Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

vùng văn hóa BB - edited

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.44 KB, 22 trang )

Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ:
Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu vực sông Hồng và
sông Mã, là cái nôi hình thành dân tộc Việt, cũng là nơi sinh ra các
nền văn hoá lớn phát triển nối tiếp nhau như: Văn hoá Đông Sơn, Văn
hoá Đại Việt và văn hoá Việt Nam. Do vậy, văn hoá châu thổ Bắc Bộ
vừa có những nét đặc trưng của văn hoá Việt lại vừa mang những nét
riêng đặc sắc về văn hoá của vùng. Ngoài ra văn hoá Bắc Bộ là sự giao
hoà giữa thiên nhiên và con người, phát triển dựa trên sự kế thừa và
phát huy bản sắc dân tộc kết hợp tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá
khu vực và nhân loại. PGS.TS. Ngô Đức Thịnh đã từng nhận xét:
“Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hoá Việt Nam, đồng
bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hoá độc đáo và đặc sắc”.
A. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ CHỦ THỂ VĂN HÓA
I.Lịch sử hình thành:
Trong khoảng 10 TK đầu CN, trên lãnh thổ Việt Nam đã từng tồn tại
nền văn hóa: văn hóa của cộng đồng cư dân châu thổ Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ, văn hóa Chăm-pa ở ven biển miền Trung và văn hóa Óc Eo
ở vùng đồng bằng châu thổ Sông Cửu Long. Là vùng đất lịch sử lâu
đời nhất của người Việt => nơi khai sinh của vương triều Đại Việt.
Quê hương của các nền văn hóa Đông Sơn, Thăng Long- Hà Nội; bắt
nguồn vùng văn hóa Trung Bộ và Nam Bộ.
II. Chủ thể văn hóa:
Người Kinh sống trên khắp vùng lãnh thổ nhưng chủ yếu ở vùng đồng
bằng, gần các con sông và tại các khu đô thị.
1


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ


Người Mường sống chủ yếu ở các vùng đồi núi phía tây đồng bằng
sông Hồng.
Người Thái định cư ở bờ phải đồng bằng sông Hồng. Người Tày sống
ở bờ trái sông Hồng.
Dân tộc Kinh và Mường có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ ViệtMường. Còn ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu của dân tộc Tày, Thái là
nhóm ngôn ngữ Tày- Thái (dòng ngôn ngữ Nam Á).
B. KHÔNG GIAN VĂN HÓA
I.

Đặc điểm môi trường tự nhiên, xã hội.

1. Môi trường tự nhiên.
Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu vực các con sông:
sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã. Khi nói tới vùng văn hoá Bắc
Bộ là nói tới vùng văn hoá thuộc địa phận các tỉnh Hà Tây, Nam Định,
Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình; thành phố Hà Nội, thành
phố Hải Phòng; phần đồng bằng của tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Về vị trí địa lý, vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con
đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính: Tây - Đông và Bắc - Nam.
Vị trí này khiến nó trở thành mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả bọn
xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng
nó cũng tạo điều kiện cho vùng có thuận lợi về giao lưu và tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại.

2


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ


Vùng có địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và
bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Địa hình của
vùng cao thấp không đều.
Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng
bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc
xuống Đông Nam, từ độ cao 10 - 15m giảm dần đến độ cao mặt biển.
Toàn vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều, tại
vùng có địa hình cao vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương (Bắc Ninh),
có núi Thiên Thai, nhưng vẫn là vùng trũng, như Nam Định, Hà Nam
là vùng thấp nhưng vẫn có núi như Chương Sơn, núi Đọi v.v…
Đặc biệt, Bắc Bộ có khí hậu độc đáo, khác hẳn các vùng khác.
Đây là vùng duy nhất có một mùa đông lạnh kéo dài ba tháng. Khí hậu
Bắc bộ phân hoá thành bốn mùa tương đối rõ nét. Khí hậu lại rất thất
thường, hay có bão, năm mưa nhiều, nằm mưa ít, mưa sớm, mưa
muộn… Chính điều này làm cho sản xuất nông nghiệp của vùng không
ổn định.
Ở Bắc Bộ, vấn đề đất và nước là hai yếu tố đan quyện vào nhau.
Một đặc điểm nữa là môi trường nước, đồng bằng Bắc Bộ có một
mạng lưới sông ngòi khá dày, khoảng 0,5 - 1,0km/km 2 , gồm các dòng
sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, cùng các mương
máng tưới tiêu dày đặc.
Đất đai trong vùng tương đối màu mỡ, thích hợp cho nền nông
nghiệp lúa nước phát triển. Hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình và
sông Mã cùng các nhánh của chúng là nguồn cung cấp nước thường
xuyên cho hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên, chế độ nước sông phân
3


