Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

tiểu luận BIỆN CHỨNG GIỮA tồn tại xã hội và ý THỨC xã hội với VIỆC PHÁT TRIỂN sự NGHIỆP GIÁO dục HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.62 KB, 46 trang )

Tiểu luận chuyên đề Triết học

A - MỞ ĐẦU
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã khởi xướng và
lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trải
qua hơn 25 năm công cuộc đổi mới đã giành được những thắng lợi to lớn
trên mọi lĩnh vực.
Nền kinh tế nước ta đã có nhiều biến đổi quan trọng, Đảng ta đã chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta đã tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có giáo dục – đào tạo.
Trước tình hình chuyển biến của nền kinh tế và tác động sâu sắc toàn
diện của quá trình toàn cầu hóa, sự hội nhập trong khu vực và quốc tế đòi
hỏi giáo dục – đào tạo cũng phải chuyển biến mạnh mẽ phù hợp với tình
hình mới.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến
mặt trận giáo dục – đào tạo, coi giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã
khẳng định: Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan
trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, là điều kiện để
phát huy quyền lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong công cuộc đổi mới, sự nghiệp
giáo dục đào tạo nước nhà đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần
tích cựu vào việc đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ cho đất
nước. Bên cạnh những thành tựu, nền giáo dục nước ta còn đứng trước
nhiều khó khăn, yếu kém và bất cập.
Bối cảnh quốc tế và yêu cầu phát triển đất nước đặt ra cho giáo dục đào
tạo nước ta những thời cơ và thách thức lớn, giáo dục - đào tạo nước nhà phải
thực hiện sự đổi mới để vươn tới những thành tựu mới.
Nhằm góp phần giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa kinh tế và giáo dục


đào tạo, nhằm hướng giáo dục - đào tạo theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tránh được những sai lầm chủ quan, duy ý chí trong quá trình phát
triển. Vì vậy, em lựa chọn vấn đề: “Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức
xã hội với việc phát triển sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay” làm đề tài
của tiểu luận của mình.
1. Tình hình nghiên cứu
Nguyễn Huy Thân

1

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

Việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức
xã hội cũng như lĩnh vực giáo dục đào tạo từ lâu nay đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu và cho công bố nhiều công trình ở khía cạnh này
hoặc khía cạnh khác.
Trong phạm vi của tiểu luận này, em tập trung nghiên cứu để vận dụng
các quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử được rút ra từ mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội đối với việc phát triển giáo dục đào tạo hiện nay ở nước ta, tránh được những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy
ý chí trong định hướng phát triển giáo dục - đào tạo của nước nhà.
2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
2.1. Mục đích: Góp phần làm rõ ý nghĩa phương pháp luận của mối
quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và quán triệt vào việc
định hướng phát triển giáo dục - đào tạo theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Đồng thời, làm rõ thực trạng và giải pháp nhằm phát triển giáo
dục - đào tạo của nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: Tiểu luận sẽ làm rõ những vấn đề sau đây:

- Các khái niệm và mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức
xã hội.
- Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội đối với việc xây dựng xã hội mới.
- Vai trò của giáo dục đào tạo trong việc xây dựng đời sống tinh thần của
xã hội
- Đặc điểm của tồn tại xã hội và tác động của nó đối với giáo dục - đào
tạo nước ta hiện nay.
- Thực trạng và các phương hướng, giải pháp nhằm phát triển giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1.
Đối tượng: Tiểu luận nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội và tác động của nó đối với sự phát triển của
giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay.
3.2.
Phạm vi: Dưới góc độ triết học, tiểu luận đi sâu nghiên cứu đặc
điểm tồn tại xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới và tác động của nó đến
phát triển của giáo dục - đào tạo trên những phương diện chung nhất.
4.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
4.1.
Cơ sở lý luận: Em thực hiện đề tài tiểu luận này dưới góc độ
triết học dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các Nghị quyết của Đảng Cộng Sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội, các
kỳ họp Ban chấp hành Trung ương và các tài liệu có liên quan khác.
Nguyễn Huy Thân

2


Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

4.2.
Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện tiểu luận em sử dụng
một số phương pháp sau đây:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
5.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận:
- Tiểu luận được hoàn thành sẽ góp phần vào việc nghiên cứu làm rõ
quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội, đặc biệt là cơ sở kinh tế tác động đến đời sống tinh
thần của xã hội và ngược lại.
- Với ý nghĩa phương pháp luận được rút ra trong mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội sẽ góp một phần nhỏ vào việc đưa
ra những giải pháp nhằm định hướng cho giáo dục - đào tạo đi đúng theo quy
luật mà chủ nghĩa duy vật lịch sử đã vạch ra, tránh được khuynh hướng xa rời
thực tiễn, xa rời điều kiện kinh tế cụ thể, mắc phải sai lầm duy ý chí, bảo thủ
trì trệ trong sự phát triển.
6.
Kết cấu của tiểu luận:
Tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính gồm 2 chương 5 tiết.
Chương I:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

1.1.
Lý luận chung về tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
1.2.
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội đối với việc xây dựng xã hội mới.
Chương II:
Quán triệt tư tưởng biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
trong sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay.
2.1. Vai trò của giáo dục đào tạo trong việc xây dựng đời sống tinh thần
của xã hội.
2.2. Đặc điểm của tồn tại xã hội và tác động của nó đối với giáo dục đào
tạo nước ta hiện nay.
2.3. Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển giáo dục đào tạo ở nước ta
hiện nay.

Nguyễn Huy Thân

3

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

B - NỘI DUNG CƠ BẢN
Chương I:
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý
THỨC XÃ HỘI
1.1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI.


