ Tiêu và con đường Đồng Cỏ có liên quan đến sự
giao lưu của Việt Nam tuy chưa nhiều chứng minh có những chứng tích mà lịch sử
còn để lại, dù lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật giáo Việt Nam
thì vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Độ Asoka sau cuộc đại hội kết tập kinh
điển lần thứ ba, vua và trưởng lão Tissa Moggaliputta đã gởi nhiều phái đoàn Như
Lai sứ giả lên đường truyền bá chánh pháp cho các nước thuộc vùng viễn đông,
trong đó có đoàn của hai vị cao tăng là Uttara và Sona được phái đến Suvana
-Bhumi, xứ Kim Địa. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về vùng Kim Địa nhưng ý
kiến trong quyển lịch sử Phật giáo Thế giới thì cho rằng vùng Kim Địa này là bán
đảo Đông Dương từ Miến Điện kéo dài đến Việt Nam. Vấn đề này được sách Lịch
Sử Phật Giáo Việt Nam (sđđ) viết: “sử liệu Phật Giáo Miến Điện chép rằng hai vị
cao tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến Điện truyền giáo nhưng sử liệu Phật giáo
tại Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và Sona có đến Thái Lan truyền giáo.
Có học giả dựa vào một tài liệu Trung Hoa nói rằng ở Giao Châu tại thành Nê Lê,
có bảo tháp của vua Asoka, và học giả đó xác định thành Nê Lê chính là Đồ Sơn
hiện nay (cách Hải Phòng khoảng 12km)”. [4, trang ]
Nói chung căn cứ theo các tư liệu trên thì chúng ta có thể khẳng địng rằng Phật
giáo truyền vào Việt Nam khoảng đầu công nguyên bằng hai con đường thủy và
bộ. Ngay sau khi được du nhập và hình thành, Phật giáo Việt Nam phát triển mạnh
mẽ và trở thành quốc giáo bởi những giá trị tốt đẹp của nó.


2.2.

Phật giáo Việt Nam phát triển qua các thời đại


2.2.1. Thời kỳ du nhập và hình thành Phật giáo Việt Nam (thế kỷ II – V) và thời
kỳ phát triển của Phật giáo Việt Nam (thế kỷ VI – IX).
Thời kỳ du nhập và hình thành Phật giáo Việt Nam
Không bao lâu khi Phật giáo được truyền vào đất Việt, nhờ sự nổ lực hoạt động
truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Độ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ lúc bấy giờ
đã trở thành một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong vùng. Tại đây, với những sinh
hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Đà La (người Ấn Độ đến Luy Lâu khoảng năm
168-169) đã xuất hiện một mô hình Phật giáo Việt Nam hóa đầu tiên qua hình
tượng Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu (hình tượng Phật Nữ). Một
chứng liệu lịch sử quan trọng khẳng định Phật Giáo Việt Nam đã bắt rễ sớm ở
Giao Châu là sự việc ngài Mâu Bác (sinh cuối thế kỷ II, người Trung Quốc trước
theo Lão giáo, về sau cư ngụ tại Giao Chỉ, theo học đạo Phật ở đây và trở thành
một Phật tử rất thuần thành) theo mẹ từ Trung Quốc sang Giao Châu khi ngài còn
rất trẻ, rồi lớn lên, tại đây ngài đã viết bài “Lý hoặc Luận” và dịch một số kinh
sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo tại Giao Châu và như thế Phật giáo Giao
Châu đã phát triển khá mạnh, ít nhất là vào nữa đầu thế kỷ III.
Sang thế kỷ III, có ba nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng Pháp tại Giao Châu là
các Khương Tăng Hội (gốc người Sogdiane, Khương Cư); Chi Cương Lương Tiếp
(người Nhục Chi) và Ma Ha Kỳ Vực (người Ấn Độ).
Đến thế kỷ thứ V, có hai thiền sư xuất hiện, là Đạt Ma Đề Bà (Oharmadeva,) và
Huệ Thắng (người Việt). Thiền sư Đạt Ma Đề Bà là người Ấn Độ đến Giao Châu
vào giữa thế kỷ thứ V để giảng dạy về phương pháp thiền học. Thiền sư Huệ
Thắng là người địa phương là một trong những học trò của ông.
Cũng do được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay từ đầu kỷ nguyên
Tây lịch, nên danh xưng Buddha (Bậc giác ngộ) tiếng Phạn đã được phiên âm trực
tiếp sang tiếng Việt là Bụt (tiếng Hoa dịch là Phật). Điều này trùng hợp với danh từ
Bụt được xuất hiện trong nhiều truyện cổ tích Việt Nam. Theo từ điển Phật học
Việt Nam, (Minh Châu và Minh Chi, Hà Nội 1991) có ghi: “Tiếng Bụt phổ biến
hơn trong văn học dân gian và là dấu hiệu chứng tỏ đạo Phật truyền vào nước ta