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ


hoá theo mùa: mùa lũ dòng chảy lớn, nước đục, mùa cạn dòng chảy
nhỏ, nước trong. Chính yếu tố nước tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập
quán canh tác, cư trú, tâm lý ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của
cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn minh lúa nước, vừa có cái
chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc đáo.
2. Môi trường xã hội.
Dựa vào những điều kiện tự nhiên thuận lợi và các thành tựu
kinh tế đạt được, những cư dân vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã,
sông Cả - được gọi chung là cư dân Việt cổ, đã phát huy sức lao động
và óc phát minh sáng tạo của mình để đẩy nhanh sự phát triển của xã
hội, vượt qua những hạn chế của thời nguyên thuỷ, đạt đến thời đại
văn minh vào khoảng các thế kỷ VII - VI trước công nguyên. Tồn tại
trong khoảng hơn 5 thế kỷ, nền văn minh đó được mệnh danh là văn
minh Văn Lang - Âu Lạc, tương ứng với 2 quốc gia nối tiếp tồn tại
trên đất bắc Việt Nam đương thời.
Dựa vào các thành tựu của khảo cổ học, nhân học, chúng ta có
thể biết cư dân nguyên thuỷ sống trên các vùng đồng bằng Bắc Việt
Nam đương thời đều thuộc các chủng tộc Nam á (Việt - Mường, MônKhơme), Hán - Thái. Với thời gian, các nhóm tộc người đó ít nhiều
hoà lẫn vào nhau, có tiếng nói gần gũi nhau, pha trộn. Những di chỉ
được phát hiện chứng tỏ rằng, bấy giờ các nhóm cùng sống với nhau
hoặc sống gần gũi nhau đã có số lượng khá đông, cùng lấy nghề nông
trồng lúa nước làm nền kinh tế chủ yếu và cũng có ít nhiều những
phong tục, tập quán giống nhau.
4


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

Do yêu cầu phát triển sản xuất và tiêu dùng hàng ngày tăng lên
cùng với sự gia tăng dân số, do tính phức tạp của một số ngành nghề,

trong xã hội thời đó đã nẩy sinh sự phân công lao động, nghề luyện
kim, đúc đồng ngày càng phát triển. Thông qua các di vật tìm được ở
các di chỉ sau Phùng Nguyên như Đồng Đậu, Gò Mun rồi tiếp đến
Thiệu Dương, Đông Sơn, chúng ta hiểu rằng hồi ấy đã có hàng loạt
công cụ sản xuất, vũ khí, nhạc cụ bằng đồng. Trong số này, đáng chú ý
nhất là hàng loạt lưỡi cày đồng với nhiều hình dáng khác nhau: cánh
bướm, hình thoi, v.v… Cũng với hình con bò trang trí trên mặt trống
đồng, sự xuất hiện của lưỡi cày chứng tỏ rằng, người ương thời đã
chuyển từ nghề nông dùng cuốc sang nghề nông dùng cày. Nguồn sử
liệu cổ Trung Quốc Giao Châu ngoại vực kỷ thừa nhận: “Giao chỉ (tức
là Bắc Việt Nam) khi chưa đặt thành quận, huyện, đất đai có ruộng gọi
là ruộng lạc, theo nước triều lên xuống mà làm, dân khẩn lấy ruộng mà
ăn” Nông nghiệp lúa nước trên vùng châu thổ các con sông lớn (Hồng,
Mã, Cả, Chu) đã trở thành ngành kinh tế chủ yếu, vừa tạo cơ sở cho
định cư lâu dài, vừa tạo ra thứ lương thực cần thiết hàng ngày của
người dân ở đây. Tất nhiên, để có được những vụ mùa vững chắc, con
người phải thích nghi với sông nước và từng bước xây dựng mối quan
hệ làng với làng. Cũng từ đây, nảy sinh những sinh hoạt văn hoá phản
ánh mối quan hệ giữa các cộng đồng người với tự nhiên, giữa người
với người ở các cộng đồng nông nghiệp.
Bên cạnh nghề nông, việc trồng rau, trồng cà, trồng cây ăn quả,
trồng dâu chăn tằm, nuôi gà, lợn, chó, trâu bò v.v… cũng ngày càng

5


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

phát triển. Lương thực thực phẩm tăng lên và ngày thêm đa dạng. Đời
sống của người dân cũng được đảm bảo hơn, vui tươi, ổn định hơn.

Như trên đã nói, các nghề thủ công như luyện kim và sau này là
rèn sắt, làm đồ gốm, dệt lụa, đan lát ngày càng toạ ra nhiều sản phẩm
hơn, phục vụ tốt hơn nhu cầu con người. Số lượng đồ đồng tăng lên so
với nhiều loại dụng cụ như rìu, mũi giáo, mũi tên, liềm, dao; các nhạc
cụ bằng đồng như chiêng, trống, và tượng đồng, v.v... số lượng đồ
gồm cũng phong phú: bát, đĩa, bình, nồi, võ, chõ v.v...
Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp với sự hỗ trợ đắc lực của
nghề luyện kim đồng thau đã tạo nên cái nền cần thiết và cơ bản cho
sự chuyển biến của xã hội từ trạng thái nguyên thuỷ sang thời đại văn
minh. Tuy nhiên, cũng cần thấy thêm rằng, mặc dầu còn nhiều hạn
chế, bấy giờ đã có sự giao lưu, trao đổi sản phẩm giữa các vùng, nhất
là công cụ bằng đồng, các bát đĩa, bình gốm. Giao lưu là sợi dây nối
liền các làng, các vùng tạo điều kiện cho sự ra đời của các tổ chức
chính trị.
Tất cả những đặc điểm trên sẽ góp phần tạo ra những đặc điểm
riêng của vùng văn hoá Bắc Bộ.
C. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ
I. Nhà ở:
Văn hoá nhà ở là một đặc trưng trong nền văn hoá Bắc Bộ. Nhà ở
của cư dân Bắc Bộ thường sử dụng các vật liệu nhẹ, bền. Người nông
dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo kiểu bền
chắc, to đẹp, tuy nhiên vẫn hoà hợp với cảnh quan, vì đối với họ, ngôi
6


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

nhà là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo một cuộc
sống ổn định.
1.Hình dáng nhà.

