Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA BA ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.48 KB, 19 trang )

HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG CHIẾN LƯỢC TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ VÀ
VAI TRÒ CỦA BA ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC
TS. Phạm Thị Thu Hằng
Tổng thư ký, Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam

Đặt vấn đề
Cho đến nay, đã có nhiều báo cáo nghiên cứu, đánh giá diễn biến
kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây, thống nhất nhận định về
mức độ khó khăn của nền kinh tế Việt Nam và những nguyên nhân của
nó. Theo đánh giá của các chuyên gia, bên cạnh nguyên nhân từ bên
ngoài, thì thực trạng hiện nay của nền kinh tế nước ta do ba lớp nguyên
nhân nội tại: Lớp nguyên nhân trực tiếp chính là chuyển trọng tâm
chính sách, thực hiện kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô (thắt
chặt tài khóa; thắt chặt tiền tệ và tín dụng; lãi suất cao; hạn chế, khống
chế vốn tín dụng cho các ngành nhạy cảm, “phi sản xuất” v.v…). Lớp
thứ hai chính là do áp lực của đẩy mạnh tăng trưởng, Việt Nam đã chú
trọng gia tăng đầu tư dẫn đến sai lệch lớn giữa cung - cầu thực của nền
kinh tế trên các mặt quy mô, buộc Việt Nam phải thay đổi trọng tâm
chính sách bằng Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính
phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và Kết luận số 02/KL-TW của Bộ
Chính trị ngày 16/3/2011 về tình hình kinh tế - xã hội năm 2011 v.v…;
Lớp nguyên nhân thứ ba, nguyên nhân cơ bản là yếu kém của cơ cấu và
lạc hậu của mô hình tăng trưởng với hệ thống thể chế không còn phù
hợp, hệ thống khuyến khích thiên về thúc đẩy hành vi “trục lợi địa tô”
thay vì đầu tư tạo ra lợi nhuận, nâng cao giá trị gia tăng.

315



Phân tích của các chuyên gia cũng cho thấy kết quả hoạt động của
nền kinh tế ở giai đoạn này có phần do chính sách, cách thức điều hành
kinh tế và có phần do trách nhiệm của doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp quy mô lớn. Xét về chính sách và thể chế, thì phân bố nguồn lực
chủ yếu do Nhà nước dẫn dắt (gồm nhà nước trung ương, địa phương và
doanh nghiệp nhà nước (DNNN)), và theo chỉ dẫn hành chính. Động lực
đầu tư là “đầu cơ” tạo và tìm kiếm địa tô hơn là tìm kiếm lợi nhuận. Hệ
thống nói trên khuyến khích và dung dưỡng dòng tiền chu chuyển T-T-T
với mức rủi ro đạo đức lớn; mà không khuyến khích và nuôi dưỡng đầu
tư phát triển sản xuất tạo năng lực sản xuất mới, tạo lợi nhuận và giá trị
gia tăng cho xã hội (ECNA, 2013).
Nhận định này hoàn toàn có cơ sở, tuy nhiên nó lại chưa phản ánh
được vì sao thể chế hiện hành về phân bố nguồn lực của Nhà nước lại
dẫn đến hành vi trên. Trong quá trình thực hiện thể chế này, cần xem
xét doanh nghiệp và động cơ kinh doanh của họ như là một chủ thể tích
cực có vai trò nhất định trong quá trình phân bổ nguồn lực đó thay vì
chỉ xem xét doanh nghiệp như là hệ quả của sự phát triển. Nói một cách
khác doanh nghiệp là một trong các nhóm tác nhân tạo nên mô hình
tăng trưởng. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, tác giả đề cập tới vấn
đề đánh giá hoạt động của doanh nghiệp hiện này, và vai trò của chúng,
nhìn từ góc độ như những chủ thể mà thông qua đó, các đột phá kinh tế
có thể tạo nên những hiệu quả lớn.
1. Về tình hình phát triển doanh nghiệp hiện nay
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tổng số doanh nghiệp
còn hoạt động trong nền kinh tế, tính đến hết ngày 31/12/2012, trong
tổng số 694.500 doanh nghiệp đã được thành lập, cả nước còn 475.776
doanh nghiệp đang hoạt động (chiếm 68,5%), 19.104 doanh nghiệp
đăng ký ngừng hoạt động, 111.145 doanh nghiệp dừng hoạt động nhưng
không đăng ký, 88.475 doanh nghiệp đã giải thể.

Trong sáu tháng đầu năm 2013 đã có có 38.908 doanh nghiệp thành
lập mới với tổng vốn đăng ký gần 194.000 tỉ đồng. Mặc dù số doanh
nghiệp thành lập mới trong bốn tháng đầu năm giảm 1,2%; nhưng sau
316


