Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

bài tiểu luận đường lối đối ngoại.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.92 KB, 15 trang )

BÀI THU HOẠCH: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI.
Sau hơn 20 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã tăng đáng kể: Việt Nam đang
hội tụ các điều kiện để đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
vai trò và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong khu vực và trên trường
quốc tế. Thành tựu của hơn 20 năm đổi mới càng chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
trên đất nước Việt Nam, và do đó tiếp tục khẳng định thực tế là: trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam và bằng những thành tựu cụ thể, Đảng Cộng sản Việt Nam
vẫn luôn nỗ lực hết mình thực hiện nghĩa vụ trước dân tộc và giai cấp, ở trong nước và
trên thế giới.
I, THỜI KÌ ĐỐI NGOẠI TRƯỚC ĐỔI MỚI (TỪ 1975_1986)
1. Hoàn cảnh lịch sử.
a, Tình hình thế giới.
_Từ thập kỷ 70, thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chóng của các cuộc khoa học và công nghệ
đã thúc đẩy lưc lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh.
_ Phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh.
_ Từ giữa thập kỷ 70, thế kỷ XX, tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa
xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định.
b, Tình hình khu vực Đông Nam Á:
_Sau năm 1975, Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, khối quân sự SEATO tan rã.
_ Tháng 2-1976, các nước ASEAN ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á
( Hiệp ước Bali).
=> Mở ra cục diện hoà bình, hợp tác trong khu vực.
c, Tình hình trong nước:
_ Thuận lợi:
+, Tổ quốc hoà bình thống nhất, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+, Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng.
_ Khó khăn:
+, Các thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn thâm độc chống phá cách mạng Việt
Nam tại biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.
+, Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) nhận định: “nước ta đang ở trong tình trạng
vừa có hoà bình vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”.


+, Do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một
thời gian ngắn, đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế - xã hội.
=> Ảnh hưởng to lớn đến công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và tác động
đến việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng.
2. Nội dung của Đường lối đối ngoại của Đảng.
_Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là “Ra sức tranh
thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến
tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ ưnghĩa xã hội ở nước ta”.
_Đại hội lần thứ V, công tác đối ngoại phải được thực hiện chủ động, tích cực. Trên cơ
sơ duy trì nhưng quan điểm đối ngoại cơ bản từ đh IV,Đảng ta tiếp tục coi trọng mối
quan hệ với Liên Xô, 3 nước láng giềng VN- Lào-Campuchia…Kêu gọi các nước
ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các
trở ngại, khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng
tồn tại hoà bình… đấu tranh với sự bao vây, cám vận của các thế lực thù địch.
3. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân.
a, Kết quả, ý nghĩa.
_Trong 10 năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội
chủ nghĩa được tăng cường và phát triển, đặc biệt với Liên xô…
_Ngày 29-6-1978, Việt Nam ra nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện
trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liện Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng. Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu
nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô.
_Từ năm 1975 đến năm1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23
nước; ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF); ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng Thế giới
(WB); ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); ngày 20-9-1977,
tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động trong phong
trào Không lien kết…Kể từ năm 1977, một số nước mở quan hệ hợp tác kinh tế Việt
Nam.
_Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philíppin và Thái

Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
=>Những kết quả đối ngoại trên đây có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng
Việt Nam. Nước ta đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục
đất nước sau chiến tranh từ việc trở thành thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc tế,
Ngân hàng phát triển châu Á…Bên cạnh đó, đã tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác
của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy được vai trò của nước ta trên
trường quốc tế.
b, Hạn chế, nguyên nhân.
_ Quan hệ quốc tế ở nước ta gặp nhiều khó khăn, trở ngai lớn.
_ cuối thập niên 70 của thế kỉ XX, do “sự kiện Campuchia”, các nước ASEAN và một
số nước khác thực hiện cấm vận Việt Nam.
_Nguyên nhân:
+, Do nước ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu qua hòa hoãn và chạy đua
kinh tế tren thế giới.
+Không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế để khôi phục kinh
tế sau chiến tranh.
+, Nguyên nhân cơ bản là do “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”.
II, ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP KINH TẾ SAU THỜI KÌ MỚI.
1, Hoàn cảnh lịch sử và quá trình phát triển đường.
a, Hoàn cảnh lịch sử.
Tình hình thế giới
_Giữa những năm 1980: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh
mẽ tác động sâu sắc đến mọi mặt quốc gia.
_Đầu những năm 90: Chế độ XHCN ở Liên Xô sụp đổ. Khiến cho:
o Các nước XHCN lâm vào khủng hoảng sâu sắc.
o Hình thành trật tự thế giới mới.
o Các cuộc chiến tranh cục bộ vẫn còn nhưng xu thế chung của thế giới là hòa
bình và hơp tác và phát triển.
o Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước thay đổi tư duy đối ngoại.

