Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận đường lối đổi mới kinh tế được đảng đề ra trong báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (121986)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.63 KB, 25 trang )

Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết chặng đường đổi mới cũng không phải là và
cũng không thể là một lộ trình đã tính được trước tất cả. Đó là sự chung
đúc những trăn trở, những ý tưởng của rất nhiều bộ óc, đó là một quá
trình vừa đi, vừa tìm đường, vừa đi vừa điều chỉnh, đấu tranh với cái cũ,
đấu tranh với chính mình. Trên lộ trình đó có những bộ óc bứt phá, vươn
lên trước và từng bước bứt phá và đạt được những thành quả quan trọng,
nhưng cũng có những đường lối đã bị sai lầm và dẫn đến thất bại. Đã gần
30 năm kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(12/1986) của Đảng
đã trải qua, là đại hội được coi là đại hội đổi mới thì công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước đã có sự chuyển biến rõ rệt, vượt qua tình trạng khó
khăn, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, thế
và lực được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao. Nước ta không
còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển. Nước ta từ quan
liêu bao cấp đã trở thành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(12/986) đã thay đổi cơ bản
phương thức phát triển của đất nước, mở đầu cho hàng loạt những đổi
mới toàn diện sau này trên tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp,
văn hóa, xã hội, đối ngoại… Đặc biệt trong báo cáo chính trị tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đại hội đã chủ trương đổi mới
đất nước trên lĩnh vực kinh vực kinh tế, đại hội đã có một bước ngoặt
quan trọng và mạnh dạn, từ việc đổi mới đến việc việc gia nhập WTO là
thách thức nhưng cũng là cơ hội lớn để nước ta phát triển, nó cũng khẳng
định được những thay đổi đúng hướng của Đảng mà Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI đã mở đầu cho công cuộc đổi mới này.


Nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử to lớn của Đại hội VI
với sự đổi mới và phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt
là kinh tế, em đã chọn đề tài “Đường lối đổi mới kinh tế được Đảng đề
ra trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12/1986).” cho tiểu luận của mình.
1
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Làm rõ nội dung đường lối đổi mới kinh tế được Đảng đề ra
trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12/1986)
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng tại
Đại hội VI.
- Phạm vi nghiên cứu: Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (12/1986) với đường lối đổi mới kinh tế.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu chung
- Vận dụng tổng hợp những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lich sử; kế thừa khai thác
những thành quả khoa học của các công trình được công bố; sử dụng
phương pháp lôgic và lịch sử; phương pháp đặc trưng của chính trị học.
5. Ý nghĩa của đề tài.
- Những kết quả nghiên cứu có thể là những tài liệu, nguồn thông

tin cho những người nghiên cứu sau.
- Tiểu luận có thể được dùng để làm tài liệu tham khảo, nghiên
cứu phục vụ giảng dạy ở các trường chính trị, các trường đoàn thể và các
trường đào tạo khác có liên quan.
6. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận ngắn, danh mục tài liệu tham
khảo, tiểu luận gồm có hai chương:
Chương I: Hoàn cảnh lịch sử và nội dung cơ bản của báo cáo
chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(12/1986).
Chương II: Đường lối đổi mới kinh tế trong báo cáo chính trị tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(12/1986)

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ NỘI DUNG CƠ
2
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

BẢN CỦA BÁO CÁO CHÍNH TRỊ TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN
QUỐC LẦN VI(12/1986)
1.1. Hoàn cảnh lịch sử của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI
1.1.1.Tình hình thế giới
- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh
mẽ. tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.
- Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn,

nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển.
- Xu thế toàn cầu hoá và tác động của nó: Dưới góc độ kinh tế,
toàn cầu hoá là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế
phát triển vượt qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan toả
ra phạm vi toàn cấu, trong đó hàng hoá, vốn, tiền tệ, thông tin, lao
động…vận động thông thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế,
quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau, hình thành
mạng lưới quan hệ đa chiều.
- Các nước đế quốc, đứng đầu là Mỹ đang tập trung tìm cách
chống phá hệ thống xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
- Mặt khác, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, cả Liên Xô và Trung
Quốc đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, và họ đang bước
vào cái cách, cải tổ với các hình thức và mức độ khác nhau, có nước
thành công, có nước thất bại. Bối cảnh đó cho Đảng ta những bài học để
định hướng được con đường đổi mới đúng đắn nhất cho nước nhà.
- Tại Trung Quốc, nước chủ nghĩa xã hội láng giềng Việt Nam,
1978 đã bắt đầu công cuộc cải cách và mở cửa.Năm 1979 Trung Quốc
gây chiến với Việt Nam, lúc này Trung Quốc vẫn tiếp tục chính sách thù
địch với Việt Nam.
1.1.2. Trong nước.
- Đất nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm
không đạt được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren,
3
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận


SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở
và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Những mất cân đối trong nền kinh tế
chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa chậm được
củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bị suy yếu.
- Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức, lực lượng vũ
trang gặp nhiều khó khăn.
- Tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm;
quần chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành
của Nhà nước. Nhìn tổng quát, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm nghiêm
trọng về chủ trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện của Đảng và của Nhà nước: Xác định mục tiêu và bước đi
không sát thực tế nước ta, không coi trọng khôi phục kinh tế làm nhiệm
vụ cấp bách; nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu; muốn
xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng năm
năm; chưa biết kết hợp kế hoạch hoá với quan hệ hàng hoá - tiền tệ; mắc
sai lầm rất nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông.
Sai lầm của đợt tổng cải cách giá – lương - tiền cuối năm 1985 làm
cho kinh tế nước ta càng trở nên khó khăn. Chúng ta không thực hiện
được mục tiêu để ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội, ổn định
đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế
nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình này làm cho trong
Đảng và ngoài xã hội có nhiều ý kiến tranh luận sôi nổi, xoay quanh thực
trạng của ba vấn đề lớn: cơ cấu sản xuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ
cấu quản lý kinh tế. Thực tế tình hình đặt ra một yêu cầu khách quan có
tính sống còn đối với sự nghiệp cách mạng là phải xoay chuyển được
tình thế, tạo ra sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên con đường đi

lên và như vậy là phải đổi mới tư duy.
Thực trạng đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và
bức thiết là phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách
khoa học để ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi
khủng hoảng để tiến lên.
4
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

Trước tình hình đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã được diễn ra từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986 tại Hà Nội. Dự
Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước
và 32 đoàn đại biểu của đảng và tổ chức quốc tế.
1.2. Nội dung chủ yếu của báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (12/1986)
- Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thực, nói
rõ sự thật, Đại hội đã đánh giá đúng mức những thành tựu đạt được sau
10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi sâu phân tích những tồn tại và
nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và
chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976-1986).
- Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của
Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình
dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian
chuẩn bị và tiến hành Đại hội
- Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất
nước do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài

của Đảng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc biệt
là sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành
động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh
hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả
khuynh vừa hữu khuynh. Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học
kinh nghiệm lớn:
+ Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng "lấy dân làm gốc".
+ Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
qui luật khách quan.
+ Phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới.
+ Chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
5
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

- Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình
hình kinh tế- xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc
đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
- Báo cáo chính trị xác định mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:

+ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy.
+ Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú
trọng ba chương trình kinh tế lớn là: Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế
khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát
triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao
động.
+ Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
+ Tạo sự chuyển biến tốt về mặt xã hội (tạo việc làm, thực hiện công
bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép
nước...)
+ Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Báo cáo xác định phương hướng đổi mới:
- Đổi mới về Kinh tế:
Về đối nội, Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách
kinh tế - xã hội và đề ra hệ thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu:
+ Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư.
+ Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng
và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, coi nền kinh tế có nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ
+ Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý
tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo
6
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận


SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa
+ Phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật
+ Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Trong hệ thống các giải pháp, Đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức lực
vào việc thực hiện được ba chương trình, mục tiêu: Lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dung và hàng xuất khẩu. Đây là sự cụ thể hoá nội dung
chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ.
Về huy động sức mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện khẩu hiệu "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tăng cường hiệu lực quản lý của
Nhà nước là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực lượng to lớn của
quần chúng.
- Đổi mới về chính trị
Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng,
Đại hội đã nêu rõ Đảng phải đổi mới về nhiều mặt:
+ Đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới quản lý và điều hành
của nhà nước cho phù hợp với cô cấu và cơ chế kinh tế mới.
+ Đổi mới về quan hệ hợp tác quốc tế theo hướng mở, kêu gọi hợp
tác và đầu tư nước ngoài.
- Đổi mới về đối ngoại
+ Nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là ra sức
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ
vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở
Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước
Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên
Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện

quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
+ Tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn
7
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Tăng
cường sự phối hợp với Liên Xô và với các nước xã hội chủ nghĩa anh em
khác trong cuộc đấu tranh vì hoà bình và cách mạng trên thế giới, trước
hết là ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
+ Là một đội ngũ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
Đảng ta tích cực góp phần vào việc tăng cường đoàn kết của phong trào
trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, tăng
cường sự hợp tác giữa các đảng anh em trong cuộc đấu tranh vì những
mục tiêu chung là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
+ Nhà nước ta chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị
với Thụy Điển, Phần Lan, Pháp, Ôxtrâylia, Nhật Bản và với các nước
phương Tây khác trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Chính phủ ta tiếp
tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại
và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình, ổn định ở
Đông Nam Á.
+ Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần những tư tưởng
và tình cảm cách mạng trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại,
Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác
quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối
với nhân dân thế giới.
- Phát huy quyền làm chủ của tập thể của nhân dân lao động, nâng
cao hiệu quả quản lý của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
+ Bài học "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng" bao giờ cũng
quan trọng. Thực tiễn cách mạng chứng minh rằng: ở đâu, nhân dân
lao động có ý thức làm chủ và được làm chủ thật sự, thì ở đấy xuất
hiện phong trào cách mạng. Vận dụng bài học này vào giai đoạn cách
mạng mới, Đảng ta coi làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất
của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa cần được thể hiện trong mọi lĩnh
vực của đời sống. Chúng ta đã xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo,
nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý
toàn bộ xã hội.
+ Quyền làm chủ của nhân dân cần được thể chế hoá bằng pháp luật
8
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

và tổ chức. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, quyền hạn và lợi ích đi đôi với
trách nhiệm và nghĩa vụ. Mỗi người đều phải làm chủ lao động của mình,
làm việc có kỷ luật, với năng suất và hiệu quả cao, đóng góp xứng đáng
cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Mọi công dân phải tham gia việc giữ
gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, chống địch phá hoại, bảo vệ Tổ quốc,
coi đó là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của mình.