năm tháng đã tăng 4,8%; sáu tháng tăng 7,6%. Tuy nhiên, theo đánh giá
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành
lập mới vẫn có xu hướng giảm do những khó khăn của nền kinh tế và
khả năng huy động vốn của nhà đầu tư. Tỷ lệ giảm số vốn đăng ký của
doanh nghiệp thành lập mới so với cùng kỳ (cụ thể: bốn tháng giảm
14,1%; năm tháng giảm 16,3%; sáu tháng giảm 19,9%) cho thấy trước
những khó khăn của nền kinh tế, buộc người thành lập doanh nghiệp đã
thận trọng hơn với mỗi đồng vốn của mình. Ước tám tháng đầu năm, số
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 9,5% (cùng kỳ giảm 11,5%).
Hoạt động sản xuất, kinh doanh vẫn còn nhiều khó khăn nhưng
đang có chuyển biến bước đầu. Tổng số doanh nghiệp giải thể, ngừng
hoạt động sản xuất kinh doanh trong sáu tháng đầu năm 2013 là 26.324
doanh nghiệp. Số doanh nghiệp giải thể giảm so với cùng kỳ: ba tháng
giảm 14%; bốn tháng giảm 4,8%; năm tháng giảm 0,9%. Số doanh
nghiệp ngừng hoạt động tuy tăng so với cùng kỳ nhưng tốc độ tăng
đang có xu hướng giảm dần: bốn tháng tăng 16,9%; năm tháng tăng
13%; sáu tháng tăng 12,3%. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp tạm ngừng
hoạt động quay trở lại hoạt động cũng tăng dần qua từng tháng: bốn
tháng khoảng 8.300 doanh nghiệp, năm tháng khoảng 8.800 doanh
nghiệp và 6 tháng đã tăng lên khoảng 9.300 doanh nghiệp. Trong tám
tháng đầu năm 2013, đã có khoảng 10.649 doanh nghiệp tạm dừng hoạt
động quay trở lại hoạt động.
Trong cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 2013 vừa qua, Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam đã tiến hành khảo sát nhanh động thái

doanh nghiệp Việt Nam 6 tháng đầu năm 2013 đối với doanh nghiệp
trên toàn quốc để đánh giá cảm nhận của DN về tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp sáu tháng đầu năm và dự cảm nhận cho sáu
tháng cuối năm 2013. Một số kết quả khảo sát chính như sau:
Nhìn chung, tổng quan tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2013 được các doanh nghiệp cảm nhận
là xấu hơn nhiều so với sáu tháng cuối năm 2012. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp dự cảm rằng một số yếu tố của tình hình sản xuất kinh doanh 6
tháng cuối năm 2013 sẽ khởi sắc hơn.
317


Vấn đề hàng tồn kho vẫn tiếp tục là mối lo ngại của doanh nghiệp
trong giai đoạn này (gần 69,2 % số doanh nghiệp có ý kiến) cho thấy
việc giải quyết đầu ra, khai thác thị trường cho doanh nghiệp vẫn còn
là bài toán lớn chưa có lời giải đối với doanh nghiệp. Những nỗ lực của
doanh nghiệp tìm các giải pháp để thoát khỏi tình trạng này vẫn chủ yếu
là các giải pháp truyền thống như: giải pháp tìm kiếm thị trường xuất
khẩu mới (được nhiều doanh nghiệp áp dụng nhất), tiếp đó là giải pháp
giảm giá bán, thực hiện các chương trình quảng cáo, khuyến mại, đưa
hàng về nông thôn. Hiện cũng có đến 27, 6% doanh nghiệp gặp phải vấn
đề tồn kho thanh toán trong 6 tháng đầu năm 2013. Trong những doanh
nghiệp vướng vào tình trạng tồn kho thanh toán, tỷ lệ doanh nghiệp có
tồn kho công nợ từ khu vực doanh nghiệp nhiều hơn so với tỷ lệ doanh
nghiệp có tồn kho công nợ từ khách hàng mua lẻ và từ khu vực công.
Trong sáu tháng đầu năm 2013, có xấp xỉ 54% doanh nghiệp trong
diện điều tra có nhu cầu vay vốn của ngân hàng, trong khi tỷ lệ này
vào cuối năm 2012 là 57,3%. Như vậy, nhu cầu vay vốn ngân hàng
của doanh nghiệp vẫn đang ở xu hướng giảm so với năm 2012. Trong
những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, có khoảng 41% doanh nghiệp

đã được ngân hàng đáp ứng vốn vay. Mục đích của việc vay vốn, chủ
yếu là nhằm thực hiện phương án kinh doanh mới, trang trải các chi phí
lưu động như trả lương, trả cho nhà cung cấp và cũng có doanh nghiệp
vay để trả nợ các khoản nợ đến hạn trả của các ngân hàng khác. Giải
thích cho việc không vay được vốn ngân hàng, doanh nghiệp nêu lý do
như: lãi suất quá cao, không có tài sản thế chấp; thủ tục phức tạp; chi
phí giao dịch cao; doanh nghiệp có nợ xấu... Bên cạnh những khó khăn
về lãi suất và các điều kiện khác, việc khó khăn trong đáp ứng như cầu
vốn dài hạn của doanh nghiệp vẫn còn tiếp diễn. Việc quá phụ thuộc vào
tài sản thế chấp là bất động sản cũng chính là nguyên nhân khiến cho
việc giải quyết nợ xấu, phát mãi tài sản thế chấp tại các ngân hàng trong
điều kiện hiện nay trở nên ngày càng gian nan. Việc sử dụng tải sản hình
thành từ vốn vay để thế chấp vay vốn đã bắt đầu phổ biến, xong việc sử
dụng các hình thức khác như thấu chi, sử dụng Quỹ bảo lãnh tín dụng
318


