Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Một số vấn đề lý luận về chợ và mô hình tổ chức quản lý chợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.7 KB, 28 trang )

Một số vấn đề lý luận về chợ và mô hình
tổ chức quản lý chợ
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân


Một số vấn đề lý luận về chợ và mô hình
tổ chức quản lý chợ
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Các tác giả:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Phiên bản trực tuyến:
/>

MỤC LỤC
1. Khái niệm, đặc trưng của chợ
2. Vai trò của chợ trong nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay
3. Tổ chức, quản lý chợ theo mô hình Ban quản lý
4. Tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp (Doanh nghiệp kinh doanh khai
thác và quản lý chợ)
5. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số nơi ở nước ta
6. Phân loại chợ trong mạng lưới chợ ở nước ta
Tham gia đóng góp

1/26


Khái niệm, đặc trưng của chợ
Khái niệm:


Trên thực tế tuỳ theo lĩnh vực nghiên cứu mà có rất nhiều khái niệm khác nhau về chợ:
• Theo định nghĩa trong các từ điển tiếng Việt đang được lưu hành: "Chợ là nơi
công cộng để đông người đến mua bán vào những ngày hoặc những buổi nhất
định"
1) Theo Đại Từ điển tiếng Việt - NXB Từ điển Bách Khoa - 2003 (tr.138)(2)
Theo Đại Từ điển tiếng Việt - NXB Văn hoá Thông tin - 2004 (tr.155)
1); "Chợ là nơi tụ họp giữa người mua và người bán để trao đổi hàng hoá, thực
phẩm hàng ngày theo từng buổi hoặc từng phiên nhất định (chợ phiên)...
• Theo Thông tư số 15/TM-CSTTTN ngày 16/10/1996 của Bộ Thương Mại
hướng dẫn tổ chức và quản lý chợ "Chợ là mạng lưới thương nghiệp được hình
thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội".
• Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính Phủ về phát
triển và quản lý chợ "Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành
và phát triển mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo quy
hoạch, đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của
khu vực dân cư".
(1) Phạm vi chợ: là khu vực được quy hoạch dành cho hoạt động chợ, bao gồm diện tích
để bố trí các điểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (như: bãi để xe, kho hàng, khu ăn uống,
vui chơi giải trí và các dịch vụ khác) và đường bao quanh chợ.
(2) Chợ đầu mối: là chợ có vai trò chủ yếu thu hút, tập trung lượng hàng hoá lớn từ các
nguồn sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của ngành hàng để tiếp tục phân
phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác.
(2) Điểm kinh doanh tại chợ: bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa hàng được bố trí
cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có diện tích quy chuẩn tối thiểu
là 3 m2/điểm.
Từ những điểm hội tụ chung của nhiều định nghĩa, ta có thể rút ra kết luận: Chợ là
loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển mang tính truyền thống,
được tổ chức tại một địa điểm công cộng, tập trung đông người mua bán, trao đổi hàng
hoá, dịch vụ với nhau, được hình thành do yêu cầu của sản xuất, lưu thông và đời sống
tiêu dùng xã hội và hoạt động theo các chu kỳ thời gian nhất định.


2/26


Đặc trưng của chợ:
Chợ có những đặc trưng sau:
• Chợ là một nơi (địa điểm) công cộng để mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ
của dân cư, ở đó bất cứ ai có nhu cầu đều có thể đến mua, bán và trao đổi hàng
hoá, dịch vụ với nhau.
• Chợ được hình thành do yêu cầu khách quan của sản xuất và trao đổi hàng hoá,
dịch vụ của dân cư, chợ có thể được hình thành một cách tự phát hoặc do quá
trình nhận thức tự giác của con người. Vì vậy trên thực tế có nhiều chợ đã được
hình thành từ việc quy hoạch, xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ của các cấp
chính quyền và các ngành quản lý kinh tế kỹ thuật. Nhưng cũng có rất nhiều
chợ được hình thành một cách tự phát do nhu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá
của dân cư, chưa được quy hoạch, xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ.
• Các hoạt động mua, bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ tại chợ thường được diễn ra
theo một quy luật và chu kỳ thời gian (ngày, giờ, phiên) nhất định. Chu kỳ họp
chợ hình thành do nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ và tập quán của từng
vùng, từng địa phương quy định.

So sánh chợ với siêu thị:
Theo từ điển Kinh tế thị trường: "Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán nhiều mặt
hàng đáp ứng tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng như thực phẩm, đồ uống, dụng
cụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác".
Như vậy, những nét đặc trưng cơ bản của siêu thị khác với chợ là:







Siêu thị là một cửa hàng bán lẻ.
Siêu thị áp dụng phương thức tự phục vụ.
Giá ở siêu thị được niêm yết công khai.
Siêu thị thường chú trọng ở nghệ thuật trưng bày hàng hoá.
Siêu thị áp dụng các hình thức quản lý, bán hàng và thanh toán bằng những tiến
bộ của khoa học, công nghệ (tin học, điện tử, khoa học xã hội trong bán
hàng…).

3/26


Vai trò của chợ trong nền kinh tế - xã hội
nước ta hiện nay
Trong những năm qua, mạng lưới chợ ở nước ta đóng vai trò rất quan trọng trong sự
phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là từ thập niên 80 và những năm đầu của thập niên
90. Đây là giai đoạn mà mạng lưới siêu thị và trung tâm thương mại chưa hình thành và
phát triển, chợ vẫn là nơi tiêu thụ hàng hóa chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất cũng
như là nơi mua sắm chủ yếu của người dân. Tuy nhiên, hiện nay chợ vẫn giữ một vai trò
rất quan trọng thể hiện trên các mặt sau:

Về mặt kinh tế
Chợ là một bộ phận quan trọng trong cấu thành mạng lưới thương nghiệp xã hội :
• Đối với vùng nông thôn: Chợ vừa là nơi tiêu thụ nông sản hàng hoá, tập trung
thu gom các sản phẩm, hàng hoá phân tán, nhỏ lẻ để cung ứng cho các thị
trường tiêu thụ lớn trong và ngoài nước, vừa là nơi cung ứng hàng công nghiệp
tiêu dùng cho nông dân và một số loại vật tư cho sản xuất nông nghiệp ở nông
thôn.
• Ở khu vực thành thị: Chợ cũng là nơi cung cấp hàng hoá tiêu dùng, lương thực

thực phẩm chủ yếu cho các khu vực dân cư. Tuy nhiên hiện nay đã xuất hiện
khá nhiều hình thức thương mại cạnh tranh trực tiếp với chợ, vì thế bên cạnh
việc mở rộng hay tăng thêm số lượng chợ chúng ta sẽ đầu tư nâng cấp chất
lượng hoạt động của chợ và đầu tư nâng cấp chất lượng dịch vụ của chợ.
Hoạt động của các chợ làm tăng ý thức về kinh tế hàng hoá của người dân, rõ nét nhất
là ở miền núi, vùng cao từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần tích cực vào công
cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, miền núi. Trong các phiên chợ, các buổi chợ là
cơ hội của người dân giao lưu trao đổi, mua bán, lưu thông hàng hoá của mình, cập nhật
thông tin, ý thức xã hội, nó làm tăng khả năng phản ứng của người dân với thị trường,
với thời thế và tự mình có thể ý thức được công việc làm ăn buôn bán của mình trong
công cuộc đổi mới.
Chợ là một nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước. Mặc dù Nhà nước chưa có
thể nâng cấp đủ hệ thống chợ ở nước ta, chưa đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển, nhưng
các chợ trong cả nước đã đem lại cho Ngân sách Nhà nước khoảng 300.000 triệu đồng
mỗi năm (chưa kể các nguồn thu từ thuế trực tiếp).
Sự hình thành chợ kéo theo sự hình thành và phát triển các ngành nghề sản xuất. Đây
chính là tiền đề hội tụ các dòng người từ mọi miền đất nước tập trung để làm ăn, buôn

4/26


bán. Chính quá trình này làm xuất hiện các trung tâm thương mại và không ít số đó trở
thành những đô thị sầm uất.

Về giải quyết việc làm
Chợ ở nước ta đã giải quyết được một số lượng lớn việc làm cho người lao động. Hiện
nay trên toàn quốc có hơn 2,3 triệu người lao động buôn bán trong các chợ và số người
tăng thêm có thể tới 10%/năm.
Nếu mỗi người trực tiếp buôn bán có thêm 1 đến 2 người giúp việc (phụ việc bán hàng,
tổ chức nguồn hàng để đưa về chợ, đưa hàng tới các mối tiêu thụ theo yêu cầu của

khách…) thì số người lao động có việc tại chợ sẽ gấp đôi, gấp ba lần số lượng người chỉ
buôn bán ở chợ, và như thế chợ giải quyết được một số lượng lớn công việc cho người
lao động khi hoạt động.

Về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
Có thể nói, chợ là một bộ mặt kinh tế - xã hội của một địa phương và là nơi phản ánh
trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của một vùng dân cư. Tính văn
hoá ở chợ được thể hiện rõ nhất là ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
• Đối với người dân: Đồng bào đến chợ ngoài mục tiêu mua bán còn lấy chợ làm
nơi giao tiếp, gặp gỡ, thăm hỏi người thân, trao đổi công việc, kể cả việc dựng
vợ gả chồng cho con cái. Chợ còn là nơi hò hẹn của lứa đôi, vì vậy người dân
miền núi thường gọi là đi "chơi chợ" thay cho từ đi chợ mua sắm như là người
dưới xuôi thường gọi. Các phiên chợ này thường tồn tại từ rất lâu đời, và nó là
những bản sắc văn hoá vô cùng đặc trưng của các dân tộc ở nước ta.
• Đối với chính quyền: ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa chợ là địa điểm
duy nhất hội tụ đông người. Tại chợ có đại diện của các lứa tuổi, tất cả các thôn
bản và các dân tộc. Vì thế, đã từ lâu, Chính quyền địa phương đã biết lấy chợ là
nơi phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, là nơi tuyên truyền cảnh giác và đấu tranh với những phần tử xuyên tạc
đường lối của Đảng. Từ phong trào kế hoạch hoá gia đình đến kỹ thuật chăm
sóc cây trồng vật nuôi, vệ sinh phòng dịch… đều có thể được phổ biến một
cách hiệu quả ở đây. Chính vì lý do đó, chợ miền núi hay miền xuôi đều được
bố trí ở trung tâm cụm, xã (nhất là miền núi). Trong mỗi chợ đều giành vị trí
trung tâm làm công tác tuyên truyền.
Trên thực tế, một số chợ truyền thống có từ rất lâu đời đang trở thành một địa điểm thu
hút khách du lịch (như Chợ Tình Sa Pa, chợ Cầu Mây ở Nam Định…). Nếu được đầu tư
thoả đáng cả về cở sở vật chất cũng như sự quan tâm quản lý của Nhà nước, đây sẽ là
các địa danh hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nước, và nó sẽ là tiềm năng
về kinh tế du lịch quốc gia.
5/26



Hiện nay, khi mạng lưới siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ đã hình thành
và phát triển mạnh, mặc dù vẫn có tầm quan trọng trong sinh hoạt của người dân, nhưng
không vì thế mà chợ mất đi vai trò của mình mà có thể nói chợ đã hoàn thành vai trò
lịch sử của mình và sự phát triển mạng lưới chợ chính là sự hỗ trợ cho sự hình thành và
phát triển của các loại hình kinh doanh mới, đó là siêu thị và trung tâm thương mại.