1.1.1. Khái niệm về tồn tại xã hội:
Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội. Trong những quan hệ xã hội vật chất đó, thì quan hệ giữa người
với tự nhiên và quan hệ giữa người với người là hai loại quan hệ cơ bản.
Khi nghiên cứu tồn tại xã hội với tính cách vừa là đời sống vật chất, vừa
là những quan hệ vật chất giữa người và người, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: Việc
anh sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh con đẻ cái và anh chế tạo ra các sản
phẩm, anh trao đổi sản phẩm, làm nảy sinh ra một chuỗi tất yếu, khách quan
gồm những biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc vào ý thức xã hội
của anh và ý thức này không bao giờ bao quát được toàn vẹn cái chuỗi đó
Như vậy tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất
vật chất, điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số...,
trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
Trong lịch sử xã hội loài người cho đến nay đã trải qua năm phương thức
sản xuất vật chất, đó là:
- Phương thức sản xuất vật chất cộng sản nguyên thủy.
- Phương thức sản xuất vật chất chiếm hữu nô lệ.
- Phương thức sản xuất vật chất phong kiến.
- Phương thức sản xuất vật chất tư bản chủ nghĩa.
- Và đang trên đà xây dựng phương thức sản xuất vật chất cộng sản
chủ nghĩa.
Tuy nhiên, ở mỗi nước, mỗi khu vực trên thế giới hay là mỗi địa phương
trong nước lại có điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân
số khác nhau. Điều này đã dẫn đến tồn tại xã hội với kết cấu khác nhau tùy
thuộc vào thời gian và địa điểm, tương ứng là sự phản ánh vào ý thức xã hội,
tạo ra sự muôn màu muôn vẻ của ý thức xã hội.
1.1.2. Khái niệm ý thức xã hội
Triết học Mác – Lênin cho rằng: Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời
sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cũng những tình cảm, tâm

trạng truyền thống..., nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội
trong những gia đoạn phát triển nhất định.
Nguyễn Huy Thân

4

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

Để hiểu rõ ý thức xã hội chúng ta cần phân biệt rõ ý thức xã hội và ý
thức cá nhân.
- Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ
thể. Ý thức cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội ở những mức độ khác nhau.
Do đó, nó không thể mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân không phải bao
giờ cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng,
một tập đoàn xã hội, một thời đại nhất định một cách khác nhau.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ, biện
chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau.
1.1.3. Kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những
hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác
nhau. Tùy theo góc độ xem xét, chúng ta có thể phân ý thức xã hội thành các
dạng sau đây:
a. Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.
- Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của
con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày,
chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa.
Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều

mặt cuộc sống hành ngày của con người, thường xuyên tri phối cuộc sống đó.
Trình độ ý thức thông thường tuy thấp hơn so với ý thức lý luận, nhưng
những tri thức kinh nghiệm phong phú của nó là tiền đề quan trọng cho sự
hình thành các lý thuyết khoa học.
- Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái
quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng các khái niệm,
phạm trù, quy luật.
Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách
khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự
vật, hiện tượng.
b. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
- Tâm lý xã hội: Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn,
thói quen, tập quán,..., của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn
xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và
phản ánh đời sống đó
Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh
sống hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại
những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội. Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ,
Nguyễn Huy Thân

5

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người. Những quan
niệm của con người ở trình độ tâm lý xã hội còn mang tính kinh nghiệm, chưa
được thể hiện về mặt lý luận, còn yếu tố trí tuệ thì đan xen với yếu tố tình

cảm.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội
trong sự phát triển của ý thức xã hội. C.Mác, Ph.Angghen, V.I.Lênin và Hồ
Chí Minh rất coi trọng việc nghiên cứu trạng thái tâm lý xã hội của nhân dân
để hiểu nhân dân, giáo dục nhân dân, đưa nhân dân tham gia tích cực, tự giác
vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp.
- Hệ tư tưởng: Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, nó được
hình thành khi con người nhận thức sâu sắc hơn về điều kiện sinh hoạt vật
chất của mình...Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ
xã hội. Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những
quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo...), kết
quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình
thành một cách tự giác, nghĩa là tạo ra bởi các nhà tư tưởng của những giai
cấp nhất định và được truyển bá trong xã hội.
Khi nghiên cứu về hệ tư tưởng chúng ta cần chú ý để phân biệt hệ tư
tưởngkhoa học và hệ tư tưởng không khoa học.
- Hệ tư tưởng khao học là hệ tư tưởng phản ánh chính xác, khách quan
các mối quan hệ vật chất của xã hội.
- Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh mối quan hệ vật chất
của xã hội, nhưng dưới hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.
- Với tính cách là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển của khoa học. Lịch sử các khoa học tự nhiên đã cho thấy
tác dụng quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học đối với quá
trình khái quát những tài liệu khoa học.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là 2 trình độ, hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối liên hệ tác động
qua lại với nhau
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội có cũng một nguồn gốc là tồn tại xã
hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi hay gây
trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với

một hệ tư tưởng nhất định.
Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng tiến bộ, khoa
học) với tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống hết sức sinh động và phong
phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm.

Nguyễn Huy Thân

6

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

Trong điều kiện đó hệ tư tưởng lý luận xã hội gia tăng yếu tố trí tuệ cho
tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo
chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. hệ tư tưởng phản
khoa học, phản động kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát
triển.
Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không
phải là biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội. Bất lỳ tư tưởng nào khi phản ánh
các mối quan hệ đương thời thì đồng thỡi cũng kế thừa những học thuyết xã
hội, những tư tưởng và quan điểm trước đó.
Chẳng hạn hệ tư tưởng Mác – Lênin cũng không trực tiếp ra đời từ tâm
lý xã hội của giai cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp
tư sản, mà là sự khái quát lý luận từ tổng số những tri thức của nhân loại, từ
những kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân, đống thời kế thừa trực
tiếp các học thuyết kinh tế xã hội, triết học vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ
XIX.
Như vậy, hệ tư tưởng liên hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động

của tâm lý xã hội, nhưng nó không đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
1.1.4. Tính giai cấp của tâm lý xã hội.
Khi nghiên cứu ý thức xã hội đối với xã hội có phân chia giai cấp, chúng
ta cần quan tâm đến tính giai cấp của ý thức xã hội
Xuất phát từ các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác
nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định. Ý
thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau
hoặc đối lập nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ
tư tưởng xã hội.
Về mặt tâm lý xã hội mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen
riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội
khác.
Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu
sắc hơn nhiều. Trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có những quan điểm tư
tưởng hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai cấp
bị bóc lột, giai cấp thông trị và giai cấp bị thống trị
Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của
giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.
Trong điều kiện xã hội hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý
thức hệ vẫn đang tiếp tục diễn ra. Trước những khó khăn và thử thách trên
Nguyễn Huy Thân