Nhà của người dân Bắc Bộ thường có mái cong truyền thống. Sau
này, mái nhà bình thường được làm thẳng cho giản tiện, chỉ có những
công trình kiến trúc lớn mới làm mái cong cầu kì. Ngoài ra, các đầu
đao ở bốn góc đình chùa, cung điện cũng được làm cong vút như con
thuyền rẽ sóng lướt tới, tạo nên dáng vẻ thanh thoát đặc biệt và gợi
cảm giác bay bổng cho ngôi nhà vốn được trải rộng trên mặt bằng để
hoà mình vào thiên nhiên.
Một số nơi ở Bắc Bộ (ví dụ như Nghệ An) cũng thiết kế ngôi nhà
của mình theo kiểu nhà sản để đối phó với lũ lụt, độ ẩm và ngăn côn
trùng. Vào thế kỷ XVII, nhiều ngôi đình như đình Đình Bảng (Bắc
Ninh), đình Chu Quyến (Hà Tây)... vẫn làm theo lối nhà san.
2.Cấu trúc.
Tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam nói chung và của vùng Bắc Bộ
nói riêng là “nhà cao cửa rộng”, cấu trúc mở. Nhà cao gồm hai yếu tố:
sàn (nền) cao so với mặt đất và mái cao xo với sàn (nền). Nhà sàn đáp
ứng yêu cầu thứ nhất, có tác dụng ứng phó với môi trường. Nhà Việt
Nam nay đã chuyển sang nhà đất, nhưng nhà đất lí tưởng vẫn phải có
nền cao. Cửa nhà không cao mà phải rộng, tránh nắng chiếu và mưa
hắt, đón gió mát. Đầu dưới mái nhà (giọt gianh) thường được đưa ra
khá xa so với mái hiên. Đầu hồi nhà thường có khoảng trống hình tam
giác để thoát hơi nóng và khói. Dân Bắc Bộ có kinh nghiệm không làm
cửa và cổng thằng hàng tránh gió độc, gió mạnh.
7


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

3.Chọn hướng nhà, chọn đất.
Đây là biện pháp quan trọng thứ hai để ứng phó với môi trường
tự nhiên. Hướng nhà tiêu biểu ở Bắc Bộ là hướng Nam. Vì Bắc Bộ ở

gần biển, trong khu vực gió mùa. Hướng Nam (hoặc Đông Nam) vừa
tránh được nóng từ phía Tây, bão phía Đông và gió rét từ phía Bắc lại
vừa tận dụng được gió mát vào mùa nóng (gió nồm).
Tuỳ thuộc vào địa hình, địa vật xung quanh, vào sự có mặt của
núi, của sông, của con đường... mà ảnh hưởng của gió nắng sẽ khác
nhau. Vì thế, phải chọn đất làm nhà. Khi chọn đất, người Bắc Bộ chú ý
tới phong thuỷ, vì khí hậu của ngôi nhà. Ngoài ra, người Việt Bắc Bộ
thường có câu: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, chọn đất cũng
phải quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng. Trong thời kì phát
triển nền kinh tế hàng hoá, khi chọn đất, người ta thường chọn những
nơi gần đường giao thông, thuận lợi cho đi lại, làm ăn, buôn bán.
4.Cách thức kiến thúc.
Nhà ở của người Bắc Bộ có đặc điểm là rất đông và linh hoạt,
thường là loại nhà không có chái, hình thức nhà vì kéo phát triển. Bộ
khung của nhà thường được liên kết với nhau theo một không gian ba
chiều: đứng, ngang, dọc. Theo chiều đứng, lực dồn vào đá tảng, theo
chiều ngang các cột nối với nhau tạo các vì kèo; theo chiều dọc, các vì
kèo được nối với nhau bằng xà, tạo thành bộ khung. Các chi tiết của
ngôi nhà được ghép với nhau bằng mộng.
5.Hình thức kiến trúc.
Ngôi nhà Bắc bộ phản ánh truyền thống văn hoá của vùng. Tính
cộng đồng thể hiện ở việc không chia phòng biệt lập. Giữa hai nhà
8


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

ngăn bằng rào cây thấp để dễ liên hệ với nhau. Truyền thống thờ cúng
tổ tiên và hiếu khách thể hiện ở bàn thờ ở gian giữa (phía trong là bàn
thờ, phía ngoài là bàn ghế tiếp khác). Sau nữa là truyền thống coi

trọng bên trái (phía Đông) với chiếc đòn nóc có đầu gốc ở phía Đông,
bếp ở phía đông,... Trong kiến trúc nhà ở Bắc Bộ, nguyên tắc coi trọng
số lẻ cũng được tôn trọng, thể hiện qua số gian, số cổng, số toà đều là
số lẻ (có câu: Ngọ Môn 5 cửa 9 lầu, Cột cờ 3 cấp). Đây là do quan
niệm của người xưa: lẻ là số dương, dành cho người sống.
II.Ẩm thực
Ẩm thực cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hoă
Bắc Bộ. Giống như ở mọi vùng miền khác trên đất Việt, cơ cấu bữa ăn
của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền
thống văn hoá nông nghiệp lúa nước, bao gồm có cơm, rau, cá, thịt,
cơm là thức ăn cho cơ thể. Đặc biệt, ở đây các gia vị có tính chất chua,
cay, đắng không được ưa chuộng như ở vùng Trung Bộ và Nam Bộ.
Có người đã từng nói rằng Bắc Bộ là “nơi quần tụ văn hoá ẩm thực,
văn hoá vùng miền”.
Không thể kể hết những món ăn Bắc Bộ vô cùng đa dạng và độc
đáo. Nào là bánh cáy Thái Bình, bánh dứa Hưng Yên, bánh đậu xanh
Hải Dương, bánh phu thê Bắc Ninh, bánh tôm Hà Nội, bánh nhãn Nam
Định, ... Mỗi loại bánh mang những hương vị khác nhau, đặc trưng
cho mỗi miền quê. Đến với vùng văn hoá này, người ta cũng không thể
quên có một nghệ thuật ẩm thực Hà Nội sành điệu, tinh tế, ngon từ chế
biến khéo léo, hương vị quyến rũ, màu sắc hài hoà đến sự sạch sẽ, tinh
khiết. Người Hà Nội coi trọng chất ít nhưng phải ngon. Một là bánh
9


