BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Nuôi trồng Thủy sản
Mã ngành: 62620301
NGUYỄN MINH TUẤN
THÀNH PHẦN LOÀI VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CỦA MỘT SỐ LOÀI CÁ KINH TẾ CỦA HAI HỌ CÁ
BỐNG GOBIIDAE VÀ ELEOTRIDAE PHÂN BỐ Ở
VÙNG VEN BIỂN TỈNH BẾN TRE
Cần Thơ, 2016
A
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Đắc Định
Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp
trường
Họp tại: ………………………………………………….
Vào lúc ….. giờ ….. ngày ….. tháng ….. năm …..
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần Thơ.
Thư viện Quốc gia Việt Nam.
B
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ LUẬN ÁN
1.1 Giới thiệu chung
Ở Đồng bằng Sông Cửu Long, các loài cá bống thuộc họ Gobiidae
và Eleotridae rất phong phú với 66 loài phân bố ở cả vùng nước ngọt và
nước lợ (Trần Đắc Định và ctv, 2013). Trong đó một số loài có giá trị
kinh tế cao và có tiềm năng phát triển thành đối tượng nuôi trong tương
lai như cá bống cát (Glossogobius giuris), cá bống dừa (Oxyeleotris
urophthalmus), cá bống sao (Boleophthalmus boddarti),… chúng phân
bố khá rộng từ vùng nội địa đến cửa sông (Murdy, 1989; Clayton, 1993),
trong môi trường nhiệt đới và cận nhiệt đới (Chotkowski et al., 1999,
Blaber et al., 2000). Vì thế một số loài cá bống hiện nay đang là đối
tượng nuôi và đánh bắt quan trọng như cá kèo vảy nhỏ, cá bống tượng,
cá bống cát, cá bống sao, cá bống dừa…. Trong đó cá bống sao
(Boleophthalmus boddarti (Pallas, 1770)) và cá bống cát (Glossogobius
aureus Akihito and Megugo, 1975) phân bố trong các hệ sinh thái cửa
sông và vùng ven biển và là một trong những đối tượng khai thác khá
quan trọng của người dân địa phương. Kích thước và khối lượng cá
không lớn, song là một trong các loài cá bống thơm ngon, được ưa
chuộng và có đóng góp đáng kể vào sản lượng khai thác.
Vùng ven biển tỉnh Bến Tre thuộc hạ lưu sông Tiền có bốn cửa
sông với diện tích bãi bồi rộng lớn. Các loài cá bống của hai họ Gobiidae
và Eleotridae được biết là có nhiều loài có giá trị kinh tế và có đặc điểm
phân bố rất phù hợp với môi trường bãi bồi ven biển. Tuy nhiên các
nghiên cứu về thành phần loài và đặc điểm sinh học của các loài cá này ở
vùng bãi bồi ven biển vùng ĐBSCL nói chung và ở Bến Tre nói riêng
cho đến nay vẫn còn hạn chế. Do đó nhằm đánh giá nguồn lợi nhóm cá
bống để có những nhận định khoa học về sự đa dạng thành phần loài và
đặc điểm sinh học của các loài cá kinh tế làm cơ sở cho việc phát triển
nghề nuôi và bảo vệ nguồn lợi của nhóm cá này. Với lý do trên, nghiên
cứu “Thành phần loài và đặc điểm sinh học của một số loài cá kinh
tế của hai họ cá bống Gobiidae và Eleotridae phân bố ở vùng ven
biển tỉnh Bến Tre” đã được thực hiện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát: xác định thành phần loài, đặc điểm sinh
học của một số loài thuộc họ cá bống (Gobiidae và Eleotridae) để làm cơ
sở cho quản lý nguồn lợi cũng như phát triển nuôi trong tương lai góp
phần thúc đẩy sự phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản ở ĐBSCL nói
chung và ở Bến Tre nói riêng.
1
- Mục tiêu cụ thể:
+ Xác định thành phần loài cá thuộc họ Gobiidae và Eleotridae
phân bố ở vùng ven biển tỉnh Bến Tre.
+ Xác định các đặc điểm sinh học dinh dưỡng, sinh trưởng và sinh
sản của cá bống cát (Glossogobius aureus Akihito and Megugo, 1975)
và bống sao (Boleophthalmus boddarti (Pallas, 1770)).
1.3 Nội dung nghiên cứu
- Điều tra tình trạng khai thác và giá trị kinh tế của các loài cá
thuộc họ Gobiidae và Eleotridae phân bố ở vùng ven biển tỉnh Bến Tre.
- Thu mẫu, phân tích, định danh các loài cá thuộc họ Gobiidae và
Eleotridae phân bố ở vùng ven biển tỉnh Bến Tre.
- Phân tích các đặc điểm sinh học của cá bống cát (G. aureus) và
cá bống sao (B. boddarti) bao gồm:
+ Đặc điểm hình thái của cơ quan tiêu hóa và phổ thức ăn.
+ Đặc điểm sinh trưởng: tương quan giữa chiều dài và khối lượng,
xác định phương trình tăng trưởng von Bertalanffy.
+ Đặc điểm sinh học sinh sản: giai đoạn thành thục sinh dục, tỷ lệ
đực/cái, hệ số thành thục (GSI), hệ số tích lũy năng lượng (HSI), hệ số điều
kiện (CF), sức sinh sản, mùa vụ sinh sản và chiều dài thành thục đầu tiên
(Lm).
1.4 Ý nghĩa của luận án
Luận án góp phần bổ sung kiến thức cơ bản về thành phần loài
của họ cá bống Gobiidae và Eleotridae phân bố ở vùng bãi bồi ven biển,
cập nhật tình trạng khai thác, giá trị kinh tế một số loài cá, cung cấp kết
quả nghiên cứu đặc điểm sinh học dinh dưỡng, sinh trưởng, sinh sản của
cá bống cát (G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti). Những kết luận về
thành phần loài và đặc điểm sinh học sẽ là cơ sở dữ liệu khoa học quan
trọng trong quản lý nguồn lợi và cho việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo,
sản xuất thức ăn để có thể thúc đẩy nghề nuôi cá bống cát, cá bống sao,
đa dạng hóa đối tượng nuôi và mô hình nuôi thủy sản, góp phần thúc đẩy
sự phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản ven biển.
1.5 Điểm mới của luận án
- Luận án đã xác định được thành phần loài cá thuộc họ Gobiidae
và Eleotridae phân bố ở vùng ven biển tỉnh Bến Tre gồm có 35 loài trong
đó có 28 loài thuộc họ Gobiidae (80%) và 7 loài thuộc họ Eleotridae
(20%).
- Luận án cũng đã xác định được 13 loài cá kinh tế thuộc họ
Gobbiidae và Eleotridae.
- Luận án đã cung cấp kết quả nghiên cứu một số đặc điểm sinh
2
học của cá bống cát (G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti) bao gồm:
+ Xác định đặc điểm hình thái của cơ quan tiêu hóa và phổ thức
ăn: Cá bống cát (G. aureus) có hình thái cơ quan tiêu hóa phù hợp với
loài cá dữ ăn động vật và phổ thức ăn có thành phần giáp xác và cá nhỏ
chiếm ưu thế (86,8%); ngược lại cá bống sao (B. boddarti) có hình thái
cơ quan tiêu hóa phù hợp với loài có tính ăn thực vật và phổ thức ăn có
thành phần tảo khuê chiếm ưu thế (87,84%).
+ Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh trưởng ghi nhận cá bống cát
tăng trưởng chiều dài hơn chiều rộng và chiều cao thân, cá bống sao tăng
trưởng đồng đẳng giữa chiều dài, chiều rộng và chiều cao thân. Kết quả
phân tích cũng cho thấy cá bống cát có L∞ = 300 mm; K = 0,77/năm và
t0 = -0,02 năm, cá bống sao có L∞ = 160 mm; K = 0,55/năm và t0 = -0,01
năm; qua đó đã xác định được quan hệ giữa chiều dài và tuổi của 2 loài
cá này.
+ Nghiên cứu đặc điểm sinh sản cho thấy cá bống cát và cá bống
sao sinh sản tập trung vào mùa mưa, sức sinh sản tuyệt đối của hai loài
khá cao trong đó sức sinh sản của cá bống cát lớn hơn cá bống sao. Xác
định được chiều dài thành thục đầu tiên của hai loài cá này là cơ sở cho
việc khuyến cáo ngư dân khai thác cá có kích thước lớn hơn chiều dài
thành thục đầu tiên để cá có thể sinh sản duy trì quần đàn.
Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Phương pháp nghiên cứu chung
3.1.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Các mẫu thu để thực hiện nghiên cứu này được tiến hành từ tháng
4/2012 đến tháng 3/2014 tại vùng ven biển tỉnh Bến Tre (Hạ lưu sông
Tiền). Khi thu mẫu cá kết hợp đo nhiệt độ, pH và độ mặn tại điểm thu
mẫu.
Địa điểm phân tích mẫu: tại hiện trường khu vực thu mẫu và phòng
thí nghiệm Nguồn lợi thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần
Thơ.