Đặc biệt là các nước phát triển trong đó có Việt Nam.
o Tư duy về quan niệm sức mạnh trên thế giới có sự thay đổi. Thay vì đề cao sức
mạnh quân sự như trong thời kì trước thì giờ đây, sức mạnh kinh tế được đặt
lên hàng đầu.
Xu thế toàn cầu hóa và tác động của nó:
_Khái niệm: Toàn cầu hóa là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kiinh tế quốc tế
phát triển vượt qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn
cầu, trong đó hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động… vận động thông thoáng; sự
phân công lao động mang tính quốc tế; quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan
xen nhau, hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều.
_Tác động của Toàn cầu hóa:
+, Tích cực:
o Thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước.
o Tăng tính phụ thuộc lẫn nhau, nâng cao hiểu biết giữa các quốc gia, thuân lợi
cho việc xây dựng môi trường hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước.
+, Tiêu cực:
o Sự phân hóa giàu_nghèo ngày càng rõ rệt.
 Các nước không muốn bị tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia
vào quá trình toàn cầu hóa, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng
các yếu tố bất lợi để vượt qua.
Tình hình khu vực Châu Á – Thái Bình Dương:
o Tuy có nhiều bất ổn (hạt nhân, tranh chấp lãnh hải…) nhưng Châu Á – Thái
Bình Dương vẫn được đánh giá là khu vực ổn định.
o Là khu vực có tiềm lực lớn về Kinh tế và xu thế hòa bình và hợp tác trong khu
vực phát triển mạnh.
Tình hình trong nước:
o Sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch tạo nên tình trạng căng thẳng
mất ổn định trong khu vực và gây khó khăn cho sự nghiệp cách mạng của VN
=> Kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Vì vậy nhu cầu mở
rộng qua hệ quốc tế là cấp thiết đối với nước ta.

o Do hậu quả nặng nề của chiến tranh, nền kinh tế nước nhà lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng. Vì vậy, nhu cầu chống tụt hậu về Kinh tế đặt ra gay gắt.
=>Vì vậy, bối cảnh lịch sử hết sức khó khăn lúc này đã yêu cầu Đảng Cộng Sản
Vn phải hoạch định chủ trương chính sách đối ngoại kịp thơi để thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
b, Các giai đoạn hình thành phát triển đường lối.
*Giai đoạn 1986-1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ quốc tế.
Tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng chủ trương kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại điều kiện mới, yêu cầu mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp
phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng
có lợi.
Tháng 12-1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành.
Tháng 5-1988, Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình
mới là củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế,
chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta, đặt nền móng hình thành
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ
quốc tế.
Năm 1989, Đảng chủ trương xoá bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh
xuất nhập khẩu.
Tháng 6-1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng chủ trương “hợp tác
bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội
khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”, với phương châm “Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển”,thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Các hội nghị Trung ương sau đó đã tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, trên cơ sở tư tưởng chỉ
đạo là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội đồng thời phải rất

sang tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam cũng như diễn biễn của tình hình thế giới và khu vực.
*Giai đoạn 1996 – 2008: Bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại theo phương
châm chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
_Tháng 6-1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định tiếp tục
mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế,
chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh mở” và “đẩy
nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.Đại hội đã nêu lên một số điểm
mới như chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác,
quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ, và lần đầu tiên chủ trương thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước
ngoài.
_Tháng 12-1997, Đảng ta chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm
phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO.
Tháng 4-2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chủ trương chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nêu rõ
quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đề ra phương châm: “Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển”, đánh dấu bước phát triển về chất tiến trình quan hệ
quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Tháng 11-2001, Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và
6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
_Tháng 4-2006, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, đường lối đối
ngoại đã được bổ sung, phát triển theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,hoà bình, hợp tác và
phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc
tế.
2. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
a. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo.
- Cơ hội và thách thức