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

cuốn Thanh Trì, một bìa đậu Mơ rán giòn, một bát bún ốc chua cay
bốc khói, một gói cốm vòng xanh mướt... để lại dư vị khó quên tỏng
lòng thực khách.

III. Trang phục:
Cách ăn mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn,
thích ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ.
Vào thời kỳ Hùng Vương, sự phát triển của nghề trồng dâu nuôi
tằm, kéo tơ, dệt lụa giúp cho người Việt cổ Bắc Bộ ăn mặc ngày càng
đẹp hơn. Nữ thường mặc váy, loại ngắn hoặc dài, đôi lúc có khâu thêm
một mảnh vải vuông vắn có trang trí hoa văn ở trước bụng; phụ nữ
thường mặc yếm; áo cánh hoặc áo chui đầu. Ngày lễ hội, họ mặc váy
xoè, cắm thêm lông chim hoặc cả lá cây. Tóc ít khi để oax mà thường
ược búi lên ở đỉnh đầu hoặc tết theo nhiều kiểu khác nhau. Có lúc họ
buộc một tấm khăn cởi trần, mặc khố, đầu cạo trọc. Dân sống ven sông
thường có tục vẽ mình để tránh “giao long” làm hại. Các lạc hầu, lạc
tướng có áo giáp đồng hộ than khi đi chiến đấu. Nối tiếp truyền thống
làm đẹp của tổ tiên, người Việt cổ thích trang sức các dây chuyền bằng
vỏ ốc, hạt đá hoặc đeo hoa tai, vòng tay bằng đá.
Thời phong kiến, trang phục của phụ nữ Bắc Bộ là: váy đen, yếm
trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Đàn ông với
y phục đi làm là chiếc quần lá toạ, áo cánh màu nông sồng. Phụ nữ
cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm, Bộ lễ phục củ phụ nữ
gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là áo dài tứ thân bằng the thâm hay màu
nâu non, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu
cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ ngực
10


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo. Bên trong chiếc yếm thắm. Đầu đội
nón trông rất duyên dáng và kín đáo. Lễ phục của đàn ông là chiếc
quần trắng, áo dài the, chít khăn đen.

Tới nay, trang phục truyền thống của người Việt Bắc Bộ đã thay
đổi. Bộ âu phục dần thay thế cho bộ đồ truyền thống của đàn ông.
Chiếc áo dài của phụ nữ ngày càng được cải tiến và hoàn thiện hơn
như ngày nay, mặt khác do yêu cầu của lao động, công việc, không
phải lúc nào phụ nữ cũng mặc áo dài mà chỉ những ngày trang trọng,
ngày vui... thì mới có dịp để “thể hiện mình”.
IV. Làng nghề:
Khi nói về nét đẹp văn hoá vùng châu thổ Bắc Bộ, người ta
không thể không nhắc đến những làng nghề thủ công đã có lịch sử
phát triển cách đây hàng trăm năm.
Đầu thế kỷ 20, nhà nghiên cứu Piere Gourou đã đếm được 108
nghề thủ công ở 7000 làng thuộc vùng châu thổ sông Hồng. ở đây có
tới 500 làng nghề, tập trung nhiều nhất ở Nam Định, Hà tây, Thái
Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hà Nội.
Đặc biệt, Thăng Long - Hà Nội là nơi “đát lành chim đậu”, hội tụ tài
hoa, thu hút những thợ cả, thợ giỏi từ mọi miền đến sinh cơ lập
nghiệp. Hà Nội có Ngũ Xã Tràng, nổi tiếng với nghề đúc đồng, do dân
năm làng gốc ở huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc lập nên từ thế kỷ XVII,
là tác giả của những pho tượng đồng vào loại quý giá nhất nước Nam.
Đó là tượng Trấn Vũ bằng đồng đen cao 4m, nặng 4 tấn được đúc năm
1681, là quả chuông đồng cao gần 1,5m treo ở tam quan đền, là tượng
Di Đà cao 3,95m, nặng 10 tấn với toà sen đặt tượng nặng 1,6 tấn đồng.
11