3.1.2 Phương tiện nghiên cứu
Ngư cụ đánh bắt: Cào sông, đáy, lọp, chài, vợt và một số ngư cụ
khác; Máy chụp ảnh, kính hiển vi, kính lúp, GPS (Global Positional
System); Cân điện tử, thước đo và bộ tiểu phẫu; Các dụng cụ đo nhiệt
độ, pH và độ mặn: Nhiệt kế, máy đo pH–506, khúc xạ kế TI–
SAT100(A); Formol thương mại, cồn 70% và các hóa chất cần thiết.
3.2 Nghiên cứu 1: Điều tra tình trạng khai thác các loài cá
thuộc họ Gobiidae và Eleotridae phân bố ở vùng ven biển tỉnh Bến
3
Tre.
3.2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Các nội dung điều tra
được tiến hành từ tháng 3/2012 đến tháng 4/2012 tại 3 huyện ven biển
tỉnh Bến Tre: Bình Đại (30 mẫu), Ba Tri (30 mẫu) và Thạnh Phú (30
mẫu).
3.2.2 Phương pháp thu số liệu: Số liệu được thu thập bằng
phương pháp phỏng vấn trực tiếp các ngư dân thông qua bảng câu hỏi đã
soạn sẵn và danh mục hình các loài cá bống theo Froese and Pauly
(2012).
3.2.3 Nội dung điều tra
- Các loài cá bống đang được khai thác;
- Loại ngư cụ khai thác; Kích cỡ cá khai thác (g/con);
- Sản lượng (kg/năm); Giá thành sản phẩm (đ/kg);
- Địa bàn, địa điểm khai thác;
- Thời điểm xuất hiện nhiều trong năm (tháng dương lịch);
- Thay đổi sản lượng khai thác so với 5 năm trước (±%). Lý do chủ
yếu của việc tăng lên hoặc giảm đi về sản lượng khai thác từng loài;
- Loài có tiềm năng phát triển thành đối tượng nuôi.
3.3 Nghiên cứu 2: Xác định thành phần loài cá thuộc họ
Gobiidae và Eleotridae.
3.3.1 Phương pháp thu và cố định mẫu
Thu mẫu
Mẫu cá được thu hàng tháng (từ tháng 4/2012 đến tháng 12/2013)
thu ngẫu nhiên bằng chài, vợt, cào sông, đáy… tại sông, bãi bồi và rừng
ngập mặn ở vùng ven biển tỉnh Bến Tre. Mẫu dùng cho định danh: 5-10
mẫu/loài (nếu loài xuất hiện với số lượng quá ít thì thu 2-3 mẫu). Xác
định thông tin tại vị trí thu mẫu: địa điểm, thủy vực, tọa độ kết hợp ghi
nhận các chỉ tiêu môi trường: nhiệt độ, pH, độ mặn.
Cố định mẫu
Mẫu sau khi thu được rửa ngay bằng nước ngọt để mẫu được
sạch. Sau đó, mẫu thu được ghi nhãn để đánh dấu, phân loại và chụp ảnh
tại khu vực thu mẫu. Mẫu được giữ trong formol 10% và đưa về phân
tích tiếp các chỉ tiêu hình thái tại phòng thí nghiệm Nguồn lợi thủy sản,
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Sau khi phân tích, mẫu cá
được bảo quản trong cồn 70% để lưu trữ.
3.3.2 Xác định các chỉ tiêu hình thái
Các chỉ tiêu hình thái được xác định dựa vào phương pháp của
Pravdin (1973). Định danh theo Froese and Pauly (2015).
3.4 Nghiên cứu 3: Xác định đặc điểm hình thái của cơ quan
4
tiêu hóa và phổ thức ăn của cá bống cát (G. aureus) và cá bống sao
(B. boddarti).
3.4.1 Phương pháp thu và cố định mẫu
Thời gian, địa điểm thu mẫu:
+ Cá bống cát: Nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 1 năm
2013 đến tháng 12 năm 2013 tại Thạnh Phú.
+ Cá bống sao: Nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 4 năm
2012 đến tháng 3 năm 2013 tại Ba Tri.
Số mẫu phân tích:
+ Cá bống cát: Số mẫu phân tích tương quan chiều dài ruột và
chiều dài chuẩn của cá là 411 cá thể, phân tích phổ thức ăn là 35 cá thể.
+ Cá bống sao: Số mẫu phân tích tương quan chiều dài ruột và
chiều dài chuẩn của cá là 436 cá thể, phân tích phổ thức ăn là 30 cá thể.
Mẫu cá được thu bằng lưới đáy (có kích thước mắt lưới phần đục
là 2a = 15mm) đối với cá bống cát, vợt và lưới đối với cá bống sao. Mẫu
cá phân tích phổ thức ăn sau khi thu được gây mê bằng nước đá sau đó
cố định ngay trong dung dịch formol 10%, chọn cá thể no và tiến hành
phân tích tại phòng thí nghiệm Nguồn lợi thủy sản, Khoa Thủy sản,
Trường Đại học Cần Thơ.
3.4.2 Phương pháp phân tích mẫu
3.4.2.1 Đặc điểm hình thái cấu tạo cơ quan tiêu hóa: Quan sát
cấu tạo răng, miệng, lược mang, đo chiều dài ruột và chiều dài tổng của
cá. Tính tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài tổng của cá (RLG)
theo Al-Hussainy (1949).
3.4.2.2 Phân tích phổ thức ăn của cá:
Cá bống cát có thành phần thức ăn là cá và giáp xác có kích thước
và khối lượng lớn nên nghiên cứu này sử dụng phương pháp tần số xuất
hiện kết hợp với phương pháp khối lượng.
Cá bống sao có thành phần thức ăn chủ yếu là tảo nên được phân
tích theo phương pháp tần số xuất hiện và phương pháp đếm điểm của
Biswas (1993).
3.5 Nghiên cứu 4: Đặc điểm sinh trưởng của cá bống cát
(G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti)
3.5.1 Xác định tương quan chiều dài và khối lượng
W = a*Lb (Jennings et al., 2001)
Trong đó: W: Khối lượng cơ thể cá (g);
L: Chiều dài tổng của cá (cm);
5
a: Hằng số tăng trưởng ban đầu;
b: Hệ số tăng trưởng.
3.5.2 Xác định phương trình tăng trưởng von Bertalanffy
Các tham số của phương trình tăng trưởng von-Bertalanffy (L, K,
to) của cá được xác định bằng số liệu tần suất chiều dài được thu trong 12
tháng, mỗi tháng thu mẫu một ngày. Sử dụng phần mềm FiSAT II
(Gayanilo et al., 2006) để xác định các tham số tăng trưởng trên. Từ các
tham số tăng trưởng L, K, to cho phép xác định mối quan hệ giữa tuổi
và chiều dài của cá theo phương trình: Lt = L (1-e-K (t-t0))
Trong đó: t: Tuổi tại thời điểm t, đơn vị là năm;
L∞: Chiều dài tối đa mà cá có khả năng đạt được;
t0: Tuổi lý thuyết tại đó cá có chiều dài bằng 0;
K: Hệ số tăng trưởng nói lên tốc độ cá thể đạt chiều dài
L∞, thứ nguyên là 1/năm.
* Hằng số tăng trưởng:
Φ’ = logK+2log L (Pauly và Munro, 1984).
* Tuổi thọ (tmax):
tmax = 3/K (Taylor, 1958):
3.6 Nghiên cứu 5: Xác định một số đặc điểm sinh học sinh sản
của cá bống cát (G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti)
- Tổng số mẫu quan sát: Cá bống cát: 607 cá thể; Cá bống sao: 559 cá
thể.
- Nhịp độ thu mẫu: Định kỳ 1 tháng thu mẫu một lần và thu 18
tháng.
Xác định các giai đoạn thành thục sinh dục
* Quan sát trực tiếp đặc điểm của tuyến sinh dục kết hợp với tiêu
bản mô học để xác định các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục dựa theo
thang 6 bậc của Nikolsky (1963).
* Tiêu bản mô học xác định sự thành thục của TSD được thực
hiện theo phương pháp mô học của Drury and Wallington (1980), Gabe
(1976). Quan sát và phân tích tiêu bản mô học theo Phạm Quốc Hùng và
ctv (2014).
Xác định tỷ lệ giới tính
Giải phẫu quan sát tuyến sinh dục để xác định giới tính. Xác định
số lượng cá đực và cá cái để xác định tỉ lệ giới tính.
Tỷ lệ giới tính = Số cá thể cái/Số cá thể đực
Xác định hệ số thành thục:
GSI (%) = (GW/W)*100
Trong đó: GW: Khối lượng tuyến sinh dục (g);
6
W: Khối lượng toàn thân cá (g).
Xác định hệ số tích luỹ năng lượng:
HSI (%) = (LW/W)*100
Trong đó: LW: Khối lượng gan cá (g);
W: Khối lượng toàn thân cá (g).