7

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học


con đường phát triển của chủ nghĩa xã hội, các thế lực thù địch đang ra sức
tiến công vào chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện thế giới ngày nay là một
nhiệm vụ quan trọng của cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta và nhân dân tiến bộ trên thế giới nói
chung.
1.1.5. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
a. Tồn tại xã hội quyêt định ý thức xã hội.
Công lao to lớn của C.Mác và Ph. Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy
vật đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải
quyết một cách khoa học về sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Các
ông đã chững minh rằng đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển
trên cơ sở đời sống vật chất, không thể tìm nguồn gốc tư tưởng, tâm lý xã hội
trong bản thân nó, với nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà tìm
trong hiện thực vật chất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội. Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã
hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã
hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa,
nghệ thuật v.v...sớm muộn cũng biến đổi theo. Vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử
khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội
khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết
định.
b. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội, ý
thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, chủ
nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái
lại còn nhấn mạnh tính tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thường biểu hiện
ở những điểm sau đây:
b1. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất

lâu, nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc
lập tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội (trong tập
quán, truyền thống, thói quen). Lênin cũng cho rằng, sức mạnh tập quán được
tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm.
Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều
kiện của chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa trong
Nguyễn Huy Thân

8

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

xã hội cũ vẫn tồn tại trong xã hội mới như lỗi sống ăn bám, lười lao động, tệ
tham nhũng v.v....
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội là do những nguyên
nhân sau đây:
- Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ thường xuyên, trực
tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ
nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp và trở lên lạc hậu.
Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nến nói chung chỉ
biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
- Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính
lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
- Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc
hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm
chống lại lực lượng xã hội tiến bộ.

Những hiện tượng ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ
dàng. Vì vậy trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng
cường giáo dục chính trị tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và phá
hoại của lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý
thức cũ, đồng thời ra sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
b2. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Khi khẳng định tính thường lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã
hội, Triết học Mác đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định,
tư tưởng của con người, đặc biết những tư tưởng khoa học tiên tiến có vượt
trước sự phát triển của tồn tại, dự báo trước được tương lai và có tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào
việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống
vật chất của xã hội đặt ra.
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là thế giới quan và
phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới quan trên mọi
lĩnh vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nghiệp
xây dựng xã hội chủ nghĩa.
b3. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong phát triển của mình
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng những
quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống
không mà tạo ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời
đại trước.
Nguyễn Huy Thân

9

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học


Ví dụ: chủ nghĩa Mác đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng
của loài người mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ
điển Anh, chủ nghĩa xã hội khoa học Pháp.
Thừa nhận tính kế thừa trong sự phát triển của tư tưởng giúp chúng ta
giải thích hiện tượng vì sao một nước có trình phát triển tương đối kém về
kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao.
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về kế thừa của ý thức xã hội có ý
nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh thần của xã hội xã
hội chủ nghĩa. Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phát huy
những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hóa nhân loại từ cổ
chí kim trên cơ sở thế giới quan Mác – xít.
Nắm vững quan điểm trên đây của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa
của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Trong điều kiện kinh tế thị trường và
mở rộng giao lưu quốc tế, Đảng ta khẳng định: “Phát triển văn hóa với nước
ngoài, vừa giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa
thế giới” [11, Tr49].
b4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội.
Trong sự phát triển, các hình thái ý thức xã hội luôn tác động qua lại lẫn
nhau là một biểu hiện nữa của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Đây
cũng là một quy luật phát triển của ý thức xã hội.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội thì ý thức
chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách
mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái
ý thức khác nhau. Trong điều kiện nước ta hiện nay, những hoạt động tư
tưởng như triết học, văn học, nghệ thuật v.v... mà tách rời đường lối chính trị
đổi mới đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai
lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
b5. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại những quan điểm duy
tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật
tầm thường (hay duy vật kinh tế) phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội
trong đời sống xã hội.
Ph. Angghen viết: “sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật v.v...đều dựa trên cơ sở phát triển kinh tế, nhưng tất
cả cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế” [6, Tr271].

Nguyễn Huy Thân

10

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc
vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất các mối quan hệ kinh tế mà trên đó
tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng, vào
mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với nhu cầu phát triển xã hội, vào
mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng.
Vì vậy, cũng cần phân biệt rõ vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý
thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội
1.2.
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội đối với việc xây sựng xã hội mới.
Để nhận thức đầy đủ ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội chúng ta phải xuất phát trước hết từ
vai trò, tác dụng của ý thức.

1.2.1. Vai trò và tác dụng của ý thức.
Triết học Mác – Lênin đã khẳng định: Ý thức là sự phản ánh sáng tạo lại
hiện thực, theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Vì vậy ý thức “chẳng qua chỉ là vật
chất được đem chuyển vào đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
Nói một cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Đó
chính là bản chất của ý thức, bản chất này được bắt nguồn từ tự nhiên, xã hội,
trong đó nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và thực tiễn xã hội.
Kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường xuyên tạc là chủ nghĩa Mác chỉ biết
đến vật chất, kinh tế mà coi nhẹ vai trò của ý thức, tư tưởng. Thực ra không
hoàn toàn phải như vậy, chỉ có chủ nghĩa duy vật tầm thường, không biện
chứng, duy vật kinh tế mới phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của yếu tố tinh thần,
ý thức mà thôi. Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức,
chủ nghĩa duy vật đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan
trọng của ý thức đối với vật chất.
Ý thức vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời ý thức có tình
độc lập tương đối do đó có sự tác đông trở lại rất to lớn đối với vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức của con người có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, biến
đổi vật chất khách quan theo nhu cầu của mình. Như vậy quan hệ giữa vật
chất và ý thức không không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác
động qua lại. không thấy rõ điều đó sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường
và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động.
Chúng ta nói đến vai trò của ý thức về thực chất là nói đến vai trò của
con người bởi ý thức là ý thức của con người.
Nguyễn Huy Thân

