Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY DỰ ÁN PHÁT TRIỂN TẠI NHĐT VÀ PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.88 KB, 33 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY DỰ ÁN PHÁT TRIỂN TẠI NHĐT
VÀ PHÁT TRIỂN
I. Vai trò của NHĐT và Phát triển trong việc tài trợ cho dự án phát triển
1. Vai trò của dự án phát triển
1.1. Khái niệm dự án phát triển
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ. Về mọi hình thức dự
án là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết có hệ thống các hoạt
động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được nông nghiệp kết quả và thực
hiện được nông nghiệp mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản
lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để
tạo ra các kết quả kinh tế tài chính trong một thời gian dài. Trên góc độ kế
hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kết quả chi tiết của một công
cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho các
quyết định đầu tư và tài trợ dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt
nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Xét về mặt nội
dung, dự án đầu tư là một tập hợp riêng biệt nông nghiệp hoạt động đầu tư,
vạch chính sách xây dựng thể chế và các hoạt động khác nhằm thực hiện một
hay một nhóm mục tiêu phát triển nhất định trong một thời gian đã xác định.
Như vậy, một dự án có thể bao gồm một vài hoặc tất cả 5 yếu tố sau đây:
+ Đầu tư vốn vào các công trình dân dụng, vào trang thiết bị hoặc cả hai
(gọi là gạch và vừa của dự án).
+ Cung cấp các dịch vụ thiết kế và xây dựng công nghệ, giám sát thi công,
cải tiến cách điều hành và bảo dưỡng.
+ Củng cố các tổ chức địa phương có liên quan đến thực hiện và điều hành
dự án kể cả đào tạo những người quản lý và biên chế tại địa phương.
+ Cải tiến các chính sách như chính sách giá cả, trợ cấp thu hồi chi phí tác
động đến việc thực hiện dự án và mối quan hệ giữa dự án với ngành cùng với
những mục tiêu phát triển rộng lớn hơn của đất nước.
+ Xây dựng kế hoạch nhằm thực hiện những công việc nói trên nhằm thực
hiện mục tiêu dự án trong thời gian quy định.
Dự án phát triển thực chất cũng là một dự án đầu tư, được tài trợ bởi các


chính phủ các tổ chức phi chính phủ để đạt được các mục tiêu lớn mang tính
chất toàn quốc hay toàn cầu, những mục tiêu này có thể là mục tiêu xã hội
cũng có thể là những mục tiêu kinh tế hoặc kinh tế - xã hội.
Các dự án phát triển thường phải có vốn lớn, thời gian dài, nếu xét về hiệu
quả kinh tế thì khá thấp hiệu quả của các dự án này đem lại chủ yếu mang tính
chất phát triển đất nước, mang tính chất xã hội vì thế rất khó đo lường được.
Các dự án phát triển nếu được thực hiện thì nó đem lại lợi ích chung cho toàn
xã hội, cho cả cộng đồng, chính vì vậy, với những dự án đầu tư như thế đòi hỏi
phải có sự tài trợ của chính phủ, của các tổ chức phát triển kinh tế, các tổ chức
xã hội trên thế giới thì mới thực hiện được bởi không một cá nhân nào đủ sức
làm được. Điều này rất dễ hiểu vì các cá nhân khó có thể có được số vốn lớn và
nếu có khi họ đầu tư thì mục tiêu đầu tiên là lợi nhuận mà họ có thể có được từ
việc đầu tư nhanh nhất và nhiều nhất.Chúng ta đã biết rằng trong lợi ích tập
thể luôn phải có lợi ích cá nhân.
Hơn thế nữa những dự án phát triển nếu tính theo chi phí trên thị trường
thì thường không mang lại hiệu quả kinh tế. Với sự tài trợ của chính phủ, của
các tổ chức sẽ làm giảm chi phí của dự án, làm tăng thu nhập và từ đó đem lại
tính khả thi cho dự án.