Hệ số điều kiện:
CF = W/Lb (King, 1995)
Trong đó: W: Khối lượng toàn thân cá (g);
L: Chiều dài tổng (cm);
b: hệ số tăng trưởng (số mũ trong phương trình tương
quan chiều dài – khối lượng: W=aLb của quần đàn cá
nghiên cứu);
Mùa vụ sinh sản
Dựa vào kết quả quan sát tỉ lệ các giai đoạn thành thục sinh dục, hệ
số thành thục (GSI), hệ số tích lũy năng lượng (HSI) và hệ số điều kiện
(CF) của các mẫu thu theo định kỳ để xác định mùa vụ sinh sản.
Xác định sức sinh sản
* Sức sinh sản tuyệt đối (F):
F = (n*G) /g
Trong đó: G: Khối lượng buồng trứng (g);
g: Khối lượng mẫu đại diện (g);
n: Số lượng trứng có trong mẫu đại diện.
* Sức sinh sản tương đối:
Xác định chiều dài thành thục đầu tiên (Lm)
Chiều dài thành thục đầu tiên là chiều dài tại đó 50% cá thể phát
triển đến giai đoạn thành thục (King, 2007):
P = 1/{1+exp[-r(L-Lm)]}
Trong đó: P: Tỉ lệ thành thục;
r: Hệ số tương quan;
L: Chiều dài trung bình của cá;
Lm: Chiều dài thành thục đầu tiên.
3.7 Xử lý số liệu
Dùng phần mềm Excel để tính toán các giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn, giá trị tối thiểu và tối đa, kiểm định χ2 (kiểm định tỉ lệ cá đực/cá
cái). Sử dụng phần mềm FiSAT II (FAO) để xác định các tham số tăng
trưởng của cá. Xác định chiều dài thành thục đầu tiên Lm bằng phần mềm
STATISTICA 8.0.
7
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Tình trạng khai thác các loài cá thuộc họ Gobiidae và
Eleotridae phân bố ở vùng ven biển tỉnh Bến Tre.
4.1.1 Các loài cá khai thác
Nghiên cứu đã tiến hành điều tra phỏng vấn tình trạng khai thác và
giá trị kinh tế của các loài cá thuộc họ Gobiidae và Eleotridae, ghi nhận
được 13 loài với 9 loài thuộc họ Gobiidae chiếm 69,2% và 4 loài thuộc
họ Eleotridae chiếm 30,8%.
Bảng 4.1: Các loài cá kinh tế họ Gobiidae và Eleotridae khai thác
được ở vùng ven biển tỉnh Bến Tre.
STT
I
1
2
3
4
II
5
6
7
8
9
10
11
12
13
TÊN KHOA HỌC
TÊN ĐỊA PHƯƠNG
Họ Eleotridae
Butis butis (Hamilton, 1822)
Eleotris melanosoma (Bleeker, 1853)
Oxyeleotris marmorata (Bleeker, 1852)
Oxyeleotris urophthalmus (Bleeker, 1851)
Họ Gobiidae
Họ cá bống đen
Cá bống trân
Cá bống trứng
Cá bống tượng
Cá bống dừa
Họ cá bống trắng
Acentrogobius viridipunctatus (Valenciennes, 1837)
Cá bống lá tre
Boleophthalmus boddarti (Pallas 1770)
Cá bống sao
Glossogobius aureus Akihito & Meguro, 1975
Cá bống cát
Oligolepis acutipennis (Valenciennes, 1837)
Cá bống xệ vảy to
Parapocryptes serperaster (Richardson, 1846)
Cá bống kèo vảy to
Periophthalmodon schlosseri (Pallas 1770)
Cá thòi lòi
Pseudapocryptes elongatus (Cuvier, 1816)
Cá bống kèo vảy nhỏ
Mugilogobius chulae (Smith, 1932)
Cá bống đối
Trypauchen vagina (Bloch & Schneider, 1801)
Cá bống đều
*Ghi chú: TP:Thạnh Phú; BT:Ba Tri; BĐ: Bình Đại.
TP
PHÂN BỐ
BT
BĐ
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
4.1.2 Tình trạng khai thác và giá trị kinh tế
Kết quả điều tra 90 đối tượng là ngư dân cho thấy các loài cá
thuộc họ Gobiidae và Eleotridae xuất hiện nhiều vào mùa mưa và tình
trạng khai thác, giá trị kinh tế của 13 loài cá này được ghi nhận ở bảng
4.2.
8
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
Bảng 4.2: Tình trạng khai thác và giá trị kinh tế của các loài cá.
Loài
Cá bống trân
Cá bống trứng
Cá bống tượng
Cá bống dừa
Cá bống lá tre
Cá bống sao
Cá bống cát
Cá bống xệ vảy to
Cá bống kèo vảy to
Cá thòi lòi
Cá bống kèo vảy
nhỏ
Cá bống đối
Cá bống đều
Khối lượng
(g/con)
Ave max
min
14,6
25
7,5
7,45
20
1
347
900
30
18,7
40
10
24,8
35
15
24,2
50
12
28,4
80
10
7,8
10
4
28
50
15
112
400
5
20,8
40 14,5
Chiều dài tổng
(mm)
ave max min
98,4
175
45
48,2
80
10
214
270 120
105
150
30
115
160
75
138
200 100
127
300
75
71
80
50
183
250 110
189
250 100
33,6
200
15
2
16,5
25
147
3
20
1
10
30
200
20
110
Sản lượng
(kg/năm/hộ)
ave
max
373 1.092
217
700
335
2500
361
1500
1071
2548
463
1700
809
4500
180
700
299
1000
375
1500
811
5000
250
265
300
576
min
20
2
10
5
50
2
10
10
2
1
20
200
35
Giá bán
(ngàn đồng/kg)
ave max min
34
60
12
48
110
15
237
400
80
58
80
20
25
40
13
78
110
30
61
100
30
32
60
20
80
135
50
85
135
30
100
135
65
170
24
250
35
Kết quả phỏng vấn ghi nhận ngư cụ được sử dụng để khai thác các
loài cá thuộc họ Gobiidae và Eleotridae là lưới đáy, lưới kéo, đăng mé,
ghe cào, chài, đục, vợt. Trong các ngư cụ này thì lưới đáy được sử dụng
khá phổ biến. Riêng đối với cá bống sao và thòi lòi thì ngư dân thường
sử dụng lưới chụp và vợt để khai thác. Điều này có thể là do tập tính
sống của hai loài này khá đặc biệt, chúng có cơ quan hô hấp phụ
(Nguyễn Bạch Loan, 2003) nên thường di chuyển trên bãi bùn thành
từng đàn (Macnae, 1968; Clayton and Vaughan, 1988).
Trong số các loài cá này thì cá bống tượng là loài có kích thước và
khối lượng lớn hơn các loài khác với khối lượng trung bình là 347 g và
khối lượng nặng nhất ghi nhận được lên đến 900 g và chiều dài thân
trung bình là 214 mm và tối đa là 270 mm. Cá bống cát, cá thòi lòi, cá
bống sao, cá bống kèo vảy nhỏ, cá bống kèo vảy to tuy có kích thước và
khối lượng trung bình nhỏ hơn cá bống tượng nhưng cũng thuộc loài cá
có kích thước lớn so với những loài ghi nhận được.
Kết quả này cho thấy cá bống tượng là loài có giá bán khá cao và
đây cũng là đối tượng đã được nuôi ở Bến Tre. Ngược lại cá bống lá tre
và cá bống đều có giá bán thấp. Cá bống cát và cá bống sao có giá bán
trung bình là 60.000 đồng/kg và 80.000 đồng/kg. Tuy giá bán không
cao như cá bống tượng nhưng sản lượng của hai loài này khá cao đặc
biệt là cá bống cát. Theo ngư dân ở địa phương cho rằng cá bống cát
(G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti) có tiềm năng phát triển thành
đối tượng nuôi trong tương lai vì nhu cầu thị trường cao. Đặc biệt là cá
bống cát cũng đã được người dân nuôi rãi rác trong các vuông tôm quảng
canh ở huyện Thạnh Phú. Tuy nhiên, năng suất không cao do con giống
được người dân thu từ tự nhiên mà ở ĐBSCL hiện nay có 3 loài cá bống
9
90
13
cát có hình thái rất giống nhau trong đó loài cá bống cát (G.
sparsipapillus) có kích thước tối đa nhỏ (chiều dài chuẩn tối đa đạt được
9,3 cm) (Trần Đắc Định và ctv, 2013). Vì thế việc nghiên cứu đặc điểm
sinh học sinh sản để làm cơ sở cho việc sản xuất giống đối với cá bống
cát (G. aureus) là cần thiết để người nuôi có được nguồn con giống đồng
nhất.
