Tải bản đầy đủ (.doc) (158 trang)

Nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của trung đoàn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.86 KB, 158 trang )

5
B QUC PHềNG
HC VIN CHNH TR

NGUYN THANH TèNH

NÂNG CAO NĂNG LựC VậN DụNG PHƯƠNG PHáP LUậN
DUY VậT BIệN CHứNG CủA CHíNH ủY TRUNG ĐOàN TRONG
QUÂN ĐộI NHÂN DÂN VIệT NAM HIệN NAY
Chuyờn ngnh: Ch ngha Duy vt bin chng
v duy vt lch s
Mó s

:

62 22 03 02

LUN N TIN S TRIT HC

NGI HNG DN KHOA HC:
1. PGS. TS Phan Trng Ho
2. PGS. TS Dng Quc Dng

H NI - 2016


LI CAM OAN

Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, trích dẫn trong luận án


là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận án

Nguyễn Thanh Tình


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI
Chương 1 LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP LUẬN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CỦA
CHÍNH ỦY TRUNG ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM
1.1.
Thực chất nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng của chính ủy trung đoàn trong Quân đội nhân dân
Việt Nam
1.2.
Những nhân tố cơ bản quy định việc nâng cao năng lực vận
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy
trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP LUẬN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CỦA CHÍNH ỦY
TRUNG ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY

2.1.
Thực trạng nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay
2.2.
Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế và những vấn đề đặt ra đối
với việc nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng của chính ủy trung đoàn trong Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay
Chương 3 GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO NĂNG LỰC VẬN
DỤNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN DUY VẬT BIỆN
CHỨNG CỦA CHÍNH ỦY TRUNG ĐOÀN TRONG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực
vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy
trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
3.2.
Tạo dựng môi trường hoạt động thuận lợi để nâng cao năng
lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính
ủy trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
3.3.
Hiện thực hóa nhân tố chủ quan trong việc nâng cao năng lực
vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy
trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


5
10

29
29
55

74
74

98

110
110
124
133
143
145
146


5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Chính ủy trung đoàn là người chủ trì về chính trị, đảm nhiệm công tác
đảng, công tác chính trị và là bí thư đảng ủy trung đoàn. Để chính ủy trung
đoàn hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình, một trong những yêu cầu rất
cơ bản là họ phải có phương pháp xem xét, giải quyết đúng đắn. Đề tài:“Nâng
cao năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy

trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, là một vấn đề rất
bức thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đây cũng là vấn đề chưa được
nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống.
Luận án tập trung làm rõ quan niệm về năng lực vận dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng, nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và chỉ ra nhân tố cơ bản quy định việc nâng cao năng lực vận
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay; làm rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân
và phân tích những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao năng lực vận dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp cơ bản, đồng bộ,
khả thi nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của
chính ủy trung đoàn, một trong những nhân tố cơ bản, nền tảng đảm bảo cho
chính ủy trung đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Công trình được kết cấu gồm: phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận,
danh mục các công trình khoa học đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Phương pháp luận duy vật biện chứng là một bộ phận tri thức triết học
đặc thù, là hạt nhân được rút ra từ toàn bộ triết học Mác - Lênin, bao gồm hệ


6
thống những quan điểm, nguyên tắc cách thức, biện pháp chỉ đạo hoạt động
nhận thức và thực tiễn của chủ thể. Năng lực vận dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng là nhân tố cơ bản, nền tảng, định hướng, đảm bảo cho
đội ngũ cán bộ quân đội nói chung, cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên
nói riêng phát triển phẩm chất, năng lực toàn diện. Trong giai đoạn hiện nay,
để thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, nhất là
Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình

hình mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định:
“Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ” [28, tr. 207]. Việc nâng cao
năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của đội ngũ cán bộ
quân đội là yêu cầu khách quan, có ý nghĩa cấp thiết, làm cho phương pháp
luận duy vật biện chứng thấm sâu vào nhận thức và hành động, quyết định
đến việc hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ quân đội; đồng
thời góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, phương hướng, yêu cầu, nhiệm
vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới.
Chính ủy trung đoàn là cán bộ của Đảng và Nhà nước hoạt động
trong lĩnh vực quân sự, là người chủ trì về chính trị, đảm nhiệm công tác
đảng, công tác chính trị ở các trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt
Nam. Do đó, chính ủy trung đoàn giữ vị trí, vai trò rất quan trọng trong
việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, nhân tố quyết định trong việc xây
dựng các trung đoàn trong quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, chính ủy trung đoàn phải không
ngừng hoàn thiện, nâng cao hệ thống tri thức và năng lực của mình. Một
trong những vấn đề cơ bản, mấu chốt, có ý nghĩa quyết định là phải nâng
cao năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng. Đây là cơ sở,
tiền đề đảm bảo cho việc hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của chính ủy
trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam.


7
Bài học kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng quân đội cho thấy, nâng cao
năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy trung
đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam là con đường, cách thức, biện pháp
cơ bản để thúc đẩy hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, hiệu
quả xây dựng trung đoàn về chính trị. Chính ủy trung đoàn có năng lực vận
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng tốt thì hiệu lực công tác đảng,

công tác chính trị, hiệu quả xây dựng trung đoàn về chính trị không ngừng
được tăng cường. Ngược lại, không chú ý đến việc nâng cao năng lực vận
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của đội ngũ cán bộ này thì hoạt
động công tác đảng, công tác chính trị, kết quả xây dựng trung đoàn về chính
trị không những kém hiệu quả mà những “căn bệnh” trong tư duy của chính
ủy trung đoàn, như: chủ quan, duy ý chí, giáo điều, siêu hình..., dễ có điều
kiện nảy sinh và phát triển.
Vì vậy, nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng của chính ủy trung đoàn là giúp họ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao. Đây là một việc làm có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn,
góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị quân đội vững mạnh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và
giải pháp nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của
chính ủy trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam, nhằm góp phần hoàn
thiện phẩm chất, năng lực của chính ủy trung đoàn, đáp ứng yêu cầu xây
dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ thực chất và những nhân tố cơ bản quy định việc nâng cao
năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy
trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam.