6/26


Tổ chức, quản lý chợ theo mô hình Ban
quản lý
Khái niệm:
Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 về phát triển và quản lý chợ: "Ban
quản lý chợ là đơn vị sự nghiệp có thu, tự trang trải các chi phí hoạt động thường xuyên,
có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và có tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước,
thực hiện chức năng quản lý các hoạt động của chợ và tổ chức kinh doanh các dịch vụ
tại chợ theo quy định của pháp luật".
Căn cứ vào tính chất, đặc điểm và quy mô của chợ, Uỷ Ban Nhân Dân các cấp có thẩm
quyền quyết định lập và giao cho Ban quản lý chợ quản lý một hoặc một số chợ (liên
chợ) trên địa bàn theo phân cấp quản lý. Trường hợp lập Ban quản lý liên chợ thì ở từng
chợ có thể lập Ban hay tổ điều hành chợ.
Ban quản lý chợ có trách nhiệm quản lý tài sản Nhà nước và các hoạt động trong phạm
vi chợ của một hoặc một số chợ; thực hiện ký kết hợp đồng với thương nhân về thuê, sử
dụng điểm kinh doanh; kinh doanh các dịch vụ tại chợ; tổ chức bảo đảm công tác phòng
cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm
vi chợ; xây dựng Nội quy của chợ trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt
theo phân cấp quản lý chợ; tổ chức thực hiện Nội quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội
quy chợ; điều hành chợ hoạt động và tổ chức phát triển các hoạt động tại chợ; tổng hợp

tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý Nhà
nước theo hướng dẫn của Bộ Thương mại.

7/26


Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban quản lý chợ:
Theo thông tư số 06/2003/TT-BTM ngày 15 tháng 8 năm 2003 hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban quản lý chợ, Ban quản lý chợ có các nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể sau:
• Trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo phân cấp quản lý chợ quyết
định:
• Phê duyệt Phương án sử dụng địa điểm kinh doanh và bố trí, sắp xếp các ngành
nghề kinh doanh tại chợ.
• Quy định cụ thể việc sử dụng, thuê, thời hạn với các biện pháp quản lý điểm
kinh doanh tại chợ.
• Phê duyệt Nội quy chợ.
• Phê duyệt Phương án bảo đảm Phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an
ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.
• Phê duyệt Kế hoạch sửa chữa lớn, nâng cấp cơ sở vật chất và phát triển các
hoạt động của chợ khi có nhu cầu.
8/26


• Quyết định việc tổ chức đấu thầu theo quy định của Pháp luật để lựa chọn
thương nhân sử dụng hoặc thuê địa điểm kinh doanh tại chợ theo Phương án đã
được duyệt. Trong trường hợp số thương nhân đăng ký ít hơn số điểm kinh
doanh hiện có, Ban quản lý chợ được quyền quyết định việc lựa chọn thương
nhân, không phải tổ chức đấu thầu.
• Ký hợp đồng với thương nhân sử dụng hoặc thuê điểm kinh doanh tại chợ theo

Phương án đã được duyệt.
• Tổ chức quản lý, điều hành chợ hoạt động, tổ chức thực hiện Nội quy chợ và
xử lý các vi phạm Nội quy chợ.
• Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn tổ chức đảm
bảo phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn thực
phẩm trong phạm vi chợ.
• Tổ chức kinh doanh, phát triển các dịch vụ hỗ trợ như: trông giữ phương tiện
vận chuyển, bốc xếp hàng hoá, cho thuê kho bảo quản cất giữ hàng hoá, cung
cấp thông tin thị trường, kiểm định số lượng, chất lượng hàng hoá, vệ sinh môi
trường ăn uống, vui chơi, giải trí và các hoạt động khác trong phạm vi chợ phù
hợp với các quy định của pháp luật và theo hướng ngày càng văn minh hiện
đại.
• Tổ chức thu, nộp tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh của thương nhân và các
loại phí, lệ phí về chợ theo quy định của pháp luật.
• Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan, đoàn thể tổ chức thông
tin kinh tế - xã hội, phổ biến hướng dẫn việc thực hiện các chính sách, các quy
định của pháp luật và nghĩa vụ đối với Nhà nước của thương nhân kinh doanh
tại chợ; tổ chức các hoạt động văn hoá xã hội tại chợ.
• Chịu trách nhiệm quản lý tài sản và kết quả tài chính của Ban quản lý chợ theo
quy đinh của pháp luật.
• Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các
cơ quan quản lý Nhà nước theo quy định của Bộ Thương mại.

Về tổ chức
Ban quản lý chợ có Trưởng ban và có một đến hai Phó trưởng ban. Trưởng ban, Phó
trưởng ban do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật.
Trưởng Ban quản lý chợ chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền về
toàn bộ hoạt động của chợ và của Ban quản lý chợ. Phó trưởng ban có trách nhiệm giúp
trưởng ban và chịu trách nhiệm trước Trưởng ban thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ

do Trưởng ban phân công.
Căn cứ tính chất, đặc điểm, khối lượng công việc và khả năng tài chính, Trưởng ban
quản lý chợ quyết định việc tổ chức các bộ phận chuyên môn nghiệp vụ giúp việc quản
lý, điều hành chợ hoạt động và tổ chức các dịch vụ tại chợ; ký hợp đồng tuyển dụng lao
9/26


động, các hợp đồng khác với các cơ quan, doanh nghiệp về đảm bảo vệ sinh môi trường,
phòng cháy chữa cháy, an ninh trật tự… trong phạm vi chợ theo quy định của pháp luật.