Qua kết quả phỏng vấn có đến 13 loài được khai thác và mua bán
ở thị trường địa phương. Qua đây cho thấy cá bống là nhóm cá có giá trị
trong đời sống của người dân, tuy nhiên sản lượng của các loài này đều
có hướng giảm so với 5 năm trước. Do đó nhu cầu phát triển nghề nuôi
đối với cá bống trong tương lai là cần thiết. Đã có 2 loài được phát triển
thành đối tượng nuôi là cá bống kèo (P. elongatus) và cá bống tượng
(O. marmorata). Đặc biệt cá bống cát (G. aureus) và cá bống sao
(B. boddarti) là 2 loài rất có tiềm năng để phát triển thành đối tượng nuôi
trong tương lai.
4.2 Một số chỉ tiêu môi trường và thành phần loài cá thuộc họ
Gobiidae và Eleotridae phân bố ở vùng ven biển tỉnh Bến Tre.
4.2.1 Một số chỉ tiêu môi trường nước
Trong thời gian 12 tháng khảo sát, nhiệt độ và độ pH của nước
biến động không lớn chỉ có độ mặn thay đổi. Độ mặn ở hai khu vực có
sự khác nhau giữa mùa khô và mùa mưa. Ở vùng mặn quanh năm, độ
mặn tăng dần từ tháng 12/2012 đến tháng 3/2013, cao nhất lên đến
28±1‰ và độ mặn giảm dần từ tháng 4/2012 đến tháng 11/2012, thấp
nhất là 8±2,7‰. Ở vùng nhiễm mặn theo mùa, độ mặn tăng dần từ tháng
1/2013 đến tháng 3/2013, cao nhất là 14,2±4‰ và độ mặn giảm dần từ
tháng 5/2012 đến tháng 12/2012 trong đó độ mặn từ tháng 8/2012 đến
tháng 12/2012 có giá trị trung bình gần bằng 0‰.
Sự khác biệt về độ mặn giữa hai mùa là do vào mùa khô nước mặn
xâm nhập sâu vào nội địa làm cho độ mặn tăng dần từ thời điểm đầu mùa
khô và đạt cao nhất vào những tháng cuối mùa khô. Sau đó, độ mặn sẽ
giảm dần khi mùa mưa bắt đầu, thêm vào đó, đây là mùa lũ nên nước
ngọt từ thượng nguồn đổ về, vì thế độ mặn sẽ thấp nhất vào những tháng
cuối mùa mưa. Kết quả này tương đối phù hợp với kết quả dự báo độ
mặn của trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre cùng thời điểm.
Với sự biến động về độ mặn theo thời gian như trên đã cho thấy
các thủy vực tự nhiên ở Bến Tre có sự thay đổi độ mặn theo chu kì trong
năm. Với các chỉ tiêu quan sát được cho thấy môi trường thủy sinh ở
vùng ven biển tỉnh Bến Tre rất đa dạng là điều kiện góp phần tạo nên sự
phong phú về nguồn lợi thủy sản, trong đó có nhóm cá bống.
10
4.2.2 Thành phần loài cá bống
Qua thời gian thu, phân tích và định danh loài, nghiên cứu đã xác
định được 35 loài cá thuộc 24 giống phân bố ở vùng ven biển tỉnh Bến
Tre.
Bảng 4.3: Thành phần loài cá bống họ Gobiidae và Eleotridae.
STT
TÊN KHOA HỌC
TÊN ĐỊA
PHƯƠNG
I
Họ Eleotridae
1
Bostrychus scalaris Larson, 2008
2
Butis butis (Hamilton, 1822)
3
Butis humeralis (Valenciennes, 1837)
4
Butis koilomatodon (Bleeker, 1849)
5
Eleotris melanosoma Bleeker, 1853
6
Oxyeleotris marmorata (Bleeker, 1852)
7
Oxyeleotris urophthalmus (Bleeker, 1851)
II
Họ Gobiidae
8
Acentrogobius canius (Valenciennes, 1837)
9
“Acentrogobius” globiceps (Hora, 1923)
10
Acentrogobius viridipunctatus (Valenciennes, 1837)
11
Amoya moloana (Herre, 1927)
12
Aulopareia unicolor (Valenciennes, 1837)
13
Boleophthalmus boddarti (Pallas 1770)
14
Brachygobius sabanus Inger, 1958
15
Caragobius urolepis (Bleeker, 1852)
16
Eugnathogobius microps Smith, 1931
17
Glossogobius aureus Akihito & Meguro, 1975
18
Glossogobius giuris (Halminton, 1822)
19
Glossogobius sparsipapillus Akihito & Meguro, 1976
20
Gobiopterus chuno (Hamilton, 1822)
21
Gobiopsis macrostoma Steindachner, 1861
22
Mugilogobius chulae (Smith, 1932)
23
Oligolepis acutipennis (Valenciennes, 1837)
24
Parapocryptes serperaster (Richardson, 1846)
25
Periophthalmodon schlosseri (Pallas, 1770)
26
Periophthalmodon septemradiatus (Hamilton, 1822)
27
Periophthalmus variabilis Eggert, 1935
28
Periophthalmus gracilis Eggert, 1935
29
Pseudapocryptes elongatus (Cuvier, 1816)
30
Pseudogobius yanamensis (Rao, 1971)
31
Redigobius chrysosoma (Bleeker, 1875)
32
Stenogobius mekongensis Watson, 1991
33
Stigmatogobius pleurostigma (Bleeker, 1849)
34
Taenioides gracilis (Valenciennes, 1837)
35
Trypauchen vagina (Bloch & Schneider, 1801)
*Ghi chú: S: Sông; BB: Bãi bồi; RNM: Rừng ngập mặn
Họ cá bống đen
Cá bống hoa
Cá bống trân
Cá bống trân
Cá bống lưng cao
Cá bống trứng
Cá bống tượng
Cá bống dừa
Họ cá bống trắng
Cá bống chấm
Cá bống
Cá bống lá tre
Cá bống
Cá bống đuôi chấm
Cá bống sao
Cá bống mắt tre
Cá kèo huyết
Cá bống dừa mắt nhỏ
Cá bống cát
Cá bống cát
Cá bống cát trắng
Cá bống
Cá bống râu
Cá bống đối
Cá bống xệ vảy to
Cá bống kèo vảy to
Cá thòi lòi
Cá thòi lòi
Cá thòi lòi chấm đen
Cá thòi lòi
Cá bống kèo vảy nhỏ
Cá bống
Cá bống đỏ
Cá bống mỡ
Cá bống mít
Cá lưỡi búa
Cá bống đều
HỆ SINH THÁI
RNM
S
BB
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
Với kết quả thu và phân tích được thì số loài cá thuộc họ Gobiidae
có 28 loài thuộc 20 giống (80%) gấp 4 lần số loài cá thuộc họ Eleotridae
có 7 loài thuộc 4 giống (20%). Các loài cá bống ở ven biển tỉnh Bến Tre
11
+
+
phân bố ở các hệ sinh thái sông, bãi bồi và rừng ngập mặn. Trong đó có
một số loài phân bố chủ yếu ở bãi bồi và rừng ngập mặn là cá bống sao
và cá thòi lòi.
4.2.3 Biến động thành phần loài theo mùa
Kết quả nghiên cứu ở mùa mưa ghi nhận được 35 loài (100% số
loài thu được), mùa khô ghi nhận được 22 loài (62,9% số loài thu được).
Điều này cho thấy, ở thời điểm mùa mưa thì số loài đa dạng hơn mùa
khô.
Nếu so sánh thành phần loài theo từng họ thì thấy rằng số lượng
các loài trong từng họ thu được ở mùa mưa cũng cao hơn mùa khô. Họ
Gobiidae có biến động nhiều hơn, giảm 12 loài và họ Eleotridae giảm 1
loài. Các loài được tìm thấy ở mùa mưa nhưng không tìm thấy ở mùa
khô như: B. scalaris, A. globiceps, A. viridipunctatus, A. unicolor, B.
sabanus, E. variegates, G. macrostoma, P. yanamensis, R. chrysosoma,
S. mekongensis, S. pleurostigma, T. gracilis, T. vagina. Các loài tìm thấy
ở mùa khô hầu như đều được tìm thấy ở mùa mưa và kết quả này có thể
là do vào mùa mưa lượng thức ăn dồi dào hơn, độ mặn của nước giảm
nên một số loài cá bống sống ở nước ngọt có thể di cư xuống khu vực
này để sinh sống và khi đến mùa khô chúng di cư trở lại vùng nước ngọt.
Điều này cũng phù hợp với kết quả phân tích số lượng loài xuất hiện
theo khu vực thu mẫu.
4.2.4 Biến động thành phần loài theo khu vực nghiên cứu
Ở vùng nhiễm mặn theo mùa thu được 31 loài (chiếm 88,6% số
loài thu được), vùng mặn quanh năm thu được 22 loài (chiếm 62,9% số
loài thu được). Kết quả này cho thấy vùng nhiễm mặn theo mùa có số
loài phong phú hơn vùng mặn quanh năm.