sớm lắm”. Phật giáo ở Giao Châu lúc ấy mang màu sắc Nam phương, nhưng trong
con mắt của nền văn minh nông nghiệp, người Việt Nam lại hình dung đức Phật
như là một vị thần toàn năng có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện để cứu độ mọi
người. [4, trang ]
Thời kỳ phát triển
Bước sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đoàn truyền
giáo của Trung Quốc. Không bao lâu sau đó, Phật giáo Bắc phương (Trung Quốc)


đã chiếm ưu thế và đã thay đổi chổ đứng của Phật giáo Nam truyền vốn có từ
trước. Từ Buddha được dịch thành chữ Phật, và từ đây Phật dần dần thay thế cho
chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn giới hạn trong ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích mà thôi.
Vào cuối thế kỷ VI (khoảng năm 580), thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi vào Việt Nam
mang theo đạo Thiền của tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, và như vậy Thiền tông chính thức
xuất hiện tại xứ này. Đặc biệt, các thiền sư dòng Tì Ni Đa Lưu Chi thường có hình
thức tu tập “Tổng Trì Tam Muội” (Dharani samadhi), một hình thức tu tập phổ
biến của Mật tông (Tantra), dùng chân âm kết hợp với ấn quyết trong trạng thái đại
định để giữ được thân, khẩu, ý. Ở Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình, Việt Nam), một cột
kinh Phật bằng đá vào thế kỉ thứ 10 có khắc bài thần chú Phật Đỉnh Tối Thắng Đà
La Ni (Usnisavijaya dharani), một thần chú phổ biến của Mật tông, đã được phát
hiện. Như vậy, rất có thể Mật tông, một nhánh quan trọng của đạo Phật, đã xuất
hiện ở đây nếu không cùng thời điểm thì cũng sau Thiền tông không quá lâu. Vào
năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông vốn là đồ đệ sư Bách Trượng Hoài Hải mang
theo tư tưởng “đốn ngộ” của Nam tông (do Huệ Năng sáng lập) vào nơi này. Ông
cùng với thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi và thiền sư Thảo Đường sau này được Thiền
Uyển Tập Anh, một cổ thư xưa nhất của Thiền tông Việt Nam, xem là tổ sư của ba
Thiền phái lớn tại xứ này.
Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam, đó
là Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông.


1.

Thiền tông:

Là tông phái hay đúng hơn là một pháp môn tu tập có từ thời Đức Phật Thích Ca
tại Ấn Độ (trong hội Linh Sơn) rồi truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt cho
đến Tổ thứ 28 Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma). Đến năm 520 Tổ Bồ Đề
Đạt Ma, vốn là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng theo lời thầy là
Bát Nhã Đa La (Prajnatara), Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa để hoằng dương Phật
pháp. Tại nơi ây, Thiền Tông đã được hình thành và nhanh chóng hưng thịnh.
Thiền hay còn gọi là tĩnh lự, chủ trương tập trung trí tuệ để tìm ra chân lý. Tu theo
pháp môn này đòi hỏi hành giả phải có nhiều công phu và khả năng trí tuệ, do vậy
chỉ phổ biến ở tầng lớp trí thức và giai cấp thượng lưu, và cũng chính nhờ họ ghi
chép lại mà chúng ta ngày nay mới biết được lịch sử Thiền Tông ở Việt Nam.
Dòng thiền thứ nhất: được Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) sáng lập. Ngài là
người Nam Thiên Trúc, sang Trung Hoa học đạo và được tổ thứ ba thiền tông
Trung Hoa là Tổ Tăng Xán khuyên nên “mau đi về phương nam mà tiếp xúc với
thiên hạ, không nên ở lâu tại đây”. Ngài từ biệt và đến Việt Nam vào năm 580, ở


tại chùa Pháp Vân (nay là Thuận Thành Hà Bắc) để hoằng pháp và truyền cho tổ
thứ hai là ngài Pháp Hiền (người Việt Nam). Đây là dòng thiền có tích cách dân
tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật Giáo vừa biểu
lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng nghèo khổ Việt Nam. Dòng
thiền này truyền được 19 thế hệ.
Dòng thiền thứ hai: là thiền phái Vô Ngôn Thông, do thiền sư Vô Ngôn Thông
người Trung Hoa sáng lập tại chùa Kiến Sơ (Phù Đổng, Hà Bắc) vào năm 280.
Người kế nghiệp ngài là thiền sư Cảm Thành. Đây là thiền phái chịu ảnh hưởng
Phật Giáo Trung Hoa sâu đậm, tuy nhiên vẫn rất gần gũi với đời sống xã hội, hòa
nhập vào đời sống người dân trong khi vẫn duy trì được sinh hoạt tâm linh độc lập

của mình. Thiền phái này truyền được 17 thế hệ.
Dòng thiền thứ ba: là thiền phái Thảo Đường, do thiền sư Thảo Đường (người
Trung Hoa) sáng lập, ngài vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành, được vua Lý
Thánh Tông (1054-1072) giải phóng khỏi kiếp sống tù đày và vua cho lập đạo
tràng tại chùa Khai Quốc ở ngay kinh thành Thăng Long (1069) đệ tử theo học rất
đông, trong đó có cả chính vua Lý Thánh Tông. Thiền phái này có khuynh hướng
thiền tông trí thức và văn chương, do đó không cắm rễ được trong quần chúng mà
chỉ ảnh hưởng được tới một số trí thức và vua quan có khuynh hướng văn học.
Dòng thiền này truyền được 6 đời.
Dòng thiền thứ tư: đó là thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (1258-1368)
khai sáng. Vua Trần Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ Trung
Thượng Sĩ, một thiền sư cư sĩ nổi tiếng đời Trần, sau khi xuất gia vào năm 1299
với đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, ngài đã lên tu ở núi Yên Tử (tỉnh Quãng Ninh)
và tại đây, ngài đã lập ra thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Việt Nam đầu tiên.
Lập ra thiền phái Trúc Lâm này, vua Trần Nhân Tông đã thống nhất được các thiền
phái tồn tại trước đó và toàn bộ Giáo Hội Phật giáo đời Trần về một mối.
Nhìn chung thiền phái Trúc Lâm là một dòng thiền tổng hợp được ba yều tố đặc
thù của xã hội. Trúc Lâm đại diện cho quý tộc, Pháp Loa đại diện cho nông dân và
Huyền Quang đại diện cho nho sĩ, tính cách quý tộc, nông dân và nho sĩ là thể hiện
toàn diện trong con người Trúc Lâm. Sự tổng hợp đó, đã tạo nên nét đặc thù của
thiền phái Trúc Lâm mà các thiền phái trước đó không có được, kể từ đó đưa Đạo
Phật đi vào xã hội với tinh thần nhập thế cụ thể, giáo hội được tổ chức chặt chẽ,
cũng cố tinh thần đạo pháp và dân tộc xây dựng phồn vinh cho đất nuớc. Sau thời
đại Lý Trần các dòng thiền Việt Nam dường như lu mờ và tàn lụi hẳn, đến cuối thế
kỷ thứ XX, tiếp nối đạo mạch Việt Nam, thiền sư Thích thanh Từ đã phục hưng
nền thiền tông Việt Nam đó là thời điểm đầu những năm 70 tại tu viện Chơn
Không (1970-1986) rồi đến Thường Viện Thường Chiếu (1974-1994) và hiện nay
là thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt. Đây có thể nói là một dòng thiền khác mang tính