11

Lớp GDCT K29A2



Tiểu luận chuyên đề Triết học

Bản thân ý thức tự nó không trự tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả.
Theo Mác, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng một lực lượng
vật chất [6, Tr580]. Cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng
thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện được các quy
luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó,
phải có ý chí và có phương pháp để tổ chức hành động.
Ý thức có vai trò to lớn ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người, hình
thành mục tiêu, kế hoạch ý chí, biện pháp cho hoạt động của con người.
Trong trường hợp này, ý thức tư tưởng có thể quyết định làm cho con người
hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện
khách quan nhất định.
Chúng ta cũng biết rằng vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải
ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thứ thế giới
khách quan mà từ đó là cho con người hình thành được mục đích, phương
hướng, phương pháp, và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình.
Sức mạnh của ý thức con người không phải ở chỗ tách rời với điều kiện
vật chất, thoát ly hiện thực khách quan, mà là biết dựa vào điều kiện vật chất
đã có, phản ánh đúng đắn quy luật khách quan, để cải tạo thế giới khách quan
một cách chủ động sáng tạo với ý chí và nhiệt tình cao.
1.2.2. Ý nghĩa phương pháp luận đối với việc xây dựng xã hội mới.
Nghiên cứu vai trò, tác dụng của ý thức sẽ giúp cho chúng ta nhận thức
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Trong đó, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần có ý nghĩa hết sức to lớn, các
nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Với ý nghĩa đó,

chúng ta phải đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. Vận dụng nó vào xây dựng nền văn hóa, xây
dựng con người.
Xã hội mới, nền văn hóa mới, con người mới ở đây phải xuất phát từ
điều kiện kinh tế, gắn chặt với điều kiện kinh tế và phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, phát huy nhân tố con người. Ở đây, con
người phản ánh ngày càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng
cải tạo thế giới khách quan có hiệu quả. Vì vậy, cần phải phát huy tính năng
động sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người để tác động cải tạo thể

Nguyễn Huy Thân

12

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

giới khách quan. Đồng thời khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực
thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay.
Cơ sở của việc phát huy tính năng động chủ quan chính là thừa nhận tính
khách quan của vật chất, của quy luật tự nhiên và xã hội. Trong thế giới vật
chất các thuộc tính và quy luật vốn có của nó tồn tại khách quan, không phụ
thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi
hoạt động của mình. Chính vì vậy, Lê nin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng,
không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nều chỉ

xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng
thay cho hiện thực thì mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
Thực tiễn xây dựng đất nước của chúng ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã chứng minh cho quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa duy vật
lịch sử mà Mác là người có công phát hiện và xây dựng. Trước đại hội Đảng
lần thứ IV, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đã phạm sai lầm
trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
trong cải tạo xã hội chủ và quản lý kinh tế. Chúng ta đã nóng vội muốn xóa
ngay nền kinh tế nhiều thành phần, vi phạm quy luật khách quan.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, chúng ta đã nghiêm
khắc tự phê bình để nhận ra khuyết điểm, sai lầm. Cương lĩnh của Đảng được
thông qua tại đại hội lần thứ VII đã khẳng định: “Đảng đã phạn sai lầm chủ
quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” [13, Tr5].
Vì vậy, từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như từ thực tiễn
thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Đại hội lần thứ
VII của Đảng đã rút ra bài học quan trọng là: “Mọi đường lối, chủ chương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. [11, Tr85].
Bài học có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước
hiện nay. Bài học đó phải được thấm sâu trong mỗi chúng ta khi tiến hành
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong việc xây dựng đời
sống tinh thần cho xã hội, trong việc phát huy nhân tố con người, trong việc
phát triển sự nghiệp giáo dục của đất nước, trong sự nghiệp này phải lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự nghiệp phát triển
nhanh, bền vững.
Chương II:
QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý
THỨC XẪ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Nguyễn Huy Thân


13

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

2.1. Vai trò của giáo dục đào tạo trong việc xây dựng đời sống tinh
thần của xã hội.
2.1.1. Quan điểm của Đảng ta về đời sống tinh thần.
Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chất hành trung ương Đảng khóa
VIII trong phần nói về định hướng phát triển chiến lược giáo dục – đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã chỉ rõ: Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục – đào
tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và
bền vững. Giáo dục đào tạo có vai trò to lớn trong việc xây dựng đời sống
tinh thần của xã hội hiện nay. Mặt chủ yếu, nổi bật trong đời sống tinh thần
của xã hội chính là đời sống văn hóa – tư tưởng của nhân dân.
Trong các văn kiện Đại hội III (9-1960), IV (12-1976) và V (3-1982),
Đảng ta xác định tư tưởng – văn hóa là một trong ba cuộc cách mạng phải tiến
hành đồng thời (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học- kỹ thuật,
cách mạng tư tưởng – văn hóa) của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua
tại Đại hội VII (6-1991) xác định nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc là một trong 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng. Hội nghị Trung ương năm, khóa VIII (7-1998) xác định “văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy sự phát

triển kinh tế- xã hội”. Quan điểm này được quán triệt trong Đại hội IX và
nhấn mạnh trong Đại hội X: “Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã
hội” và tiếp tục được khẳng định trong Đại hội XI (1/2011) vừa qua.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung và phát triển năm 2011) trở lại quan điểm của Đại hội X và nhấn mạnh:
“Văn
hóa

sức
mạnh
nội
sinh
của
phát
triển”.
Hiểu thế nào về quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã
hội,
sức
mạnh
nội
sinh
của
phát
triển”?
Nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, có vị trí quan trọng và ngang
với kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội là một bước phát triển trong tư duy,
nhận thức. Điều này được thể hiện ở chỗ phát triển kinh tế vì văn hóa với ý
nghĩa văn hóa là mục tiêu (vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, con
người có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, được phát triển toàn diện). Đồng
thời muốn phát triển kinh tế phải có văn hóa làm động lực, tức là phải xây