Nếu so sánh thành phần loài theo từng họ thì thấy rằng tỉ lệ các
loài trong từng họ thu được ở vùng nhiễm mặn theo mùa cũng phong phú
hơn vùng mặn quanh năm. Họ Gobiidae giảm 6 loài, họ Eleotridae giảm
3 loài. Điều này có thể là do vùng nhiễm mặn theo mùa có thời gian độ
mặn của nước gần như bằng 0‰, môi trường này sẽ phù hợp thêm với
một số loài khác mà vùng mặn quanh năm không có. Tuy nhiên cũng có
một số loài chỉ tìm thấy ở vùng mặn quanh năm, có thể là do các loài này
chỉ thích nghi với môi trường nước lợ, mặn nên không sống được ở vùng
nhiễm mặn theo mùa (Bảng 4.4).
12
Bảng 4.4: Các loài chỉ thu được ở vùng nhiễm mặn theo mùa hoặc
vùng mặn quanh năm
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
Tên khoa học
Bostrychus scalaris
Oxyeleotris marmorata
Oxyeleotris urophthalmus
Brachygobius sabanus
Eugnathogobius microps
Amoya moloana
Gobiopsis macrostoma
Mugilogobius chulae
Periophthalmodon septemradiatus
Pseudogobius yanamensis
Redigobius chrysosoma
Stenogobius mekongensis
Stigmatogobius pleurostigma
Periophthalmodon schlosseri
Periophthalmus variabilis
Periophthalmus gracilis
Trypauchen vagina
Tổng:
Tên địa phương
Cá bống hoa
Cá bống tượng
Cá bống dừa
Cá bống mắt tre
Cá bống dừa mắt nhỏ
Cá bống
Cá bống râu
Cá bống đối
Cá bống kèo vảy to
Cá bống
Cá bống đỏ
Cá bống mỡ
Cá bống mít
Cá thòi lòi
Cá thòi lòi
Cá thòi lòi
Cá bống đều
A
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
13
B
+
+
+
+
4
* Ghi chú: A: vùng nhiễm mặn theo mùa; B: vùng mặn quanh năm.
4.2.5 Biến động thành phần loài theo ngư cụ thu mẫu
Kết quả nghiên cứu cho thấy lưới đáy thu được 29 loài (82,9%
tổng số loài thu được), vợt thu được 22 loài (62,9% tổng số loài thu
được). Chài thu được 18 loài (51,4% tổng số loài thu được) và thấp nhất
là lưới kéo 15 loài (42,9% tổng số loài thu được). Lưới đáy tuy là ngư cụ
cố định nhưng có thể do ngư cụ này có diện tích thu mẫu lớn, thời gian
thu mẫu lâu và trong thời gian thu mẫu vận tốc nước chảy lớn nên nhiều
loài có thể bị cuốn trôi theo dòng nước vào lưới đáy. Vợt là ngư cụ có
hiệu quả đối với việc bắt các loài cá sống ở hang. Trong các loại ngư cụ
sử dụng thì lưới kéo có số loài thu được ít nhất. Điều này có thể là do tập
tính sống của đa số loài cá bống là ở trong hang và ở đáy.
Tóm lại biến động nhiệt độ và pH môi trường không lớn, chỉ có
độ mặn có biến động lớn (0‰-28‰). Điều này cho thấy đa số cá bống là
các loài rộng muối. Kết quả thu được 35 loài cá thuộc 24 giống phân bố
ở vùng ven biển tỉnh Bến Tre. Trong đó họ Gobiidae có 28 loài thuộc 20
giống chiếm 80%, họ Eleotridae có 7 loài thuộc 4 giống chiếm 20%. Số
loài được tìm thấy ở mùa mưa đa dạng hơn mùa khô, vùng nhiễm mặn
theo mùa có số loài nhiều hơn vùng mặn quanh năm, lưới đáy và vợt là 2
loại ngư cụ thu được nhiều loài cá bống hơn chài và lưới kéo.
4.3 Đặc điểm hình thái của cơ quan tiêu hóa và phổ thức ăn
của cá bống cát (G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti)
13
4.3.1 Đặc điểm hình thái cơ quan tiêu hóa
4.3.1.1 Cá bống cát (G. aureus)
Cá bống cát có hàm dưới nhô ra và dài hơn hàm trên, thuộc nhóm
cá miệng trên, miệng khá rộng. Cá có hai hàng răng trên mỗi hàm, cả hai
hàng răng bên trong và bên ngoài đều có răng lớn và nhọn. Tuy nhiên,
hàng răng ngoài lớn và nhọn hơn so với hàng trong. Có răng hầu nhỏ,
nhọn và xếp thành 2 đám hình bầu dục ở vùng hầu. Lưỡi của cá rất phát
triển, phần tự do của lưỡi dài, phần cuối xẻ thùy và chia làm đôi. Trên
mỗi xương cung mang, lược mang có màu trắng ngà xếp thành một hàng
thưa, dạng núm gai nhọn và bén. Thực quản tương đối ngắn, có thành
dày, gấp nếp ở mặt trong. Dạ dày cá bống cát rất phát triển, có dạng túi
hình chữ J phình to và vách dày. Ruột ngắn, thành ruột tương đối dày,
mặt trong gấp nếp.
Tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài tổng (RLG) của cá
bống cát được phân tích trên 411 mẫu có giá trị trung bình là 0,26<1.
Qua kết quả phân tích đặc điểm hình thái cơ quan tiêu hóa cá bống cát
và chỉ số RLG có thể dự đoán đây là loài cá dữ.
4.3.1.2 Cá bống sao (B. boddarti)
Miệng cá bống sao thuộc dạng miệng dưới, phần cuối của miệng
có những lớp màng mỏng giúp cá phồng miệng rất to. Trên mỗi hàm có
một hàng răng, hàm trên ở phía trước có sáu răng nhọn, điểm tiếp hợp có
một mấu thịt hơi cứng, các răng khác nhỏ. Hàm dưới có một hàng răng
nhỏ, cứng, mọc thẳng, sau chổ tiếp hợp có một đôi răng nhọn, không có
răng hầu. Đặc điểm cấu tạo này phù hợp với việc cạp và cắt lớp tảo trên
bề mặt bùn. Cá bống sao có khe mang hẹp, gồm có 4 đôi cung mang.
Trên mỗi cung mang có hai hàng lược mang mềm, dài, xếp sát vào nhau
thành tấm chắn. Thực quản lớn, dài bằng 1/2 dạ dày, có vách tương đối
dày và có nhiều nếp gấp. Dạ dày có dạng hình elip dài, to, vách mỏng, có
khả năng chứa một lượng lớn thức ăn. Ruột cá bống sao dài và có dạng
cuộn tròn, vách ruột mỏng.
Qua kết quả phân tích 436 mẫu cho thấy chỉ số RLG có giá trị
trung bình là 1,77 > 1. Từ kết quả quan sát về hình thái cơ quan tiêu hóa
và chỉ số RLG có thể dự đoán cá bống sao thuộc nhóm cá ăn mồi trên
nền đáy bùn và là loài cá ăn thực vật.
4.3.2 Phổ thức ăn
4.3.2.1 Cá bống cát (G. aureus)
Thành phần thức ăn của cá bống cát (n = 35 mẫu) theo phương
pháp chỉ số ưu thế (phương pháp tần số xuất hiện kết hợp với phương
pháp khối lượng) ghi nhận được kết quả như sau: giáp xác và cá chiếm tỉ
14
lệ cao nhất (40,46% và 46,3%), mùn bã hữu cơ chiếm tỉ lệ thấp hơn
(12,87%) và thức ăn khác chiếm tỉ lệ rất thấp (0,37%).
Das (1934) cho rằng cá ăn động vật sẽ có thành phần thức ăn là
động vật chiếm hơn 80%. Kết hợp thành phần thức ăn, cấu tạo hệ tiêu
hóa và RLG cung cấp thông tin về tính ăn của cá bống cát là loài cá dữ
ăn động vật, chủ yếu là cá và giáp xác, hai thành phần này chiếm tỉ lệ
khá cao (86,76%) trong thành phần thức ăn ống tiêu hóa.
Cá bống cát (G. giuris) có thành phần thức ăn chính là cá và giáp
xác (Phạm Thị Mỹ Xuân, 2012; Achakzai et al., 2015; Rao and Rao,
2002; Hora, 1935; Mookerjee (1947)) điều này cho thấy thành phần thức
ăn chính của hai loài cá bống cát (G. giuris) và cá bống cát (G. aureus)
là giống nhau.
4.3.2.2 Cá bống sao (B. boddarti)
Thành phần thức ăn của cá bống sao (n = 30 mẫu) theo phương
pháp tần số xuất hiện kết hợp với phương pháp đếm điểm ghi nhận được
thức ăn trong dạ dày của cá bống sao chủ yếu là tảo khuê (87,84%) và
tảo lam (11,31%), điều này phù hợp với tập tính sống của cá trong môi
trường bãi bồi giàu tảo khuê và tảo lam.