8
- Đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và những
vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay.
- Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực vận dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn trong Quân đội nhân

dân Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề bản chất của quá trình nâng cao
năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn
trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu: nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn bộ binh đủ quân trong Quân đội
nhân dân Việt Nam, số liệu khảo sát từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận án: là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, nghị quyết của Quân ủy Trung ương về xây dựng đội
ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên trong quân đội; nâng cao phẩm
chất, năng lực đội ngũ cán bộ quân đội ta hiện nay.
* Cơ sở thực tiễn của luận án: là tình hình thực tiễn nâng cao năng lực
vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn, các
kết quả tổng hợp, điều tra, khảo sát của tác giả và những số liệu tổng kết của
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các cơ quan, đơn vị toàn quân có
liên quan đến đề tài luận án.
* Phương pháp nghiên cứu: đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận án sử dụng


9
tổng hợp nhiều phương pháp cụ thể như: phân tích và tổng hợp, hệ thống và cấu
trúc, trừu tượng hoá và khái quát hoá, lịch sử và lôgíc, điều tra xã hội học,
phương pháp chuyên gia…
6. Những đóng góp mới của luận án
Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao năng
lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn

trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp cơ bản, đồng bộ, khả thi nâng cao năng lực vận
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận: kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sâu sắc
thêm một số vấn đề lý luận về nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở khoa học
giúp các cơ quan chức năng nghiên cứu, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng chính ủy trung đoàn trong quân đội hiện nay. Luận
án có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác quản lý, đào tạo, giảng dạy,
bồi dưỡng, học tập, nghiên cứu khoa học và tiến hành nâng cao năng lực vận
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chính ủy trung đoàn trong
Quân đội nhân dân Việt Nam.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: phần mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu
có liên quan đến đề tài; 3 chương (7 tiết); kết luận; các công trình của tác giả
đã công bố có liên quan đến đề tài; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


10
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Những công trình khoa học tiêu biểu ở nước ngoài liên quan đến
phương pháp luận duy vật biện chứng
Liên quan đến vấn đề này ở nước ngoài có các công trình nghiên cứu
tiêu biểu như: K.M.Phataliep, Chủ nghĩa duy vật biện chứng và khoa học tự
nhiên [87]; E.V.Đ.A.Vôncôgônốp, Phương pháp luận công tác giáo dục tư
tưởng [136]; Viện hàn lâm khoa học Liênxô, Ilencôv, Lôgic biện chứng [51];
P.V.Pôpốp chủ biên, Phép biện chứng với tư cách là phương pháp luận của

sự nhận thức khoa học [90], v.v..
Ở các công trình nghiên cứu trên đây, các tác giả đều khẳng định, vai
trò ngày càng tăng của phương pháp luận mác xít trong quá trình nhận thức
khoa học ở thời đại hiện nay: Đó là do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Cụ thể là do tính tất yếu của sự thống nhất
hữu cơ những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học hiện đại với tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội. Trong các công trình nghiên cứu đã phân tích và
chỉ ra tính khách quan, tính vật chất của những mối liên hệ. Trên cơ sở đó đã
phủ định một cách khoa học mối liên hệ siêu tự nhiên, thần bí của chủ nghĩa
duy tâm. Với phương pháp khoa học mà phép biện chứng duy vật đem lại,
trong quá trình xem xét những mối liên hệ xã hội phải tính đến tất cả các yếu
tố, những mối liên hệ đặc thù với những ảnh hưởng qua lại của chúng và
những điều kiện phức tạp trong quá trình hình thành hệ thống xã hội.
Xuất phát từ quan điểm cho rằng, việc phân tích những chức năng
phương pháp luận của các quy luật của phép biện chứng đã vạch ra những
khía cạnh chủ yếu và căn bản nhất của triết học Mác - Lênin, nói lên tính đặc
thù và vai trò của nó trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, các
tác giả đã phân tích chức năng phương pháp luận cơ bản của các quy luật của
phép biện chứng. Đó là chức năng luận chứng và giải thích khoa học. Các tác


11
giả cũng phân tích những chức năng phương pháp luận cơ bản của các phạm
trù phép biện chứng. Đó là chức năng giải thích các quy luật cơ bản của phép
biện chứng trong quá trình nhận thức khoa học và là công cụ tất yếu cho việc
nhận thức những tác động của những quy luật đó trong thực tại khách quan.
Các tác giả cũng chỉ rõ chức năng phương pháp luận và thế giới
quan của phép biện chứng có mối liên hệ bền vững và luôn thống nhất với
nhau, trong đó chức năng phương pháp luận có ý nghĩa bao trùm: Bất cứ
một nguyên lý, một quy luật, một phạm trù nào có tính chất phương pháp