+ Lợi ích chính đáng của quần chúng đang đặt ra nhiều vấn đề cần
phải giải quyết. Trước mắt, tập trung sức giải quyết những vấn đề có
thể giải quyết được, phù hợp với từng đối tượng.
+ Để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách
lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước theo phương hướng sau
đây:
+ Xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp. Tăng cường bộ
máy nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở thành một hệ
thống thống nhất, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt rõ chức
năng quản lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết
hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ
phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội.
+ Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật. Trong điều kiện đảng cầm quyền, mọi cán bộ,
bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và làm việc theo pháp luật,
gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật. Không cho phép bất cứ ai
dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải được
xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều đưa ra xét xử theo pháp luật, không
được giữ lại để xử lý "nội bộ". Không làm theo kiểu phong kiến: dân
thì chịu hình pháp, quan thì xử theo "lễ". Hiến pháp quy định: "Khi
xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật". Cấm bao che hành động phạm pháp và người phạm pháp
dưới bất cứ hình thức nào.
+ Đổi mới phong cách làm việc. Để lãnh đạo và quản lý tốt phải ra
quyết định đúng, kịp thời và tổ chức thực hiện các quyết định đó.
Việc chuẩn bị quyết định và ra quyết định phải tuân theo một quy
9
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung



Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

trình chặt chẽ. Chấm dứt chế độ làm việc theo lối quan liêu qua
nhiều nấc trung gian không cần thiết. Thực hiện phong cách làm việc
có điều tra, nghiên cứu, xử lý công việc nhanh chóng, bãi bỏ những
thủ tục phức tạp, gây phiền hà cho nhân dân. Người ra quyết định
phải chịu trách nhiệm về những quyết định của mình.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
+ Đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng
viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng.
+ Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý
+ Đổi mới phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt trong Đảng
+ Nâng cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu
cực
+ Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
+ Tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng

CHƯƠNG II: ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI KINH TẾ TRONG BÁO
CÁO CHÍNH TRỊ TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN
VI(12/1986)
2.1. Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới kinh tế trong báo
cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(12/1986)
1.2.1. Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư
Muốn đưa nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân
đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý,

trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản
xuất có quy mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối,
liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế
phát triển ổn định. Để thực hiện sự sắp xếp đó, trước hết phải bố trí lại cơ
10
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư.
Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là
trong kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật sự tập trung sức người, sức
của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực
- thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, để đến khi kết thúc
chặng đường đầu tiên đạt được kết quả như sau:
- Về lương thực, thực phẩm: bảo đảm lương thực đủ ăn cho toàn
xã hội và có dự trữ. Đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực
phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm phải bảo đảm tái sản xuất
sức lao động.
- Về hàng tiêu dùng: sản xuất đáp ứng được nhu cầu bình thường
của nhân dân thành thị và nông thôn về những sản phẩm công nghiệp
thiết yếu.
- Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực;
đạt kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật
tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hoá cần thiết.
Yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, về nguyên liệu sản
xuất hàng tiêu dùng, về hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của

nông nghiệp. Phải đưa nông nghiệp tiến một bước theo hướng sản xuất
lớn, nhằm yêu cầu chủ yếu là tăng nhanh khối lượng và tỷ suất hàng hoá
nông sản. Nông nghiệp phải được ưu tiên đáp ứng những nhu cầu về đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, về vật tư, về lao động kỹ thuật;
những nguồn đầu tư ấy phải được sử dụng có hiệu quả. Đầu tư cho nông
nghiệp phải đồng bộ từ sản xuất đến chế biến, vận chuyển, bảo quản để
có nhiều sản phẩm cuối cùng.
Phát triển lâm nghiệp theo hướng bảo vệ và sử dụng có hiệu quả
tài nguyên rừng, tăng thêm vốn rừng, phát triển có trọng điểm việc trồng
rừng tập trung chuyên canh, đẩy nhanh nhịp độ phủ xanh đất trống, đồi
núi trọc theo phương thức nông - lâm kết hợp; ngăn chặn nạn phá rừng,
cháy rừng; phát triển rộng khắp phong trào trồng cây, chú ý cả cây lấy
gỗ, cây làm nguyên liệu và làm củi. Tiến hành tích cực việc định canh,
định cư, giao đất, giao rừng cho các đơn vị tập thể và nhân dân sử dụng
lâu dài để làm chủ đất rừng như làm chủ đất ruộng. Xây dựng các khu
11
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

kinh tế tổng hợp lâm - nông - công nghiệp; khai thác, bảo quản, chế biến,
sử dụng gỗ và các loại lâm sản khác với hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Hải sản và thuỷ sản nước ngọt, nước lợ là một nguồn lợi lớn. Coi
trọng cả đánh bắt và nuôi trồng, đi đôi với giải quyết tốt việc chế biến,
vận chuyển để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và tăng nhanh hàng
xuất khẩu. Tăng đầu tư và bổ sung chính sách nhằm tận dụng mọi diện
tích mặt nước có thể nuôi trồng thuỷ sản. Những diện tích mặt nước mà