Cá bống sao sống ở bãi bồi dọc theo rừng ngặp mặn và cửa sông
của vùng ven biển tỉnh Bến Tre là loài ăn thực vật và thức ăn chủ yếu là
tảo khuê. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu được thực hiện bởi
Ravi (2013) về loài cá này ở rừng ngặp mặn Pichavaram, Ấn Độ và của
Macnae (1968) mô tả cá bống sao là loài ăn thực vật và tảo khuê là thành
phần chủ yếu. Cá bống sao lấy thức ăn bằng cách di chuyển trên bãi bùn
và cạp một lớp bùn mỏng từ bề mặt (Macnae, 1968). Fenchel (1969) cho
rằng tảo khuê là nguồn thức ăn quan trọng cho sinh vật đáy. Heald và
Odum (1970) giải thích rằng tảo khuê đóng vai trò quan trọng trong việc
thiết lập các chuỗi thức ăn và mối quan hệ giữa các nhóm khác nhau của
các sinh vật trong các hệ sinh thái.
Qua kết quả phân tích đặc điểm hình thái của cơ quan tiêu hóa,
phổ thức ăn của cá bống cát và cá bống sao cho thấy cá bống cát là loài
cá dữ, thức ăn chính là cá và giáp xác; cá bống sao ăn thực vật và thức ăn
chính là tảo khuê.
4.4 Đặc điểm sinh trưởng của cá bống cát (G. aureus) và cá
bống sao (B. boddarti)
4.4.1 Tương quan chiều dài và khối lượng thân cá
Ở cá bống cát khi xét chung cả quần đàn cá, chiều dài tổng của
411 mẫu phân tích dao động trong khoảng 9,3–30,1 cm và khối lượng
biến thiên từ 7,76–219,95 g. Phương trình hồi quy tương quan giữa chiều
15
dài tổng và khối lượng cơ thể cá là W = 0,012*L2,85 với hệ số tương quan
R2 = 0,958.
Ở quần đàn cá bống sao, chiều dài tổng của 435 mẫu phân tích có
chiều dài dao động trong khoảng 10,3-16,5cm. Khối lượng dao động
7,9-44,2g. Phương trình hồi quy tương quan giữa chiều dài tổng và khối
lượng cơ thể cá là W = 0,007*L3,09 với hệ số tương quan R2 = 0,8547.
Theo Froese (2006) cho rằng những loài cá có hệ số b < 3 là
những loài tăng trưởng chiều dài nhanh hơn chiều rộng và chiều cao. Hệ
số tăng trưởng b = 2,85 (b < 3) cho thấy cá bống cát tăng trưởng theo
chiều dài nhanh hơn so với chiều rộng và chiều cao. Cá bống sao có hệ
số tăng trưởng b = 3,09 (b ≈ 3 cho thấy cá bống sao tăng trưởng đồng
đẳng giữa chiều dài, chiều rộng và chiều cao (Froese, 2006).
4.4.2 Phương trình tăng trưởng von Bertalanffy
4.4.2.1 Cá bống cát (G. aureus)
Theo Pauly (1987), để có thể xác định chính xác các tham số tăng
trưởng thì số liệu tần suất chiều dài cần phải thỏa mãn đồng thời hai điều
kiện. Thứ nhất, số mẫu đo đạc được phải trên 1.500 và thời gian nghiên
cứu phải liên tục ít nhất là 6 tháng; thứ hai, số liệu thu được phải thể hiện
các đỉnh tần suất chiều dài một cách rõ ràng và hợp lý. Trong nghiên cứu
hiện tại có 2.395 số liệu tần suất chiều dài (64-268mm) được đo đạt
trong 12 tháng khảo sát liên tục, đồng thời số liệu cũng cho thấy sự phân
bố các đỉnh tần xuất là hợp lý. Mẫu cá được thu hàng tháng, mỗi tháng
thu 1 ngày bằng lưới đáy có kích thước mắt lưới phần đục là 2a = 15mm.
Nghiên cứu này đã sử dụng phần mềm FiSAT II để xác định các
tham số tăng trưởng L∞, K và t0. Kết quả nhận được là L∞ = 300 mm;
K = 0,77/năm và t0 = -0,02 năm. Từ đó, hằng số tăng trưởng của cá bống
cát được xác định là Φ’ = 2,84.
Theo Taylor (1958) tuổi thọ (tmax) của cá được xác định theo
công thức tmax = 3/K và tuổi thọ của cá bống cát (G. aureus) ở nghiên cứu
này là 3,9 năm. Tuổi thọ của cá bị ảnh hưởng bởi tỉ lệ tử vong và tỉ lệ
này phụ thuộc vào tỉ lệ chết tự nhiên cũng như các yếu tố môi trường.
Bên cạnh đó việc khai thác cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng
đến tuổi thọ của cá (Dinh, 2008).
Bảng 4.5: Quan hệ giữa tuổi và chiều dài của cá bống cát.
Tuổi
1+
Chiều dài chuẩn (mm)
162
2+
237
+
270
3
16
4.4.2.2 Cá bống sao
Trong nghiên cứu này phương trình tăng trưởng von Bertalanffy
được phân tích từ 6.884 số liệu tần suất chiều dài (69-140 mm) đo trong
12 tháng khảo sát liên tục. Mẫu cá được thu hàng tháng, mỗi tháng thu 1
ngày bằng cách dùng lưới chụp bắt cá. Kết quả nhận được là L∞ = 160
mm; K = 0,55/năm và t0 = -0,01 năm. Hằng số tăng trưởng Φ’ = 2,15, tuổi
thọ (tmax) của cá được xác định là 5,5 năm. Từ kết quả trên, cho thấy mối
quan hệ giữa tuổi và chiều dài của cá được trình bày ở Bảng 4.6.
Bảng 4.6: Quan hệ giữa tuổi và chiều dài của cá bống sao.
Tuổi
1+
2+
3+
4+
5+
Chiều dài chuẩn (mm)
69
107
130
142
150
Kết quả này cho thấy cá bống cát có thể đạt chiều dài tối đa là 300
mm và đạt được chiều dài tối đa trong 3,9 năm. So với một số loài cá
bống thì đây là loài có tốc độ tăng trưởng khá nhanh và chiều dài tối đa
là khá dài. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của cá bống cát (G. aureus) vẫn
chậm hơn cá bống Gobio gobio và Gobius niger. Các tham số tăng
trưởng của một số loài cá bống được trình bày trong Bảng 4.7.
Theo Froese và Pauly (2015) cá bống sao có chiều dài tối đa
là 220 mm, ở nghiên cứu này cá bống sao có thể đạt chiều dài tối
đa là 160 mm, so với Froese và Pauly (2015) thì chiều dài tối đa
của cá bống sao ở nghiên cứu này nhỏ hơn đến 60 mm. So với các
loài cá bống đã nghiên cứu thì đây là loài có tốc độ tăng trưởng
chậm hơn, hệ số k tương đương với cá Periophthalmus babarus
(0,55/năm).
Bảng 4.7: Các tham số tăng trưởng của một số loài cá bống.
Loài
Gobio gobio
Gobius niger (male)
Gobius niger (female)
Gobius paganellus
Periophthalmus papilio
Periophthalmus babarus
Pseudapocryptes elongatus
Glossogobius aureus
Boleophthalmus boddarti
L∞
(mm)
106
117
151
138
193,9
216
255
300
160
K
(/năm)
0,99
0,91
0,91
0,73
0,51
0,55
0,71
0,77
0,55
17
t0
Φ’
0
0,32
0,32
-0,22
n.a
n.a
-0,09
-0,02
-0,01
2,05
2,1
2,32
2,14
2,28
2,41
2,66
2,84
2,15
Nguồn
Bowker (1996)
Vesey và Langford (1985)
Vesey và Langford (1985)
Azevedo và Simas (2000)
Etim et al. (1996)
Etim et al. (2002)
Trần Đắc Định và ctv. (2008)
Nghiên cứu này
Nghiên cứu này
Cá bống cát có chiều dài tối đa và tốc độ tăng trưởng (L∞ = 300
mm; K = 0,77/năm) nhanh hơn so với cá bống sao (L∞ = 160 mm;
K = 0,55/năm). Tuy nhiên, tuổi thọ của cá bống sao (tmax = 5,5 năm) thì
dài hơn so với tuổi thọ của cá bống cát (tmax = 3,9 năm). Điều này cho
thấy cá bống cát có tiềm năng phát triển thành đối tượng nuôi lớn hơn cá
bống sao vì chúng có kích thước lớn hơn và tốc độ tăng trưởng nhanh
hơn.
4.5 Đặc điểm sinh sản của cá bống cát (G. aureus) và cá bống
sao (B. boddarti)
4.5.1 Tỉ lệ giới tính
Qua 18 tháng thu mẫu cá bống cát (G. aureus), kết quả phân tích
607 cá thể có 315 cá đực và 292 cá cái, kết quả tỉ lệ cá đực:cá cái là
1:0,93 (cá đực chiếm 52%; cá cái chiếm 48%). Theo kết quả kiểm định
χ2 thì tỉ lệ cá đực:cá cái khác tỉ lệ 1:1 không có ý nghĩa thống kê (χ2 =
0,87; p > 0,05). Ở cá bống sao, kết quả phân tích 559 cá thể có 257 cá
đực và 302 cá cái, kết quả tỉ lệ cá đực:cá cái là 1:1,18 (cá đực chiếm
46%; cá cái chiếm 54%) tỉ lệ này không có sự khác biệt thống thống kê
so với tỉ lệ 1:1 theo phép kiểm định χ2 ở mức ý nghĩa 5%.