cách độc lập của người Việt Nam. Thiền sư Thanh Từ đã không theo các dòng
thiền nào truyền thống mà chỉ tổng hợp chỗ thấy, chỗ ngộ và sự ứng dụng của ba
thiền sư nổi tiếng là thiền sư Huệ Khả (tổ thứ 2, Trung Hoa) thiền sư Huệ Năng (tổ
thứ 6, Trung Hoa) và thiền sư Trần Nhân Tông (sơ tổ Trúc Lâm, Việt Nam) mà lập
thành phương pháp tu tập cho thiền sinh Việt Nam trong thời hiện đại.
2.

Tịnh Độ tông:

Khác với Thiền tông, Tịnh Độ tông chủ trương phải dựa vào tha lực tức sự giúp đỡ
từ bên ngoài. Thật ra, Thiền hay Tịnh Độ cũng chỉ là những pháp môn tu tập thích
hợp cho nhiều đối tượng khác nhau do Đức Phật truyền giáo ra. Chính đức Phật
Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến giác ngộ thì cần phải giúp đỡ họ, sự
trợ lực hay tha lực này rất quan trọng. Điều này gợi cho tín đồ liên tưởng đến một
cõi niết bàn cụ thể đó là cõi Tịnh Độ hay thế giới cực lạc do đức Phật A Di Đà làm
giáo chủ. Sự giúp đỡ đó còn cho thấy bản thân của người tín đồ cần thường xuyên
đi chùa dâng hương, cúng dường, bố thí, làm những điều thiện, tránh các điều ác
và thường xuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà để đạt đến nhất tâm bất loạn và
muốn đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn này, hành giả trong lúc niệm Phật phải hình
dung, quán tưởng về thế giới cực lạc để tâm mình hướng tới.
Nhờ cách thức tu tập đơn giản như vậy nên Tịnh Độ Tông là tông phái phổ biến
khắp đất nước Việt Nam. Đâu đâu ta cũng gặp người dân tụng Kinh A Di Đà và
niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà. Tượng Phật A Di Đà cũng thuộc loại tượng
Phật lâu đời và phổ biến ở Việt Nam. Điển hình là pho tượng Phật A Di Đà bằng
đá, cao gần 2m,thờ tại chùa Phật Tích, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh, được tạo
tác dưới triều Lý Thánh Tông năm 1057. Đây là một bằng chứng đánh dấu sự ảnh
hưởng Tịnh Độ Tông đầu tiên ở Việt Nam.
3.

Mật tông:


Là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ thể và những mật ngữ, mật chú
để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Đại Nhật chủ xướng
và có hai bộ kinh chính là Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương. Mật tông truyền
vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào
tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các truyền thống như chẩn tế, cầu đồng, dùng
pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông không có dấu hiệu phát triển rõ
ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của từng chùa và của mỗi cá nhân có
cơ duyên đến với tông phái này.
2.2.2. Thời kỳ cực thịnh (thế kỷ X – XIII) và thời kỳ phục hưng của Phật giáo
Việt Nam (trong thế kỷ XX)
Thời kỳ cực thịnh