các cơ sở quốc doanh và tập thể quản lý không sử dụng hết, thì giao cho
nhân dân mượn hoặc nhận khoán để mở rộng sản xuất.
Phát triển công nghiệp nhẹ trước hết dựa vào việc tổ chức lại sản
xuất, đầu tư chiều sâu và đầu tư đồng bộ để tận dụng công suất thiết bị
của các cơ sở hiện có, coi trọng các cơ sở có năng lực và hiệu suất chế
biến cao. Sử dụng hợp lý khả năng sản xuất hàng tiêu dùng của các xí
nghiệp công nghiệp nặng, xí nghiệp quốc phòng. Có chính sách đúng đắn
huy động rộng rãi nguồn vốn và kỹ thuật của nhân dân, kể cả của Việt
kiều, để phát triển các cơ sở làm ra nguyên liệu và cơ sở chế biến dưới
nhiều hình thức. Phát triển và củng cố các cơ sở kinh tế quốc doanh trong
những khâu chi phối quá trình sản xuất và lưu thông.
Việc phát triển công nghiệp nặng và xây dựng kết cấu hạ tầng phải
nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu
tiên, và theo khả năng thực tế, chuẩn bị tiền đề cho sự phát triển kinh tế
trong chặng đường tiếp theo. Ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng
(điện than, dầu khí). Ngành công nghiệp cơ khí của tất cả các bộ và các
địa phương phải được sắp xếp lại, đồng bộ hoá, chuyên môn hoá, từng
bước đổi mới thiết bị. Không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá
điều kiện và khả năng thực tế, ngay cả để phục vụ nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ.
Theo phương hướng nêu trên, ba chương trình mục tiêu về lương
thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu phải được xây dựng
khẩn trương để triển khai thực hiện trong kế hoạch 1986-1990 như nhiệm
vụ trung tâm về kinh tế - xã hội của tất cả các ngành và các cấp.
Cả ba chương trình phải kết hợp kinh tế với quốc phòng, coi trọng
việc phân bố lực lượng sản xuất trên các vùng lãnh thổ, nhằm phát huy
12
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung



Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

thế mạnh của các vùng trong mối quan hệ liên kết, bổ sung cho nhau theo
quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng trao đổi trong nước và
với nước ngoài, khắc phục khuynh hướng tự cấp, tự túc. Kết hợp chặt
chẽ giữa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp, tiểu, thủ
công nghiệp, giữa sản xuất và lưu thông, dịch vụ trên địa bàn từng
huyện, từng tỉnh, từng vùng kinh tế
Theo phương hướng bố trí lại cơ cấu kinh tế, phải điều chỉnh lớn
cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước nhằm tập trung cho việc
thực hiện ba chương trình mục tiêu nói trên và bảo đảm phát huy hiệu
quả. Việc xác định hiệu quả đầu tư phải chú ý tới yêu cầu tốn ít vốn, tạo
ra nhiều việc làm, đưa công trình vào sử dụng nhanh.
Phải soát xét thật chặt chẽ các công trình xây dựng dở dang, kể cả
công trình trên hạn ngạch và dưới hạn ngạch, của cả trung ương và địa
phương, trong tất cả các ngành, cũng như các công trình chưa khởi công,
nhưng đã ký nhập thiết bị toàn bộ của nước ngoài. Kiên quyết giãn tiến
độ hoặc đình hẳn việc xây dựng những công trình chưa thật sự cấp bách
hoặc làm xong sẽ không đủ điều kiện sử dụng có hiệu quả, hoặc xét trong
khả năng cân đối chung, cần dành ưu tiên cho các công trình khác. Tập
trung sức hoàn thành nhanh và đồng bộ một số công trình trọng điểm.
Cùng với việc lựa chọn chặt chẽ các công trình chuyển tiếp, cần ưu tiên
đầu tư đồng bộ và đầu tư chiều sâu cho các cơ sở hiện có.
Đi đôi với việc điều chỉnh phương hướng và cơ cấu đầu tư, phải
quy định lại chế độ, thể lệ đầu tư nhằm nêu cao trách nhiệm trong việc
xây dựng phương án và quyết định chủ trương đầu tư, đặc biệt là đối với
các công trình lớn do Trung ương quyết định. Tránh xét duyệt riêng rẽ
từng công trình tách khỏi các quan hệ cân đối chung. Gắn trách nhiệm và

lợi ích vật chất của đơn vị chủ đầu tư với hiệu quả đầu tư. Kiểm soát chặt
chẽ toàn bộ các công trình xây dựng cơ bản của khu vực nhà nước, bất kể
thuộc nguồn vốn nào. Thực hiện chế độ đấu thầu xây dựng theo tiêu
chuẩn bảo đảm thời hạn huy động, chất lượng công trình và giảm chi phí
xây lắp.
1.2.2. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử
dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế
13
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi đôi với việc bố trí
lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo ngành và theo vùng, phải xác định
đúng cơ cấu thành phần kinh tế.
Trong xã hội ta, còn nhiều người có sức lao động chưa có việc làm
và chưa sử dụng hết thời gian lao động. Khả năng thu hút sức lao động
của khu vực nhà nước trong những năm trước mắt còn có hạn. Cũng
không thể đưa tất cả những người làm ăn cá thể vào các tổ chức kinh tế
tập thể trong một thời gian ngắn. Có những ngành, nghề đưa vào làm ăn
tập thể chưa bảo đảm hiệu quả. Trong khi nguồn vốn của Nhà nước và
của tập thể còn eo hẹp, thì nguồn vốn còn dư trong nhân dân hầu như chỉ
đưa vào tiêu dùng hoặc cất giữ và mua hàng tích trữ. Phải có chính sách
mở đường cho người lao động tự tạo ra việc làm, kích thích mọi người
đưa vốn vào sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm tiêu dùng để tích luỹ, mở
rộng tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội.
Giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng

quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ. Ở nước ta, các thành phần đó là:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu
vực tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần
đó.
- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá;
kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà
hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong
một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi
cao khác.
Chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ đặc trưng nói
trên mà đề ra những chủ trương và biện pháp đúng đắn.
Phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc
doanh có quyền tự chủ, thật sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại
sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đẩy mạnh việc ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Trên cơ sở đó, ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của
14
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho xí nghiệp và cho Nhà nước. Kinh
tế quốc doanh chủ động mở rộng liên kết với các thành phần kinh tế
khác, hướng các thành phần đó vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Để củng cố kinh tế tập thể, phải nâng cao trình độ tổ chức, quản lý

và tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật đi đôi với thực hiện quan hệ trao
đổi và liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế gia đình, trước hết là về
mặt cung ứng vật tư, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Trong nông
nghiệp, giải quyết đúng đắn quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế quốc doanh
với hợp tác xã, đồng thời cải tiến quản lý nội bộ hợp tác xã, hoàn thiện
phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động,
gắn liền việc xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật với xây dựng nông thôn mới. Các tập đoàn sản xuất ở Nam Bộ
phải được củng cố theo đúng tính chất tổ chức kinh tế tập thể. Việc đưa
các tập đoàn sản xuất lên hợp tác xã bậc cao, quy mô lớn phải căn cứ vào
các điều kiện cụ thể đã chín muồi, không làm vội vã.
Nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đặt ra cho chặng đường đầu tiên
là kinh tế xã hội chủ nghĩa với khu vực quốc doanh làm nòng cốt phải
giành được vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân, cụ thể là chiếm
tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông, thể hiện được tính ưu việt và
chi phối được các thành phần kinh tế khác thông qua liên kết kinh tế.
Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, Nhà nước thừa nhận sự cần
thiết của bộ phận kinh tế này trong thời kỳ quá độ, hướng dẫn và giúp đỡ
nó sản xuất, kinh doanh, liên kết với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể. Vận động những người lao động cá thể đi vào làm ăn tập thể theo
nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Không nên có thành kiến, phân biệt
đối xử, gây khó khăn cho những người lao động cá thể chưa mưuốn tham
gia các tổ chức kinh tế tập thể hoặc xin rút ra khỏi các tổ chức đó.
Trong lĩnh vực lưu thông, phải xoá bỏ thương nghiệp tư bản tư
nhân. Đối với một số người buôn bán loại vừa, có tay nghề trong một số
ngành hàng tươi sống, Nhà nước dùng hình thức liên doanh để sử dụng
họ kinh doanh theo pháp luật và chính sách.
Như vậy, quá trình sử dụng kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá và kinh
tế tư bản tư nhân luôn luôn gắn liền với quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa
15
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung



Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

đối với các thành phần đó bằng nhiều hình thức.
1.2.3. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Cơ chế đó quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu,
với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chi tiết từ trên giao xuống,
không phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan quản lý
hành chính - kinh tế can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các đơn vị cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối
với các quyết định của mình; các đơn vị kinh tế cơ sở vừa không có
quyền tự chủ, vừa không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả sản xuất,
kinh doanh.
Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định
là xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với
quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình
chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh
tế hàng hoá. Chúng ta đang quản lý có kế hoạch một nền kinh tế sản xuất
hàng hoá với những đặc điểm của thời kỳ quá độ. Việc sử dụng đầy đủ
và đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế
quốc dân là một tất yếu khách quan. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá
- tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý kinh tế mà chúng
ta đang xây dựng.
Việc sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn
với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả,
các tổ chức và đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản

xuất mở rộng, tức là phải thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa.
Muốn kế hoạch hoá quá trình tái sản xuất hàng hoá, phải vận dụng
tổng hợp hệ thống các quy luật đang tác động lên nền kinh tế. Trong hệ
thống các quy luật đó, quy luật kinh tế cơ bản cùng với các quy luật đặc
thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò chủ đạo, được
vận dụng trong một thể thống nhất với các quy luật của sản xuất hàng
hoá, đặc biệt là quy luật giá trị, quan hệ cung cầu. Đi đôi với việc xác
định đúng chức năng, nhiệm vụ quản lý của các cấp, các ngành, phải đổi
16
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, đổi mới công tác cán bộ, xây dựng
đội ngũ cán bộ quản lý có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu
đổi mới cơ chế quản lý. Việc bố trí đúng những cán bộ có trách nhiệm
chủ yếu trong các cơ quan quản lý kinh tế ở trung ương, địa phương và
các cơ sở kinh tế lớn là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc xây
dựng và vận hành cơ chế quản lý mới.
Đổi mới cơ chế quản lý là một quá trình cải cách có ý nghĩa cách
mạng sâu sắc, là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái
lạc hậu. Cuộc đấu tranh để đổi mới không những bị sức mạnh của thói
quen níu lại, mà còn vấp phải những đặc quyền, đặc lợi của một số người
gắn bó với cơ chế cũ. Đây là cuộc đấu tranh trong nội bộ đảng và cơ
quan nhà nước, đấu tranh giữa những người đồng chí, đấu tranh với
chính bản thân mình. Khó khăn, phức tạp là ở chỗ đó. Chúng ta phải

khắc phục trở ngại chính hiện nay là tư tưởng bảo thủ mưốn quay trở lại
cơ chế cũ đã quen thuộc, do dự không dám giải quyết những vấn đề đã
chín muồi.
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phải nắm vững
những vấn đề có tính nguyên tắc dưới đây:
Thực hiện tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế.
Kế hoạch kinh tế quốc dân trong những năm tới phải bảo đảm thực
hiện phương hướng sắp xếp lại nền kinh tế, bố trí đúng cơ cấu sản xuất,
cơ cấu đầu tư theo các chương trình mục tiêu. Các cân đối kế hoạch được
xây dựng từ cơ sở và tổng hợp từ dưới lên, với sự hướng dẫn và điều hoà
của trung ương. Kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá theo ngành và kế hoạch
hoá trên địa bàn lãnh thổ.
Với quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, các đơn vị kinh tế cơ sở
chủ động tiếp cận nhu cầu của thị trường, khai thác mọi khả năng để phát
triển sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của kế
hoạch nhà nước. Hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị sản xuất, kinh doanh
vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch vừa là công cụ pháp lý bảo đảm cho
việc thực hiện kế hoạch. Cần tăng cường chế độ hợp đồng kinh tế và bảo
đảm hiệu lực của nó bằng chế độ trọng tài kinh tế nhà nước.
Đối với những mặt hàng hoàn toàn do kinh tế quốc doanh sản xuất
17
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