vẫn còn rất hạn chế. Báo cáo của Bộ Tài chính về thực trạng hoạt động
của các Quỹ bảo lãnh tín dụng gần đây cho thấy sau 12 năm triển khai
Quyết định số 193/2001/ TTg ngày 20/12/2001 về quy chế thành lập,
tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa, mới có mười địa phương thành lập được Quỹ bảo lãnh tín dụng,
với tổng số vốn điều lệ là 512 tỷ đồng. Tính đến 31/12/2012, các quỹ
này đã có doanh số bảo lãnh luỹ kế là 2976 tỷ đồng, số dư bảo lãnh ước
đạt trên 344 tỷ đồng.
Cảm nhận về tổng thể môi trường chính sách và điều hành vĩ mô
cải thiện rất lớn vào sáu tháng đầu năm 2013, trong khi chỉ số này được
đánh giá là xấu năm 2012. Đáng chú ý là mức độ đồng đều trong cảm
nhận khi đánh giá sự ổn định của các yếu tố cấu thành nên chất lượng
của chính sách kinh tế vĩ mô. Mặc dù vậy vẫn còn rất nhiều quan ngại

về tình trạng nợ xấu, tăng trưởng đầu tư sụt giảm.
Đánh giá của các doanh nghiệp về tính hiệu quả các giải pháp tháo
gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết
nợ xấu tại Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP của
Chính phủ cho thấy, dường như các giải pháp, hỗ trợ thị trường và đầu
tư chưa giải thoát cho doanh nghiệp thoát khỏi nỗi ám ảnh về hàng tồn
kho. Không thể phủ nhận tác dụng tích cực của các biện pháp chính
sách thông qua công cụ thuế (miễn, giảm, giãn thời gian nộp thuế), tuy
nhiên, rõ ràng các biện pháp này cũng chưa thể nói là đã đủ để giúp các
doanh nghiệp vực dậy sau những khó khăn vừa qua103.
Cộng đồng doanh nghiệp cũng đặc biệt quan ngại về những chính
sách được ban hành thiếu lộ trình như: tăng giá xăng, tăng lương tối
thiểu trong điều kiện khó khăn hiện nay. Các thủ tục hành chính và các
giấy phép con, điều kiện kinh doanh bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều,
nhất là trong những lĩnh vực như: giao thông vận tải, dán tem hàng hóa
lên nguyên vật liệu xây dựng, v.v...
103Năm 2012, Nhà nước đã gia hạn khoảng 9.198 tỷ đồng tiền thuế và sử dụng đất, bao gồm
5.021 tỷ đồng thuế giá trị gia tăng phát sinh trong tháng 6/2012, 4.177 tỷ đồng sử dụng đất năm
2012 đối với các dự án có khó khăn về tài chính trong thời hạn tối đa 12 tháng.

319


2. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và tái cấu trúc
doanh nghiệp
Yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng
được đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011
- 2020 mà Đại hội Đảng lần thứ XI đã thông qua, trong đó xác định rõ:
thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản
xuất và dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp

và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia
tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế;
phát triển kinh tế trí thức; gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường
phát triển kinh tế xanh. Chiến lược xác định: “Chuyển đổi mô hình tăng
trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa
chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao
chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”.
Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương (Khóa XI) tháng
10/2011 xác định ba nội dung tái cơ cấu cần tập trung triển khai trong
giai đoạn từ 2012 đến 2015 là: tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư
công; tái cơ cấu các định chế tài chính, trọng tâm là các ngân hàng
thương mại; tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế
và tổng công ty nhà nước.
Đích đến của tái cơ cấu nền kinh tế là: trên phạm vi ngành lớn là
quá trình chuyển dịch tỷ trọng giữa các ngành, kéo theo sự dịch chuyển
cơ cấu lao động trong nền kinh tế quốc dân. Trong nội bộ từng ngành
tiến trình tái cơ cấu gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng nhằm tăng
tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có hàm lượng tri thức kỹ
thuật lớn, tăng năng suất, chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm, bảo đảm hiệu quả và phát triển bền vững.
Tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế tuy nhiên lại phụ thuộc vào chiến
lược kinh doanh của các doanh nghiệp, bao gồm cả DNNN, doanh nghiệp
ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Xây
dựng được chiến lược kinh doanh tức là tạo lập sức cạnh tranh mới nhằm
chiếm lĩnh thị trường trên cơ sở chuyển dịch các lợi thế so sánh, nhất là
320


lợi thế so sánh động (gắn liền với khả năng ứng dụng và phát triển công
nghệ); sự thay đổi của thị trường; và sự thay đổi chi phí sản xuất giữa các

quốc gia và doanh nghiệp. Sự tinh tế trong chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ tạo ra năng suất và hiệu quả kinh doanh.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tạo được những động lực thúc đẩy sự
chuyển dịch trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp đồng hướng
và đồng tốc với chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế như mong muốn.
Việc Chính phủ hoạch định ra các chiến lược phát triển các ngành kinh
tế nếu chỉ là những ngành Chính phủ muốn mà doanh nghiệp không
quan tâm thì sẽ không thu hút được đầu tư và như vậy, chiến lược sẽ
không thành. Dưới đây là một số minh chứng về sự chuyển dịch cơ cấu
của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây với những
vấn đề mà khiến nó đã diễn ra trên thực tế không như những gì mà các
nhà hoạch định chính sách mong đợi:
2.1. Sự bế tắc về công nghệ
Trong “Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2010, chủ đề
năm: Về một số xu hướng tái cấu trúc doanh nghiệp” (VCCI, 2011), số
liệu về số doanh nghiệp tham gia các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ được
sử dụng để đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Bởi lẽ, ngoài yếu tố
vốn thì ý chí kinh doanh và quyết định khởi nghiệp hoặc gia nhập hoặc
mở rộng thị trường nói lên nhiều điều về sự ‘thăng trầm’ của các lĩnh
vực, cũng như môi trường kinh doanh của các lĩnh vực đó. Theo số liệu
thống kê ở thời điểm 2009, về dịch chuyển lao động, ngành có tốc độ
gia tăng trung bình hàng năm lớn nhất là các ngành: dịch vụ hộ gia đình,
thông tin truyền thông, giáo dục đào tạo, dịch vụ chuyên môn và khoa
học công nghệ, tài chính ngân hàng, kinh doanh bất động sản, nông
lâm thuỷ sản, bán lẻ. Đây là các lĩnh vực thu hút nhiều lao động mới.
Tuy nhiên, hầu hết các lĩnh vực này là lĩnh vực mới phát triển, chiếm tỷ
trọng không lớn trong cơ cấu lao động của các doanh nghiệp khu vực tư
nhân. Chiếm tỷ trọng lớn vẫn là các lĩnh vực truyền thống như: chế biến
chế tạo, xây dựng, bán buôn bán lẻ, vận tải kho bãi, nông lâm thuỷ sản,
dịch vụ hành chính và hỗ trợ kinh doanh, lưu trú và ăn uống. Tuy nhiên,