Nguyễn Huy Thân

14

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

dựng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn, năng lực, sự thành thạo, tài
năng, đạo đức, nhân cách, lối sống...
Sức mạnh nội sinh của văn hóa được thể hiện văn hóa định hình các giá
trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối các hành vi của mỗi người và
toàn xã hội. Các giá trị, chuẩn mực đó được truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và
phát triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc trở thành hệ thống giá trị đặc
trưng cho một dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức, pháp luật, khoa học, văn
học, nghệ thuật, các thể chế thiết chế văn hóa, phong tục, tập quán, lối sống,
tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Sức mạnh nội sinh là phải trả lời
được câu hỏi: “Dân tộc Việt Nam là ai? Dân tộc Việt Nam có cái gì khác dân
tộc khác?”. Trả lời được những câu hỏi đó có nghĩa là nhận thức được nguồn
lực xã hội (vốn xã hội) to lớn, thấm sâu, tạo sự ổn định, lâu bền trong quá
trình phát triển.
Cũng là nền tảng - nền tảng vật chất - nhưng kinh tế không thể tạo nên
giá trị ổn định, bền vững với ý nghĩa là sức mạnh nội sinh. Một đất nước
nghèo về kinh tế chỉ cần dăm ba chục năm là có thể phục hồi, dần dần phát
triển, nhưng nghèo và tụt dốc về văn hóa thì phải hàng trăm năm, thậm chí
không bao giờ vực dậy được. Nói theo tinh thần của Lênin và Đảng ta, chúng
ta khốn khổ trước hết về sự suy đồi, xuống cấp về văn hóa. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, văn hóa, đạo
đức, lối sống. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính cái đó. Giảm

lòng tin của nhân dân đối với Đảng cũng là cái đó. Cái đó là một nguy cơ lớn
liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ. (Xem V.I. Lênin: Toàn tập,
Nxb TB, M, 1979, t.54, tr.235 và ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.264.)
Như vậy, sự phát triển của một thời đại ở bất kỳ quốc gia nào đều có dấu
ấn khai sáng của văn hóa. Nói dấu ấn khai sáng thì không chỉ dừng lại ở nền
tảng tinh thần mà là soi đường, lãnh đạo, đi trước. Theo Hồ Chí Minh, “văn
hóa soi đường cho quốc dân đi, văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc
lập, tự cường, tự chủ”. Trả lời câu hỏi của phóng viên báo L’Umanité (Pháp)
về nhân tố nào sẽ biến nước Việt Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến, Hồ
Chí Minh nói: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi
nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm nhân dân chúng tôi
trong vòng ngu muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là
điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ… Chính vì vậy chúng tôi đã đào tạo
nhanh chóng các cán bộ cho tất cả các ngành hoạt động… để công nghiệp hóa
đất nước”.(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1996, t.10, tr.392)
Nguyễn Huy Thân

15

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

Hiện nay Đảng ta xác định tiến hành đồng bộ và gắn kết ba lĩnh vực: phát
triển kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt; xây dựng
văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững đất nước, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Ba lĩnh vực đó đều lấy con người làm hạt nhân

với ý nghĩa là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của
phát triển.
Xét đến cùng nếu không có vai trò to lớn của giáo dục đào tạo, chúng ta
không thể tạo ra một đội ngũ cán bộ đông đảo để thực hiện nhiệm vụ xây
dựng nền văn hóa, xây dựng đời sống tinh thần của xã hội, thúc đẩy nhanh
chóng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Trên đây là chúng ta xét vai trò của giáo dục đào tạo dười góc độ đời
sống tinh thần của xã hội
2.1.2. Vai trò của giáo dục đào tạo đối với việc xây dựng đời sống
tinh thần của xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội VII khẳng định “giáo dục và đào tạo gắn liền với
sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật. Giáo dục và đào tạo
phải được xem là quốc sách hàng đầu”. Đại hội VIII (6-1996) khẳng định
“phải phát triển mạnh giáo dục – đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu
tố cơ bản của phát triển nhanh và bền vững”. Nghị quyết Trung ương hai (12
– 1996) khóa VIII coi “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” với ý
nghĩa “giáo dục – đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết
định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục- đào tạo là
đầu tư cho phát triển”. Đại hội X nhấn mạnh lại vai trò quốc sách hàng đầu,
bổ sung “là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”.
Giáo dục đào tạo không chỉ là hoạt động truyển thụ tri thức mà luôn tác
động đến các hinh thái ý thức xã hội, đến đời sống tinh thần của xã hội và thể
hiện vai trò của mình ở những góc độ sau.
a. Giáo dục- đào tạo góp phần định hướng các giá trị tinh thần của
xã hội.
Giáo dục – đào tạo có vai trò chủ yếu trong việc giữ gìn, truyền bá, phát
triển và sáng tạo văn minh nhân loại.
Ở nước ta, với chức năng của mình, giáo dục – đào tạo góp phần truyên

truyền, giáo dục những định hướng giá trị của nền văn hóa, đời sống tinh thần
của nhân dân ta như: Lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
Nguyễn Huy Thân

16

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát
triển phong phú, tự do, toàn diện của con người.
b. Giáo dục – đào tạo góp phần giáo dục đạo đức con người Việt Nam.
Bác Hồ kính yêu đã nhắc nhở chúng ta muốn xây dựng Chủ Nghĩa Xã
Hội trước hết cần phải có con người Xã Hội Chủ Nghĩa. Con người mới Xã
Hội Chủ Nghĩa là con người yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội, thấm nhuần tư tưởng nhân văn của dân tộc, có
tình cộng đồng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Đó là những con
người biết giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc và không ngừng góp
phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam ngày càng phong phú.
c. Giáo dục – đào tạo góp phấn tạo ra một đội ngũ cán bộ đông đảo.
Hoạt động trên mọi lĩnh vực văn hóa, xã hội nhằm tạo ra đời sống tinh
thần phong phú, quản lý tốt các hoạt động văn hóa, tạo môi trường lành mạnh
để mọi người được tự do phát triển.
2.2. Đặc điểm của tồn tại xã hội và tác động của nó đối với giáo dục –
đào tạo ở nước ta hiện nay.
2.2.1. Đặc điểm của tồn tại xã hội ở nước ta hiện nay.
Triết học Mác - Lê nin đã chỉ rõ: Tồn tại xã hội bao gồm những yếu tố
chính là phương thức sản xuất vật chất – hoàn cảnh địa lý - dân số và mật độ

dân số trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất. Do đó khi nói
đến tồn tại xã hội trước hết chúng ta phải nói đến các yếu tố cấu thành và sự
vận hành của nền kinh tế.
Đổi mới quản lý kinh tế, tức là chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
(tập trung quan liêu, bao cấp) sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình đấy khó khăn, phức tạp. Đó là
cuộc tìm tòi, sáng tạo không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, là sự đổi mới có
ý nghĩa cả về nhận thức, quan điểm, về thể chế chính sách, về bộ máy cán bộ.
Cho đến nay, toàn bộ quá trình xác lập, phát triển và đổi mới quản lý kinh tế
của nước ta có thể chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn trước 1979, giai đoạn từ
1979 đến 1986, và giai đoạn từ 1986 (nhất là từ 1989) đến nay.
a. Giai đoạn thực hiện thuần túy cơ chế kế hoạch hóa tập trung (trước
năm 1979)
Trước hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa IV (tháng
9/1979), nền kinh tế nước ta được quản lý thuần túy bằng cơ chế tâp trung
quan liêu, bao cấp. Ngay từ đầu, cơ chế đó đã bộc lộ những nhược điểm,
khuyết tật, nhưng trong điều kiện có hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, có
viện trợ lớn và chiến tranh kéo dài nên các nhược điểm của cơ chế cũ chưa
bộc lộ gay gắt. Đặc biệt trong mười năm từ 1955 – 1965 đất nước ta vẫn dành
Nguyễn Huy Thân