hoặc nhập khẩu, đương nhiên, thương nghiệp quốc doanh độc quyền bán
trên thị trường và Nhà nước có biện pháp hành chính để bảo đảm sự độc

quyền ấy. Nhưng ngay đối với những vật tư, hàng hoá đó, biện pháp kinh
tế cũng rất quan trọng. Chính sách giá cả và phương thức mua bán không
hợp lý thì không thể ngăn chặn được chúng chạy ra thị trường tự do bằng
nhiều con đường ngang tắt.
Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó
quy luật giá trị có tác động trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá trị,
đồng thời phù hợp với sức mua của đồng tiền và tính đến quan hệ cung cầu. Các yêu cầu điều tiết thu nhập, bảo đảm chính sách xã hội, thúc đẩy
cải tạo xã hội chủ nghĩa, cần được thực hiện thông qua sử dụng đồng bộ
nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp giá cả, tài chính, tín dụng...;
chỉ dùng biện pháp giá cả để đáp ứng những yêu cầu đó sẽ đẩy giá cả tới
mức thoát ly giá trị.
Muốn ổn định giá cả, chính sách giá cả phải nhằm trước hết kích
thích các cơ sở sản xuất và mọi người lao động làm ra nhiều sản phẩm
hàng hoá, hạ giá thành, hăng hái bán sản phẩm cho Nhà nước. Không thể
ổn định giá cả bằng cách giữ giá một cách cứng nhắc, bất chấp sức mua
của đồng tiền, bất chấp quan hệ cung - cầu và sự biến động của các yếu
tố hình thành giá cả; mặt khác, phải có biện pháp tích cực khắc phục từng
bước tính tự phát của giá cả thị trường tự do.
Chính sách tiền lương phải đáp ứng yêu cầu cấp bách là bảo đảm
tiền lương thực tế của người ăn lương trong tình hình quỹ hàng của Nhà
nước chưa đủ và giá cả chưa ổn định.
Đổi mới các chính sách, chế độ tài chính, trước hết là chính sách
thuế. Chấm dứt chế độ bao cấp qua ngân sách, như bù lỗ tràn lan, cấp
phát vốn mà không ràng buộc trách nhiệm vật chất với hiệu quả sử dụng
vốn; tránh dùng vốn tín dụng không đúng quan điểm hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa; sửa đổi một số chế độ phúc lợi vượt quá khả
năng của nền kinh tế. Các chế độ tài chính cần quán triệt chính sách tiết
kiệm nghiêm ngặt cả trong sản xuất và tiêu dùng.
1.2.4. Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học, kỹ thuật
Trong điều kiện thế giới đang tiến nhanh vào giai đoạn mới của

18
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và qua tình hình thực tế của nước ta,
càng thấy rõ sự bức bách phải làm cho khoa học, kỹ thuật thật sự trở
thành một động lực to lớn đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Sự lựa chọn về phương hướng khoa học, kỹ thuật phải thống nhất
với sự lựa chọn về mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm tới, phải lựa chọn và tổ chức áp dụng rộng rãi các
thành tựu khoa học và kỹ thuật thích hợp, nhằm trước hết phục vụ ba
chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Trong nông nghiệp, áp dụng rộng rãi các thành tựu sinh học và các
thành tựu khoa học, kỹ thuật khác làm tăng thêm màu mỡ cho đất canh
tác, tăng nhanh năng suất trồng trọt, chăn nuôi, nâng cao hệ số sử dụng
đất, giảm hư hao lương thực và nông sản khác.
Thực hiện những biện pháp đồng bộ, có hiệu quả để sớm khắc
phục sự chậm trễ của khoa học xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu của các ngành
khoa học xã hội trong những năm tới là tham gia đắc lực vào công tác lý
luận của Đảng, góp phần xây dựng cương lĩnh về cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận,
đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội trên cơ sở tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn của nước ta và nắm bắt nhanh nhạy những
thành tựu lý luận của các nước anh em. Khoa học xã hội phải trở thành
công cụ sắc bén trong việc đổi mới nhận thức, đổi mới phương pháp tư

duy, xây dựng ý thức xã hội và nhân cách xã hội chủ nghĩa.
Lực lượng khoa học và kỹ thuật cần được tổ chức lại, bố trí và sử
dụng có hiệu quả. Có cơ chế, chính sách và biện pháp đúng đắn nhằm
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ khoa học, cán bộ kỹ
thuật phát huy lao động sáng tạo, hướng về cơ sở sản xuất, về các địa bàn
kinh tế đang cần sự có mặt của họ. Đảng và Nhà nước cố gắng tạo những
điều kiện thuận lợi để những người làm công tác khoa học, kỹ thuật hoạt
động có kết quả, và đòi hỏi mọi người phải có cống hiến cho đất nước
bằng những sáng chế, bằng kết quả đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ
thuật vào sản xuất, bằng việc nghiên cứu giải quyết các vấn đề kinh tế, xã
hội.
Tăng mức đầu tư cho khoa học, kỹ thuật từ nhiều nguồn khác
nhau: ngân sách nhà nước, quỹ tự có của các cơ sở sản xuất, quỹ tập
19
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