Về cơ hội:
+, Mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế.
+, Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường
quốc tế.
Về thách thức:
+ Phân hoá giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia…gây tác động bất lợi
đối với nước ta.
+ những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị
trường trong nước.
+ các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá chế độ
chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta
_Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại.
_ Tư tưởng chỉ đạo
+Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính .
+ Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ đối ngoại.
+ Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế
+ Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới
+ Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân
+ Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; bảo
vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên ngoài.
+ Thực hiện các cam kết gia nhập WTO, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
b. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại hội nhập kinh tế
quốc tế
_Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá X (2-2007) đã đề ra một số chủ
trương, chính sách lớn như:
+, Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững

+,Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
+, Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các
nguyên tắc, quy định của WTO
+, Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước
+, Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập
kinh tế quốc tế
+, Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập
- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội
- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và đối
ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoai
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với
các hoạt động đối ngoại
3. Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a. Thành tựu và ý nghĩa
+ Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Hai là, giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước
liên quan.
+ Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá.
+ Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.
+ Năm là, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công
nghệ và kỹ năng quản lý.
+ Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi
trường cạnh tranh.
b, Hạn chế và nguyên nhân
+ Trong quan hệ với các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động, tuỳ thuộc lẫn
nhau với các nước lớn.
+ Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng
quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế

+ Hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực
hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế.
+ Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế
và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.
+ Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ
+ Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số
lượng lẫn chất lượng.
III, THỰC TIỄN VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
_Trong thế kỉ 21, toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước
_Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các
quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.
_Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xẩy ra ở nhiều nơi với tính
chất và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp.
_Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã
lớn mạnh lên nhiều.
+ Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định.
+Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế
giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ
ngoại lực.
_Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ
mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù
địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau.
_Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế
với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."

_Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản
lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp.
=>Những nỗ lực này của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với
bạn bè ở khu vực và quốc tế, góp phần vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, ổn định và phát triển.
IV ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TA TRONG VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG
1, Đường lối của Đảng ta trong vấn đề biển Đông
Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác tuyên truyền đã trở thành một
vũ khí cực kỳ sắc bén trên mặt trận đấu tranh tư tưởng và ngoại giao, góp phần quan
trọng vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
_Trong những năm vừa qua, cùng với việc tuyên truyền toàn diện, sâu rộng về công
cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, công tác tuyên truyền về chủ
quyền biển, đảo được tiến hành thường xuyên và có kết quả, góp phần nâng cao nhận
thức của cả hệ thống chính trị và của nhân dân về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo đã đóng góp tích cực vào việc đấu tranh
bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển trước các hành vi, thủ đoạn xâm lấn và gây mất ổn
định trên biển.
_Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tuyên truyền chủ quyền biển, đảo
thời gian qua còn bộc lộc nhiều hạn chế: Vẫn còn để một bộ phận cán bộ và nhân dân
chưa nhận thức đầy đủ về cơ sở pháp lý cũng như những cứ liệu lịch sử khẳng định chủ
quyền biển, đảo của nước ta; cộng đồng quốc tế, đặc biệt là một số nước trong khu vực
chưa có đủ thông tin pháp lý về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam cũng như đường lối
đối ngoại của Việt Nam trong giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình và ổn định ở
biển Đông.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do chúng ta có lúc, có nơi còn chưa quan tâm
đúng mức đến công tác tuyên truyền về chủ quyền biển đảo; việc xác định phạm vi, đối
tượng tuyên truyền còn bất cập; nội dung tuyên truyền chưa thực sự khoa học, phù hợp;
phương pháp tuyên truyền còn đơn điệu; phương tiện tuyền truyền chưa đa dạng, chưa