Các khoản thu từ hoạt động của chợ
Ban quản lý chợ được thu các khoản sau:
1. Thu về cho thuê, sử dụng địa điểm kinh doanh tại chợ; cung cấp dịch vụ, hàng
hoá:
◦ Thu tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ theo hợp đồng sử dụng,
thuê điểm kinh doanh;
◦ Thu từ việc cung cấp các dịch vụ bốc xếp hàng hoá, kho bãi để lưu giữ
hàng hoá, dịch vụ bảo vệ theo hợp đồng cụ thể và các dịch vụ khác;
◦ Thu khác: Thu được trích để lại theo hợp đồng uỷ nhiệm thu (thu phí,
thu tiền điện, nước và các khoản có liên quan đến hoạt động kinh doanh
tại chợ); thu tiền phạt, tiền bồi thường hợp đồng (nếu có) đối với các tổ
chức, cá nhân tham gia kinh doanh tại chợ do vi phạm các quy định
trong hợp đồng kinh tế ký kết với Ban quản lý chợ.
2. Các loại phí theo quy định của Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28 tháng 8 năm
2001, bao gồm:
◦ Phí chợ;
◦ Phí trông giữ xe;
◦ Phí vệ sinh.
Mức thu các loại phí trên thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương theo hướng dẫn chung của Bộ Tài chính

• Phí phòng cháy, chữa cháy.

Quản lý, sử dụng các khoản thu, chi ở chợ
Ban quản lý chợ được sử dụng các khoản thu ở trên để chi cho các nội dung sau:
Đối với chợ loại 1 và loại 2:
• Chi hoàn trả vốn đầu tư xây dựng chợ.
• Chi cho người lao động: Chi tiền lương, tiền công, tiền ăn ca, các khoản phụ
cấp lương, các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn
theo quy định.
• Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, điện, nước, thông tin liên lạc, họp
bàn, hội nghị tổng kết, sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà cửa, máy
móc, thiết bị…
• Chi cho các hoạt động tổ chức thu (kể cả thu theo hợp đồng uỷ nhiệm thu).
10/26


• Chi cho các hoạt động cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, trích khấu hao tài
sản cố định).
• Chi khác.
Ban quản lý chợ được thực hiện chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu
Đối với chợ loại 3:
• Chi trả hoàn vốn đầu tư xây dựng chợ.
• Chi tiền công cho người lao động.
• Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, điện, nước, thông tin liên lạc, sửa
chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà cửa, máy móc, thiết bị…
• Chi cho các hoạt động tổ chức thu (kể cả các hoạt động thu theo hợp đồng uỷ
nhiệm thu).
• Chi cho các hoạt động cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, khấu hao tài sản
cố định).
• Chi khác.

Ban quản lý chợ được sử dụng số thu để chi các khoản theo quy định, số thu còn lại nộp
ngân sách Nhà nước theo quy định phân cấp quản lý ngân sách hiện hành.
Quyết toán các khoản thu, chi hoạt động của Ban quản lý chợ
• Hàng năm, Ban quản lý chợ xây dựng dự toán, lập báo cáo quyết toán thu, chi
kinh phí hoạt động trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo sự phân cấp
quản lý chợ.
• Ban quản lý chợ thực hiện công tác kế toán, thống kê và báo cáo tài chính theo
quy định của Nhà nước về chế độ kế toán, thống kê áp dụng cho các đơn vị
hành chính sự nghiệp.

11/26


Tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh
nghiệp (Doanh nghiệp kinh doanh khai thác
và quản lý chợ)
Khái niệm:
Để hiều được doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ là gì trước hết cần phải
định nghĩa khái niệm doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các
hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp là một danh từ chung để chỉ các đơn vị kinh doanh
thuộc các loại hình khác nhau như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Theo Luật doanh nghiệp được Quốc hội khoá X thông qua năm 1999 thì doanh nghiệp
là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Vậy tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp (doanh nghiệp kinh doanh, khai
thác và quản lý chợ) là gì?
Ta coi chợ như một tổ chức hoạt động kinh doanh bình thường, các công ty, các cá nhân,
các tổ chức có mong muốn đều có thể tham gia đầu tư và tiến hành xây dựng chợ, các

cấp chính quyền địa phương thông báo mời thầu. Các tổ chức, các cá nhân có khả năng
có thể tham gia đấu thầu. Thông qua đấu thầu có thể chọn ra được một tổ chức, một cá
nhân có năng lực nhất để tiến hành đầu tư, kinh doanh, khai thác, tổ chức và quản lý chợ
đó. Khi đó, địa phương trên cơ sở là chủ sở hữu đất cho thuê, có thể thu phí hàng năm,
ngoài ra còn có thể thu thêm Thuế Doanh nghiệp theo quy định của pháp luật (vì đây là
doanh nghiệp đầu tư để kinh doanh chợ).
Doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh chợ sẽ có doanh thu từ các khoản phí cho thuê địa
điểm chợ, các sạp chợ, các dịch vụ ở chợ… và cũng phải hoạt động độc lập như các
doanh nghiệp kinh doanh khác, vẫn chịu ảnh hưởng điều chỉnh của Luật doanh nghiệp.
Tuy nhiên, các tổ chức, cá nhân khi tiến hành kinh doanh phải thu phí với một mức phí
hợp lý, để đảm bảo cho các hộ kinh doanh có thể buôn bán được tại chợ. Ngoài ra còn
có thể yêu cầu phía đơn vị kinh doanh lấy lao động trực tiếp ở các địa phương nhằm giải
quyết việc làm cho lao động địa phương.

12/26


Vậy: Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ là một doanh nghiệp được
thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh chợ, đăng ký
kinh doanh và hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Nhiệm vụ, quyền hạn của doanh nghiệp kinh doanh, khai thác và quản lý
chợ
Doanh nghiệp kinh doanh, khai thác và quản lý chợ là đơn vị kinh tế hoạt động theo
Luật doanh nghiệp và các văn bản quy định của pháp luật, có trách nhiệm và quyền hạn
tổ chức thực hiện các quy định dưới sau:
• Được tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ trong phạm vi doanh nghiệp quản
lý.
• Đảm bảo công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong phạm vi chợ.

• Xây dựng Nội quy trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt theo
phân cấp quản lý chợ, tổ chức điều hành chợ hoạt động theo Nội quy chợ và xử
lý các vi phạm về Nội quy chợ.