321


xét khía cạnh suất đầu tư thì các lĩnh vực tài chính ngân hàng, kinh
doanh bất động sản vẫn là hai lĩnh vực có mức thâm dụng vốn cao.
Theo đánh giá của các chuyên gia, sự hấp dẫn đang dịch chuyển
khỏi các lĩnh vực truyền thống vốn chiếm tỷ trọng lớn như: chế biến
và chế tạo, khai khoáng, xây dựng, vận tải kho bãi, lưu trú ăn uống. Sự
“hấp dẫn” ở đây đối với doanh nghiệp là khả năng sinh lời. Khả năng
sinh lời có thể bị ảnh hưởng khi doanh nghiệp không thể chịu được sức
ép cạnh tranh về giá; thị trường của Việt Nam tuy nhỏ nhưng độ mở cao,
doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp
nước ngoài trên thị trường nội địa, do đó số lượng doanh nghiệp tư nhân
trong nước rút lui hoặc không gia nhập thị trường chắc chắn sẽ gia tăng.
Như vậy, thực chất vấn đề ở đây là “bế tắc” về công nghệ. Các doanh
nghiệp không thể cải thiện được công nghệ để đáp ứng nhu cầu thị
trường, giảm giá thành sản phẩm để cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
Thực tế đã chứng minh về sự chuyển dịch cơ cấu một cách rất
không bền vững như đã nêu ở trên. Năm 2011-2013 đã chứng kiến sự
lao đao của các doanh nghiệp kinh doanh tài chính ngân hàng, kinh
doanh bất động sản. Xu hướng quay trở lại lĩnh vực truyền thống là tất
yếu. “Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam năm 2012, chủ đề
năm: mười năm phát triển doanh nghiệp và tiếp cận thị trường (VCCI,
2013)” cho thấy có đến gần 3/4 tổng số lao động tập trung trong ba lĩnh
vực là công nghiệp chế biến, xây dựng và thương nghiệp, sửa chữa xe
có động cơ, mô tô, xe máy. Tuy nhiên, câu chuyện “hàng tồn kho” một
lần nữa chứng minh sự “bế tắc” về công nghệ khiến cho các doanh
nghiệp không thể cải thiện được công nghệ để đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng của thị trường, giảm giá thành sản phẩm để cạnh tranh với
hàng nhập khẩu.

2. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa không lớn được
Có một sự bất cân xứng tiếp theo đó là xét theo quy mô lao động,
nếu phân loại doanh nghiệp theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, tỷ lệ
các doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ có xu hướng tăng lên trong
giai đoạn 2002-2011, từ 90% lên 95,6%. Có đến gần 2/3 các doanh
322


nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp siêu nhỏ, dưới 10 lao động. Tỷ
trọng của doanh nghiệp siêu nhỏ đã ngày càng tăng, từ 53,1% năm 2002
lên 65,6% năm 2011. Tỷ trọng của các doanh nghiệp có quy mô vừa và
lớn luôn chiếm một tỷ lệ nhỏ và có xu hướng giảm đi. Năm 2011, chỉ
có 2,1% các doanh nghiệp có quy mô vừa và 2,4% doanh nghiệp có quy
mô lớn.
Xét theo quy mô vốn, tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ cũng luôn chiếm
đa số, nhưng có xu hướng giảm dần, từ 89,7% năm 2002 xuống còn
84,1% năm 2011. Các doanh nghiệp vừa và lớn tuy có tỷ trọng vẫn nhỏ,
nhưng có xu hướng ngày càng tăng lên, tương ứng lần lượt là 7,3% lên
11,5% đối với doanh nghiệp vừa và 3% lên 4,4% đối với doanh nghiệp
lớn. Đáng chú ý là tỷ lệ các doanh nghiệp chuyển dịch từ nhóm doanh
nghiệp siêu nhỏ sang nhóm doanh nghiệp nhỏ, từ nhóm doanh nghiệp
nhỏ sang nhóm doanh nghiệp có quy mô vừa, và từ doanh nghiệp có
quy vừa sang lớn là rất khiêm tốn. Với quy mô kinh doanh nhỏ các
doanh nghiệp có thể linh hoạt trong chuyển dịch, nhưng đây cũng là cản
trở chính khiến cho khu vực này kinh doanh không có hiệu quả cao và
khó áp dụng được công nghệ.
Bảng 1. Xu hướng chuyển dịch phân theo quy mô doanh nghiệp
trong giai đoạn 2002-2011
Loại hình doanh nghiệp
doanh nghiệp siêu nhỏ

doanh nghiệp nhỏ
doanh nghiệp vừa
doanh nghiệp lớn
Tổng cộng

Tỷ trọng doanh
nghiệp (%)
2002
2011
53,1
65,6
36,9
29,9
3,5
2,1
6,5
2,4
100,0
100,0

Tỷ trọng lao động Tỷ trọng nguồn vốn
(%)
(%)
2002
2011
2002
2011
4,2
10,1
3,3

10,9
21,2
29,9
14,3
18,4
7,3
7,7
6,6
6,4
67,3
52,3
75,8
64,3
100,0
100,0
100,0
100,0

Nguồn: Xử lý dữ liệu từ khảo sát doanh nghiệp hàng năm của GSO.