luận của phép biện chứng cũng đều đóng vai trò là một trong những yếu
tố cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng, còn thế giới quan duy vật
biện chứng thì tạo điều kiện cho phản ánh một cách đầy đủ nhất, toàn diện
nhất những thuộc tính những mối liên hệ khách quan của thế giới vật chất,
của sự nhận thức khoa học các nguyên lý, quy luật, phạm trù cơ bản của
phép biện chứng.
Tác giả I.A.Gruđinhin đã viết: một số công trình về vận dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng vào lĩnh vực quân sự. Tiêu biểu: Những vấn đề
của phép biện chứng trong lĩnh vực quân sự (2 tập) [33]; Phép biện chứng và
lĩnh vực quân sự hiện đại [34]. Điểm mới của tác phẩm này là tác giả đã dựa
trên những thành tựu mới của khoa học và kỹ thuật quân sự, vạch rõ tính đặc
thù của những quy luật cơ bản và những phạm trù của của phép biện chứng
duy vật biểu hiện trong lĩnh vực quân sự.
Tác giả khẳng định phép biện chứng duy vật đã giúp chúng ta phát hiện
bản chất của cuộc cách mạng trong quân sự và sự tác động của những quy
luật chung trong điều kiện chiến tranh hiện đại và những quy luật đặc thù của
nó. Muốn hiểu biết đúng đắn những thay đổi căn bản trong lĩnh vực quân sự,
vạch ra những con đường đúng đắn giải quyết vấn đề phức tạp của việc tiếp
tục phát triển các quân chủng, binh chủng, của việc phát triển kỹ thuật quân


12
sự, khoa học quân sự và giáo dục có kết quả cho cán bộ và chiến sĩ, cần hiểu
sâu và biết vận dụng một cách tự giác phép biện chứng duy vật.
Tác giả viết: Trong khi bảo vệ di sản lý luận quân sự vô cùng phong
phú của V.I.Lênin, cán bộ quân sự chúng ta học tập vận dụng sáng tạo phép
biện chứng duy vật trong hoạt động thực tiễn. Đó là một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhất của mỗi sĩ quan xô viết. Chúng ta hãy nhớ lại ý
kiến của M.V.Phrunde rằng: “Người chỉ huy Hồng quân phải học tập để
hoàn toàn nắm được phương pháp tư duy và nghệ thuật phân tích các hiện

tượng mà học thuyết chủ nghĩa Mác đã dạy cho chúng ta. Thực chất của
phương pháp tư tưởng đó là chúng ta không thể coi cái gì là tuyệt đối và
cứng nhắc được. Mọi cái đều chuyển biến và thay đổi, và bất cứ một
phương tiện, một phương pháp nào cũng chỉ được sử dụng trong một hoàn
cảnh nhất định nào đó. Nghệ thuật của người chỉ huy là ở chỗ trong nhiều
phương tiện mà mình có, phải biết lựa chọn phương tiện nào có thể đem lại
kết quả tốt đẹp nhất trong hoàn cảnh và thời gian đó” [34]. “Việc nắm
phương pháp biện chứng, biết vận dụng nó một cách tự giác vào thực tiễn
hàng ngày không phải bỗng dưng có được mà đòi hỏi phải lao động bền bỉ.
Cần có sự hiểu biết xuất sắc về quân sự, tầm quan trọng to lớn của việc giải
quyết kịp thời các vấn đề lý luận và thực tiễn, đồng thời cần mạnh dạn, táo
bạo, kiên quyết thực hiện những kết luận xuất phát từ sự phân tích biện
chứng những hiện tượng của chiến tranh và xây dựng quân đội” [34].
A.P.Séptulin, Phương pháp nhận thức biện chứng [104]. Cuốn sách
gồm 7 chương, ở Việt Nam dịch và xuất bản chương 4 là chương chủ yếu và
quan trọng nhất của tác phẩm. Tác giả dẫn ra những quan niệm khác nhau về
các nguyên tắc của phương pháp nhận thức biện chứng và khẳng định chưa có
ý kiến thống nhất về vấn đề này. Theo tác giả, có 12 nguyên tắc của phương
pháp nhận thức biện chứng: nguyên tắc phản ánh; nguyên tắc năng động;


13
nguyên tắc toàn diện; nguyên tắc từ cái đơn nhất đến cái chung và ngược lại;
thống nhất quy nạp và diễn dịch; nguyên tắc chất và lượng liên hệ lẫn nhau;
nguyên tắc quyết định luận; nguyên tắc lịch sử; nguyên tắc mâu thuẫn;
nguyên tắc phủ định biện chứng; nguyên tắc từ trừu tượng đến cụ thể; nguyên
tắc thống nhất lịch sử và lôgic; nguyên tắc thống nhất phân tích và tổng hợp.
Tác giả cũng khẳng định: “Khi xem xét các nguyên tắc của phương
pháp biện chứng, điều quan trọng là xem xét chúng trong mối liên hệ hữu cơ
với nhau, cũng như với những bậc thang phát triển tương ứng của nhận thức

khoa học và thực tiễn xã hội. Điều đó ảnh hưởng to lớn đến tình hình những
đại biểu của khoa học cụ thể và những người công tác thực hành nắm phương
pháp biện chứng như thế nào trong nghiên cứu khoa học và trong hoạt động
cải tạo sự vật, phương pháp ấy góp phần hình thành kiểu tư duy biện chứng ở
những con người xô viết như thế nào” [104].
Các công trình đã khẳng định phép biện chứng duy vật với tính cách là
một phương pháp thật sự khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phép biện chứng duy vật có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu về chủ
nghĩa đế quốc, vạch ra chiến lược, sách lược đấu tranh cách mạng của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Những công trình khoa học tiêu biểu ở trong nước liên quan đến
phương pháp luận duy vật biện chứng
Đổi mới là yêu cầu sống còn với dân tộc ta. Sự nghiệp đổi mới phải lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Trong đó, việc
vận dụng sáng tạo phương pháp luận duy vật biện chứng để giải quyết những
vấn đề thực tiễn đang đặt ra là chìa khóa của sự thành công. Đây là một trong
những nội dung nổi bật được các nhà khoa học trong nước tập trung khai thác.
Chính vì vậy, trước và sau đổi mới có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn
đề này. Tiêu biểu: Dương Phú Hiệp, Quán triệt tư duy biện chứng duy vật và