1.2. Vai trò của dự án phát triển
Hoạt động đầu tư vôn (gọi tắt là đầu tư) là quá tình sử dụng vốn đầu tư
nhằm tái sản xuất đơn giản và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ
thuật của nền kinh tế nói chung của địa phương của ngành và của các cơ sở
sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng.
Hoạt động đầu tư có những đặc điểm nổi bật sau đây:
+ Thời gian kể từ khi bắt đầu tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi
thành quả của công cuộc đầu tư đó phát huy tác dụng đem lại lợi ích kinh tế xã
hội phải kéo dài trong nhiều năm.
+ Số tiền cần để chi phí cho một công cuộc đầu tư khá lớn và phải nằm
khê đọng, không vận động suốt quá trình đầu tư.
+ Các thành quả của quá trình thực hiện đầu tư cũng do những đặc điểm

trên đây và có thể được sử dụng trong nhiều năm, đủ để lại các lợi ích thu
được tương ứng và lớn hơn những chi phí đã bỏ ra trong suốt quá trình thực
hiện đầu tư, chỉ có như vậy công cuộc đầu tư mới được coi là hiệu quả .
+ Nhiều thành quả của quá trình thực hiện đầu tư có giá trị sử dụng hàng
trăm ngàn năm như các công trình kiến trúc cổ trên thế giới.
+ Các thành quả của quá trình thực hiện đầu tư là các công trình xây
dựng, kiến trúc như các nhà máy, hầm mỏ, công trình thuỷ điện, các công trình
thuỷ lợi, đường xá cầu cống, bến cảng. Để đảm bảo mọi công cuộc đầu tư được
thuận lợi, đạt mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu qảu kinh tế xã hội cao thì
trước khi bỏ vốn phải làm công tác chuẩn bị. Có nghĩa là phải xem xét tính toán
toàn diện các khía cạnh kinh tế kỹ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội,
pháp lý...có liên quan đến quá trình thực hiện và phải dự đoán các yếu tố bất
định sẽ xảy ra trong quá trình kể từ khi thực hiện đầu tư đến khi kết thúc sự
phát huy tác dụng ( theo dự kiến trong dân) có ảnh hưởng đến sự thành bịa
của công cuộc đầu tư. Mọi sự xem xét, tính toán và chuẩn bị được thể hiện
trong dự án đầu tư.Có thể nói, dự án đầu tư (được soạn thảo tốt) là kim chỉ
nam là cơ sở vững chắc, là tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt
hiệu quả kinh tế xã hội mong muốn.
Trong quá trình phát triển sôi động và trọng tâm của nó luôn luôn thay
đổi, cách tiếp cận dự án đứng vững như một phương pháp đã tôi luyện để
quản lý việc sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được những mục tiêu phát triển
quan trọng. Cách tiếp cận này đã giúp các nước đang phát triển hình thành
những tổ chức vững chắc để làm cho kinh tế tăng trưởng trong trật tự, thực
hiện những đổi mới chính sách cần thiết làm cho các dự án đạt kết quả tốt và
để tiến hành những hạng mục đầu tư có nghiên cứu thiết kế đúng đắn, khả thi
về tài chính và có căn cứ kinh tế.
Cách tiếp cận theo dự án rất khớp với quan điểm thực dụng trong công
cuộc phát triển ngày càng tăng lên ở nhiều nước hiện nay. Cộng đồng quốc tế
đã hiểu biết nhiều và các quá trình phát triển và đã hiểu rõ là không thể có một
đơn thuốc hay một khuôn mẫu duy nhất nào vượt qua được các vấn đề của sự

chậm phát triển. Ngày nay sự nghiệp phát triển kinh tế được nhận thức là một
quá trình học tập kinh nghiệm lâu dài, chậm rãi và nhiều khi đau xót. Tính
phức tạp và mối quan hệ lẫn nhau trong tổng thể nền kinh tế hiện đại đã bắt
buộc các nhà vạch chính sách phải rèn luyện và phải có đầu óc thực tế.