2.3. Vai trò hạn chế của doanh nghiệp trong tạo động lực phát
triển kinh tế vùng
Với vị trí tự nhiên và điều kiện xã hội thuận lợi, doanh nghiệp Việt
Nam thường tập trung chủ yếu ở hai vùng là Đông Nam Bộ và Đồng
323


bằng sông Hồng. Khu vực Đông Nam Bộ, nơi có Thành phố Hồ Chí
Minh, trung tâm kinh tế của Việt Nam, luôn chiếm tỷ trọng cao nhất về
doanh nghiệp và tỷ trọng này có xu hướng tăng lên, từ 31,6% năm 2002

lên 38,8% năm 2011, trong đó tỷ trọng doanh nghiệp tại Thành phố Hồ
Chí Minh đã tăng từ 23,1% lên 31,5%. Như vậy, Thành phố Hồ Chí
Minh là nơi hoạt động của gần 1/3 số lượng doanh nghiệp cả nước tính
đến năm 2011, và với xu hưởng này, số lượng doanh nghiệp tại đây sẽ
ngày càng cao. Đứng thứ hai trong các vùng thu hút nhiều doanh nghiệp
là Đồng bằng sông Hồng, trong đó có thủ đô Hà Nội. Các vùng khác
trong cả nước chiếm tỷ lệ doanh nghiệp thấp và có xu hướng giảm đi dù
số lượng doanh nghiệp vẫn tăng đều qua các năm (Xem Hình 1). Điều
này đặt ra câu hỏi về những “động lực thúc đẩy” việc tái cơ cấu kinh tế
vùng mà điều này sẽ được đề cập tiếp theo tại phần phân tích về tái cơ
cấu đầu tư công sau này.
Hình 1. Chuyển dịch doanh nghiệp theo vùng địa lý giai đoạn 2002-2011

Nguồn: Xử lý dữ liệu từ khảo sát doanh nghiệp hàng năm của GSO.

2.4. Cơ cấu xuất khẩu và bẫy thu nhập trung bình
Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, tuy nhiên,
có nhiều dấu hiệu cho thấy Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập
trung bình. Việt Nam vẫn đang thực hiện chiến lược công nghiệp hóa
theo định hướng xuất khẩu, tập trung vào các ngành mà Việt Nam có
lợi thế như dệt may, da giày, linh kiện điện tử… Do từ trước đến nay
324


Việt Nam đã luôn xác định lợi thế cạnh tranh là chi phí lao động rẻ, nên
các chính sách đã luôn hướng tới phát triển các ngành tận dụng nhiều
lao động với chi phí thấp, nhưng lại chủ yếu là lao động giản đơn. Các
sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm của các ngành
công nghiệp lắp ráp, vì thế giá trị gia tăng thấp, rất dễ khiến Việt Nam
rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Năm 2012 là năm lần đầu tiên kể từ

năm 1993, Việt Nam đã xuất siêu 284 triệu USD. Tuy nhiên, việc xuất
siêu chủ yếu do sự suy giảm của sản xuất và tiêu dùng trong nước, dẫn
đến nhập khẩu tăng thấp hơn nhiều so với xuất khẩu. Đáng chú ý là xuất
siêu hàng hóa chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức xuất
siêu đạt gần 12 tỷ USD, tập trung ở nhóm hàng gia công lắp ráp. Ngược
lại, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 11,7 tỷ USD.
Quyết định số 1043/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
1/7/2013 phê duyệt “Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong
khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm
nhìn 2030” (sau đây gọi tắt là Chiến lược CNH) là một minh chứng rất
cụ thể về sự tham gia của các doanh nghiệp - chủ thể thực hiện chiến
lược trong quá trình triển khai xây dựng chiến lược. Chiến lược đặt mục
tiêu phát triển vượt bậc sáu ngành công nghiệp ưu tiên, bao gồm: điện
tử, máy nông nghiệp, chế biến nông, thủy sản, đóng tàu, môi trường và
tiết kiệm năng lượng, sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô thành những ngành
công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, có giá trị gia tăng cao và năng lực
cạnh tranh quốc tế. Các ngành được ưu tiên phát triển trong Chiến lược
CNH giữ vai trò dẫn dắt về thúc đẩy thu hút đầu tư của doanh nghiệp
trong và ngoài nước, nhưng trước hết lại là thu hút DN Nhật Bản, tạo lan
tỏa công nghệ và lan tỏa kỹ năng đối với ngành công nghiệp nói riêng
và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Đây là cách thức để Việt Nam xây
dựng chiến lược phát triển các ngành chủ lực trong những năm tới.
3. Tái cấu trúc doanh nghiệp với ba nội dung trọng tâm tái cấu
trúc kinh tế
Khẳng định việc việc lựa chọn ba nội dung tái cơ cấu nền kinh tế
thực hiện từ 2012-2015 là đúng đắn, bài viết này sẽ cố gắng phân tích
tác động của chúng tới tiến trình tái cấu trúc tại các doanh nghiệp, nhất
325