14
nội dung quan trọng của đổi mới tư duy [40]; Tô Duy Hợp, Phương pháp tư
duy - Vấn đề kế thừa và đổi mới [49]; Trần Duy Hương, tư duy độc lập và
sáng tạo theo định hướng đúng - Một nhân tố quyết định của sự nghiệp đổi
mới [50]; Hội nghị bàn tròn về đổi mới tư duy (Tạp chí Cộng sản, số 10,
12/1987; số 8, 9/1988); Lê Hữu Nghĩa, Một số căn bệnh trong phương pháp
tư duy của cán bộ ta [83]; Lê Linh, Cần có phương pháp tư duy khoa học, đề
cao tự phê bình, nói đi đôi với làm [64], v.v.
Trong tác phẩm: Một số vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên

cứu thời kỳ quá độ ở nước ta do Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện
Triết học, [126]. Cuốn sách là tập hợp các bài viết tại cuộc hội thảo cùng tên
do Viện Triết học tổ chức vào tháng 3 và tháng 5 năm 1983. Các tác giả
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho mỗi quốc gia, dân tộc
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, nắm vững phép biện chứng duy vật là cơ
sở để phân tích thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong công trình Một số vấn đề phương pháp luận triết học Mác Lênin trong hoạt động quân sự [82], các tác giả đã trình bày vai trò to lớn của
triết học Mác - Lênin với người cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược. Trong đó
khẳng định người cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược phải nắm vững cốt lõi nội
dung của triết học Mác - Lênin là phương pháp duy vật biện chứng để vận
dụng một cách tự giác vào quá trình tư duy quân sự.
Học viện Quốc phòng, Một số vấn đề phương pháp luận quân sự, Đinh
Tích Quân chủ biên, 2 tập, [94]. Các tác giả khẳng định: “Thực tế lịch sử
chứng minh rằng giữa tư duy triết học và tư duy quân sự có mối liên hệ chặt
chẽ. Tư duy của các nhà quân sự lỗi lạc ở mỗi thời kỳ dù trực tiếp hay gián
tiếp, tự phát hay tự giác đều gắn với một nền triết học nhất định và chứa đựng
nhiều yếu tố duy vật biện chứng đúng đắn. Tri thức triết học đóng vai trò là
cơ sở thế giới quan, phương pháp luận chung nhất đối với tri thức quân sự.


15
Trong đó, triết học Mác - Lênin chỉ ra những vấn đề “có tính nguyên tắc định
hướng cho tư duy quân sự, nói rộng hơn là định hướng cho toàn bộ quá trình
nhận thức quân sự. Triết học Mác - Lênin cung cấp hệ phương pháp nhận
thức cho nhận thức quân sự. Đó là những phương pháp chung nhất của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như khách quan, toàn diện, lịch
sử cụ thể, phát triển, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn” [94].
Các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Tô Duy Hợp, Lê Hữu Tầng (chủ biên)
trong tác phẩm Vai trò của phương pháp luận triết học Mác - Lênin đối với sự
phát triển của khoa học tự nhiên [12], đã khẳng định: chủ nghĩa duy tâm và

phương pháp siêu hình mâu thuẫn với tinh thần của khoa học tự nhiên. Đồng
thời khẳng định chủ nghĩa duy vật biện chứng là phương pháp luận duy nhất
đúng đắn của khoa học tự nhiên hiện đại. Triết học duy vật biện chứng tìm thấy
ở khoa học tự nhiên một trong những cơ sở khoa học vững chắc của mình, còn
khoa học tự nhiên tìm thấy trong triết học duy vật biện chứng thế giới quan
đúng đắn và phương pháp luận sắc bén để đi sâu nghiên cứu giới tự nhiên.
Các tác giả nhấn mạnh: “Nắm được phương pháp biện chứng tức là
phương pháp nắm sự vật và phản ánh sự vật trong tư tưởng, chủ yếu là trong
sự liên hệ, ràng buộc, vận động, phát triển và tiêu vong của sự vật, nhà khoa
học sẽ có một công cụ hiệu nghiệm để nghiên cứu bất kỳ một lĩnh vực khoa
học nào và ngược lại trong bất kỳ lĩnh vực khoa học nào người nghiên cứu
muốn đạt tới chân lý thì cũng phải áp dụng phương pháp biện chứng. Nhà
nghiên cứu phải tuân theo phương pháp đó không phải vì bị ai bắt buộc mà
khách thể nghiên cứu đòi hỏi như thế: khách thể đó chỉ bộc lộ bản chất của
mình cho người nào trong quá trình nghiên cứu sử dụng phương pháp được
xây dựng trên cơ sở các quy luật khách quan” [12].
Trong tiến trình phát triển của khoa học tự nhiên, cũng như trong cuộc
đấu tranh chống những quan điểm tư sản xâm nhập vào khoa học tự nhiên,


16
triết học Mác - Lênin luôn phát huy vai trò thế giới quan, phương pháp luận
đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên, góp phần giải quyết nhiều vấn đề
phức tạp do sự tiến bộ của khoa học đề ra, nhất là trong những bước chuyển
biến cách mạng của khoa học tự nhiên.
Theo các tác giả: “Như mọi người đều biết, trước đây trong vật lý học
cổ điển, các khái niệm “hạt” và “sóng” bị tách rời nhau và bị đem đối lập với
nhau, loại trừ nhau. Vậy làm thế nào kết hợp được hai khía cạnh đó lại với
nhau trong cùng một khách thể… Nhiều nhà khoa học trước đây đã từng đau
đầu trước vấn đề này. Vì không nắm được phép biện chứng, không am hiểu

quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập cho nên có những nhà
khoa học chỉ nhấn mạnh đến thuộc tính hạt của các hạt vi mô, cố gắng quy
thuộc tính sóng vào thuộc tính hạt. Những cách giải thích như thế không phù
hợp với thực nghiệm và không cho câu trả lời đúng đắn về sự kết hợp những
mặt đối lập trong cùng một khách thể” [12].
Chính vì thế mà không phải ngẫu nhiên phép biện chứng duy vật
ngày càng chinh phục trái tim và khối óc của nhiều nhà khoa học trên thế
giới. Họ tìm đến triết học Mác - Lênin không chỉ vì tình cảm mà còn vì lý
trí. Những quy luật của triết học Mác - Lênin là những quy luật chung nhất
của các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy nên nó đã vạch ra con đường
tổng quát để đi đến chân lý khách quan mà mọi tư duy khoa học không thể
không vận dụng nó, không thể không chịu ảnh hưởng của nó dù tự giác hay
không tự giác, cho nên nó đóng vai trò phương pháp luận phổ biến đối với
khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng.
Phép biện chứng duy vật tuyệt đối cần thiết cho nghiên cứu khoa học tự
nhiên. Song, nói như thế không có nghĩa là phép biện chứng duy vật quyết
định tất cả, hễ bất cứ ai thừa nhận phép biện chứng hoặc có trong tay phép
biện chứng cũng tự động dẫn đến những kết quả nghiên cứu mọi vấn đề


17
chuyên môn của mình. Bởi vì, phép biện chứng duy vật không làm nhiệm vụ
thay thế cho các nghiên cứu khoa học cụ thể. Phép biện chứng duy vật và các
phương pháp khái quát, các phương pháp riêng lẻ của khoa học tự nhiên
không thể tách rời nhau. Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau như quan
hệ giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái riêng lẻ.
Qua nghiên cứu, các tác giả cho rằng: “Phép biện chứng duy vật đã cố
gắng vạch ra con đường tổng quát để đi đến chân lý khách quan mà mọi tư
duy khoa học không thể không vận dụng nó, không thể không chịu ảnh hưởng
của nó dù tự giác hay không tự giác, cho nên nó đóng vai trò phương pháp

luận phổ biến đối với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng. Các
nguyên lý, quy luật của các ngành khoa học riêng lẻ nhất là của khoa học liên
ngành chỉ phản ánh những mặt nhất định, nhiều quy luật, nguyên lý của chúng
có tác dụng chỉ đạo nhận thức về một lớp đối tượng nhất định cho nên chúng
không thể đóng vai trò phương pháp luận phổ biến mà chỉ có ý nghĩa phương
pháp luận đối với một cụm ngành khoa học nào đó. Còn các thủ thuật, biện
pháp, những phương pháp riêng lẻ chỉ thích ứng với một ngành khoa học nhất
định thì không mang ý nghĩa phương pháp luận” [12].
Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn trong tác phẩm Phương pháp luận duy vật
biện chứng với việc học, dạy, nghiên cứu toán [119], đã nêu lên tầm quan
trọng của việc vận dụng phương pháp duy vật biện chứng trong nghiên cứu
toán. Theo tác giả, đối với những người chưa hiểu biết sâu sắc về triết học
duy vật biện chứng sẽ cảm thấy đây là môn học có tính chất lý luận cao xa,
chỉ ứng dụng vào những vấn đề chính trị lớn, những phát minh khoa học lớn,
còn việc ứng dụng vào công việc thân thiết hàng ngày của họ là học, dạy và
nghiên cứu khoa học thì hầu như chẳng thấy đâu. Từ sự vận dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng vào nghiên cứu toán học, tác giả khẳng định để
đi đến cái mới trong toán học, phải kết hợp tư duy logic và tư duy biện chứng.


18
Trong việc phát hiện vấn đề và định hướng cho cách giải quyết vấn đề thì tư
duy biện chứng đóng vai trò chủ đạo. “Rèn luyện tư duy biện chứng hay
nói rộng hơn thế giới quan duy vật biện chứng rất khác với cung cấp
kiến thức. Thế giới quan đó sẽ hình thành theo kiểu “mưa phùn thấm
đất” hoặc “lắng đọng phù sa”. Hạt mưa phùn hay hạt phù sa cực nhỏ
nhưng nếu tích lũy liên tục, lâu dài thì sẽ làm nên chuyện “thấm đất” hay
“bồi đắp bãi phù sa”. Lúc đầu có thể còn khó khăn, nhưng học xong phải
vận dụng, dần sẽ thành thạo, sẽ hứng thú và cảm thấy sức mạnh của thế
giới quan duy vật biện chứng trong việc sáng tạo toán học” [119].

Tác giả Trần Xuân Sầm (chủ biên) trong công trình Tìm hiểu phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học qua một số tác phẩm kinh
điển mác xít [103], đã khẳng định những công trình nghiên cứu của các nhà
kinh điển đã đóng góp cho nhân loại một kho tàng kiến thức đồ sộ, mà một
trong những đóng góp quan trọng đó là phương pháp luận nghiên cứu khoa
học mác xít. Cho đến nay phương pháp luận mác xít vẫn được xem là phương
pháp luận khoa học nhất vì nó có thể áp dụng vào nghiên cứu không chỉ trong
lĩnh vực tự nhiên mà cả trong xã hội và tư duy.
Theo V.I.Lênin, phương pháp luận thực sự khoa học đó là phép biện
chứng duy vật. Nhà khoa học phải nắm vững phép biện chứng duy vật, nắm
lấy triết học duy vật biện chứng bởi vì đó là triết học duy nhất khoa học và
cũng là phương pháp tư duy triệt để nhất. Tất nhiên không phải nhà khoa học
nào cũng nắm chắc triết học duy vật biện chứng, hơn nữa không phải cứ nắm
lấy triết học duy vật biện chứng là tự nhiên có phát minh khoa học. Bản chất
của con đường nghiên cứu khoa học là quanh co, khúc khuỷu chứ không
thẳng tắp và bằng phẳng. Nhưng nó sẽ bớt quanh co, khúc khuỷu đi nhiều nếu
như nhà khoa học thường xuyên và tự giác - chứ không phải tự phát như
nhiều nhà khoa học đã thấy trong lịch sử phát triển khoa học, dùng phép biện