Nhận xét này càng được củng cố do những bước thăng trầm gần đây của
các nước suy thoái cắt giảm viện trợ và khủng hoảng nợ nần thay vào việc xây
dựng những mô hình kế hoạch hoá tập trung rất công phu người ta đã tập
trung sức lực vào 2 phương tiện sơ cấp trong tầm kiểm soát của họ để chỉ đạo
quá trình tăng trưởng.
+ Một chương trình đầu tư đúng đắn trong khu vực nhà nước, phân bố
các nguồn lực hiếm hoi cho những yêu cầu ưu tiên nhất của nhà nước.
+ Và môi trường chính sách hấp dẫn những ứng xử của các cá nhân, cá tổ
chức và trong khu vực nhà nước lẫn tư nhân- Điều nhấn mạnh ở đây là cần
phải thực tiễn, chứ không giáo điều, vừa làm vừa học, sử dụng những cái có
tác dụng và bỏ những cái không tác dụng. Điều này ngày càng tỏ ra đúng đắn
trong các nền kinh tế theo cơ chế hạch toán tập trung cũng như theo cơ chế thị
trường. Trong bối cảnh này, cách tiếp cận theo dự án tỏ ra là một công cụ linh
hoạt, có ích không kể là nước đó thuộc hệ thống nào, có loại hình chính phủ
nào và đang ở trong giai đoạn phát triển nào (tăng phát triển ).
Như vậy, chính phủ đã thực hiện công cuộc phát triển đất nước thông qua
các dự án phát triển. Nếu như không có các dự án phát triển mà chỉ có các dự
án thương mại thì chúng ta thử hình dung xem điều gì sẽ xảy ra: một nền kinh
tế với cơ sở hạ tầng thấp kém, không trường học, bệnh viện, một đất nước mà
tài nguyên bị cạn kiệt, môi trường, bị phá huỷ, một xã hội mà người giàu ngày
càng giàu, người nghèo ngày càng nghèo đi...
Với những dự án phát triển của mình, chính phủ đưa đất nước hoạt động
linh hoạt theo đúng quỹ đạo, điều khiển được những hoạt động trong nền kinh
tế đến đúng mục tiêu đã đề ra. Nếu không, những lợi ích của toàn xã hội sẽ bị
chà đạp bởi các lợi ích cá nhân.
Đối với những nước kém phát triển và đang phát triển thì dự án phát

triển lại càng có ý nghĩa. Các dự án phát triển không chỉ giúp chính phủ các
nước này thực hiện được các chương trình đầu tư đúng đắn phân bổ các
nguồn lực khan hiếm vào những lĩnh vực ưu tiên mà còn là công cụ hữu hiệu
để chính phủ kêu gọi sự giúp đỡ tài trợ của các chính phủ, các tổ chức trên
toàn thế giới góp phần phát triển đất nước.
Những nước kém phát triển và đang phát triển có rất nhều công trình
phải thực hiện nhưng do ngân sách hạn hẹp, khả năng tài chính thấp do đó cần
phải tranh thủ được các nguồn tài trợ của các tổ chức trên thế giới cho các dự
án của mình khi mà mục tiêu của các dự án đó phù hợp với mục tiêu của các tổ
chức này.
Tựu chung lại, quan niệm dự án phát triển đã cung cấp một cách tiếp cận
có hệ thống và phương pháp để phân tích và quản lý một loạt các hoạt động
đầu tư.
2. Ngân hàng đầu tư và phát triển với vai trò tài trợ cho dự án phát
triển
Trên thế giới, ngân hàng đầu tư và phát triển được hình thành từ nhu cầu
cấp bách về nguồn vốn trung và dài hạn. Tại các nước kém phát triển và đang
phát triển, nhu cầu về vốn trung và dài hạn rất lớn, song hệ thống ngân hàng
thương mại (các thể chế tài chính chủ yếu ở các nước kém phát triển) lại
không có khả năng tìm kiếm, thoả mãn các yêu cầu ngày. Đầu tư của ngân sách
nhà nước thì lại thường rất nhỏ do các khoản thâm hụt gây ra; thị trường
chứng khoán kém phát triển hoặc không có. Do vậy cần tìm kiếm một thể chế
tài chính nhằm thoả mãn các nhu cầu về vốn trung và dài hạn cho phát triển
kinh tế.