là trong việc tạo nên một môi trường kinh doanh thuận lợi cũng như
nguồn lực để các doanh nghiệp thực thi chiến lược kinh doanh hiệu quả
của mình.
3.1. Về nội dung thứ nhất, tái cơ cấu đầu tư trong đó có đầu tư công
- vấn đề quyết định hình thành kết cấu hạ tầng kinh tế, sự dịch chuyển
nguồn lực và chiếm tỷ trọng rất cao trong GDP nhưng hiệu quả thấp.
Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 đã đặt ra nhiệm vụ xử lý
một số vấn đề cấp bách trong đầu tư công, trong đó chủ yếu giải quyết
mâu thuẫn giữa các dự án đầu tư và khả năng bảo đảm nguồn vốn, góp
phần sắp xếp lại các dự án đầu tư. Chỉ thị đã góp phần loại bỏ những dự
án kém hiệu quả, tình trạng đầu tư phân tán, đầu tư dở dang chậm đưa
vào khai thác gây lãng phí nghiêm trọng. Trong quá trình thực hiện tái
cấu trúc đầu tư, nhất là đầu tư công nổi lên một số vấn đề sau:
Một là, hiện nay dư nợ của chính quyền địa phương đối với doanh
nghiệp đã lên tới gần 100.000 tỷ đồng.
Hai là, vai trò của doanh nghiệp trong quá trình lập quy hoạch phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với quy hoạch phát triển các
ngành sản xuất, dịch vụ được bố trí trên địa bàn lãnh thổ trên cơ sở lợi
thế so sánh của từng vùng, thúc đẩy liên kết vùng rất mờ nhạt.
Ba là, hệ thống phân cấp đầu tư gắn với phân cấp ngân sách chưa
khuyến khích chuyển dịch đầu tư của các doanh nghiệp về những vùng
kém phát triển. Cho đến này số tỉnh tự cân đối ngân sách cũng mới chỉ
đạt 13/63. Tính chủ động của các tỉnh, thành trong vấn đề tạo nguồn lực
đầu tư phát triển rất hạn chế, như đã đề cập tại mục 2.3.
Bốn là, cơ chế hợp tác công tư chưa được triển khai mạnh mẽ, quá
trình thử nghiệm kéo dài và chưa có tổng kết thành những bài học để
nhân rộng. Rất ít doanh nghiệp Việt Nam hiểu và có thể vận dụng được
cơ chế này.
3.2. Về nội dung thứ hai, tái cơ cấu DNNN - một khu vực đang sử
dụng nguồn lực rất lớn của quốc gia, bao gồm nguồn tín dụng nhưng

hiệu quả còn kém, là một trong những lực cản lớn trong việc hình thành
thể chế kinh tế thị trường.
326


Điều tra của VCCI đối với 700 doanh nghiệp vào giữa năm 2013
cho thấy việc triển khai thực hiện đề án tái cấu trức DNNN chưa mang
lại hiệu quả cao. Có 23,5% số doanh nghiệp đánh giá Đề án có hiệu quả
thấp và rất thấp, 53% doanh nghiệp đánh giá Đề án có hiệu quả trung
bình và 23,5% số doanh nghiệp đánh giá Đề án có hiệu quả cao và rất
cao.
Một trong những vấn đề rất đáng quan tâm đó là việc tái cơ cấu các
tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước - trọng tâm của Đề án Tái
cấu trúc DNNN. Đề án mới chỉ tập trung giải quyết vấn đề cổ phần hóa
và thoái vốn nhà nước khỏi các ngành nghề không phải là ngành nghề
kinh doanh chính, phân công lại trách nhiệm thực hiện vai trò chủ sở
hữu nhà nước theo hướng lập lại mô hình Bộ chủ quản. Đề án chưa trả
lời được các câu hỏi như:
- Liệu chiến lược kinh doanh của các tập đoàn tổng công ty đã khai
thác được lợi thế cạnh tranh và phù hợp với chiến lược phát triển ngành
theo cơ cấu kinh tế mong muốn của Chính phủ?
- Liệu chiến lược công ty và chiến lược kinh doanh với việc xác
định nguồn lực thông qua xác định tỷ lệ cổ phần của Nhà nước, thâu
tóm, sát nhập, huy động vốn... có được thực hiện theo kỷ luật của thị
trường?
- Chiến lược kinh doanh và chiến lược công ty của các DNNN
được hình thành như thế nào để các DNNN này có thể đóng vai trò dẫn
dắt các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong chuỗi cung ứng, tạo những đầu
tàu kinh tế trong một nền kinh tế thị trường mở chứ không phải chỉ bó
hẹp trong nội bộ tập đoàn kinh tế?

- Cuối cùng, có hay không những nguy cơ tiềm tàng về “bong
bóng” giá trị do sự hình thành các tập đoàn kinh tế để đảm bảo không bị
mất cân xứng về thông tin trong bối cảnh kinh tế khó khăn, thị trường
chứng khoán sụt giảm.

327


Hình 2. Chiến lược kinh doanh và Chiến lược công ty

Nguồn: Phillippe Lasserre, 2009.