13/26


• Bố trí, sắp xếp khu vực kinh doanh đảm bảo các yêu cầu về trật tự, vệ sinh, văn
minh thương mại và phù hợp với yêu cầu của thương nhân kinh doanh tại chợ.
• Ký kết hợp đồng với các thương nhân về việc thuê, sử dụng điểm kinh doanh
tại chợ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
• Tổ chức thông tin kinh tế, phổ biến chính sách, quy định của pháp luật và nghĩa
vụ đối với Nhà nước của thương nhân kinh doanh tại chợ theo hướng dẫn của
cơ quan chức năng.
• Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các
cơ quan quản lý Nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Thương mại.

Các khoản thu từ hoạt động chợ
Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ được thu các khoản giống như Ban
quản lý chợ, bao gồm:
• Thu về cho thuê, sử dụng địa điểm kinh doanh tại chợ; cung cấp dịch vụ, hàng
hoá:
• Thu tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ theo hợp đồng sử dụng, thuê
diểm kinh doanh.
• Thu từ việc cung cấp các dịch vụ bốc xếp hàng hoá, kho bãi để lưu giữ hàng
hoá, dịch vụ bảo vệ theo hợp đồng cụ thể và các dịch vụ khác.
• Thu khác: Thu được trích để lại theo hợp đồng uỷ nhiệm thu (thu phí, thu tiền
điện, nước và các khoản có liên quan đến hoạt động kinh doanh tại chợ); thu
tiền phạt, tiền bồi thường hợp đồng (nếu có) đối với các tổ chức, cá nhân tham
gia kinh doanh tại chợ do vi phạm các quy định trong hợp đồng kinh tế ký kết

với Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ.
• Các loại phí theo quy định của Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28 tháng 8 năm
2001, bao gồm:
• Phí chợ.
• Phí trông giữ xe.
• Phí vệ sinh.
Mức thu các loại phí nêu trên thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng dẫn chung của Bộ Tài chính.

Quản lý, sử dụng các khoản thu, chi ở chợ:
• Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ được thu các khoản thu nêu
trên.
• Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải xây dựng kế hoạch
kinh doanh và phương án tài chính cho hoạt động của mình. Việc xây dựng
phương án tài chính dựa trên cơ sở các khoản thu để sử dụng chi cho các mục

14/26


đích như hoàn trả vốn đầu tư xây dựng chợ, các chi phí cần thiết cho hoạt động
của doanh nghiệp.
• Tuỳ thuộc vào loại hình tổ chức (doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã, công ty
cổ phần…) và quy mô hoạt động của các loại chợ, doanh nghiệp kinh doanh
khai thác và quản lý chợ được áp dụng với quy định hiện hành phù hợp với mỗi
loại hình để tổ chức công tác kế toán, thống kê, quản lý và sử dụng các khoản
thu, chi liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
• Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải thực hiện chế độ quyết
toán và báo cáo tài chính doanh nghiệp theo quy định pháp luật.
Nhận xét chung: Mô hình tổ chức quản lý chợ chủ yếu hiện nay ở nước ta là Ban quản
lý chợ. Một số nơi đã mạnh dạn thành lập doanh nghiệp quản lý chợ thuộc các thành

phần kinh tế như ở Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần Thơ, Đồng Nai, Thành
phố Hà Nội. Đã có cá nhân, các Công ty cổ phần, các Hợp tác xã tiến hành đầu tư, kinh
doanh khai thác và quản lý chợ, trong đó có một số chợ gọi là công ty chợ như Công
ty cổ phần chợ Đồng Xuân - Hà Nội. Nhìn chung, công tác quản lý chợ theo hình thức
doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ có hiệu quả hơn, khai thác triệt để
các nguồn thu, công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự…
được quan tâm và đảm bảo hơn.
Sự xuất hiện của các loại hình quản lý (cụ thể là hai loại hình trên) có thể thấy rõ rằng,
sự quản lý chợ ở nước ta đã dần dần được chuyên nghiệp hoá và cách bố trí cũng như
sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả hơn, đó là hiệu quả của công tác quản lý. Nó
hợp lý hoá cách phân bổ lực lượng lao động quản lý, phân cấp quản lý tạo nên sự thống
nhất, gắn trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể cho từng cá nhân, tập thể, để họ
hoạt động một cách độc lập, thống nhất và hiệu quả.
Số lượng chợ hoạt động hiệu quả ngày càng tăng bằng các hình thức quản lý chuyên
nghiệp, tạo nên sự phát triển vững mạnh của mạng lưới chợ ở nước ta. Số lao động quản
lý trong chợ ngày càng tăng, có tình chuyên môn, nghiệp vụ hơn là điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của chợ tại thời điểm hiện tại và cả trong tương lai.
Khi công tác quản lý chợ được thực hiện một cách chuyên nghiệp, mọi hoạt động của
chợ đều được lên kế hoạch một cách hợp lý, hệ thống hạch toán kinh doanh có thể cho
biết kết quả của quá trình hoạt động của chợ, từ đó có thể đưa ra những phương án hiệu
quả để xử lý và khắc phục. Các hoạt động của chợ sẽ chủ động hơn khi chúng ta nắm
bắt được quy trình quản lý chợ một cách hợp lý (như các khâu: lập kế hoạch, tổ chức
thực hiện, lãnh đạo, kiểm tra và đánh giá tổng kết…)
Nói tóm lại, nhất thiết chúng ta phải xây dựng được một hệ thống quản lý ở các chợ
trong nước, mỗi chợ phải có một hình thức quản lý phù hợp thì nói mới có thể hoạt động
hiệu quả và có thể phát triển được trong tương lai.

15/26



Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số
nơi ở nước ta
Trong bối cảnh chợ phải đối đầu cạnh tranh gay gắt với các kênh bán lẻ khác như siêu
thị, cửa hàng và các đội quân bán hàng di động, nếu không theo kịp nhu cầu, thị hiếu
người tiêu dùng, mô hình chợ sẽ bị thu hẹp dần. Để vực dậy hoạt động chợ, chuyển đổi
mô hình tổ chức quản lý chợ là biện pháp khả thi mà một số nơi đang tiến hành.

Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở Thành phố Hồ Chí Minh: tư nhân quản
lý chợ.
Mặc dù chợ là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ
cho đời sống hàng ngày của người người dân, nhưng nhắc đến chợ nhiều người tỏ ra rất
ngán ngẩm, đó là do chuyện mất vệ sinh môi trường, lối đi thì nhỏ hẹp và lầy lội, thêm
nữa là vấn nạn tiểu thương nói thách, cân thiếu và vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tình trạng chợ dơ bẩn, nhếch nhác có thể nói là rất nhiều, nhất là các loại chợ tạm, chợ
cóc. Do vậy, người dân thường chọn cách đi siêu thị, dù giá có nhỉnh hơn chút ít nhưng
mua sắm thoải mái và sạch sẽ.
Theo Báo cáo của Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh, hiện thành phố có khoảng
120 chợ chưa phù hợp với quy hoạch (chưa kể các chợ tự phát) nằm rải rác ở các Quận
như quận Gò Vấp, quận Bình Thạnh, quận 8… Nhiều chợ không có bãi giữ xe hoặc họp
chợ gần ngay lòng lề đường, gây kẹt xe, mất trật tự trên địa bàn. Ngoài ra Ban quản lý
chợ năng lực còn hạn chế nên không tổ chức quản lý tốt và không đảm bảo được tính
văn minh thương mại trong chợ.
Trong bối cảnh đó thì tại Thành phố Hồ Chí Minh trong vòng 10 năm nay, có tới gần
50 siêu thị, chưa kể các siêu thị thực phẩm nhỏ - minimart đã ra đời, thu hút dần lượng
khách của các chợ. Trước đây, siêu thị được đánh giá là nơi mua sắm dành cho những
người có thu nhập cao, nhưng hiện tại theo thăm dò và thống kê tại các siêu thị, đa phần
khách hàng thường xuyên của siêu thị là những người có thu nhập trung bình và khá.
Trước tình hình cạnh tranh găy gắt giữa các kênh bán lẻ truyền thống và hiện đại, tiểu
thương nhiều chợ đã lâm vào cảnh ế ẩm. Ở một số Quận, với những chợ do Nhà nước
quản lý, ngay cả chợ mới tôn tạo, phía Nhà nước cũng phải luôn bù lỗ huồng gì nói tới

việc thu nộp ngân sách.
Để thúc đẩy hoạt động chợ phát triển, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng trong dân thì việc
nâng cấp, thay đổi cách quản lý chợ là rất cần thiết. Chính vì vậy, Nghị định số 02/2003/
NĐ-CP của Chính phủ đã khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, xây

16/26


dựng và khai thác chợ. Trước mặt tư nhân mới chỉ đấu thầu kinh doanh chợ (do Nhà
nước xây dựng, làm chủ đầu tư), chứ chưa bỏ tiền để xây dựng toàn bộ chợ.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1992, Sở Thương Mại thành phố đã thí điểm cho
tư nhân đấu thầu kinh doanh chợ, nhưng ban đầu mới chỉ đấu thầu từng phần (bãi giữ
xe, thu lệ phí…) cho tới cuối năm 2004 thì đã có 18 chợ được đấu thầu toàn phần.
Trước khi cho tư nhân quản lý, tổng doanh thu tại các chợ thuộc một số quận chỉ đủ bù
đắp cho chi phí quản lý chợ, còn chi phí đầu tư sửa chữa đều do Ngân sách Nhà nước bỏ
ra. Nhưng sau khi tổ chức đấu thầu, tổng số thu nộp ngân sách tăng lên, thậm chí tăng
lên 10 lần so với trước.
Chợ Tân Phú (thuộc quận Tân Bình) là chợ loại 2 (quy mô 310 sạp), được tổ chức đấu
thầu vào cuối năm 2001. Người trúng thầu là một cá nhân. Trước khi đấu thầu, chợ này
nộp ngân sách chỉ khoảng 4,5 triệu đồng/tháng, nhưng hiện nay đã tăng lên gần 30 triệu
đồng/tháng. Ngoài ra, các chi phí sửa chữa, tân trang chợ, thuê nhân viên đều do chợ tự
lo, không phải ngân sách cấp.
Còn đối với chọ Tân Hương (quận Tân Bình) đơn vị trúng thầu là Hợp tác xã Tân Tiến.
Khi chợ còn thuộc sự quản lý của phường, việc thu chi cũng không cân đối đủ, huống gì
chuyện sửa chữa chợ, dẫn đến tình trạng chợ xuống cấp, tiểu thương và dân cư kêu ca.
Đến nay, ngoài việc nộp ngân sách Nhà nước mỗi năm chợ bỏ ra từ 50-60 triệu đồng để
duy tu, sửa chữa quầy sạp.
Tư nhân trực tiếp đứng ra quản lý được chủ động hoàn toàn vấn đề tài chính nhưng vẫn
theo chủ trương của Nhà nước, được Nhà nước theo dõi và hỗ trợ nên hiệu quả sẽ cao
hơn quản lý theo kiểu bao cấp. Một khi tư nhân tự bỏ vốn và đứng ra quản lý thì họ sẽ

tìm ra phương án kinh doanh tốt nhất để thu được lợi nhuận cho mình, nếu không họ sẽ
bị phá sản.
Ngoài vấn đề tài chính, vấn đề vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy, an ninh trật
tự… cũng được quản lý sâu sát hơn. Theo Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh,
trước kia (khi chưa tư nhân hoá) các vấn đề trên do phường, quận thực hiện, phải có sự
phối hợp giữa nhiều cơ quan chức năng khác nhau và phải chi cho ngân sách địa phương
nên chỉ được thực hiện một cách lỏng lẻo. Tại các chợ đã giao thầu, vấn đề trên được
cải thiện hơn so với chợ do Nhà nước trực tiếp trực tiếp quản lý. Ngoài ra các quầy sạp
cũng được bố trí ngăn nắp, gọn gàng hơn nên số tiểu thương tăng đáng kể.
Sau thời gian thí điểm đạt hiệu quả, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ban
hành quy chế đấu thầu chợ (có hiệu lực từ ngày 30/09/2004). Trên cơ sở đó, Sở Thương
mại sẽ tiếp tục tổ chức đấu thầu nhiều chợ tiếp theo trong thời gian tới.
Việc cho tư nhân đầu thấu chợ là cơ chế quản lý tiến bộ, tăng ngân sách Nhà nước, giảm
chi phí quản lý và nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý chợ. Tuy nhiên, từ nay, các
17/26