17

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực xấy dựng, phát triển kinh tế,
giáo dục, y tế v.v...và đã tạo cơ sở vững chắc cho cuộc đấu trang giải phóng

miền Nam, thống nhất đất nước. như vậy, trong chừng mực đáng kể, cơ chế
kế hoạch hóa tập trung đã đáp ứng được những nhu cầu của thời chiến, đồng
thời thực hiện được hai nhiệm vụ cách mạng: Đấu tranh giải phóng miền Nam
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Sau khi đất nước thống nhất, hòa bình được xác lập trên toàn quốc thì cơ
chế quản lý tập trung, bao cấp ngày càng bộc lộ những nhược điểm, trở thành
lực cản của sự phát triển, nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Tác động tiêu
cực của nó biểu hiện rất rõ trên các khía cạnh: Không tạo được động lực phát
triển, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, giảm năng xuất, chất
lượng và hiệu quả, hạn chế tính chủ động, năng động , sáng tạo của cơ sở kinh
tế và của người lao động.
b. Giai đoạn thử nghiệm 1979 – 1986
Có thể nói, hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương (khóa IV)
tháng 9 – 1979 là mốc khởi đầu công cuộc đổi mới quản lý kinh tế của nước
ta. Tại hội nghị này, lần đầu tiên, Đảng đưa ra quan điểm phát triển nền kinh
tế hàng hóa, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, thể hiện ở những chủ
chương cụ thể như “bỏ ngăn sông, cấm chợ”, “cho sản xuất bung ra”, thừa
nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Nhưng quan điểm mới đó ra đời
trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội nước ta lúc đó cực kỳ khó khăn, sản
xuất trong hầu hết các ngành đều đình đốn, đời sống nhân dân, cán bộ, lực
lượng vũ trang quá khó khăn, một số cơ sở, địa phương đã tìm cách “xé rào”,
phá bỏ thể chế cũ, tìm cách tự sản xuất và tiêu thụ để có thể nuôi sống người
lao động.
Trên thực tế nền kinh tế nước ta, từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban
chấp hành Trung ương khóa IV (1979), các quan hệ hàng hóa tiền tệ được
chấp nhận như một tất yếu khách quan, nhưng ở mức độ coi như mặt thứ yếu,
bổ xung cho hệ thống kế hoạch pháp lệnh trung. Nhưng, chính từ sự chấp
nhận đó đã thúc đẩy phát triển quan hệ hàng hóa tiền tệ. Đống thời, đây còn
được coi như quá trình thử nghiệm đổi mới và từng bước tổng kết, so sánh,
chọn lựa, trong đó cuộc đấu tranh gay gắt về tư tưởng, lý luận và chính sách.

Chính từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm đó mà đại hội Đảng đã đi tới bước đổi
mới căn bản, xem quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hóa như một bộ
phận hữu cơ của quá trình sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Điều đó nghĩa là, trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội về nguyên tắc chúng
ta có thể bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng tất yếu
Nguyễn Huy Thân

18

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

phải kinh qua quá trình phát triển các quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Qua nhiều
thập kỷ trước đây, tư tưởng kinh tế - xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến,
kiêng kỵ quan hệ hàng hóa và cơ chế thị trường, coi nó là biểu hiện thuộc tính
của chế độ tư hữu và tư bản. Tư tưởng Lênin trong chính sách kinh tế mới bị
xem như bước lùi tạm thời bất đắc dĩ. Tư tưởng và thực tiễn đổi mới quản lý
kinh tế từ năm 1979 cho thấy, các quan hệ thị trường, quan hệ hàng hóa, tiền
tệ cần phải được sử dụng để phát triển sản xuất.
c. Giai đoạn đổi mới toàn diện từ 1986 đến nay.
Bước ngoặt có tính lịch sử đổi mới cơ chế quản lý kinh tế được đánh dấu
bởi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986. Tư tưởng cơ
bản về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đại hội VI là:
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên cơ sở đổi mới cơ cấu kinh tế, chấp
nhận nền kinh tế nhiều thành phần và chuyển sang nền sản xuất hàng hóa.
- Kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế
quản lý có kế hoạch theo phương thức hạch toán khinh doanh xã hội chủ
nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Đặc biệt, đến tháng 3 – 1989, khi tổng kết hai năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội VI, Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương
(khóa VI) đã khẳng định: Cả nước là một thị trường thống nhất, có nhiều lực
lượng thuộc các thành phần kinh tế cùng tham gia, thực hiện cơ chế giá thỏa
thuận, giá kinh doanh. Nhà nước bỏ quyền định giá, giữ giá bằng những biện
pháp hành chính, mà thực hiện sự điểu tiết bằng những biện pháp và công cụ
kinh tế là chủ yếu.
Từ năm 1989 đến nay, việc thực hiện cơ chế giá kinh doanh, cả nước là
một thị trường thống nhất, gắn với thị trường thế giới và hàng loạt các biện
pháp đồng bộ khác, đất nước ta mới cơ bản chuyển sang vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng là năm năm phấn
đấu gian khổ, quyết liệt để thực hiện đổi mới mạnh mẽ. Nhưng tình hình trong
nước và thế giới hết sức phức tạp: năm năm liền lạm phát ba con số, đời sống
nhân dân lao động và những người sống bằng tiền lương và trợ cấp xã hội
giảm sút mạnh, nhiều xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công
nghiệp đình đốn. Tình hình thế giới vẫn diễn biến phức tạp đã tác động xấu
đến tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta, nhưng đây cũng là thời kỳ
thể hiện tinh thần độc lập tự chủ của Đảng và nhân dân ta quyết tâm đổi mới
quản lý kinh tế. Với nỗ lực và quyết tâm cao trong việc kiên trì con đường đổi
mới nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước bước đầu được hình thành, lạm phát giảm dần,
Nguyễn Huy Thân