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

Hà Nội có làng gốm sứ Bát Tràng có lịch sử 500 năm, do những
người thợ gốm tài ba từ Thanh Hoá ra gây dựng từ cuối thế kỷ XV. Và
tất nhiên, nhắc tới Hà Nội, người ta cũng không quên một làng giấy

phía Nam Hồ Tây, đã rất nổi tiếng trong câu ca dau “Mịt mù khói toả
ngàn sương, nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”, làng Thậm
Thình, có truyền thống lịch sử 500 năm. Từ Hà Nội ngược về phía
Đông Bắc, ta đến với miền đất trù phú “bên kia sông Đuống”, với làng
tranh Đông Hồ. Tranh Đông Hồ, từ chất liệu đến đề tài, tư tưởng,
phong cách nghệ thuật đều rất dân gian và đậm đà màu sắc dân tộc. Đề
tài tranh Đông Hồ rất đỗi bình dị, phản ánh đời sống lao động, sinh
hoạt thường ngày của người dân quê Việt Nam, tiêu biểu là tranh
“đánh ghen”, “hứng dừa”, “đám cưới chuột”.... Xuôi về phía Nam, ta
đến với các làng nghề lụa Hà Đông (Hà Tây), đũi Nam Cao (Thái
Bình),...
Muôn bàn tay khéo léo tài hoa đã hội tụ lại trên mảnh đất châu
thổ trù phú này, thời nào cũng thế, đã vun đắp làm đẹp cho đời, làm
phong phú cuộc sống, giàu có tâm hồn, nối tiếp truyền thống của nền
văn minh sông Hồng, văn minh Đại Việt, góp phần xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiến vào thiên niên kỷ thứ ba.
V. Di tích văn hoá.
Mặt khác, nói tới văn hoá ở châu thổ Bắc Bộ là nới tới một vùng
văn hoá có một bề dày lịch sử hàng ngàn năm cũng như mật độ dày
đặc của các di tích văn hoá. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hoá
hữu thế tồn tại ở khắp các địa phương.
12


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

Đền Hùng (Lâm Thao, Phú Thọ) gồm 4 đền, 1 chùa và 1 lăng mộ
tổ Hùng Vương thứ VI. Có khả năng vào thế kỷ thứ X người Việt Nam
đã xây nên Đền Hùng và tổ chức ngày giỗ tổ Hùng Vương với những
nghi thức, phong tục đầy bản sắc dân gian Việt Nam. Thời Lý - Trần,

Đền Hùng là một khu di tích khá đẹp do làng Cổ Tích dựng lên. Trong
một số hố đào thám sát tại đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều
hiện vật: bát đĩa men ngọc, nhiều viên ngọc trang trí, có cả lon đựng
sơn... thuộc thời Lý - Trần. Kiến trúc ở Đền Hùng có từ thời Lý - Trần
đã được tôn tạo qua nhiều thời kỳ, đến nay chỉ còn lại một kiến trúc
khá cổ là Gác Chuông, Tam Quan và Đền Hạ có từ thời Hậu Lê, những
phần còn lại chủ yếu là các kiến trúc được xây dựng vào thời Nguyễn.
Đền Gióng thuộc làng Gióng (xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà
Nội), thời Thánh Gióng, người có công dẹp giặc Ân thời Hùng Vương.
Từ xa xưa, đền là một thảo am. Đến thế kỷ XI, Lý Thái Tổ tạo và xây
dựng khang trang, kiến trúc “nội công ngoại quốc” trên một thế đất
đẹp có hồ bán nguyệt và thuỷ đỉnh ở trước cổng. Bên trong có nhà tiên
tế, đến chính và nhà giãi vũ. Trong đền còn lưu giữ ược nhiều cổ vật
quý: Tượng Thánh Gióng cao 2m, có hàng trăm năm nay và các tác
phẩm điêu khắc gố: cuốn thư, hoành phi, câu đối bàn thờ; các tác
phẩm điêu khắc đá: rồng đá, nghê đá, giếng đá, liềm đá,...
Chùa Một Cột tên chữ là Diên Hậu tự, nằm giữa hồ Linh Chiểu
(nay thuộc phố Chùa Một Cột). Chùa dựng năm 1049, phỏng theo giấc
mơ của Lý Thái Tông (1028 - 1054) thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên
toà sen mời vua bước lên. Vua bèn cho xây chàu theo hình hoa sen để

13


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

thờ và cầu xin tuổi thọ. Chùa xây dựng một cột giữa lòng hồ nên có
tên Một Cột.
Cụm di tích cố đô Hoa Lư tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư
(Ninh Bình) là kinh đô đầu tiên của nước Đại Việt, do Đinh Tiên

Hoàng xây dựng năm 968. Khu di tích đền - miếu được chia thành hai
khu: Khu thứ nhất (bên tả) thờ Đinh Bộ Lĩnh và ba người con trai của
ông là thái tử Đinh Hạ Lang, hoàng tử Đinh Toàn và hoàng tử Đinh
Liễn (sau này nối ngôi cha); Khu thứ hai thờ vua Lê Đại Hành, Hoàng
hậu Dương Vân Nga và Hoàng tử Lê Long Đĩnh (vua cuối cùng của
triều Tiền Lê).
Nhiều di tích khảo cổ mang đậm dấu ấn của các nền văn minh
Văn Long - Âu Lạc và văn minh Đại Việt.
VI. Văn hoá dân gian.
Vùng châu thổ Bắc Bộ có một kho báu vô giá truyền từ đời nọ
sang đời kia. Đó là một kho tàng di sản văn hoá phi vật thể đa dạng và
phong phú: là nguồn ca dao, ngạn ngữ, huyền thoại, truyện cổ tích,
truyện cười, giai thoại, ..., là các lễ hội truyền thống lâu đời đặc sắc, là
cái nôi của ca nhạc dân gian, trò diễn,... Có thể nói Bắc Bộ là mảnh
đất màu mỡ cho văn hoá nghệ thuật của dân tộc Việt ươm chồi, nảy
lộc.
Trên đất nước Việt Nam, đất nước của ca dao, thần thoại, văn
học dân gian Bắc Bộ là một trong những viên ngọc quý giá nhất, mang
nhiều nét đặc trưng, đúng như GS Trần Quốc Vượng đã nhận xét:
“Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một loại mỏ với
nhiều khoáng sản quý hiếm”. Ca dao, dân ca xứ Bắc không nhưng ngọt
14