cá nhân không còn được tham gia đấu thầu mà phải là các tổ chức kinh tế (doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã…, trừ những doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài). Một tổ chức hay doanh nghiệp sẽ có kinh nghiệm quản lý tốt hơn cá nhân,
hơn nữa, để trúng thầu còn phải có tiềm lực tài chính mạnh và uy tín trong kinh doanh.
Sở Thương mại sẽ chọn lọc những đối tượng dự thầu đầy đủ năng lực quản lý và tổ chức
đấu thầu minh bạch, công khai.
Khi tư nhân kinh doanh chợ, trước hết họ phải tìm cách thu hút các tiểu thương (bằng
chính sách, cơ sở vật chất và an ninh tốt). Nếu hoạt động của chợ văn minh lịch sự thì
người tiêu dùng chắc chắn sẽ gắn bó với chợ, vì chợ vốn là nét văn hoá độc đáo của dân
tộc.

Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số tỉnh khu vực Đồng bằng Sông
Cửu Long: Hợp tác xã quản lý chợ.

Theo Thống kê thì Thành phố Cần Thơ có 88 chợ, khoảng trên 50% là chợ loại 3. Nhiều
chợ xã, phường, thị trấn tương đối kiên cố nhưng không ít nơi còn nhếch nhác do thiếu
quan tâm tổ chức, quản lý, sắp xếp ngành. Nguồn phí chợ thu được ít địa phương trích
lại một phần cho tái đầu tư phát triển chợ. Bên cạnh đó, các Ban quản lý chợ còn yếu
kém, ít kinh nghiệm, chu yếu lo tập trung vào thu lệ phí… chứ không mấy bận tâm đến
công tác thăm dò thị trường, định kế hoạch phát triển khai thác chợ sao cho người bán
thì mong muốn có một chỗ trong chợ để buôn bán thuận lợi, còn người mua thì khi có
nhu cầu cũng nghĩ ngay đến chợ "sạch sẽ ngăn nắp, giá cả phải chăng, cân đo trung
thực". Đây là hiện trạng khá phổ biến ở Thành phố Cần Thơ. Do đó để thúc đẩy hoạt
động chợ phát triển, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng của dân cư, việc thay đổi hình thức
tổ chức quản lý đã được tiến hành. Uỷ ban nhân dân Thành phố Cân Thơ đã giao 17 chợ
cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng, khai thác kinh doanh. Mặc dù đến nay mới chỉ
có một số chợ do Công ty Thương mại Tổng hợp Thành phố Cần Thơ khai thác được,
số còn lại bị vướng mắc ở khâu giải phóng mặt bằng nhưng các chợ khai thác được đều
kinh doanh rất tốt, nộp ngân sách tăng nhanh.
Đến nay, Liên minh Hợp tác xã Thành phố Cần Thơ đã phối hợp với Sở Thương mại
khảo sát mạng lưới chợ, chủ yếu là các chợ laọi 3 trên toàn thành phố, tiến hành các
bước vận động tổ chức thí điểm Hợp tác quản lý chợ ở một số chợ thuộc quận ninh Kiều.
Bên cạnh đó ở huyện Gò Công Tây (tỉnh Tiền Giang) có Hợp tác xã Bình Tây từ một
Hợp tác xã Nông nghiệp chuyển sang "đa ngành nghề" đã thực hiện mô hình khai thác
chợ khá hiệu quả, đem lại việc làm thu nhập ổn định cho các xã viên, hàng hoá đổ về
chợ ngày càng phong phú. Hợp tác xã Bình Tây không chỉ quan tâm tạo ra một cái chợ
sầm uất mà còn làm đầu mối giao thương với các vùng lân cận. Hàng năm ngoài việc
nộp ngân sách Nhà nước, Hợp tác xã còn đầu tư 30-40 triệu đồng cho việc nâng cấp, sửa
chữa, duy tu các quầy sạp trong chợ.

18/26


Hợp tác xã chợ - nếu được tổ chức thực hiện tốt sẽ là bước cải tiến mang tính đột phá về

công tác quản lý, hiệu quả đầu tư, thu hút mạnh vốn trong dân, đẩy mạnh giao thương,
kích cầu tiêu dùng và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

19/26


Phân loại chợ trong mạng lưới chợ ở nước
ta
Theo địa giới hành chính:
Có hai loại chợ tồn tại theo tiêu thức này là chợ đô thị và chợ nông thôn.
Chợ đô thị:
Là các loại chợ được tổ chức, tụ họp ở thành phố, thị xã, thị trấn. Do ở đây, đời sống và
trình độ văn hoá có phần cao hơn ở nông thôn, cho nên các chợ thành phố có tốc độ hiện
đại hoá nhanh hơn, văn minh thương mại trong chợ cũng được chú trọng, cơ sở vật chất
ngày càng được tăng cường, bổ sung và hoàn chỉnh. Phương tiện phục vụ mua bán, hệ
thống phương tiện truyền thông và dịch vụ ở các chợ này thường tốt hơn các chợ ở khu
vực nông thôn.
Chợ nông thôn:
Là chợ thường được tổ chức tại trung tâm xã, trung tâm cụm xã. Hình thức mua bán ở
chợ đơn giản, dân dã (có nơi, như ở một số vùng núi, người dân tộc thiểu số vẫn còn
hoạt động trao đổi bằng hiện vật tại chợ), các quầy, sạp có quy mô nhỏ lẻ, manh mún.
Nhưng ở các chợ nông thôn thể hiện đậm đà bản sắc truyền thống đặc trưng ở mỗi địa
phương, của các vùng lãnh thổ khác nhau.