19

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học


sản xuất phát triển, từ một nước phải nhập lương thực trở thành nước xuất
khẩu mỗi năm hàng triệu tấn gạo, hàng tiêu dùng ngày càng phong phú, đời
sống nhân dân bước đầu được cải thiện, dân chủ trong xã hội bước đầu được
phát huy, lòng tin của nhân dân từng bước được khôi phục.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) đã đề ra nhiệm vụ phải
“tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới quản lý
kinh tế...Sắp xếp lại và củng cố các đơn vị kinh tế...từng bước hinh thành và
mở rộng đồng bộ các thị trường...đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý
vĩ mô trọng yếu” [10, Tr66-71) và cải tiến công tác điều hành của Nhà nước.
Đại hội VII của Đảng đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định sáu đặc trưng của xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng và bảy phương hướng cơ bản trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc . phương hướng về
kinh tế bao gồm:
+ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại hóa gắn với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ
trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội để không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội cải thiện đời sống
nhân dân.
+ Về quan hệ sản xuất phải thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đang dạng về hình thức sở hữu.
+ phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh
tế quốc doanh và tập thể ngày càng trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân,
thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
làm chủ yếu.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, đánh dấu một mốc mới trong tiến trình phát triển của cách mạng
nước ta. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm thực hiện nghị quyết Đại hội VII,

tồng kết 10 năm đổi mới, đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2000 và 2020, bổ sung, sửa
Điều lệ Đảng. Trên cơ sở tổng kết toàn diện những thành công và tồn tại,
những bài học chủ yếu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất
nước Đảng đã xác định: “nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực
lượng, trành thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới
một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược
Nguyễn Huy Thân

20

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, tăng trưởng kinh tế
nhanh, hiệu quả và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã
hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích
lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn
vào đầu thế kỷ sau. [12, Tr82].
Đại hội đại biểu lần thứ IX (năm 2001).
Ở Đại hội VII của Đảng quyết định Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội 1991- 2000 thì đến Đại hội IX trên cơ sở đánh giá việc thực
hiện chiến lược đó Đảng đã quyết định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
cho 10 năm đầu của thế kỷ XXI là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp

theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ,
kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ
bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.[1, Tr24]
Tiếp tục tinh thần của Đại hội Đảng IX, Đại hội X tiếp tục phát triển và
đưa ra mục tiêu tổng quát cho những năm tới đó là: “Đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả
và tính bền vững của sự phát triển,sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân
dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát
triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn
xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc
gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”.
[văn kiện đại hội X - Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam].
Đại hội XI trên cơ sở đánh giá những thành tựu và tồn tại qua 10 năm
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010, từ đó Đảng tiếp
tục đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội gia đoạn 2011 – 2020 với mục
tiêu tổng quát là “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương,
đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt;
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để
phát triển cao hơn trong giai đoạn sau” [văn kiện đại hội XI - Báo điện tử
Đảng cộng sản Việt Nam].
Nguyễn Huy Thân

21

Lớp GDCT K29A2



Tiểu luận chuyên đề Triết học

Thực tiễn sau 25 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cho thấy: Chỉ
với việc chuyển đổi thể chế kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp sang thể chế kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước XHCN, các nguồn lực nền kinh tế nước
ta đã được phát huy có hiệu quả hơn. Từ một nước thiếu ăn, phải nhập
khẩu lương thực, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, nay nước ta đã ra
khỏi tình trạng kém phát triển với GDP bình quân đầu người đạt
1.200USD; trở thành nước xuất khẩu gạo có vị trí thứ hai trên thế giới.
Điều đó khẳng định rằng, một thể chế kinh tế phù hợp sẽ là động lực thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Trải qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã làm được
nhiều việc để xây dựng và từng bước hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN trên cả ba phương diện: “Luật chơi”; “Sân chơi” và “Người chơi”.
Theo đó, hệ thống pháp luật tạo khung khổ pháp lý cho nền KTTT định
hướng XHCN đã được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng điều kiện để nước ta trở
thành thành viên thứ 150 của WTO. Các loại thị trường bước đầu được hình
thành đồng bộ bao gồm cả thị trường công nghệ và thị trường lao động; trong
đó thị trường chứng khoán-thành tựu cao nhất của nền KTTT trở thành một
kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Các loại hình doanh nghiệp
dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau đều được khuyến khích phát triển
không giới hạn về quy mô và trình độ, trong những lĩnh vực mà pháp luật
không cấm.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào thực tiễn, thể chế KTTT định hướng XHCN
cũng còn bộc lộ không ít vấn đề bất cập. Những hạn chế nảy sinh trong thực
tế đời sống trở thành “rào cản” của sự phát triển và được Đại hội XI của Đảng
nhìn nhận: “Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng

suất, hiệu quả, sự cạnh tranh của nền kinh tế thấp; các cân đối kinh tế vĩ mô
chưa vững chắc”. Vì vậy, đột phá vào hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN là sự lựa chọn đúng đắn, nhằm tạo tiền đề “thúc đẩy quá trình cơ cấu
lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô”
-Đúng như Đại hội XI xác định: Đây cũng là cách làm ít tốn kém nhất trong
quá trình thực hiện ba đột phá chiến lược.
2.2.2. Tác động của tồn tại xã hội đối với sự phát triển giáo dục – đào
tạo hiện nay ở nước ta.
Giáo dục- đào tạo là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, tác động
của giáo dục - đào tạo chủ yếu và trước hết vào ý thức xã hội. Do đó sẽ bị tác
Nguyễn Huy Thân

22

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

động mạnh mẽ của tồn tại xã hội. Tác động của tồn tại xã hội đến giáo dục –
đào tạo chủ yếu ở những phương diện sau đây:
a. Tác động đến mục tiêu giáo dục đào tạo.
Trước đây, giáo dục - đào tạo với mục tiêu đào tạo ra những con người
phụ vụ chủ yếu cho sự phát triển của thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể.
Chúng ta bước và thế kỷ XXI, thế kỷ sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, khoa
học và công nghệ sẽ có nhiều bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò
ngày nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh
tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có
mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp tác lại vừa đấu tranh.