19
chứng duy vật làm cơ sở phương pháp luận cho quá trình nghiên cứu của
mình. Theo tác giả: “Trong việc tổng kết những thành quả đạt được của khoa
học tự nhiên, tư duy lý luận có vai trò hết sức to lớn. Theo Ăngghen, để tổng
kết thì phương pháp kinh nghiệm trở nên bất lực, chỉ có tư duy lý luận mới có
thể giúp ích được. Nhờ có tư duy lý luận mà triết học đã có những nhận thức
đi trước khoa học tự nhiên hàng trăm năm” [103].
Giáo sư Trần Nhâm trong công trình Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi
mới [85] đã chỉ rõ: chủ nghĩa Mác - Lênin đã đem lại cho chúng ta nền tảng tư
tưởng vững chắc, những điểm tựa lý luận, phương pháp luận vô cùng phong

phú và sâu sắc, giúp chúng ta nâng cao tầm tư tưởng, tầm trí tuệ, tư duy độc
lập sáng tạo, tìm ra những con đường và giải pháp đúng để xử lý các vấn đề
do cuộc sống đặt ra. “Tình hình trong nước và quốc tế ngày nay đặt ra cho
chúng ta yêu cầu cấp bách là không những phải nắm vững và vận dụng đúng
đắn chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn phải bảo vệ và
phát triển học thuyết khoa học và cách mạng ấy lên một tầm cao mới” [85].
Trong khi học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo khoa học Mác - Lênin,
cần phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và phương pháp luận
của chính bản thân khoa học ấy.
Theo tác giả, phương pháp biện chứng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
học thuyết Mác - Lênin với tư cách là một chỉnh thể thống nhất không thể
chia cắt. Nó là linh hồn sống toát lên từ mỗi bộ phận, mỗi nguyên lý, mỗi luận
điểm, mà ở đó tất cả đều thể hiện nguyên tắc lý luận thống nhất với thực tiễn.
Chính vì thế, để hiểu đúng chủ nghĩa Mác - Lênin, điều quan trọng hơn là
phải hiểu sâu, nắm chắc phương pháp biện chứng và năng lực xử lý vấn đề do
cuộc sống đặt ra. Như thế thì dù cho từng luận điểm cụ thể của chủ nghĩa Mác
- Lênin có thể bị lạc hậu so với thực tiễn do điều kiện lịch sử cụ thể đã vượt
qua, nhưng tinh thần biện chứng của nó thì vẫn sống mãi với thời gian. Chủ


20
nghĩa Mác - Lênin luôn là học thuyết mở và không ngừng phát triển chính là
nhờ sự thống nhất biện chứng, sự gắn bó hữu cơ giữa phương pháp và lý luận.
Chính vì vậy, nó mới xứng đáng giữ vai trò nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động của các đảng cộng sản.
Tác giả nhấn mạnh: “Hình thành tư duy mới đối với chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là trở về cội nguồn sáng tạo, với tư duy
khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh. Ngọn đuốc của
tinh thần sáng tạo không ngừng đó dẫn dắt chúng ta bước vào thế kỷ 21 với
một quyết tâm không gì lay chuyển nổi, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội trên cả đất nước ta”.

Trong công trình Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy
triết học [113] do tác giả Trần Thành chủ biên, tập hợp các bài viết của các tác
giả nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Viện Triết học. Trong đó, các tác giả đã nêu
lên vai trò to lớn của triết học Mác - Lênin và phương pháp luận Mác - Lênin
trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Tiêu biểu, GS.TS Phạm Ngọc Quang với
bài viết “Một trọng điểm nghiên cứu giảng dạy triết học: làm rõ ý nghĩa phương
pháp luận”. Bài viết khẳng định: “Khi nhận xét toàn bộ thư từ trao đổi giữa
C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng cái tinh túy nhất, sợi chỉ đỏ xuyên
suốt những bức thư đó là phép biện chứng cách mạng của chủ nghĩa Mác” [113].
Ngoài ra, xung quanh vấn đề này còn có các công trình tiêu biểu khác
như: Phạm Như Cương và Iu.V.Xatrơcôp đồng chủ biên tác phẩm Triết học Khoa học tự nhiên - Cách mạng khoa học kỹ thuật [16]; Phạm Như Cương
với tác phẩm Đổi mới phong cách tư duy [15]; Ngô Đình Xây với công trình
Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận: Một đòi hỏi bức xúc hiện nay của đất nước
và thời đại [140]; Trần Trọng Tân với công trình Về phương pháp nhận thức
khoa học [106]; Trần Túy với công trình Triết học với tư cách là khoa học về
phương pháp luận của y học [125]; v.v..


21
Nghiên cứu về phương pháp luận duy vật biện chứng và vận dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng có rất nhiều bài viết của các tác giả trên
các tạp chí có uy tín. Tiêu biểu có Dương Phú Hiệp với bài Quán triệt tư duy
biện chứng duy vật và nội dung quan trọng của đổi mới hiện nay [40]. Trần
Khắc Việt với bài Phương pháp luận tiếp cận vấn đề dân chủ trong xã hội ta
[135]; Phạm Văn Đức với bài Về vai trò của triết học trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta [32]; Lê Quang Vũ, Thế giới quan Mác Lênin trong đời sống tinh thần của nhân dân ta [139]; Lê Hữu Tầng, Triết
học Mác - Lênin và chức năng phương pháp luận của nó trong hoạt động
nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn [109]; v.v..
Trong đó, các tác giả đều thống nhất chỉ ra rằng, các nguyên lý và quy
luật của phép biện chứng duy vật giúp con người khi bắt tay vào nghiên cứu