Ngân hàng phát triển ra đời đáp ứng các mục tiêu xã hội trong tài trợ vốn
trung và dài hạn sự khan hiếm về nguồn vốn trung và dài hạn làm cho giá cả
của nguồn tiền naỳ rất đắt. Vì vậy không thể tài trợ cho các dự án dài hạn có tỷ
lệ sinh lời thấp song lại đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế.
Tình trạng này buộc nhà nước phải nắm quyền phân phối tín dụng theo lãi
suất nhất định cho những lĩnh vực những ngành nghề cần được ưu tiên.

Bên cạnh đó đã có những dự án mà nhà nước muốn thay đổi như một bộ
phận của chiến lược phát triển song laị được tài trợ bằng nguồn vốn vay vì có
như vậy mới có hiệu quả hơn là cấp phát bằng ngân sách nhà nước. Ngân
hàng phát triển đã tài trợ cho những dự án như vậy với sự tham gia của nhà
nước. Ngân hàng phát triển đã tài trợ cho những dự án như vậy với sự tham
gia của nhà nước.
Ngân hàng phát triển ra đời là sự đòi hỏi khách quan về nguồn vốn trung
và dài hạn. Ngân hàng phát triển là một tổ chức kinh doanh nhằm mục tiêu lợi
nhuận và phát triển.
Ngân hàng phát triển hoạt động có lợi nhuận có nghĩa là những khoản
cho vay của ngân hàng thực sự có hiệu quả, nếu ngân hàng có được lợi nhuận
thì chứng tỏ rằng nó có khả năng tài trợ cho các dự án và có thể dùng nhiều
tiền hơn cho các dự án vì thế NHTP coi chỉ tiêu hiệu quả tài chính như một
nhân tố bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Còn mục tiêu phát
triển thể hiện sự tài trợ của ngân hàng đối với các dự án phát triển. Nếu ngân
hàng có một dự án lành mạnh nó sẽ tạo ra sự phù hợp giữa mục tiêu quốc gia
và mục tiêu của Ngân hàng.
Còn Ngân hàng đầu tư có nguồn gốc từ các Ngân hàng thương mại ra đời
với vai trì tìm kiếm các nguồn tài chính trung và dài hạn, thúc đẩy thị trường
chứng khoán và các công ty cổ phần phát triển, quản lý các doanh mục đầu tư
cho khách hàng, tư vấn tài chính cho các dịch vụ khác.
Nói chung, NHĐT và phát triển ra đời để đáp ứng nhu cầu về nguồn vốn
lớn, thời gian sử dụng vốn dài, hay nói cách khác là tài trợ cho các dự án mà
trong đó các dự án phát triển là một đối tưọng quan trọng, chủ yếu của các
ngân hàng này.