Kader et al. (1988) cho rằng tỉ lệ giới tính của Gobioides
rubicundus không bằng nhau trong suốt cả năm. Trước mùa vụ sinh sản
(tháng 4 đến tháng 7) tỉ lệ cá cái nhiều hơn cá đực, sau mùa vụ sinh sản
(tháng 11 đến tháng 12) thì ngược lại cá đực nhiều hơn cá cái. Điều này
cũng quan sát được đối với cá bống cát (G. aureus) và cá bống sao
(B. boddarti) trong nghiên cứu này.
Tỉ lệ trung bình cá đực:cá cái qua 12 tháng thu mẫu của cá bống
cát (G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti) khác tỉ lệ 1:1 không có ý
nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%. Tuy nhiên vào đợt thu tháng 9, 10 ở
cá bống cát (G. aureus) và tháng 11 đến tháng 12 ở cá bống sao
(B. boddarti) tỉ lệ con cái tăng cao sau đó giảm. Kết quả này có thể là do
tập tính sinh sản của cá bống có sự phân chia vai trò giữa cá đực và cá
cái, con cái đẻ trứng trong khi con đực làm tổ, ấp trứng và chăm sóc con
sau khi cá cái đẻ (Miller, 1984; Rogers, 1988; Polgar and Crosa, 2009).
4.5.2 Các giai đoạn thành thục sinh dục
Qua kết quả phân tích sự biến động các giai đoạn thành thục ở cá
bống cát và cá bống sao cho thấy giai đoạn IV của cá bống cát chỉ xuất
hiện tập trung từ tháng 8 đến tháng 12, cao nhất từ tháng 9 đến tháng 10
trong khi cá bống sao thì phát hiện giai đoạn IV gần như quanh năm và
tập trung cao vào tháng 10, 11.
18
4.5.3 Hệ số thành thục sinh dục (GSI)
4.5.3.1 Cá bống cát
Trong 18 tháng khảo sát, kết quả phân tích GSI ở 315 cá đực và
292 cá cái cho thấy hệ số GSI của cá bống cát (G. aureus) đực và cái
khác nhau. Do kích thước tuyến sinh dục của cá đực nhỏ hơn cá cái nên
GSI cá đực nhỏ hơn cá cái. Tuy nhiên, hệ số GSI của cá đực và cá cái
biến động cùng nhịp.
Kết quả nghiên cứu cho thấy GSI ở cá cái tăng dần từ tháng 7 đến
tháng 10 và đạt cực đại ở tháng 10 (8,52±3,77%), sau đó GSI giảm dần ở
tháng 11, 12 và xuống thấp ở tháng 1 đến tháng 6. Hệ số GSI cá cái đạt
giá trị cao trong 4 tháng (tháng 9–12). Đối chiếu giá trị 4 tháng này với tỉ
lệ thành thục sinh dục của cá cái đã khảo sát, kết quả GSI cao là phù hợp
vì thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 đa số noãn sào đều phát triển ở giai
đoạn III, IV.
4.5.3.2 Cá bống sao
Trong 18 tháng khảo sát, kết quả phân tích GSI ở 257 cá đực và
302 cá cái cho thấy hệ số GSI của cá bống sao đực và cái khác nhau. Do
kích thước tuyến sinh dục của cá đực nhỏ hơn cá cái nên GSI cá đực nhỏ
hơn cá cái. Tuy nhiên, hệ số GSI của cá đực và cá cái biến động cùng
nhịp.
Đối với cá cái, sự biến động hệ số GSI được phân tích trong 18
tháng cho thấy trong năm 2012 GSI tăng dần từ tháng 7 đến tháng 10 và
đạt cực đại tháng 10 (4,87±3,02%), sau đó GSI giảm ở tháng 11 và
xuống thấp ở tháng 1/2013. Qua đó, ta thấy hệ số GSI cá cái đạt giá trị
cao trong 4 tháng (tháng 9–12). Đối chiếu giá trị 4 tháng này với biểu đồ
tỉ lệ thành thục sinh dục của cá cái đã khảo sát, kết quả GSI cao là phù
hợp bởi vì thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 đa số noãn sào đều phát
triển ở giai đoạn III, IV.
4.5.4 Hệ số tích lũy năng lượng (HSI)
4.5.4.2 Ở cá bống cát
Trong 18 tháng phân tích và khảo sát trên 315 mẫu cá đực và 292
mẫu cá cái, kết quả cho thấy hệ số tích lũy năng lượng HSI giữa cá đực
và cá cái đều cao từ tháng 5 đến tháng 8 và đạt giá trị nhỏ ở các tháng 9,
10,11.
4.5.4.2 Cá bống sao
Trong 18 tháng phân tích và khảo sát trên 257 mẫu cá đực và 302
mẫu cá cái, kết quả cho thấy hệ số tích lũy năng lượng HSI của cá đực và
cá cái đều đạt giá trị nhỏ ở các tháng tháng 8, 9, 10,11.
Theo nhận định của tác giả Dương Tuấn (1981), khi cá thành thục
19
sinh dục, nguồn năng lượng để phát triển tuyến sinh dục được huy động
chủ yếu từ năng lượng dự trữ ở cơ và gan (Miller, 1984). Đối chiếu với
nhận định này thì cho thấy kết quả nghiên cứu là phù hợp, bởi vì ở thời
điểm GSI thấp và HSI cao đồng nghĩa là năng lượng tích lũy cao ở các
mô, cơ quan sinh dưỡng (mô mỡ, cơ, gan), cá có độ béo cao để chuẩn bị
cho việc thực hiện chức năng sinh sản. Tác giả Nguyễn Văn Kiểm
(1999) cũng khẳng định khi cá phát triển hoàn thiện tuyến sinh dục thì
năng lượng tích lũy trong gan, cơ sẽ thấp nhất. Như vậy, khi thời điểm
GSI cao và HSI thấp, đó là lúc tuyến sinh dục đang phát triển mạnh và
hoàn thiện, sẵn sàng cho quá trình sinh sản đồng thời độ béo của cá cũng
giảm xuống thấp nhất.
4.5.5 Hệ số điều kiện (CF)
4.5.5.1 Cá bống cát
Kết quả phân tích hệ số CF của từng cá thể trên 607 mẫu cá bống
cát (G. aureus) (315 cá đực và 292 mẫu cá cái) cho thấy rằng giá trị CF
của cá có sự biến động qua các tháng. Giá trị CF của cá có sự gia tăng từ
tháng 11 đến tháng 1 và từ tháng 3 đến tháng 6, giảm rõ là từ tháng 1 đến
tháng 2.
4.5.5.2 Cá bống sao
Kết quả phân tích hệ số CF trên 559 mẫu cá bống sao (257 cá đực
và 302 mẫu cá cái) cho thấy rằng giá trị CF của cá cái tăng từ tháng 10
đến tháng 12 và từ tháng 3 đến tháng 6. Giá trị này có sự giảm đồng nhịp
giữa cá đực và cá cái từ tháng 6 đến tháng 8 và từ tháng 2 đến tháng 3.
Hệ số điều kiện nói lên hiện trạng hay điều kiện phát triển của cá
tại từng thời điểm khảo sát. Hệ số điều kiện đánh giá mức độ gia tăng
khối lượng của cá so với mức độ gia tăng về chiều dài. Nguyên nhân của
sự gia tăng nhanh về khối lượng của cá trong một khoảng thời gian nhất
định chủ yếu là do sự gia tăng về khối lượng tuyến sinh dục hoặc do thời
điểm có nguồn thức ăn tự nhiên phong phú. Đặc biệt khối lượng cá sẽ
giảm nhanh sau khi cá đẻ. Điều này thể hiện rõ ở cá cái (King, 1995;
Froses, 2006).
Kết quả nghiên cứu ở cá bống cát cho thấy giá trị CF của cá giảm
rõ là từ tháng 1 đến tháng 2 điều này có thể dự đoán là sau tháng 1 thì cá
đã sinh sản xong. Ở cá bống sao giá trị CF biến động quanh năm và cao
nhất là vào tháng 6. Tuy nhiên tháng 6 không phải là tháng cá có tuyến
sinh dục phát triển nhiều, sự gia tăng giá trị CF trong tháng này có thể là
do cá ăn được nhiều thức ăn nên trọng lượng cơ thể cá tăng cao.
4.5.6 Mùa vụ sinh sản
4.5.6.1 Cá bống cát
20
Dựa vào kết quả tổng hợp khảo sát của nhiều chỉ tiêu: GSI, CF,
HSI, tỉ lệ thành thục trong 18 tháng nghiên cứu rút ra được một số đặc
điểm sau: HSI thấp; GSI và tỉ lệ thành thục cao đều ở thời điểm từ tháng
9–12; giá trị CF thấp ở tháng 2. Như vậy, cá bống cát sinh sản một lần
trong năm, mùa sinh sản kéo dài từ tháng 9–12 và tập trung cao vào
tháng 11, 12.