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

ngào, đằm thắm mà còn thấm thía ân tình. Xứ Bắc có một kho tàng đồ
sộ những tích truyện, truyện cổ dân gian, truyền thuyết, truyện cười...
với những hình ảnh ông bụt, cô Tấm, những chàng Sơn tinh, Thuỷ
Tinh... đã đi vào tâm khảm người Việt hàng thế kỷ qua. Đặc biệt, Bắc

Bộ có truyện thần thoại - thể loại văn học dân gian mà không vùng
miền khác nào có được. Khác với các vùng khác, truyện Trạng của
vùng thường thiên về nói chữ, chơi chữ, thể hiện trí tuệ vượt bậc của
người xưa.
Ở đây, các thể loại thuộc nghệ thuật sân khấu dân gian cũng khá
đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét, bao gồm hát chèo, hát chầu
văn, hát quan họ, múa rối,...
Từ bao đời nay hát chèo đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn
hoá nghệ thuật quen thuộc của người dân Việt Nam nói chung và miền
Bắc nói riêng, nuôi dưỡng đời sống tinh thần dân tộc bởi cái chất trữ
tình đằm thắm sâu sắc. Chèo là một loại hình sân khấu kịch hát đậm đà
tính dân tộc, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của hàng loạt yếu tố: hát,
múa, nhạc, kịch mang tính nguyên hợp vô cùng độc đáo. Vùng đồng
bằng Bắc Bộ là cái nôi của chèo, từ cái nôi ấy sau bao nhiêu thăng
trầm của lịch sử, nghệ thuật chèo ngày càng phát triển và khẳng định
được tầm quan trọng trong nền văn hoá dân gian .
Trong sinh hoạt văn hoá nghệ thuật của vùng đồng bằng Bắc Bộ
còn có hát ca trù. Theo “Việt Nam ca trù biên khảo” (Đỗ Bằng đoàn Đỗ Trọng Huề), ca trù có nguồn gốc từ sự kết hợp của ca vũ Trung
Hoa với âm nhạc cung đình Việt Nam trong khoảng thời gian từ 111
trước công nguyên đến năm 938. Với mối liên hệ truyền cảm và ảnh
15


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

hưởng trực tiếp lẫn nhau giữa ca nhạc, trống chầu, nghệ thuật ca trù
ngày càng trở nên điêu luyện, tinh vi. Đi liền với ca trù và nghệ thuật
văn thơ tuyệt vời đã được ngâm nga, những làn điệu dân ca mộc mạc,
thôn dã đến với ca trù đã trở nên chau chuốt, điêu luyện. Ca trù trở
thành một thứ thưởng thức nghệ thuật riêng biệt với không khí ấm

cúng, tế nhị, hào hoa kinh kì. Hằng năm, trong các cuộc vui chơi
chung tại Văn Miếu, đền Ngọc Sơn, các chầu hát ca trù lại được mở,
những lời hát ca ngợi quê hương, đất nước tươi đẹp, ca ngợi con người
và cuộc sống mới lại ngân lên thánh thót, hoà lẫn ráng chiều vàng rực
trên sóng nước Hồ Gươm.
Hát quan họ là điệu hát quen thuộc của người con xứ Kinh Bắc.
Cứ đến hẹn lại lên, vào hội hát quan họ, du khách thập phương yêu
thích quan họ gần xa kéo tới. Sân đình, sân đền... đều có các đám hát,
người nghe vòng trong vòng ngoài. Các liên anh khăn xếp, áo the, tay
cầm ô; các liền chị áo mớ ba mớ bảy với chiếc nón quai thao hát
những câu ca cổ: “Nhớ chị hai”, “Thiết tha”, “Nhớ mãi mà không
nguôi”,... Câu hát gieo vào lòng người cái tình quan họ đắm đuối, thiết
tha, bền chặt.
Múa rối nước là loại hình nghệ thuật sân khấu đặc sắc của riêng
đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật này xuất hiện từ khá sớm, đầu tiên ở
Thăng Long - Hà Nội. Hiện nay, ở thôn Đào Thục, xã Thụy Lâm,
huyện Đông anh còn lưu lại được dấu tích của một phường rối nước từ
hàng trăm năm trước. Ngay từ thời nhà Lý, rối nước đã được kết hợp
với rối cạn một cách cực kỳ nhuần nhuyễn và đạt đến độ tinh xảo
trong diễn xuất. Rối nước dần thâm nhập vào đời sống sinh hoạt làng
16


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

xã, càng trở nên đa dạng, sinh động với các loại trò diễn mang đậm
phong cách diễn xuất dân gian. Ngày này, nghệ nhân diễn rối nước
ngoài kế thừa các kĩ thuật cổ truyền, còn cố gắng sáng tạo và làm
phong phú hơn lên cho loại hình nghệ thuật này ở cả khía cạnh trò
diễn cũng như kĩ thuật biểu diễn và ca từ.