3.3. Về nội dung thứ ba, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng.
Trong thời gian qua, các tổ chức tín dụng tuy phát triển nhanh
nhưng chất lượng hoạt động kém, không bảo đảm tiêu chuẩn quốc tế,
tình trạng sở hữu chéo và đầu tư chéo khá phổ biến rủi ro cao, nợ xấu
lớn gây nguy cơ đổ vỡ và khủng hoảng hệ thống. Theo đánh giá của
một số chuyên gia, Đề án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng gần như là một
văn bản định hướng nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tín
dụng. Tuy nhiên, Nhà nước có thể đưa ra rất nhiều công việc cụ thể gắn
với tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (mà công ty có tính chất đặc thù như
Công ty Quản lý và Khai thác Tài sản Việt Nam VAMC là một ví dụ).
Cho đến nay, đã có chín ngân hàng yếu kém đang cần cơ cấu lại
theo hướng hợp nhất, sáp nhập với ngân hàng khác hoặc tự cơ cấu.
Điểm khác biệt trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đó là,
có vẻ như quá trình tái cơ cấu này đang được thực hiện từ dưới lên chứ
328


không hoàn toàn từ trên xuống. Đây sẽ là điểm thuận lợi để một khi các

phương án mà những ngân hàng đưa ra sau khi được Thủ tướng Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước nhất trí thì các ngân hàng thương mại cổ
phần sẽ chủ động hơn trong quá trình triển khai.
Tương tự như câu hỏi được đặt ra khi thực hiện tái cấu trúc doanh
nghiệp, vấn đề là “chiến lược kinh doanh” và “chiến lược công ty”.
Ngân hàng phải xác định được chiến lược kinh doanh, trước khi đi đến
tái cấu trúc vốn, hợp nhất, sáp nhập, cải tiến công tác quản trị, bộ máy
lãnh đạo trong hệ thống ngân hàng.
Quá trình hế thống tái cơ cấu các tổ chức tín dụng như vậy sẽ
không chỉ động chạm đến các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém,
mà nó là quá trình tự thân của tất cả các tổ chức tín dụng. Nhà nước chỉ
tạo ra những công cụ để thúc đẩy quá trình này và can thiệp vào những
địa phận yếu kém. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, các tổ
chức tín dụng của Việt Nam cần phải quan tâm hơn nữa đến khác hàng,
nhất là khách hàng doanh nghiệp, doanh nghiệp có quy mô nhỏ, phát
triển các loại hình dịch vụ khác (ngoài dịch vụ tín dụng) để mang lại
nhiều giá trị gia tăng và tạo niềm tin cho khách hàng.
Có thể nói, cả ba nôi dung tái cơ cấu nêu trên: đầu tư, DNNN, hệ
thống các tổ chức tín dụng, vừa là chủ thể tiếp nhận và là nơi chuyển
tải nguồn lực trong một mô hình tăng trưởng kém hiệu quả nhiều năm
vừa qua, chưa làm được vai trò là bộ lọc cho việc hình thành một cơ cấu
kinh tế mới và một mô hình tăng trưởng mới. Rõ ràng, trong quá trình
này, sự tương tác giữa doanh nghiệp với những chủ thể còn lại chưa
được hiệu quả. Điều này có thể dẫn đến những nội dung định hướng của
các đề án tái cấu trúc có thể không đặt được mục tiêu nếu không có sự
quan tâm đúng đắn đến tư duy chiến lược của các doanh nghiệp.
4. Về những giải pháp đột phá - nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp và tái cấu trúc kinh tế
Để có thể tái cơ cấu kinh tế, phải bảo đảm các tiền đề như: ổn định
kinh tế vĩ mô; hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, tạo lập môi

trường cạnh tranh bình đẳng; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
329


Chất lượng nguồn nhân lực là sức cạnh tranh dài hạn của một quốc gia
cũng như của từng doanh nghiệp. Ngoài ra, xây dựng một hệ thống kết
cấu hạ tầng đồng bộ là giảm chi phí nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế cũng là yếu tố hỗ trợ quá trình tái cơ cấu.
Trong khuôn khổ nghiên cứu này tác giả chỉ đề cập trước hết đến
một khía cạnh liên quan đến mũi đột phát: (1) “phát triển nhân nguồn
nhân lực chất lực cao, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực và ứng
dụng khoa học công nghệ (KHCN)”, đặc biệt là ở tầm vi mô; (2) những
nhân tố về môi trưởng thể chế; và (3) cơ sở hạ tầng đồng bộ để có thể
hiện thực hoá được đột phát thứ nhất nêu trên.
Liên quan đến đột phá thứ nhất: Bảng 2 cho thấy sự thay đổi đánh
giá của các Nhà quản lý cao cấp (kết quả phỏng vấn 2.000 nhà quản
lý trên thế giới về vai trò của các yếu tố phát triển liên quan đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, xếp theo thứ tự quan trọng (1 là quan
trọng nhất). Lần đầu tiên, năm 2012, yếu tố khoa học công nghệ được
coi là quan trọng số 1 đối với các doanh nghiệp trên thế giới. Cũng sau
nhiều năm đứng ở vị trí hàng đầu, yếu tố thị trường đã được xếp hạng
thứ ba, sau cả kỹ năng lao động. Giờ đây, khoa học công nghệ đang tạo
ra thị trường.
Phần 2 của bài viết này đã chỉ rõ: để tránh bẫy thu nhập trung bình,
Việt Nam cần phải nâng cao giá trị gia tăng trong các sản phẩm xuất
khẩu. Để làm được điều này Việt Nam cần đẩy mạnh việc đầu tư đổi
mới công nghệ, nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế cũng như năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam. Chính vấn
đề công nghệ đã tác động không nhỏ đến việc chuyển dịch ngành trong
thời gian qua.