4.5.6.2 Cá bống sao
Dựa vào kết quả tổng hợp khảo sát của nhiều chỉ tiêu: GSI, CF,
HSI, tỉ lệ thành thục trong 18 tháng nghiên cứu, rút ra được một số đặc
điểm sau: HSI thấp; GSI và tỉ lệ thành thục cao đều ở thời điểm từ tháng
10–11; buồng trứng thành thục chứa các noãn bào ở các giai đoạn khác
nhau, tinh sào và noãn sào được phát hiện gần như quanh năm. Như vậy,
cá bống sao sinh sản hầu như quanh năm và cao nhất là hai tháng 10 và
11.
Mực nước tăng lên và độ mặn thấp vào mùa mưa là điều kiện cho
cá đẻ. Lượng mưa cao, chất dinh dưỡng hướng tới các khu vực ven biển
có thể tạo điều kiện để có nguồn thức ăn dồi dào cho ấu trùng của cá
(Nedeco, 1993; Nguyen et al., 2000; Dinh, 2008). Ở nghiên cứu này, cá
bống cát (G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti) cũng sinh sản tập
trung vào mùa mưa.
4.5.7 Sức sinh sản
4.5.7.1 Cá bống cát
Kết quả nghiên cứu trên 30 mẫu cá bống cát (chiều dài trung bình
19,0±2,8 cm và khối lượng trung bình 62,97±27,59 g) có sức sinh sản
tuyệt đối đạt 69.006±25.616 trứng/cá cái (dao động từ 35.175–149.932
trứng/cá cái) và sức sinh sản tương đối là 1.122±148 trứng/g cá cái.
4.5.7.2 Cá bống sao
Kết quả nghiên cứu trên 30 mẫu cá bống sao (chiều dài trung bình
14,0±0,9 cm và khối lượng trung bình 25,8 6,1g) có sức sinh sản tuyệt
đối đạt 18.224 2.940 trứng/cá cái (dao động từ 12.607 – 27.270
trứng/cá cái) và sức sinh sản tương đối là 724 104 trứng/g cá cái.
Khả năng sinh sản của cá bống rất khác nhau trong cùng một
loài và giữa các loài, dao động từ < 100 trứng ở cá Eciota lacrimae
(Sunobe and Nakazono, 1995) đến hơn 500.000 trứng ở cá Awaous
guamensis (Ha and Kinzie, 1996).
Cá bống cát (G. aureus) có sức sinh sản tuyệt đối dao động trong
khoảng 35.175 – 149.932 trứng/cá cái cao hơn cá bống sao (B. boddarti)
(12.607 – 27.270 trứng/cá cái). Nhưng cả hai loài này đều có sức sinh
sản cao hơn nhiều loài cá bống khác như Neogobius melanostomus (84 –
21
606 trứng/cá cái) (Macinnis and Corkum, 2000) Crystallogobius linearis
(300 – 700 trứng/cá cái) (Caputo et al., 2003), Gobius vittatus
(560 – 3045 trứng/cá cái) (Kovačić, 2007), và Periophthalmus papilio
(508 – 15,700 trứng/cá cái) (Lawson, 2011). Tuy nhiên, sức sinh sản
tuyệt đối của cá bống cát (G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti) thấp
hơn Parastromateus niger (71,305 – 3,895,449 trứng/cá cái) (Dadzie et
al., 2008). Cá bống kèo vảy nhỏ P. elongatus có sức sinh sản tuyệt đối
(10,200 – 113,100 trứng/cá cái) (Dinh, 2008) cao hơn cá bống sao
(B. boddarti) nhưng thấp hơn cá bống cát (G. aureus). Sức sinh sản của
cá bống cát (G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti) khác nhau và khác
với các loài cá bống khác có thể là do giữa các loài có sự khác nhau về
kích thước trứng, khối lượng cơ thể hoặc do điều kiện sống khác nhau.
Sự gia tăng sức sinh sản phụ thuộc vào sự gia tăng khối lượng của buồng
trứng (Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004).
4.5.8 Chiều dài thành thục đầu tiên
4.5.8.1 Cá bống cát
Trong 18 tháng thu mẫu thì từ tháng 9 đến tháng 12 là thời gian cá
có tỉ lệ tuyến sinh dục đạt giai đoạn III, IV cao. Dựa trên kết quả phân
tích tỉ lệ thành thục theo nhóm chiều dài của quần thể cá bống cát ở mùa
sinh sản từ tháng 9 đến tháng 12 của 261 cá đực và 729 cá cái kết hợp sử
dụng phương pháp hồi quy theo công thức của King (2007) bằng phần
mềm Statistica 8.0 xác định được chiều dài thành thục đầu tiên của cá
đực là 142 mm; cá cái là 122 mm.
4.5.8.2 Cá bống sao
Dựa trên kết quả phân tích tỉ lệ thành thục theo nhóm chiều dài
của quần thể cá bống sao từ tháng 4 năm 2012 đến tháng 9 năm 2013 của
257 cá đực và 298 cá cái xác định được chiều dài thành thục đầu tiên của
cá đực là 128 mm; cá cái là 126 mm.
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1 Kết luận
Thành phần loài cá bống Gobiidae và Eleotridae ở vùng ven biển
tỉnh Bến Tre rất đa dạng. Những loài này phân bố rộng từ sông, bãi bồi
đến rừng ngập mặn, từ vùng nước ngọt đến vùng nước mặn. Trong đó
yếu tố độ mặn có ảnh hưởng đến sự phân bố của các loài cá thuộc hai họ
này là rõ nhất. Trong 35 loài được tìm thấy, có 13 loài đã được khai thác
và thương mại hóa trong vùng với 2 loài cá bống kèo (P. elongatus) và
cá bống tượng (O. marmorata) đã và đang nuôi. Bên cạnh đó, 2 loài cá
bống cát (G. aureus) và cá bống sao (B. boddarti) có nhiều tiềm năng để
22
phát triển thành đối tượng nuôi trong tương lai do chúng có giá trị kinh
tế và hệ số tăng trưởng cao.
Cá bống cát thuộc nhóm cá dữ với thành phần thức ăn chủ yếu là
cá nhỏ và giáp xác (86,8%). Trong khi đó, cá bống sao thuộc nhóm cá ăn
thực vật, thành phần thức ăn chính của chúng là khuê tảo (87,84%).
Cá bống cát tăng trưởng chiều dài nhanh hơn so với chiều rộng và
chiều cao, trong khi đó, cá bống sao thì tăng trưởng đồng đẳng. Cả 2 loài
đều thuộc nhóm cá tăng trưởng nhanh do chúng có hệ số tăng trưởng cao
mặc dù các thông số sinh trưởng của cá bống cát (L∞ = 300 mm;
K = 0,77/năm) cao hơn so với cá bống sao (L∞ = 160 mm;
K = 0,55/năm). Tuy nhiên, tuổi thọ của cá bống sao (tmax = 5,5 năm) lớn
hơn so với cá bống cát (tmax = 3,9 năm).
Nghiên cứu đặc điểm sinh sản cho thấy tỉ lệ đực:cái ở cá bống cát
và cá bống sao tương đương tỉ lệ chung của nhiều loài động vật thủy sinh
(1:1). Cá bống cát sinh sản kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12 và tập trung
vào tháng 11, 12; trong khi đó, cá bống sao sinh sản quanh năm và tập
trung vào tháng 10, 11. Cá bống cát có sức sinh sản cao hơn cá bống sao.
Chiều dài thành thục đầu tiên (Lm) của hai loài gần bằng nhau dao động
từ 120-140 mm.
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy cá bống cát và cá bống sao có
tiềm năng phát triển thành đối tượng nuôi ở vùng ven biển Bến Tre nói
riêng và vùng ĐBSCL nói chung. Tuy nhiên cá bống cát có tiềm năng
phát triển thành đối tượng nuôi cao hơn cá bống sao vì cá bống cát có
kích thước lớn hơn, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và sức sinh sản lớn
hơn.
5.2 Đề xuất
- Qua kết quả nghiên cứu cho thấy một số loài có số lượng thu
được rất ít cần được nghiên cứu bảo tồn như: Cá bống dừa mắt nhỏ
(E. microps), Cá bống râu (G. macrostoma).
- Khuyến cáo ngư dân khai thác cá bống cát có kích thước lớn lơn
142 mm và cá bống sao có kích thước lơn hơn 128 mm.
- Trên cơ sở những đặc điểm sinh học dinh dưỡng và sinh
học sinh sản, cần tiếp tục nghiên cứu khả năng nuôi thương phẩm và
khả năng sinh sản nhân tạo cá bống cát (G.aureus), cá bống sao (B.
boddarti) để có thể phát triển thêm đối tượng nuôi mới.
23