NHĐT và phát triển Việt Nam ra đời không giống như các NHĐT và phát
triển trên thế giới, đó là một điều dễ hiểu bởi vì lúc đó chúng ta chưa có một hệ
thống ngân hàng nào cả mà nó được thành lập với vai trò đại diện cho chính
phủ với nhiệm vụ cấp phát vốn xây dựng đất nước khi giành độc lập tiến lên
CNXH .Do đó NHĐT và PTVN chưa có đầy đủ tính chất như một NHĐT và phát

triển. Có nghĩa là NHĐT và PTVN cấp phát vốn cho vay bằng nguồn cung cấp
ngân sách nhà nước cho các công trình xây dựng , cải tạo đất nước theo chỉ
định của chính phủ, mục tiêu lợi nhuận hầu như không có, ngân hàng là bộ
phận đóng vai trò thi hành các quyết định của chính phủ trong lĩnh vực cung
cấp quản lý vốn cho nền kinh tế . Đến năm 1990 Hội đồng nhà nước ban hành
hai pháp lệnh về ngân hàng tách hệ thống Ngân hàng thành hai bộ phận: Ngân
hàng trung ương là ngân hàng nhà nước Việt Nam có chức năng quản lý trong
lĩnh vực về tiền tệ và hệ thống các NHTM, NHĐT và phát triển, công ty tài
chính, hợp tác xã tín dụng có chức năng kinh doanh tín dụng dưới sự quản lý
của NHNN Việt Nam khi đó NHĐT & PTVN đã chủ ý tới lợi nhuận thực sự của
ngân hàng. Song cho đến năm 1997, khi mà nhiệm vụ cấp phát vốn đầu tư xây
dựng cơ bản chuyển sang cho tổng cục đầu tư, NHĐT & PTVN mới thực sự
bước vào thương trường. Và từ đây NHĐT và PTVN hoạt động như một tổ
chức kinh doanh tiền tệ với mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu phát triển.
II. Một vài chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả cho vay dự án phát triển tại NHĐT &
PT
1. Thực hiện tôt quy trình thẩm định dự án phát triển.
1.1.Vì sao phải thẩm định dự án phát triển trong ngân hàng
Cho vay là một nghiệp vụ ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Cho nên ở bất kỳ một thời kỳ
nào, bối cảnh nào, bối cảnh nào yêu cầu cơ bản của tín dụng ngân hàng vẫn là
"hiện thực khả thi và hiệu quả". Với NHĐT & PT, hoạt động cho vay các dự án
phát triển là phần lớn (chức năng vốn có của nó) vì thời gian cho vay dài, món
vay lớn nên sự rủi ro món vay cao hơn rất nhiều so với NHTM khác. Chính vì
vậy, trước khi quyết định cho vay một dự án ngân hàng phải xem xét một cách
kỹ lưỡng hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của dự án để hạn chế rủi ro và
đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.
a. Hạn chế rủi ro:
Với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, ngân hàng có chức năng
chủ yếu là "nhận tiền gửi để cho vay" có nghĩa dùng tiền của người này cho

người khác vay do đó hiệu quả sử dụng vốn vay là tiêu chuẩn quan tâm hàng
đầu của ngân hàng. Ngân hàng và doanh nghiệp có mối quan hệ tác động qua
lại lẫn nhau để cùng phát triển, song có những khách hàng của ngân hàng
không đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ theo những điều khoản đã thoả thuận
làm giảm khả năng bảo toàn vốn tín dụng của ngân hàng. Nếu ngân hàng xem
xét thận trọng quá trình cho vay và khách hàng làm ăn có hiệu quả, sử dụng
vốn vay đúng mục đích thì sẽ hoàn trả tiền vay đúng thời hạn, Ngân hàng sẽ có
tiền thanh toán cho người gửi tiền tránh sự vỡ nợ của ngân hàng. Nhưng
trong cuộc sống mấy ai học được chữ "ngờ", nợ quá hạn trong các ngân hàng
ngày một tăng trong đó nợ quá hạn trên một năm, nợ khó đòi, nợ không có khả
năng thu hồi chiếm tỷ lệ lớn.
Rủi ro tiềm ẩn trong số dư nợ không có vấn đề cũng rất cao. Nhưng số dư
nợ tưởng chừng như bình thường mà lại ẩn chứa nhiều vấn đề không bình
thường, không đúng quy chế, luật pháp như:
+ Số dư nợ đó đã được gia hạn nhiều lần thậm chí nhiều hơn kỳ hạn cho
vay lần đầu.
+ Số dư nợ đó đã được đòi nợ nhiều lần.
+ Khách hàng dùng vốn vay ngân hàng này trả ngân hàng khác.
+ Nhiều ngân hàng cùng cho một khách hàng với cùng một tài sản thế
chấp mà không biết.