VII. Tín ngưỡng.
Lý giải về tín ngưỡng, trong cuốn “Hán - Việt từ điển”, Giáo sư
Đào Duy Anh đã viết: Tín ngưỡng là “lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với
một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa”. Có thể nói tín ngưỡng là một nhân
tố văn hoá không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân
Việt. Nếu nhìn trên lát cắt đồng đại của tiến trình lịch sử, “tín
ngưỡng” đã lắng đọng ở đây những nét văn hoá.
Nhìn vào đời sống văn hoá của vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ, ta
thấy rõ được tính đa dạng, phong phú của nó, trong đó, một trong
những nét lớn là văn hoá tín ngưỡng. Văn hoá tín ngưỡng ở vùng văn
hoá Bắc Bộ là một hình thức văn hoá đặc thù bao chứa nhiều nội dung
như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, tín Ngưỡng
thờ thành Hoàng làng, tín ngưỡng thờ ông tổ nghề và tín ngưỡng lễ
hội,...:
1.Tín ngưỡng thờ tổ tiên.
Tục thờ cúng tổ tiên là một phong tục lâu đời của người Việt.
Gia đình nào dù nghèo hay giàu cũng đều có bàn thờ tổ tiên và hàng
năm cúng giỗ cha mẹ, ông bà. Con cháu xa nhà đến ngày giỗ ông bà,
cha mẹ đều nhớ về quê. Những dòng họ lớn, có học thức thường soạn
17


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

gia phả để giáo dục các thế hệ kế tiếp giữ gìn truyền thống tốt đẹp của
gia đình.
2.Tín ngưỡng phồn thực:
Trải qua quá trình sinh sống, sinh hoạt, trong tâm lý cư dân
người Việt nói chùng và người dân vùng văn hoá Bắc Bộ nói riêng
hình thành tâm lý tín ngưỡng phồn thực. Tín ngưỡng phồn thực, thực

chất là khát vọng cầu mong sự sinh sôi nảy nở của con người và tạo
vật, lấy các biểu tượng sinh thực khí và hành vi giao phối làm đối
tượng.
Có thề thấy văn hoá tín ngưỡng phồn thực của vùng văn hoá Bắc
Bộ trên các tượng bằng đất nung (di tích Mã Đồng - Hà Tây); một số
hình điêu khắc ở những ngôi đình như Đông Viên (Ba Vì), Đình Phùng
(Đan Phượng), đình Thổ Tang (Phú Thọ), Đệ Tứ (Nam Định). Trong
một số bức tranh Đông Hồ (Hứng Dừa, Đánh ghen) cũng phảng phất
văn hoá tín ngưỡng phồn thực. Ngoài ra, cư dân Bắc Bộ còn thể hiện
văn hoá tín ngưỡng này qua những trò chơi trong các lễ hội cổ truyền:
trò múa mo Sơn Đồng (Hoài Đức, Hà Tây), trò chen lễ hội làng Nga
Hoàng (Bắc Giang).
Tín ngưỡng phồn thực thể hiện đậm đà, đa dạng và độc đáo, quán
xuyến đời sống tâm linh của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ. Tư chất,
tâm lý, tính cách của họ được in hình rõ nét qua văn hoá tín ngưỡng
phồn thực.
3.Tín ngưỡng thờ thành hoàng.
Đặc trưng của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ là sống quần xã, hình
thành nên các đơn vị làng xã. Do vậy, tục thờ thành hoàng làng được
18


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

xem là điều không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân
vùng văn hoá Bắc Bộ.
Tất cả những làng xã ở vùng Bắc Bộ đều có một vị thành hoàng
làng riêng cho làng mình. Vị Thành Hoàng đó được xem như là một vị
thánh của làng, là người mà đương thời có công lớn đối với quê
hương, đất nước. Với những người dân vùng văn hoá Bắc Bộ, thành

hoàng là chỗ dựa tinh thần, là nơi gửi gắm niềm tin cho cuộc sống có
không ít khó khăn sóng gió của họ. Và việc thờ thành hoàng là một nét
đẹp trong văn hoá tín ngưỡng của cư dân Bắc Bộ.
4.Tín ngưỡng thờ mẫu.
Đây cũng được xem là một nét văn hoá tín ngưỡng lớn của cư
dân vùng văn hoá Bắc Bộ. Gắn bó với tín ngưỡng thờ mẫu là hệ thống
các huyền thoại, thần tích, các bài văn chầu, truyện thơ Nôm, các bài
giáng bút, câu đối, đại tự, hát xướng, hát chầu văn, lên đồng, múa
bóng...
Những thần ngưỡng của tín ngưỡng thờ Mẫu gồm các nhiên thần,
nhân thần, trong đó có khá nhiều các nhân vật lịch sử anh hùng như
Trần Hưng Đạo (Vị vua cha). Nhân vật của tín ngưỡng thờ Mẫu được
thờ trong những điện, đền, phủ... mà những di tích này nằm rải rác rất
nhiều ở vùng văn hoá Bắc Bộ.
5.Tín ngưỡng thờ cụ tổ nghề.
Ngoài ngành kinh tế nông nghiệp thuần nông thì các ngành nghề
thù công rất phổ biến ở các làng trong vùng văn hoá Bắc Bộ. Những
làng quê đó dần được phát triển thành những làng nghề chuyên nghiệp.