Theo tính chất mua bán:
Dựa theo tiêu thức này, ta có thể phân chia thành hai loại là chợ bán buôn và bán lẻ.
Chợ bán buôn:
Là các chợ lớn, chợ trung tâm, chợ có vị trí là cửa ngõ của thành phố, thị xã, thị trấn, có
phạm vi hoạt động rộng, tập trung vói khối lượng hàng hoá lớn. Hoạt động mua bán chủ
yếu là thu gom và phân luồng hàng hoá đi các nơi. Các chợ này thường là nơi cung cấp

hàng hoá cho các trung tâm bán lẻ, các chợ bán lẻ trong và ngoài khu vực, nhiều chợ còn
là nơi thu gom hàng cho xuất khẩu. Các chợ này có doanh số bán buôn chiếm tỷ trọng
cao (trên 60%), đồng thời vẫn có bản lẻ nhưng tỷ trọng nhỏ.

20/26


Chợ bán lẻ:
Là những chợ thuộc phạm vi xã, phường (liên xã, liên phường), cụm dân cư, hàng hoá
qua chợ chủ yếu để bán lẻ, phục vụ trực tiếp cho người tiêu dùng.

Theo đặc điểm mặt hàng kinh doanh:
Có chợ tổng hợp và chợ chuyên doanh.
Chợ tổng hợp:
Là chợ kinh doanh nhiều loại hàng hoá thuộc nhiều ngành hàng khác nhau. Trong chợ
tồn tại nhiều loại mặt hàng như: hàng tiêu dùng (quần áo, giày dép, các mặt hàng lương
thực thực phẩm, hàng gia dụng…), công cụ lao động nông nghiệp (cuốc, xẻng, liềm
búa…), cây trồng, vật nuôi…, chợ đáp ứng toàn bộ các nhu cầu của khách hàng. Hình
thức chợ tổng hợp này thể hiện khái quát những đặc trưng của chợ truyền thống, và ở
nước ta hiện nay loại hình này vẫn chiếm ưu thế về số lượng cũng như về thời gian hình
thành và phát triển.
Chợ chuyên doanh:
Là loại chợ chuyên kinh doanh một mặt hàng chính yếu, mặt hàng này thường chiếm
doanh số trên 60% đồng thời vẫn có bán một số mặt hàng khác, các loại hàng này có
doanh số dưới 40% tổng doanh thu. Hình thức chợ này cũng tồn tại ở nước ta như chợ
vải, chợ hoa tươi, chợ vật liệu xây dựng, chợ rau quả, chợ giống cây trồng…

Theo số lượng hộ kinh doanh, vị trí và mặt bằng của chợ:
Dựa theo cách phân loại trong Điều 3 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ về
phát triển và quản lý chợ thì chợ được chia thành 3 loại: chợ loại 1, chợ loại 2 và chợ

loại 3.
Chợ loại 1 là chợ phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
• Là chợ có trên 400 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố, hiện đại
theo quy hoạch;
• Được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế thương mại quan trọng của tỉnh, thành
phố hoặc là chợ đầu mối của ngành hàng, của khu vực kinh tế và được tổ chức
họp thường xuyên;
• Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức
đầy đủ các dịch vụ tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng
hoá, dịch vụ đo lường, dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn
thực phẩm và các dịch vụ khác.
21/26


Chợ loại 2 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
• Là chợ có trên 200 diểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc là bán
kiên cố theo quy hoạch;
• Được đặt ở trung tâm giao lưu kinh tế của khu vực và được tổ chức họp thường
xuyên hay không thường xuyên;
• Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức
các dịch vụ tối thiểu tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản
hàng hoá, dịch vụ đo lường.
Chợ loại 3 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
• Là chợ có dưới 200 điểm kinh doanh hoặc các chợ chưa được đầu tư xây dựng
kiên cố hoặc bán kiên cố;
• Chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán hàng hoá của nhân dân trong xã, phường và
địa bàn phụ cận.

Theo tính chất và quy mô xây dựng:
Theo tiêu chí này, chợ được chia thành chợ kiên cố, chợ bán kiên cố và chợ tạm:

Chợ kiên cố:
Là chợ được xây dựng hoàn chỉnh với đủ các yếu tố của một công trình kiến trúc, có độ
bền sử dụng cao (thời gian sử dụng trên 10 năm). Chợ kiên cố thường là chợ loại 1 có
diện tích đất hơn 10.000 m2 và chợ loại 2 có diện tích đất từ 6000-9000 m2. Các chợ
kiên cố lớn thường nằm ở các tỉnh, thành phố lớn, các huyện lỵ, trị trấn và có thời gian
tồn tại lâu đời, trong một thời kỳ dài và là trung tâm mua bán của cả vùng rộng lớn.
Chợ bán kiên cố:
Là chợ chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Bên cạnh những hạng mục xây dựng kiên cố
(tầng lầu, cửa hàng, sạp hàng) còn có những hạng mục xây dựng tạm như lán, mái che,
quầy bán hàng…, độ bền sử dụng không cao (dưới 10 năm) và thiếu tiện nghi. Chợ bán
kiên cố thường là chợ loại 3, có điện tích đất 3000-50000 m2. Chợ này chủ yếu phân bổ
ở các huyện nhỏ, khu vực thị trấn xa xôi, chợ liên xã, liên làng, các khu vực ngoài thành
phố lớn.
Chợ tạm:
Là chợ mà những quầy, sạp bán hàng là những lều quán được làm có tính chất tạm thời,
không ổn định, khi cần thiết có thể dỡ bỏ nhanh chóng và ít tốn kém. Loại chợ này

22/26


thường hay tồn tại ở các vùng quê, các xã, các thôn, có chợ được dựng lên để phục vụ
trong một thời gian nhất định (như tết, lễ hội…).

23/26


×