Sau một nghìn năm Bắc Thuộc, năm 905 (thế kỷ X) Giao Châu chính thức độc lập.
Năm 968 Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, lập ra nhà Đinh, đặt tên nước là Đại Cồ
Việt, mở ra thời kì độc lập và thống nhất phát triển lâu dài trong lịch sử Việt Nam.
Đạo Phật thời này cũng không là ngoại lệ, đã phát triển đến đỉnh cao và tham dự
vào nhiều sự kiện hệ trọng của đất nước. Khởi đầu là Đinh Tiên Hoàng với việc lập
ra chức tăng thống – người đứng đầu phật giáo của đất nước trong lịch sử.
Như ta đã thấy, Phật Giáo Việt Nam của thế kỷ thứ V chỉ còn ghi lại hai thiền sư là
Đạt Ma Đề Bà và Huệ Thắng. Thế kỷ thứ VI ghi lại hai thiền sư Việt Nam: Quán
Duyên và Pháp Thiền. Chính trong thế kỷ này mà thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến
Việt Nam. Ba thế kỷ tiếp theo, thế kỷ VII, VIII và IX là ba thế kỷ thuộc nhà Đường
cai trị, đến thế kỷ X thì Việt Nam mới bắt đầu giành được quyền tự chủ. Chính
trong thế kỷ này Đạo Phật mới thực sự hưng thịnh và có những đóng góp tích cực
cho đất nước. Năm 971 vua Đinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban chức
tăng thống cho Thiền sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, và ngài
Khuông Việt Thái Sư, chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm
linh cho chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Đại Hành đã mời thiền sư

Pháp Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm cố vấn
chính sự. Các thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục trợ
giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp.
Nhà Lý ra đời đã đưa đạo Phật lên hàng quốc đạo, nhiều triều vua nối tiếp nhau đã
thực hiện rất nhiều Phật sự, không chỉ góp phần phát triển việc tu học mà còn qua
đó phát triển một nền văn hóa riêng của Đại Việt khác biệt với Trung Hoa.
Một dấu ấn quan trọng thời này là việc khai sinh Thiền phái Thảo Đường. Tuy
nhiên, vì khuynh hướng thiên trí thức và văn chương, thiền phái Thảo Ðường
không cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng đến một số trí thức có
khuynh hướng văn học. Thiền Uyển Tập Anh tuy có ghi lại tên họ 19 vị thuộc
thiền phái Thảo Ðường. Đạo Phật thời nhà Lý có nhiều ảnh hưởng không chỉ với
dân thường mà cả vua quan. Có chín trên 19 vị của Thiền phái Thảo Đường là cư sĩ
mà phần lớn là vua quan, trong đó có ba vị vua là Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông,
và Lý Cao Tông. Rất nhiều thiền sư đời Lý tham gia chính sự mà không tham dự
chính quyền.
Nhà Trần lên nắm quyền tiếp tục kế thừa và phát triển thêm nền tảng xã hội đã có
từ thời Lý trong đó có đạo Phật. Nét nổi bật nhất của đạo Phật thời kì này so với
thời trước là sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do người Việt sáng lập
mà tổ sư chính là vị vua rời bỏ chính sự để xuất gia Trần Nhân Tông
Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ này phát triển tới mức toàn vẹn và cực thịnh. Do
ảnh hưởng tư tuởng của vua Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đầu thế kỷ
VIII, ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường sát nhập


tạo thành một và đưa tới sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm là thiền phái duy
nhất dưới đời Trần. Vì vậy đời Trần có thể gọi là thời đại thống nhất của Phật Giáo
các hệ phái trước đó. Tăng sĩ đời Trần không trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp
chính trị như các thiền sư đời Lý, nhưng Phật Giáo là một yếu tố quan trọng để liên
kết nhân tâm. Tinh thần Phật Giáo đã kiến cho các nhà chính trị đời Trần áp dụng
những chính sách bình dân, thân dân và dân chủ. Phật Giáo trong đời Trần là quốc