Đó là những vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay , nó báo hiệu cho sự bất
ổn định của hệ thống ngân hàng, nó làm những ai am hiểu về hoạt động ngân
hàng phải kinh hoàng. Vì vậy, điều làm người ta lo lắng không chỉ là sự chậm
trễ, sai hẹn trong việc trả nợ mà là khả năng thu hồi của vốn vay cho nên công
tác thẩm định hay phân tích tín dụng càng phải thận trọng.
Tìm những nguyên nhân gây nên những rủi ro chính ở trên người ta thấy
rằng: Bên cạnh những nguyên nhân khách quan như môi trường kinh tế chưa
ổn định, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, hàng hoá sản xuất ra không
cạnh tranh nổi trên thị trường, hàng nhập ngoại làm cho các doanh nghiệp
mau chóng thua lỗ, phá sản, quản lý nhà nước còn nhiều sơ hở tạo điều kiện

phát triển những hành vi lừa đảo cộng với quản lý kinh doanh còn non kém ...
thì những nguyên nhân chính vẫn là:
- Do quy trình thẩm định dự án còn sơ sài, đơn giản, chưa tìm được giải
pháp tối ưu dẫn đến thiếu những thông tin chính xác về hoạt động kinh doanh,
năng lực tài chính của khách hàng.
- Thiếu năng lực phân tích và xử lý các thông tin tín dụng, giám sát các
khoản cho vay, đánh giá cao tài sản thế chấp...
- Do tổ chức tín dụng hạ thấp tiêu chuẩn cho vay, mặc dù biết khoản vay
này có nhiều rủi ro, nhiều khoản bất lợi có sự vi phạm nguyên tắc tín dụng đã
đến lúc chúng ta không thể chủ quan mà phải nhận thứuc rõ tính phức tạp của
hoạt động tín dụng ngân hàng. Để có được quyết định đúng đắn bằng một chữ
ký trong khoảnh khắc, cán bộ tín dụng và các cấp có thẩm quyền cho vay phải
tiến hành một loạt các quyền cho vay phải tiến hành một loạt các bước rất
phức tạp đó là "thẩm định tín dụng" với các dự án phát triển thì càng khó khăn
hơn, vì tất cả đều là những dự đoán và thẩm tra cho những thời điểm trong
tương lai thẩm định dự án để hạn chế rủi ro, bảo toàn vốn vay tạo ra một môi
trường kinh doanh tiền tệ ổn định và lành mạnh là nền tảng giúp cho ngân
hàng đạt được những mục tiêu lợi nhuận.
b. Đảm bảo lợi nhuận ngân hàng.
Dự án đầu tư chỉ là những dự tính, dự trữ những yếu tố sẽ xảy ra trong
tương lai , bởi vậy không phỉa ai cũng nhìn nhận được hết tất cả mọi yếu tố,
đặc biệt là những bất trắc rủi ro của dự án. Dự án được nhìn nhận theo những
góc độ khác nhau, có thể đối với trường phái này là hiệu quả nhưng trường
phái khác lại không. Và với ngân hàng cũng vậy, khi bỏ đồng tiền ra thì hải xem
xét là nó có thu về được hay không, bởi nó trực tiếp ảnh hưỏng tới lợi nhuận
của ngân hàng, nếu món vay không hiệu quả thì thu vốn đã khó chứ đừng nói
đến chuyện thu lãi. Nếu không có lợi nhuận thì ngân hàng khó mà tồn tại được,
bởi trong thương trường bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào thì lợi nhuận
vẫn là mục tiêu cơ bản và cuối cùng.
Vì là người trực tiếp bỏ vốn nên quá trình thẩm định dự án hết sức là khó

khăn, đòi hỏi nhà ngân hàng phải có cái nhìn tổng thể, phải có óc phán đoán
khá chính xác và logic chất lượng thẩm định dự án sẽ quyết định sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng.