liên tục và đôi khi chưa kịp thời; việc tuyên truyền đấu tranh, phản bác các quan điểm
sai trái của các thế lực thù địch trong các vấn đề liên quan tới chủ quyền biển, đảo còn
thụ động và chưa đồng bộ…
Để tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về nhiệm vụ phát triển kinh tế biển, đảo phục vụ
CNH, HĐH đất nước, nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh bảo vệ chủ
quyền biển, đảo Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, nâng cao hiệu quả tuyên truyền và coi đây là vũ khí đấu tranh hiệu quả
trước các âm mưu, thủ đoạn gây tranh chấp về chủ quyền biển, đảo. Việc tổ chức, triển
khai công tác tuyên truyền trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số giải pháp, yêu
cầu cơ bản sau:
1, Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác tuyên truyền
về chủ quyền biển, đảo.
_Đây là yêu cầu tiên quyết đặt ra đối với việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về
chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Công tác tuyên truyền về chủ quyền biển,
đảo đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất từ Trung ương tới cơ sở và sự phối
hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các địa phương; cần quán triệt sâu sắc các quan
điểm, chủ trương và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tuyên truyền chủ
quyền biển, đảo; triển khai thực hiện công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo ở
tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước về biển, đảo và công
tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo
_ Cần xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức
chính trị - xã hội, đặc biệt là các cơ quan thông tấn, báo chí trong việc triển khai thực
hiện công tác tuyên truyền về chủ quyền, biển đảo.
_Cần có quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan truyền thông trong nước với các
cơ quan truyền thông quốc tế để triển khai các hoạt động thông tin tuyên truyền về
biển, đảo Việt Nam.
_Có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các cơ quan thông tấn báo chí
trong và ngoài nước, công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo nhằm góp phần
củng cố nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tranh thủ sự ủng hộ của cộng

đồng quốc tế, tăng cường sức mạnh đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.
3, Xác định đúng mục tiêu, đối tượng và lực lượng trong công tác tuyên truyền về
chủ quyền biển, đảo.
_Mục tiêu cơ bản của công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo phải nhằm khẳng
định vai trò, vị trí và tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển, đảo phù hợp với nội
dung Công ước quốc tế về Luật Biển 1982;
+, Đối với cộng đồng quốc tế, công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo phải
được tiến hành thông qua nhiều hình thức và trong tất cả các mối quan hệ quốc tế
(kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao…), phải kết hợp một cách chặt chẽ các cứ liệu
lịch sử với các cơ sở pháp lý quốc tế liên quan để khẳng định chủ quyền biển, đảo của
Việt Nam.
+, Đối với đồng bào trong nước và Việt kiều đang sinh sống ở nước ngoài, công tác
tuyên truyền phải nhấn mạnh các giá trị lịch sử về truyền thống hào hùng của cha ông
trong khai thác và chế ngự biển; phải đề cao giá trị và vai trò của biển, đảo đối với sự
phát triển và hưng thịnh của đất nước ngày nay và trong tương lai; phải nhấn mạnh tới
tinh thần yêu nước, tinh thần cảnh giác và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo
thiêng liêng của Tổ quốc; động viên đồng bào tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và
làm cho toàn dân hiểu rõ chủ trương, quan điểm giải quyết các tranh chấp chủ quyền
biển, đảo của Đảng, Nhà nước ta.
4. Bảo đảm thống nhất về nội dung, đa dạng về phương pháp, phương tiện trong công
tác tuyên truyền chủ quyền biển, đảo.
_Công tác tuyên truyền phải nằm trong sự thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo từ Trung
ương tới cơ sở, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành… Cần đặc biệt
quan tâm tới sự thống nhất trong nội dung tuyên truyền, bao gồm: Nhấn mạnh vị trí,
vai trò, tiềm năng của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tập
hợp các cứ liệu lịch sử chứng minh việc xác lập và thực thi chủ quyền một cách liên
tục trên thực tế của nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ trên các vùng biển, đảo, tuyên
bố chủ quyền. Nhấn mạnh truyền thống đấu tranh bất khuất của quân và dân ta trong
bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Tuyên truyền Công ước của Liên

hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và các tuyên bố năm 1977 và năm 1982 của Chính
phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về các vùng biển Việt Nam; Tuyên bố về cách
ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) năm 2002; Báo cáo quốc gia xác định ranh
giới ngoài thềm lục địa của Việt Nam trình Ủy ban ranh giới ngoài thềm lục địa của
Liên hợp quốc năm 2009; Bản hướng dẫn thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở
biển Đông (DOC) giữa ASEAN và Trung Quốc vừa được thông qua tháng 7-2011.
_Thông qua tuyên truyền khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đấu tranh không khoan nhượng với những
luận điệu tuyên truyền xuyên tạc sự thật lịch sử về quyền và chủ quyền trên biển của
Việt Nam. Đồng thời với sự thống nhất về nội dung, cần phải đa dạng hóa việc sử
dụng các phương tiện và hình thức tuyên truyền như: sách, báo, tạp chí, các phương
tiện truyền thanh, truyền hình, internet, tiếp xúc ngoại giao, đàm phán kinh tế, trao đổi
khoa học công nghệ Trong từng thời điểm và bối cảnh cần căn cứ vào các đối tượng
để xác định cách thức tuyền truyền phù hợp. Nội dung tuyên truyền cần được truyền
đạt thông qua nhiều ngôn ngữ và chữ viết phổ biến như: tiếng Anh, Trung, Nga, Nhật,
Pháp… và thông qua hình ảnh để nâng cao hiệu quả tuyên truyền.
_Công tác tuyên truyền biển, đảo vừa là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, vừa là nhiệm vụ
trọng yếu thường xuyên, lâu dài; tuyên truyền về biển, đảo đòi hỏi phải xây dựng lực
lượng rộng rãi, trong đó các cơ quan tuyên giáo, báo chí, truyền thông là lực lượng
nòng cốt, lấy chủ quyền biển, đảo làm mục tiêu tuyên truyền và tập hợp rộng rãi lực
lượng cách mạng, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong đấu tranh bảo
vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.
2. Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng nhà nước về vấn đề biển Đông
Tranh chấp trên biển Đông sẽ không thể giải quyết trong một thời gian ngắn và cần
kiên trì giải quyết bằng đối thoại và biện pháp hòa bình, trên cơ sở vì lợi ích của mỗi
bên và dựa vào luật pháp quốc tế.
+, Tại cuộc tọa đàm, các đại biểu đã cùng trao đổi và phê phán việc làm sai trái của các
tàu hải giám Trung Quốc trong việc cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 của Tập
đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam trong khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam vào ngày 26/5 vừa qua.

+, Theo các đại biểu, tranh chấp trên biển Đông sẽ không thể giải quyết trong một thời
gian ngắn và cần kiên trì giải quyết bằng đối thoại và biện pháp hòa bình, trên cơ sở vì
lợi ích của mỗi bên và dựa vào luật pháp quốc tế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức thành viên của Mặt trận cần làm tốt công tác tuyên truyền để các tầng lớp nhân
dân hiểu đúng về vấn đề Biển Đông và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam.
“Ngày 7/6, trong chuyến ra thăm quân và dân huyện đảo tiền tiêu Cô Tô (Quảng
Ninh), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đanh thép khẳng định: Chúng ta mong muốn
các vùng biển và hải đảo của Tổ quốc luôn hòa bình, hữu nghị, ổn định. Nhưng chúng
ta cũng quyết tâm làm hết sức mình để bảo vệ vùng biển, đảo của đất nước. Biết bao
thế hệ đã hy sinh xương máu để có được Tổ quốc như ngày hôm nay. Vì vậy chúng ta
cũng sẵn sàng hiến dâng tất cả để bảo vệ quê hương, bảo vệ chủ quyền biển, đảo”.
+, Trong buổi lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội,
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đọc diễn văn: “Suốt mấy ngàn năm, đất nước và
Thủ đô ta “sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa”, hết đời này qua đời khác, suốt
mấy ngàn năm, nhân dân ta có bao ngày được ngơi nghỉ. Bao nhiêu thế hệ kế tiếp nhau
kiên cường chiến đấu, hiến dâng cho Thủ đô và Tổ quốc cuộc đời mình, cả tuổi trẻ,
tình yêu và hạnh phúc, để bảo vệ từng tấc đất của tổ tiên, nguồn cội. Việt Nam là một
dân tộc anh hùng, Hà Nội là Thủ đô anh hùng của Việt Nam”.
+, Ngày 8/6, tại Nha Trang (Khánh Hòa), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục
khẳng định: “Giữ vững chủ quyền lãnh thổ và giữ vững hoà bình, ổn định ở Biển
Đông là những vấn đề mang tính toàn cục. Việc xử lý các vấn đề nảy sinh ở Biển
Đông cần đặt trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong
chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan
hệ quốc tế; tránh để các thế lực phản động tìm cách lợi dụng, công kích, chống phá sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, xuyên tạc, chia rẽ quan hệ quốc tế giữa nước ta với
các nước có liên quan”.
+, Tại Hội nghị An ninh Châu Á vừa được tổ chức tại Singapore, Đại tướng Phùng
Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã có bài phát biểu ở phiên thứ 5 về “Đối
phó thách thức an ninh mới trên biển”.