giáo, mọi người dân trong xã hội điều hướng về Phật Giáo. Nhà nho Lê Quát, học
trò Chu Văn An, đã lấy làm tức giận vì thấy toàn dân theo Phật : “Phật chỉ lấy điều
họa phúc mà động lòng người, sao mà sâu sa và bền chắc đến như vậy? Trên từ
Vương Công, dưới đến thứ dân, hễ làm việc gì thuộc về việc Phật, thì hết cả gia tài
cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền để làm chùa xây tháp thì hớn hở, vui vẻ,
như trong tay đã cầm được biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho nên
trong kinh thành ngoài đến Châu Phủ, đường cùng ngõ hẻm, chẳng khiến đã theo,
chẳng thề mà tin, hễ chổ nào có nhà thì có chùa Phật; bỏ đi thì làm lại, hư đi thì sửa
lại”[4, trang ].
Có rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây dựng
trong thời Lý Trần như chùa Phật Tích, chùa Đại Lãm, chùa Linh Xứng, chùa Một
Cột, chùa Phổ Minh. Khâm phục trước những thành tựu văn hóa của Phật Giáo
Việt Nam thời Lý Trần mà sách vỡ Trung Hoa truyền tụng nhiều về 4 công trình
nghệ thuật lớn mà họ gọi là An Nam Tứ Đại Khí. Đó là:
Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm: chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều (Quảng Ninh) được
xây dựng vào khoảng thế kỷ XI, có pho tượng Di Lặc bằng đồng mà theo văn bia
mà nay vẫn còn giữ được trong chùa thì tượng cao 6 trượng (1 trượng bằng khoảng
4m) đặt trong một tòa Phật điện cao 7 trượng. Đứng từ bến đò Đông Triều, cách xa
10 dặm vẫn còn trong thấy nóc chánh điện.
Tháp Bảo Thiên: gồm 12 tầng, cao 20 trượng do vua Lý Thánh Tông cho xây dựng
vào năm 1057 trên khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía Tây Hồ Lục Thủy (tức Hồ
Gươm Hà Nội ngày nay) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc bằng đồng. Đây là
đệ nhất danh thắng đế đô một thời. Đến năm 1414 tháp bị quân Vương Thông tàn
phá, nền tháp còn lại to như quả đồi, có thời dùng làm nơi họp chợ; đến năm 1791
dỡ ra lấy gạch xây thành còn thấy 4 pho tượng Kim Cương trấn giữ 4 cửa và nhiều
tượng chim thú khác. Thời Pháp bị phá huỷ hoàn toàn để xây dựng nhà thờ lớn trên
mảnh đất ấy.
Chuông Quy Điền: Năm 1101, vua Lý Nhân Tông cho xuất hàng vạn cân đồng để
đúc quả chuông này và dự định treo nó tại khuôn viên chùa Diên Hựu trong lầu
chuông bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng chuông đúc xong to quá (đường kính

1,5 trượng (khoảng 6m) cao 3 trượng (khoảng 12 m), nặng đến vài vạn cân) không
treo nổi lên đành để ở ngoài ruộng.