Ở nước ta, trong nền kinh tế tập trung, hoạt động của các ngân hàng chỉ
đơn thuần phục vụ các doanh nghiệp nhà nước, hoàn thành các chỉ tiêu kế
hoạch pháp lệnh, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, đồng thời nhà
nước chưa xem ngân hàng là bộ phận kinh doanh độc lập, dẫn đến lợi nhuận
cảu ngân hàng không gắn liền với trách nhiệm của cán bộ ngân hàng chuyển
sang nền kinh tế thị trường, toàn bộ hệ thống ngân hàng chịu sự quản lý chặt
chẽ của nhà nước, lợi nhuận phụ thuộc vào tiềm năng uy tín và sức cạnh tranh
của ngân hàng. Vì vậy cộng tác thẩm định dự án đã được coi trọng và ngày
càng hoàn thiện. Đảm bảo lợi nhuận cho nhà ngân hàng, hạn chế rủi ro không
có nghĩa là đi ngược với lợi ích khách hàng. Chính kết quả kinh doanh tốt đẹp
của khách hàng giúp cho ngân hàng đạt được những mục tiêu hiệu quả sử
dụng vốn hạn chế rủi ro và ngược lại.
Quá trình thẩm định tín dụng của ngân hàng nằm trong giai đoạn kiểm
tra trước quy trình tín dụng. Thông qua các thời biểu thực hiện dự án lịch
trình nhận tiền vay và trả nợ được dự trù trong dự án ngân hàng mới, có cơ sở
vững chắc để quyết định hoặc từ chối cho vay. Trong giai đoạn kiểm tra trước
này, ngân hàng phải đối mặt với một thứ rủi ro mà các nhà doanh nghiệp gọi
là "lựa chọn đối nghịch", có thể hiểu nôm na, là sự lựa chọn nhầm khách hàng
xác xuất xảy ra rủi ro càng lớn nếu ngân hàng lần đầu tiên có giao dịch với
khách hàng. Giai đoạn kiểm tra trước là hết sức quan trọng, song cán bộ tín
dụng không chỉ dừng lại ở đó mà phải thực hiện tiếp giai đoạn kiểm tra trong
và sau khi cho vay. Quá trình này diễn ra sau khi Ngân hàng và doanh nghiệp
đã ký kết hợp đồng tín dụng. Khi đó, ngân hàng phải đối mặt với rủi ro gọi là
"rủi ro đạo đức", nếu như sau đó cách sử dụng vốn vay của doanh nghiệp theo
hướng không đúng cam kết.
Công tác thẩm định tín dụng này trước hết vì lợi ích bản thân của ngân
hàng để nâng cao hiệu quả tín dụng và chống rủi ro. Tuy nhiên, trong lĩnh vực

đầu tư xây dựng cơ bản thì ngoài việc xem xét các lợi ích về kinh tế còn phải
chú trọng tới các lợi ích về xã hội đạt được từ các dự án đầu tư. Chính vì thế
khi thẩm định dự án còn phải quan tâm đến các lợi ích kinh tế - xã hội và khi
tiến hành thẩm định cần xác định rõ nhu cầu vay của dự án, vay như thế nào,
khả năng cách thức trả nợ ra sao, các lợi ích đạt được và những rủi ro có thể
có của việc đầu tư...
1.2. Nội dung thẩm định:
a. Nguyên tắc thẩm định:
- Tính phù hợp và khả thi về mặt chính sách .
- Tính khả thi và phù hợp về điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội.
- Tính khả thi và phù hợp về môi trường, ô nhiễm và chống ô nhiễm.
- Tính phù hợp và khả thi về công nghệ kỹ thuật.
- Tính phù hợp và khả thi về trình độ quản lý.
- Tính phù hợp và khả thi về các yếu tố tài chính.
- Tính phù hợp và khả thi về các yếu tố tài chính.
- Tính phù hợp và khả thi về thị trường.
- Một số khía cạnh đặc biệt khác.
b. Quy trình thẩm định:
* Thẩm định doanh nghiệp vay vốn.