Các lập luận trên một lần nữa khẳng định, thúc đẩy quá trình tái
cơ cấu là sự tiến bộ của công nghệ và sự thay đổi của thị trường làm
thay đổi chi phí sản xuất trong phạm vi quốc gia cũng như trong từng
doanh nghiệp. Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển
rất nhanh và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tiến trình tái cơ cấu
diễn ra khắp nơi. Điều đó cũng giải thích tại sao sự dịch chuyển cơ cấu
330


kinh tế trong thời đại ngày nay nhanh hơn bất cứ thời đại nào trước đó
và nói rộng hơn tiến trình công nghiệp hóa được rút ngắn.
Bảng 2. Đánh giá tầm quan trọng của các yếu tố đối với doanh nghiệp
Năm 2004 Năm 2006 Năm 2008 Năm 2010

Năm 2012

6

3

3

2

1

Các yếu tố công nghệ

2


2

2

2

2

Kỹ năng lao động

1

1

1

1

3

Các yếu tố thị trường

2

6

6

3


4

Các yếu tố kinh tế vĩ mô

5

4

5

5

5

Quy định phập luật liên quan

4

5

4

6

6

Toàn cầu hoá

7


7

8

8

7

Các yếu tố kinh tế xã hội

8

8

7

7

8

Các vấn đề môi trường

9

9

9

9


9

Các nhân tố địa chính trị
Nguồn: IBM, Key Discovery.

Liên quan đến đột phát thứ hai: Điểm cốt lõi trong tiến trình tái cơ
cấu là thay đổi sự phân bố nguồn lực theo cơ chế thị trường, để nguồn
lực đến được những lĩnh vực địa bàn có thể khai thác tối đa lợi thế so
sánh, tạo ra sức cạnh tranh mới. Trong bối cảnh như vậy, các yếu tố liên
quan đến phát triển KHCN cũng được hình thành và tác động đến doanh
nghiệp không ngoài quy luật trên. Hay nói cách khác, để có những đột
phát về công nghệ hay giáo dục đào tạo thì các thể chế kinh tế thị trường
cũng phải được xây dựng phủ hợp để các sản phẩm KHCN, các doanh
nghiệp KHCN hoạt động và việc ứng dụng chuyển giao công nghệ một
cách thuận lợi. Cụ thể như:
- Sự phân bổ đầu tư (nhất là đầu tư công cho khoa học công nghệ)
phải hợp lý. Cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào KHCN phải
thực sự đổi mới và đáng kể.
- Các hình thức chuyển giao phổ biến, KHCN phải phù hợp với
quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Hệ thống đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải phù hợp với
nhu cầu phát triển của doanh nghiệp.
331


- Đẩy mạnh các hoạt động phổ biến thông tin, hỗ trợ chuyển giao
công nghệ, phát triển thị trường KHCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp tiếp cận và chuyển giao công nghệ phù hợp.
- Bảo hộ sản phẩm trí tuệ phải được coi như yêu cầu tối thượng của
mọi quốc gia trong thời đại kinh tế tri thức. Cần có những chế tài thật

mạnh để chặn đứng nạn ăn cắp sản phẩm trí tuệ.
Liên quan đến đột phá thứ ba: Một khi việc phân bố nguồn lực theo
cơ chế thị trường thì việc xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ sẽ đỏi hỏi:
- Công khai minh bạch và luật hoá việc quy hoạch.
- Xóa hết sự phân biệt đối xử, áp dụng luật chơi bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế, trên thị trường cũng như trong đấu thầu các khoản
mua sắm công (trừ mua sắm cho an ninh quốc phòng). Mọi doanh
nghiệp được bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực, tài nguyên, vốn,
thị trường.
- Tăng cường hợp tác công tư.
- Tăng cường vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp trong việc thực
hiện một số dịch vụ công, phản biện chính sách và xây dựng quan hệ
lao động hài hoà.
Như vậy, có thể nói các “đột phá” có mối quan hệ mật thiết, đan
xen, bổ trợ và tạo điều kiện cho nhau. Do vậy chúng cần được tiến
hành một cách đồng bộ các cấp: doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp,
ngành/địa phương, vùng và quốc gia. Các quy định liên quan đến thể
chế không được triệt tiêu động lực phát triển ở mối cấp mà phải tích lũy
các giá trị gia tăng ở từng mắt xích phát triển. Chỉ trên cơ sở đó, năng
lực cạnh tranh quốc gia mới có thể có được sự bứt phá mạnh mẽ trong
tương lai gần.

332


Tài kiệu tham khảo
1. Kỷ yếu hội thảo diễn đàn kinh tế mùa xuân 2012.
2. Goerge Soros, Mô thức mới cho thị trường tài chính và ý nghĩa
của nó, cuộc khủng hoảng tín dụng 2008 và ý nghĩa của nó, NXB Tri
thức, 2008.

3. Phillip Lasserre, Chiến lược kinh doanh - Bài giảng trong
Chương trình VCCI-CIEBS, 2009.
4. Trương Đình Tuyển, Tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng - hai quá trình thuận chiều và hỗ trợ lẫn nhau, Nguồn:
. 23/4/2013.
5. VCCI, Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2010,chủ
đề năm: một số xu hướng tái cấu trúc doanh nghiệp, NXB Thông tin và
truyền thông, 2011.
6. VCCI, Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2012, chủ
đề năm: Chặng đường mười năm phát triển doanh nghiệp và năng lực
tiếp cận thị trường. NXB Thông tin và truyền thông, 2013.
7. />
333



×