Vạc Phổ Minh: đúc bằng đồng vào thời vua Trần Nhân Tông (1279-1293) đặt tại
chùa Phổ Minh (làng Tức Mặc, Nam Hà). Vạc sâu 6 thước, rộng 10 thước nặng
trên 7 tấn. Vạc to tới mức có thể nấu được cả một con bò mộng, trẻ con có thể chạy
nô đùa trên thành miệng vạc. Đến nay vẫn còn 3 trụ đá kê chân vạc trước sân chùa
Phổ Minh.
Thời kỳ suy thoái
Đạo Phật đạt đến cực thịnh vào thời nhà Trần rồi bắt đầu suy thoái vào thời nhà
Hậu Lê, mà hai nguyên nhân chính phải kể ra là: nguyên nhân nội tại trong chính
đạo Phật, và nguyên nhân ngoại tại từ sự phát triển của Khổng giáo (hay Nho
giáo).
Thứ nhất là nguyên nhân nội tại. Khi đạo Phật được vua chúa quý trọng thì các nhà
quyền quý và trăm họ đều hướng vào. Chùa chiền càng nhiều thì nếp sống thanh
quy càng khó bảo đảm được. Tăng chúng càng đông thì càng có nhiều phần tử bất
hảo làm hại thanh danh tăng đoàn, sự kính trọng càng nhiều thì niềm kiêu hãnh
càng thêm cao. Sự cúng dường càng hậu thì sự ỷ lại càng tăng. Đây là biểu hiện
của sự suy thoái.
Thứ hai, nguyên nhân ngoại tại. Như đã biết, thời Lý Trần nhiều thiền sư tham dự
chính sự và có tiếng nói quan trọng với vua quan. Vào cuối thế kỉ 14, Hồ Quý Ly
vốn xuất thân Nho học trong quá trình tiếm quyền nhà Trần đã thực hiện một số
biện pháp nhằm giảm ảnh hưởng của đạo Phật. Thêm nữa, nhiều nhà Nho vốn
trọng từ chương, tự cho mình là độc tôn trí thức nên không ưa đạo Phật vốn trọng
tinh thần bao dung. Chẳng hạn các đại thần Lê Quát, Trương Hán Siêu đã công
khai chỉ trích đạo Phật.
Ngoài ra, việc nhà Minh xâm lược Đại Việt đầu thế kỉ 15 cùng chính sách tận diệt
nền văn hóa độc lập của đất nước đã hủy diệt không chỉ truyền thống của đạo Phật
tại Việt Nam mà là cả truyền thống dân tộc. Từ khi nhà Hậu Lê thành lập, và nhất

là từ khi vua Lê Thánh Tông suy Khổng giáo làm quốc học thì đạo Phật chính thức
suy thoái trong một thời gian kéo dài đến mấy trăm năm.
Thời kỳ phục hưng
Phật Giáo Việt Nam đã trải qua thời cực thịnh nhất dưới hai triều đại Lý Trần, sang
đến đời Hậu Lê rồi Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường bước cho Nho giáo,
lúc ấy đang chiếm vai trò độc tôn.
Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Đức thì mất chủ quyền, nước ta rơi
vào vòng đô hộ của Pháp. Phật Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay lại điêu tàn hơn.
Trong bối cảnh đó, Ky Tô giáo đã du nhập vào Việt Nam và dân tộc Việt Nam lại
tiếp nhận thêm một tôn giáo mới của phương Tây. Tuy tinh thần khai phóng dung
hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ qua không còn được thể hiện trong chính sách


quốc gia, văn hóa và xã hội vào thế kỷ XX nhưng Phật Giáo vẫn là tôn giáo chính
của dân tộc, đóng vai trò hòa giải giữa các thế lực tranh chấp, góp phần xây dựng
tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc lập của quốc gia.
Vào khoảng những năm 1920-1930, trong không khí tưng bừng của phong trào
chấn hưng Phật Giáo trên thế giới, đặt biệt ở Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn Độ và
Miến Điện, một số tăng sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào chấn hưng Phật Giáo
tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại miền
Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, và xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Ở
miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra mắt tại chùa Từ Đàm và cho xuất bản
tạp chí Viên Âm vào 1934, đặt biệt hội đã mở các Phật Học Viện cho tăng chúng
tu học như phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn, Trúc Lâm và Tây Thiên. Ở
Bình Định có hội Phật Học Bình Định, ở Đà Nẵng có hội Phật Học Đà Thanh, ra
tạp chí Tam Bảo. Tại miền Nam, năm 1920, Hội Lục Hòa được thành lập để đoàn
kết và vận động phong trào chấn hưng Phật Giáo. Hội nghiên cứu Phật Học Nam
Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn; xuất bản tạp chí Từ Bi Âm (1932). Năm
1933 Liên Đoàn Học Xã ra đời. Năm 1034, hội Phật Học Lưỡng Xuyên ra đời,
xuất bản tạp chí Du Tân Phật học và mở Phật Học đường Lưỡng Xuyên.