1b. Phân tích tài liệu trong hồ sơ, tính pháp lý và nội dung khái quát hồ sơ.
- Khi phân tích phải xem xét những văn bản nào đã có, những văn bản nào
còn thiếu( cần phải có). Cán bộ tín dụng phải xem xét tính hợp pháp và hợp lý
của giấy tờ.
- Lập danh mục các văn bản giao nhận hồ sơ.
- Lập danh mục các văn bản còn thiếu, văn bản pháp lý không đủ điều kiện
để doanh nghiệp bổ sung và hoàn thiện.
1b. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
* Phân tích các chỉ tiêu tài chính kinh doanh
+ Nhận xét đánh giá tình hình vốn và tài sản các năm trước năm vay vốn
và năm vay vốn:

- Tình hình diễn biến qua các năm (tối thiểu 3 năm gần nhất)
- Khả năng tăng trưởng hay giảm sút
-Tình trạng và khối lượng của tài sản hiện có (còn tốt hay lạc hậu)
- Khả năng đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện tại về công
nghệ, chất lượng sản phẩm, quy mô công suất.
- Vốn kinh doanh và vốn lưu động: thiếu, đủ, thừa,
- Tình hình sử dụng vốn lưu động và vốn cố định: vay ngân hàng, chiếm
dụng, đóng góp, cổ phần.
- Tình hình sử dụng vốn khấu hao cơ bản để đầu tư.
Cá lý do dẫn đến diễn biến tốt xấu, phương hướng thời gian tới.
- Nhận xét đánh giá tình hình lợi nhuận và nghĩa vụ phải thực hiện các
năm.
+ Tình hình diễn biến qua các năm (tối thiểu 3 năm gần nhất).
+ Khả năng tăng trưởng hay giảm sút
+ Nộp thiếu, thừa
+ Được miễn giảm để lại.
+ Lỗ, lãi thực hay không thực
+ Tình hình sử dụng quỹ phát triển sản xuất...
→ Các lý do và nguyên nhân dẫn đến tốt xấu phương hướng cho thời gian
tới.
- Nhận xét, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ qua các
năm.
+ Tình hình diễn biến qua các năm
+ Khả năng tăng trưởng, giảm sút
+ Tình hình về thị trường .
+ Tình hình về giá cả tiêu thụ
+ Tình hình về giá thành và chi phí sản xuất chi phí dịch vụ ảnh hưởng
đến sản xuất và tiêu thụ.
→ Các lý do và nguyên nhân dẫn đến tốt xấu và phương hướng cho thời
gian tới.

- Nhận xét đánh giá tình hình công nợ các năm.
+ Tình hình diễn biến qua các năm
+ Khả năng tăng trưởng và giảm sút
+ Khả năng thanh toán nợ nguồn thanh toán
+ Nội dung các khoản phải thu và phải trả
+ Tình hình nợ quá hạn và khó đòi
+ Tình hình lợi nhuận với nợ quá hạn , khó đòi, mất vốn....
→ Các lý do và nguyên nhân dẫn đến tốt xấu phương hướng thời gian tới.
- Phân tích chi phí sản xuất và giá thành.
Nhận xét đánh giá tình hình diễn biến qua các năm.
- Tình hình biến động của các yếu tố chi phí ảnh hưởng đến giá thành
- Tình hình biến động của giá bán ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ.
- Tình hình trích khấu hao đưa vào giá thành
- Tình hình các chi phí khác tăng giảm trong giá thành → các lý do và
nguyên nhân dẫn đến tốt xấu, phương hướng thời gian tới.
* Phân tích các chỉ số tác nghiệp chung để đánh giá doanh nghiệp.
Tổng vốn tự do
(1) Hệ số an toàn = → càng cao càng bền vững
Tổng tài sản nợ
(2) Hệ số vốn lưu động vòng= tài sản có vãng lai - tài sản nợ vãng lai.

×