trung của ngành, tín dụng ưu đãi của ngân hàng, v.v.. Coi trọng đầu tư
chiều sâu và quản lý tốt để sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện có của các cơ quan khoa học - kỹ thuật.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về khoa học và kỹ
thuật. Thông qua hợp tác để nhanh chóng nắm bắt các thành tựu khoa
học, kỹ thuật, tránh lãng phí do nghiên cứu trùng lắp. Gắn chặt hợp tác
khoa học, kỹ thuật với hợp tác kinh tế. Xây dựng và thực hiện chính sách
chuyển giao công nghệ có chọn lọc, kết hợp với công tác nghiên cứu và
triển khai trong nước. Tích cực tham gia chương trình tổng hợp tiến bộ

khoa học, kỹ thuật theo các hướng ưu tiên của Hội đồng tương trợ kinh tế
đến năm 2000.
Tăng cường hệ thống thông tin kinh tế và khoa học, kỹ thuật, nâng
cao năng lực bảo đảm thông tin cho công tác lãnh đạo và quản lý, cho
hoạt động nghiên cứu, triển khai và sản xuất. Tạo thuận lợi cho việc tiếp
nhận thông tin kinh tế và khoa học, kỹ thuật từ ngoài nước. Phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng công tác thông tin đại chúng cả về nội
dung và hình thức. Tổ chức tốt công tác lưu trữ; bảo vệ an toàn và sử
dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ quốc gia.
1.2.5. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên
cũng như sự nghiệp phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc
một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại.
Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại,
nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ
yếu là mở rộng quan hệ phân công, hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào
và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa;
đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với
các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức
quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Chương trình xuất khẩu cho những năm tới phải tính toán cụ thể
và chính xác hiệu quả kinh tế của từng mặt hàng để lựa chọn các sản
phẩm xuất khẩu có lợi nhất, xác định các sản phẩm xuất khẩu chủ lực,
vừa có kim ngạch cao, vừa có điều kiện ổn định và phát triển cả về sản
20
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung



Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

xuất và thị trường tiêu thụ. Trên cơ sở đó, có kế hoạch đầu tư đồng bộ từ
nguyên liệu đến chế biến, bảo quản, vận chuyển, đi đôi với tổ chức sản
xuất và lưu thông hợp lý, đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng các chính sách
đòn bẩy để thực hiện cho được chương trình xuất khẩu.
Tận dụng nguồn lao động dồi dào và khéo tay để gia công cho
nước ngoài, làm những sản phẩm thủ công, mỹ nghệ và một số hàng xuất
khẩu khác, từ những sản phẩm thông thường đến những sản phẩm tinh
vi; khai thác khả năng to lớn ấy để hợp tác với các nước thành viên Hội
đồng tương trợ kinh tế.
Cơ cấu nhập khẩu phải phù hợp và phục vụ tốt cho việc bố trí lại
cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Để khắc phục tình trạng nhập
khẩu không hợp lý, ngăn chặn việc nhập hàng xa xỉ, cần ban hành chính
sách thuế nhập khẩu. Xử lý đúng và kịp thời giá bán hàng nhập khẩu để
chống sử dụng lãng phí, chống thất thoát hàng và khuyến khích sản xuất,
sử dụng hàng trong nước thay thế hàng nhập khẩu.
Ngân hàng ngoại thương thống nhất việc quản lý ngoại hối, song
phải bảo đảm quyền sử dụng ngoại tệ của các chủ tài khoản ngoại tệ theo
đúng chính sách của Nhà nước. Nghiên cứu chế độ mua, bán ngoại tệ qua
Ngân hàng ngoại thương để tạo điều kiện áp dụng khi ổn định được giá
trị đồng tiền trong nước. Có cơ chế điều chỉnh kịp thời tỷ giá kết toán nội
bộ về ngoại tệ, và tỷ giá hối đoái phi mậu dịch, kiều hối, không để lạc
hậu so với tình hình thực tế. Có chính sách khuyến khích Việt kiều gửi
tiền và vật tư về nước, thay cho việc gửi hàng tiêu dùng.
Cùng với việc mở rộng xuất, nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và
vay dài hạn, cần vận dụng nhiều hình thức đa dạng để phát triển quan hệ
kinh tế đối ngoại.

Mở rộng hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa khác, từ các hình thức bạn đưa gia công, liên
doanh đến đầu tư trực tiếp; tăng cường quan hệ hợp tác, liên kết trực tiếp
trong lĩnh vực sản xuất và khoa học giữa các tổ chức kinh tế, khoa học kỹ thuật của nước ta với các tổ chức tương ứng của các nước anh em.
Đẩy mạnh hợp tác khoa học, kỹ thuật và đào tạo cán bộ, công
nhân. Tổ chức tốt việc đưa lao động và chuyên gia đi làm việc theo hợp
đồng ở nước ngoài dưới nhiều hình thức; chú ý tới hình thức nhận thầu
đồng bộ công trình xây dựng và các loại dịch vụ. Nhanh chóng khai thác
21
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