Do đó mục tiêu của giáo dục – đào tạo là bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ
khoa học - kỹ thuật và công nhân lành nghề nhằm phục vụ cho những thành
phần kinh tế hiện đang tồn tại, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế được
bình đẳng trước pháp luật càng phát triển góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
b. Tác động đến nhiệm vụ giáo dục – đào tạo.
Giáo dục – đào tạo đang gánh chịu sự tác động mạnh mẽ của tồn tại xã
hội, của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giáo dục – đào
tạo có nhiệm vụ đào tạo ra đội ngũ những cán bộ khoa học kỹ thuật phục vụ
cho nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mà ta đang xây dựng.
Nhằm mục tiêu hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại, chúng ta
phải dựa vào nguồn lực con người và coi đó là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Nguồn lực này chính là lực lượng sản xuất quan trọng, nếu không có giáo dục
– đào tạo thì không thể tạo ra được lực lượng lao động đó.
Chúng ta cần thức hiện giáo dục toàn diện, tạo chuyển biến căn bản về
chất lượng giáo dục, nhất là trong các trường đại học, cao đẳng; đặc biệt chú
trọng giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống văn hóa, tác phong công
nghiệp, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ, lập thân, lập nghiệp, không cam chịu
nghèo hèn; Đào tạo lớp người lao động năng động, sáng tạo, có sức khỏe, có
kiến thức, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, có ý thức vươn lên nắm bắt thành
tựu mới về khoa học công nghệ.
c. Tác động đến tổ chức của giáo dục – đào tạo.
Do tác động của tồn tại xã hội nên cơ chế tổ chức đào tạo cũng thay đổi.
Trước đây chỉ có một loại hình trường lớp là trường công lập. Trong quá trình
chúng ta đã thực hiện chủ chương đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Bên
Nguyễn Huy Thân

23


Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

cạnh hệ thống những trướng công lập còn loại hình trường dân lập, bán công,
tư thục nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
d. Tác động đến nhận thức của xã hội về giáo dục – đào tạo
Trước đây, xã hội có nhận thức, công việc giáo dục – đào tạo là của
riêng ngành giáo dục và đào tạo và có tình trạng khoán trắng cho những người
làm công tác giáo dục và đào tạo.
Ngày nay, sự nghiệp giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và nhân dân, giáo dục đào tạo được xã hội hóa. Do đó, ngoài ngân sách
Nhà nước thì nhân dân, các tổ chức kinh tế xã hội, kể cả các tổ chức nước
ngoài có thể đóng góp kinh phí cho giáo dục – đào tạo nước nhà phát triển
đào tạo lớp người mới phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, tác động của tồn tại xã hội ở nước ta đến
giáo dục đào tạo theo hai xu hướng. Xu hướng tích cực sẽ tạo ra nhiều yếu tố
thuận lợi cho giáo dục – đào tạo phát triển. Bên cạnh đó, xu hướng tiêu cực sẽ
gây ra nhiều khó khăn trở ngại, làm hạn chế sự nghiệp phát triển giáo dục –
đào tạo.
Đây là những điều gợi mở để những người làm công tác giáo dục và đào
tạo suy nghĩ và định hướng đúng cho giáo dục – đào tạo phát triển, nâng cao
chất lượng, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế.
2.3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN GIÁO
DỤC - ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA.
2.3.1. Sự phát triển giáo dục đào – đào tạo nước ta trong quá

trình đổi mới.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, xuất phát từ yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò của giáo dục và đào tạo, tháng 12
năm 1996, Ban chấp hành Trung ương 2 nhằm định hướng chiến lược phát
triển giáo dục – đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm
vụ đến năm 2000.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương khóa IX đã kiểm điểm lại tình hình thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 khóa VIII và đề ra phương hướng phát triển giáo dục từ nay đến năm
2005 và đến năm 2010.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011) đã tổng kết hơn 25 năm
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn và
Nguyễn Huy Thân

24

Lớp GDCT K29A2


Tiểu luận chuyên đề Triết học

có ý nghĩa lịch sử. Cùng với sự phát triển chung của mọi mặt đời sống kinh tế
- xã hội, lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển mạnh mẽ trên cả ba
mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực. Cụ thể:
a. Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển, đáp
ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội.
Năm học 2007-2008, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên, tăng
2,86% so với năm học 2000-2001; trong đó số học sinh học nghề tăng 2,14
lần; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,41 lần; số sinh viên cao đẳng,
đại học tăng 1,75 lần, nâng tỷ lệ sinh viên cao đẳng, đại học trên một vạn dân

tăng 1,6 lần, số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng 2,5 lần.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo theo các trình độ khác nhau tăng từ 20% vào năm
2000 lên 31,5% vào năm 2007.
Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Về cơ bản
đã xóa được "xã trắng" về giáo dục mầm non; trường tiểu học đã có ở tất cả
các xã, trường trung học cơ sở có ở xã hoặc cụm liên xã, trường trung học phổ
thông có ở tất cả các huyện. Các cơ sở đào tạo nghề, cao đẳng và đại học
được thành lập ở hầu hết các địa bàn dân cư lớn, các vùng, các địa phương,
đặc biệt ở vùng chậm phát triển như Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông
Cửu Long. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi đã có trường nội trú và bán trú
cho con em các dân tộc thiểu số.
b. Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có
chuyển biến.
Nội dung dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đã có tiến bộ,
toàn diện hơn. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ
phận học sinh, sinh viên được nâng cao. Số đông sinh viên tốt nghiệp đại học,
cao đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp và có tinh thần tự lập và đại bộ
phận đã có việc làm. Chất lượng đào tạo của một số ngành đào tạo khoa học
và công nghệ đã được nâng cao một bước.
Trong những năm gần đây, công tác quản lý chất lượng đã đặc biệt được
chú trọng. Đã hình thành các tổ chức chuyên trách về đánh giá và kiểm định
chất lượng. Ngoài Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng cấp trung ương
được thành lập vào tháng 8/2008, phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng đã
được thành lập tại 55 trong số 63 Sở Giáo dục và Đào tạo, 55 đơn vị chuyên
trách về đảm bảo chất lượng được thành lập ở các trường đại học và cao đẳng.
Tới tháng 7/2008, đã có 114 trường đại học tự đánh giá, trong đó có 40 trường
được đánh giá ngoài.
Nguyễn Huy Thân

25


Lớp GDCT K29A2


×