 Chúng ta không nói suông, không thụ động ngồi im, nhưng cũng không bảo vệ chủ
quyền một cách thiếu khôn ngoan mà phải dựa vào sức mạnh thời đại, đó là niềm tin, sự
ủng hộ vào chân lý và khát vọng hoà bình của tất cả các nước, tất cả các dân tộc trong
thế giới ngày nay. Ngay cả nhân dân Trung Quốc cũng vậy, họ rất yêu chuộng hoà bình
và cũng mong muốn một hình ảnh tốt đẹp cho đất nước mình. Chúng ta sẽ sử dụng đúng
luật pháp quốc tế và bảo vệ bằng được chủ quyền lãnh thổ, tài sản quốc gia. Với những
cố gắng của chúng ta trong tuyên truyền, đấu tranh ngoại giao, đối thoại với Trung
Quốc và tăng sức mạnh bảo vệ thì tôi tin sẽ không tái diễn sự kiện 26/5 lần nữa”.
+, Chúng ta giải quyết bằng biện pháp hòa bình, và chúng ta có cơ sở để kiên trì giải
pháp hòa bình trên tinh thần tăng cường đoàn kết, hữu nghị, tăng cường sự hiểu biết và
tôn trọng lẫn nhau. Trong thế giới toàn cầu hóa, Trung Quốc cần một hình ảnh tốt đẹp
để phát triển quan hệ ngoại giao, kinh tế, xã hội
+, Chúng ta tin tưởng các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu được vấn đề này. Trên cơ sở
nhận thức như vậy, nhưng giải pháp của chúng ta sẽ mang lại lợi ích cho chúng ta và lợi
ích cho chính Trung Quốc, và có thể sẽ được hiện thực hóa trong tương lai, tất nhiên nó
sẽ vô cùng lâu dài và khó khăn, nhưng phải kiên trì.
Vấn đề cần thiết nữa là chúng ta phải tăng cường sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau với
Trung Quốc. Chúng ta muốn hòa bình, hòa hiếu, chỉ muốn giữ mảnh đất, vùng biển của
chúng ta theo điều luật quốc tế quy định, và chúng ta cần giữ được độc lập tự chủ về
đường lối.
Điểm cuối cùng là chúng ta cần quan tâm xây dựng quân đội tinh gọn, hiện đại. Không
trang bị vũ khí có tính chất tấn công mà chỉ mang tính tự vệ. Không tham gia các liên
minh quân sự. Đặc biệt không gây lo ngại cho bất kỳ quốc gia nào về đe dọa sử dụng vũ
lực. Vừa rồi chúng ta mua tàu ngầm, máy bay hoàn toàn là để phòng thủ.
Tóm lại, vấn đề đối ngoại hiện vẫ là một vấn đề khó khăn và nhức nhối đối với
Đảng và nhà nước ta. Nhưng hi vọng trong tương lai, nước nhà sẽ giải quyết một
cách êm đẹp các vấn đề bất cập hiện nay, trở thành một đất nước hòa bình, văn
minh, lịch sự và khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 10 năm 2011.


×