và hoạt động cải biến sự vật bao giờ cũng có được một lập trường xuất phát
nhất định. Lập trường đó giúp cho chủ thể hành động thấy trước được phương
hướng vận động chung của đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản
mà việc nghiên cứu hay hoạt động cải biến sự vật phải trải qua, nghĩa là giúp
cho con người xác định về đại thể con đường cần đi, có được phương hướng
đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề, tránh được những lầm lạc hay mò
mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng chịt hết sức phức tạp mà không
có tư tưởng dẫn đường.
Xuất phát từ một lập trường triết học, nhất định con người sẽ đi đến chỗ
lựa chọn một phương hướng giải quyết vấn đề theo một cách thức nhất định
và xuất phát từ những lập trường triết học khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ
lựa chọn những phương hướng và cách thức giải quyết vấn đề khác nhau.
Điều đó có nghĩa là chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học
nào đấy sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận hay không chấp nhận một thế
giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới mà còn là sự chấp
nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hành động.


22
Tác giả Chu Văn Cấp trong công trình Phương pháp luận nghiên
cứu thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [10] đã
khẳng định: phương pháp luận khoa học cho vấn đề thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa chủ yếu và trước hết là phương pháp
biện chứng duy vật và quan điểm duy vật lịch sử - học thuyết tổng quát
về sự phát triển, nó xem xét các sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ, vận
động, phát triển theo quy luật khách quan vốn có của nó: “Tất cả hệ
thống các nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng nhằm diễn
tả và lý giải sự phát triển đều là cơ sở phương pháp luận khoa học để
xem xét, nhận thức thể chế kinh tế, thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa” [10].

3. Những công trình khoa học tiêu biểu ở trong nước về chính ủy và
bồi dưỡng phẩm chất, năng lực của đội ngũ chính ủy Quân đội nhân dân
Việt Nam
Khi bàn về người chính ủy, chính trị viên trong quân đội đã có nhiều công
trình nghiên cứu chuyên sâu về phẩm chất, năng lực của đội ngũ này. Tiêu biểu
có các công trình như: Rèn luyện trở thành người chính trị viên ưu tú của quân
đội [35]; Phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ người chính ủy trong lực
lượng vũ trang nhân dân [36]. Trong đó, các tác giả đã phân tích những phẩm
chất cần có của chính ủy trên các mặt đạo đức, trình độ, năng lực công tác và tác
phong lãnh đạo của họ. Ông cho rằng: đạo đức của chính ủy, chính trị viên là
đạo đức của người đảng viên ưu tú của Đảng. Chức trách cơ bản của chính ủy,
chính trị viên là hướng dẫn mọi người trong đơn vị làm cách mạng, là bồi dưỡng
con người về đạo đức. Người chính ủy, chính trị viên muốn hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao phó thì trước tiên phải là tấm gương sáng về đạo đức cách
mạng. Thiếu đạo đức thì không thể làm được nhiệm vụ của người đảng viên,
càng không thể làm được nhiệm vụ của người chính trị viên.


23
Đại tướng Chu Huy Mân chủ biên công trình Người chính ủy Quân đội
nhân dân Việt Nam [72]. Cuốn sách tập hợp những bài viết tâm huyết của các
tướng lĩnh lão thành - thế hệ đã làm nên những chiến công hiển hách trong
lịch sử chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Các tác giả đã khẳng định tầm
quan trọng của việc giữ vững nguyên tắc “Đảng lãnh đạo quân đội tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt”, và, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện chế
độ chính ủy, chính trị viên trong quân đội. Đây là vấn đề có ý nghĩa to lớn
nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Do đó, đặt ra yêu cầu
cao về phẩm chất, năng lực đối với đội ngũ chính ủy, chính trị viên: “Là
người tiêu biểu về phẩm chất chính trị, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với
Đảng và nhân dân, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần triệt để cách

mạng, có thái độ trung thực, thật thà đối với Đảng; mẫu mực về đạo đức, lối
sống, có tính kỷ luật; là trung tâm đoàn kết và có tín nhiệm cao trong cấp ủy,
tổ chức đảng và đơn vị; có kiến thức, năng lực toàn diện, tiến hành tốt công
tác đảng, công tác chính trị; có tính đảng, tính nguyên tắc cao, có tác phong
dân chủ, sâu sát thực tế, nói đi đôi với làm. Trong quan hệ với cấp dưới, với
bộ đội, người chính ủy, chính trị viên thân thiết như một người chị, công bình
như một người anh, hiểu biết như một người bạn” [72].
Trung tướng Phạm Hồng Cư có công trình Kinh nghiệm công tác chính
ủy, chính trị viên [14]. Cuốn sách đã nêu lên nguồn gốc chế độ chính ủy.
Đồng thời, nêu lên những kinh nghiệm quý trong hoạt động của chính ủy,
chính trị viên; đặc biệt, nêu lên những phẩm chất, năng lực, tác phong công
tác của chính ủy, chính trị viên.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung
ương), trực tiếp là Tổng cục Chính trị, Học viện Chính trị đã biên soạn các tài
liệu quý về chính ủy, chính trị viên: Trách nhiệm chính trị. Nội dung và phương
pháp công tác của người chính ủy (chính trị viên) trong lực lượng vũ trang nhân