Nhờ phong trào chấn hưng Phật Giáo này mà đội ngũ tăng ni được đào tạo qua
nhiều trường lớp và phát triển nhiều ở các tỉnh. Chùa chiền được xây dựng khắp
nơi, nhất là hệ thống chùa phật học ở các thành thị. Nhiều ngôi chùa ở làng xã
được trùng tu và có chư tăng ni trụ trì. Bên cạnh đó, trong thời kỳ này, có nhiều hệ
phái, tôn phái phật giáo ra đời, như giáo phái Khất Sĩ Việt Nam, Thiên Thai Giáo
Quán Tông, Phật Giáo Hoa Tông ..Một yêu cầu thống nhất Phật Giáo được đặt ta
tại Huế, đưa đến việc thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đặt trụ sở tại chùa
Từ Đàm Huế, hội chủ là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, đây là một tổ chức thống
nhất Phật Giáo ba miền Nam, Trung, Bắc, đồng thời vạch ra một con đường dân
tộc nhân bản, hướng dẫn bước đi Phật Giáo vào môi trường tư tưởng và văn hóa,
tiếp tục xây dựng con người và xã hội Việt Nam. Điểm đặc sắc của Phật Giáo Việt
Nam trong thế kỷ XX là sự kết hợp của hai giáo phái Nam Tông và Bắc Tông vào
năm 1964 để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Giáo Hội này
hoạt động cho đến năm 1981 thì ngưng hoạt động trong nước, nhưng có văn phòng
hai Viện Hóa Đạo đặt tại tiểu bang California, Hoa Kỳ, hoạt động rất mạnh.
Đến tháng mười một năm một nghìn chín trăm tám mốt, sau sáu năm đất nước thay
đổi thể chế, một hội nghị với 165 đại biểu của chín tổ chức giáo hội hệ phái cả
nước đã họp tại chùa Quán Sứ Hà Nội đưa đến việc thành lập Giáo Hội Phật giáo
Việt Nam. Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh
Trung Ương, Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm chủ tịch Hội Đồng Trị Sự Trung
Ương. Giáo hội đặt văn phòng I tại chùa Quán Sứ Hà Nội, văn phỏng II tại chùa
Xá Lợi thành phố Hồ Chí Minh.


KẾT LUẬN
Qua hai phần trình bày, ta có thể thấy lịch sử phát triển và tư tưởng của Phật giáo
Cụ thể là Phật giáo được sáng lập bởi Tất Đạt Đa vào khoảng thế kỷ VI TCN tại
miền Bắc Ấn Độ. Phật giáo ra đời trong điều kiện xã hội Ấn Độ đã phân chia giai
cấp và xuất hiện đấu tranh giai cấp. Từ Phật giáo nguyên thủy, sau khi Tất Đạt Đa
mất đã phân thành nhiều tông phái, các tông phái khác nhau về cách tu luyện bản

thân giáo lý Phật giáo không hề có sự phân chia tông phái. Phật giáo nguyên thuỷ
có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng của thế giới nhưng
triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về
xã hội.
Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ và Trung
Quốc vào Việt Nam. Phật giáo được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu công
nguyên theo con đường Hồ Tiêu (đường thủy) và con đường Đồng Cỏ (đường bộ).
Với những giá trị tốt đẹp của Phật giáo, nhân dân ta nhanh chóng tiếp nhận và hình
thành nên Phật giáo Việt Nam. Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam
trải qua các thời kỳ gắn liền với các triều đại phong kiến.
Phật giáo Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ trong sự phát triển đi lên của
cả dân tộc. Hiện nay nước ta đã có các trường Đại Học cho các bậc tu sĩ. Đây là
một điều rất đáng mừng trong thời kỳ mở cửa hội nhập nền văn hóa, kinh tế với
các nước bạn bè năm Châu. từ đó cho thấy Phật giáo Việt Nam thực sự lớn mạnh
về mặt tổ chức và trở mình đổi mới để xứng đáng với lòng tin của đảng và nhân
dân.



×