các điều kiện thuận lợi của đất nước để mở mang du lịch bằng vốn đầu tư
trong nước và hợp tác với nước ngoài. Phát triển vận tải quốc tế, dịch vụ
cung ứng tàu biển và máy bay...
Việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại sẽ làm nảy sinh những vấn
đề phức tạp, cần có biện pháp hạn chế và ngăn ngừa những hiện tượng
tiêu cực, song không vì thế mà đóng cửa lại. Có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng về phẩm chất và năng lực kinh doanh cho đội ngũ cán bộ làm kinh
tế đối ngoại, kể cả những cán bộ chuyên làm công tác này và những cán
bộ ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh có quan hệ giao dịch với nước ngoài.
2.2. Ý nghĩa của đường lối đổi mới kinh tế trong báo cáo chính
trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(12/1986)
Báo cáo chính trị đã thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trong
việc đánh giá tình hình, chưa nhận thức được đầy đủ thời kỳ quá độ là
một quá trình lịch sử tương đối dài phải trải qua nhiều chặng đường. Còn

chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết. Sai lầm trong
việc bố trí cơ cấu kinh tế thiên về công nghiệp nặng và những công trình
quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng. Biểu hiện nóng vội trong việc xoá bỏ ngay các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không thừa nhận cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta. Duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp, không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá. Còn
nhiều sai lầm trên lĩnh vực phân phối, lưu thông. Còn sai lầm trong việc
phát huy sức mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc quản lý đất
nước.
Trong khi các nước XHCN thực hiện cải tổ, cải cách hoặc sửa
chữa sai lầm thì Đảng ta chủ trương đổi mới, Đại hội VI chính thức đưa
khái niệm đổi mới vào đường lối của Đảng, đặc biệt là đổi mới trên lĩnh
vực kinh tế. Báo cáo chính trị của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại,
đánh dấu một bước ngoặc trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, đã tìm ra lối thoát
cho cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn
diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những chủ trương, chính sách mới đã gợi
mở, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, giải phóng năng lực
sản xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất.
22
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng

đại, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta. Thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng
thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và trước dân
tộc. Sau đại hội, Đảng đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện, từng bước tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa cách
mạng nước ta từng bước đạt được những thành tựu rất quan trọng.
Đại hội đã chỉ ra những nguyên nhân căn bản dẫn đến khủng
hỏang kinh tế xã hội và trên cơ sở đó, Báo cáo đã đề xướng chủ trương
đổi mới đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở
nước ta. Đại hội xác định, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta phải trải qua nhiều chặn đường. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng
quát của chặn đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình kinh tế - xã hội,
tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa trong chặn đường tiếp theo.
Tuy còn một số hạn chế về những giải pháp tháo gỡ tình trạng rối
ren trong vấn đề phân phối, lưu thông,nhưng đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng thực sự có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một
bước ngoặt trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và đổi mới kinh
tế nói riêng, quá trình đổi mới đã mở đường cho đất nước thoát ra khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách
mạng Việt Nam, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo,
là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Việc thực hiện đường lối đổi mới kinh tế mà Đảng đề ra đã trở
thành động lực thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, làm thay đổi bộ
mặt của xã hội, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ mới của lịch sử
Cách mạng Việt Nam. Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh
chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng.

23

GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

C. KẾT LUẬN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra trong bối
cảnh đất nước đang gặp rất nhiều khó khăn và tình hình thế giới gây
nhiều bất lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy còn những
thiếu sót và sai lầm không tránh khỏi, nhưng Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI đã đề ra được đường lối đổi mới đất nước trong hoàn cảnh lịch
sử mới, đường lối đó phù hợp với tình hình cách mạng Việt Nam lúc bấy
giờ, việc chủ trương đổi mới kinh tế đã tạo ra một bước ngoặt cho sự
phát triển của nước ta đã gặt được những thành tựu đáng kể cho công
cuộc phát triển đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh”.
Kế thừa và phát huy lí luận đó, Đảng và Nhà Nước ta hiện nay
đang chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, từng bước đưa nước ta thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ việc
đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đến việc
gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO, đưa đất nước ta từ chỗ
nghèo đói thiếu lương thực trầm trọng đến chỗ xuất khẩu gạo đứng đầu
Thế giới, đó là một thành tựu không thể phủ nhận. Đồng thời việc chủ
trương thực hiện chính sách đổi mới về kinh tế nó cũng đánh dấu một
bước trưởng thành trong tư duy lí luận và nhận thức của Đảng ta, thể
hiện bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng ta trong tình hình
mới, khi mà tình hình Thế giới đang thay đổi và diễn biến phức tạp.
Thực hiện tiểu luận nghiên cứu và tìm hiểu về đường lối đổi mới

của Đảng đề ra trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (12/1986) khiến bản thân em cảm thấy niềm tự hào về dân tộc và
niềm tin vào đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước của Đảng. Đồng
thời, việc thực hiện tiểu luận cũng giúp em hiểu rõ nhiệm vụ của bản
thân nói riêng và của thế hệ trẻ nói chung phải làm sao tu dưỡng, học tập
tốt hơn, góp phần đưa đất nước tiến liên hơn nữa theo con đường mà
Đảng ta đã chọn.

24
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


Bài tiểu luận

SVTH: Nguyễn Chí Công- Lớp 53B- Chính trị học

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bội Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình Đường lối cách mạng của
Đảng cộng sản Việt Nam , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12/1986), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Tấn Hùng (2011), Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà xuất bản kinh tế, Hà Nội.
5. Websites: tailieu.vn, dangcongsan.vn
6.Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhà xuất bản Bách Khoa – Hà Nội
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập – Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia – 2006
8. Website : />9. Đảng cộng Sản Việt Nam, Quá trình đổi mới tư duy lí luận và thực
tiễn, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam.
10. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Báo điện tử Đảng cộng sản.

25
GVHD: T.S Nguyễn Văn Trung


×