24
dân, Học viện Chính trị - 1971; Những yêu cầu cơ bản về đạo đức, năng lực và
phong cách tác phong công tác của chính ủy (chính trị viên) trong lực lượng vũ
trang nhân dân Việt Nam, Học viện Chính trị, 1972. Các tài liệu này đã đưa ra
hệ thống các yêu cầu cơ bản, toàn diện về nhân cách chính ủy, chính trị viên làm
cơ sở xây dựng mục tiêu, mô hình đào tạo đội ngũ chính ủy, chính trị viên đáp
ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước
cũng như trong các giai đoạn tiếp theo.
Trong cuốn Chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân
Việt Nam [129], các tác giả đã làm rõ những vấn đề cơ bản về chế độ chính ủy,
chính trị viên trong quân đội; sự hình thành và phát triển chế độ chính ủy,
chính trị viên trong quân đội từ ngày thành lập đến nay; khái quát những bài

học kinh nghiệm thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong quân đội ta.
Trên cơ sở Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị khóa IX, các tác giả đã xác định yêu
cầu về phẩm chất, năng lực và phương pháp tác phong công tác của chính ủy,
chính trị viên. Chính ủy, chính trị viên phải là người tiêu biểu về phẩm chất
chính trị; mẫu mực về đạo đức, lối sống; gương mẫu về tính tổ chức, tính kỷ
luật, là trung tâm đoàn kết, có tín nhiệm cao trong cấp ủy, tổ chức đảng và toàn
đơn vị; có trình độ năng lực toàn diện, giỏi về công tác đảng, công tác chính trị;
có phương pháp tác phong công tác khoa học, dân chủ, quần chúng, luôn nắm
chắc và giữ vững nguyên tắc đảng, có tính chiến đấu cao, sâu sát thực tiễn, tỉ
mỉ, thận trọng, quyết đoán...
Trong cuốn sách Chính ủy, chính trị viên trong xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam về chính trị [130], đã tập hợp các bài viết của các nhà
khoa học nhằm làm rõ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta về chế độ chính ủy, chính trị viên; kinh
nghiệm thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ và trong Hồng quân Liên xô, Quân Giải phóng nhân dân
Trung Quốc. Cuốn sách đã đề cập đến những yêu cầu cơ bản về phẩm chất,
năng lực của chính ủy, chính trị viên.


25
Các tác giả đã khẳng định: “Hệ thống phẩm chất nhân cách chủ yếu của
nhân cách chính ủy, chính trị viên trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
theo quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm những thành tố
chủ yếu là: phẩm chất về chính trị; phẩm chất đạo đức; năng lực tổ chức thực
hiện chức trách nhiệm vụ; và phương pháp, tác phong công tác” [130].
Trong công trình “Nâng cao chất lượng đào tạo chính ủy, chính trị
viên trong thời kỳ mới” [41] đã góp phần tổng kết kinh nghiệm đào tạo, bồi
dưỡng chính ủy, chính trị viên sau hai năm thực hiện Nghị quyết 51 của Bộ
Chính trị, Nghị quyết 513 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy

Trung ương); đề xuất những chủ trương, biện pháp mới nâng cao chất lượng
đào tạo chính ủy, chính trị viên. Các bài viết đã khẳng định mô hình, mục tiêu
đào tạo chính ủy trung đoàn bao gồm các yếu tố cấu thành: năng lực trí tuệ,
phẩm chất tư duy, nhân tố chính trị tinh thần, đạo đức, tác phong.
Trong các công trình như: Xây dựng phong cách làm việc của chính ủy
trung đoàn bộ binh trong quân đội hiện nay [114]; Vai trò của xã hội học
trong xây dựng nhân cách người chính ủy Quân đội nhân dân Việt Nam [19].
Trên cơ sở kế thừa khái niệm nhân cách người chính ủy Quân đội nhân dân
Việt Nam, các tác giả đã xác định các yếu tố cấu thành nhân cách người chính
ủy bao gồm: Phẩm chất đạo đức, chính trị; năng lực tổ chức, thực hiện nhiệm
vụ; phương pháp, tác phong công tác. Hệ thống các yếu tố này là cơ sở để
chính ủy hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình.
Trong công trình “Xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong
quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [88], tác giả Nguyễn
Quang Phát khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo
Quân đội nhân dân Việt Nam là một tất yếu khách quan, là nguyên tắc cơ
bản, quyết định nhất đối với sự nghiệp xây dựng quân đội kiểu mới của
giai cấp công nhân Việt Nam.


26
Thực tiễn xây dựng và chiến đấu của quân đội ta đã khẳng định và
chứng minh ý nghĩa to lớn và giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên. Người không chỉ chú trọng việc
xác định vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ này mà còn đặc biệt quan tâm đến việc
xác định những yêu cầu về phẩm chất, năng lực cần phải có của chính ủy,
chính trị viên tạo thành một hình mẫu hoàn chỉnh, coi đó là những chuẩn mực
định hướng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng; là căn cứ để xem xét, đánh giá
bố trí sử dụng cán bộ; đồng thời là tiêu chí để mỗi người rèn luyện phấn đấu.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính ủy, chính trị viên phải là người thật sự tiêu

biểu về đạo đức cách mạng. Có năng lực toàn diện, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo,
chỉ huy mọi mặt ở đơn vị. Phải thật sự mẫu mực về phong cách, tác phong
công tác, lời nói đi đôi với việc làm.
4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố và những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu, giải quyết
4.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của công trình khoa học đã công
bố
Từ tổng quan các công trình khoa học liên quan gián tiếp và trực tiếp
đến nâng cao năng lực vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của
chính ủy trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay cho thấy, với
nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình nghiên cứu đã làm rõ nhiều
vấn đề cơ bản có giá trị về lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài của luận án.
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã tập trung làm rõ các quan niệm
về phương pháp luận, phương pháp luận duy vật biện chứng, đặc điểm của
phương pháp luận duy vật biện chứng; khẳng định phép biện chứng duy vật
với tính cách là một phương pháp khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin; phép biện chứng duy vật là phương pháp tư duy triệt để nhất, khoa học
nhất. Các công trình đã chỉ ra vai trò quan trọng của việc vận dụng và nâng


×