19


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

Do đó, việc thờ các ông tổ nghề (dệt, gốm, đúc đồng...) là nét không
thể thiếu trong văn hoá tín ngưỡng của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ.
6.Tín ngưỡng lễ hội
Nét lớn cuối cùng trong văn hoá tín ngưỡng được xem là “sinh
hoạt văn hoá tổng hợp” của vùng văn hoá Bắc Bộ đó là lễ hội. Lễ hội
là hình thức sinh hoạt văn hoá lớn, nó bao chứa các hình thức tín

ngưỡng khác, hay nói cách khác là những hình thức này tiềm ẩn, tồn
tại trong lễ hội.
Như đã nói ở trên, đặc trưng của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ là
sống bằng nghề nông nghiệp trồng lúa nước. Vòng quay tự nhiên tạo
ra tính chất mùa vụ và hình thức lễ hội ra đời trong thời gian đó. Ban
đầu, nó đơn thuần chỉ là hính thức văn hoá giải trí. Dần dà, qua các
thời kỳ lịch sử khác nhau, nó lắng đọng lại và trở thành văn hoá tín
ngưỡng.
Ở đồng bằng Bắc Bộ, lễ hội rất phong phú, đa dạng, rực rỡ về
thời gian, số lượng, mật độ, nội dung... Theo thời gian, có thể chia lễ
hội làm nhiều loại: Lễ hội mùa xuân, lễ hội mùa thu... Theo không
gian địa lý, lễ hội được phân làm những dạng: Lễ làng, lễ hội vùng, lễ
hội cả nước... Tuy vậy, dù vào thời gian nào hay ở địa phương nào, lễ
hội ở vùng văn hoá Bắc Bộ đều có đặc điểm chung là mang tính chất
lễ hội nông nghiệp. Điều này thể hiện rõ trong các hình thức lế hội
như thờ mẹ lúa, thờ thần mặt trời, cầu mưa...
Lễ hội ở vùng văn hoá Bắc Bộ không chỉ là những nét phác thảo
về văn hoá mà còn mang đậm tính chất tín ngưỡng tôn giáo. Những lế
20


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

thội thường được đồng nhất với lễ chùa chiền, miếu mạo. Nếu xét
trong phạm vi hẹp nhất định.
Trên mảnh đất thiêng này, ta có thể bắt gặp nhiều lễ hội truyền
thống: Hội chùa Hương (Hà Tây), hội Đền Hùng (Phú Thọ), hội Gióng
(Hà Tây), hội lim. (Bắc Ninh)... những lễ hội ấy là kết quả của những
tinh hoa văn hoá dân tộc được kế thừa, chọn lọc, kết tinh và lắng đọng
qua các thời kỳ lịch sử, là kết quả của quá trình tiếp diễn văn hoá mà

đã được đánh giá là “diễn ra lâu dài và nội dung phong phú hơn cả”
(Đinh Gia Khánh - Cù Huy Cận “Các vùng văn hoá Việt Nam - Nxb
văn học). Theo GS Đinh Gia Khánh, “Đây là một sinh hoạt tập thể
long trọng thường đem lại niềm phấn chấn cho tất cả mọi người, cho
mỗi một con người. Nhưng qui cách và những nghi thức trong lễ hội
mà mỗi người phải tuân thủ theo tạo nên niềm thông cảm của toàn thể
cộng đồng, làm cho mỗi người gắn bó chặt chẽ hơn với cộng đồng và
do đó, thấy mình vươn lên ở những tầm vóc cao hơn với một sức mạnh
lớn hơn” (Trên đường tìm hiểu văn hoá Việt Nam - Nxb KHXH-Hà
Nội).
Như vậy, ta có thể thấy rõ rằng lễ hội là một nét tiêu biểu trong
văn hoá tín ngưỡng của vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ. Tựu trung lại
với những sắc thái đặc trưng, những giá trị lớn, văn hoá tín ngưỡng ở
vùng Bắc Bộ đã góp một phần không nhỏ trên hành trình xây dựng một
nền văn hoá tiến bộ, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc.
VIII. Nền văn hoá bác học.
Cùng với văn hoá dân gian, vùng châu thổ Bắc Bộ theo GS. Đinh
Gia Khánh còn là “nơi phát sinh nền văn hoá bác học”. Sự phát triển
21


Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

của giáo dục, truyền thống trọng người có chữ trở thành nhân tố tác
động tạo ra một tầng lớp trí thức ở Bắc Bộ. Từ cuối đời trần, đặc biệt
sang thời Lê sơ, khoa cử đã trở thành một trong những phương thức
tuyển lựa quan lại chủ yếu của triều đình phong kiến. Sang thế kỷ
XVII, XVIII, hầu hết các làng ở Đàng ngoài và sau đó ở Đàng trong
đều có lớp học tư do các thầy đồ phụ trách. Làng đã dành một số
ruộng (gọi là học điền) phục vụ việc nuôi thầy và khuyến khích học

tập. Lệnh thành lập các trường công ở xã thời Tây Sơn tuy chưa được
thực hiện nhưng có tác dụng khuyến khích rất lớn. Khi Nho giáo suy
đồi, đấu tranh giai cấp tăng lên thì giáo dục trở thành diều quan trọng
để nhân dân nói lên những nguyện vọng, tâm tư và tình cảm của mình.
Nơi đầy có Văn Miếu - Quốc Tử Giám, là trường đại học đầu tiên của
nước Việt. Xứ Bắc có một đội ngũ trí thức đông đảo, trong đó có nhiều
danh nhân văn hoá tầm cỡ. Thời thuộc Pháp, Hà Nội là nơi có các cơ
sở giáo dục, khoa học, thu hút các trí thức mọi vùng. Hiện tại, đây là
nơi đầu mối các trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học (80% các
viện nghiên cứu và 64% các trường đại học), mà đội ngũ trí thức cũng
tập trung đông nhất, chiếm 57% tổng số trí thức cả nước.
Chính sự phát triển của giáo dục ở đây tạo ra sự phát triển của
văn hoá bác học. Đó là điều kiện để tiếp nhận vốn văn hoá dân gian,
vốn văn hoá bác học Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây. Chữ Nôm, chữ
Quốc ngữ chính là sản phẩm được tạo ra từ quá trình sáng tạo của trí
thức, thể hiện rõ đặc điểm này.

22



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×