Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.95 KB, 127 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
----------------------------------

NGUYỄN TƯỜNG VI

thùc hiÖn ph¸p luËt vÒ quyÒn bµo ch÷a
cña bÞ can, bÞ c¸o ë ViÖt Nam
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

HÀ NỘI – 2009


...................
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
----------------

NGUYỄN TƯỜNG VI

“THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ
CAN, BỊ CÁO Ở VIỆT NAM”

Chuyên ngành

: Lý luận và lịch sử về Nhà nước và pháp luật



Mã số

: 6038.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Đoan

HÀ NỘI - 2009


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Tường Vi


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦUMỞ ĐẦU

Trang
164


Chương 1:. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO

6119

1.1

Khái niệm bị can, bị cáo và thực hiện pháp luật về quyền bào chữa

1.2
1.3

của bị can, bị cáo
6119
Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo
172220
Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị
can, bị cáo

242826

Chương 2:. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO Ở VIỆT NAM

333836

2.1

Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về


2.2

quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam
333836
Thực trạng thực hiện pháp luật liên quan đến quyền tự bào chữa

2.3

của bị can, bị cáo
455048
Thực trạng thực hiện pháp luật liên quan đến quyền bào chữa của

2.4

bị can, bị cáo thông qua người bào chữa
596563
Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện
pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo

889391

Chương 3:. QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN PHÁP VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ
CÁO Ở VIỆT NAM

3.1

Quan điểm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị

3.2


cáo ở Việt Nam hiện nay
Các giải pháp bảo đảm pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo

939896
939896
971021

KẾT LUẬN

00
112116

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

4
114118
6


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS


:

Bộ luật tố tụng hình sự

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

CQTHTT

:

Cơ quan tiến hành tố tụng

TAND

:

Tòa án nhân dân

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN


:

Xã hội chủ nghĩa


1


2
LỜI NÓI ĐẦUMỞ ĐẦU
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mở đầu Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Mọi
người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền thiêng liêng
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [568] và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” [568]. Tự do và bình đẳng
luôn là động lực của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, dù có biết bao nhiệm vụ
khó khăn cần giải quyết nhưng chính quyền dân chủ nhân dân rất quan tâm đến nhiệm
vụ bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân, trong đó có quyền bào chữa trước tòa
án. Ngày 10 tháng 10 năm 1945, Nhà nước ban hành Sắc lệnh quy định các tổ chức
đoàn thể luật sư và từ đó tới nay các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo được bổ sung ngày càng đầy đủ hơn.
Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo luôn được coi là nguyên tắc hiến
định, được thể hiện trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta. Đồng thời được coi là
nguyên tắc đặc thù của Luật tố tụng hình sự. Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 – Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước ta quy định: “Bị can, bị cáo có

quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ”
[539].
Quyền bào chữa trong Luật tố tụng hình sự năm 2003 được mở rộng cả đối
tượng và phạm vi các quyền, người bị tạm giữ cũng được bảo đảm quyền bào chữa.
Cùng với sự phát triển của pháp luật tố tụng hình sự, quyền bào chữa ngày càng được
tôn trọng và mở rộng hơn, đồng thời có những cơ chế bảo đảm cho bị can, bị cáo thực
hiện quyền này. Điều đó thể hiện bản chất dân chủ của pháp luật nước ta.
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo không chỉ là mối quan tâm của riêng bị
can, bị cáo hay gia đình họ và những người làm công tác bảo vệ pháp luật mà nó


3
còn là sự quan tâm của toàn xã hội. Chính vì lẽ đó, nên ngày 02/01/2002, Bộ Chính
trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08/NQTW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết
đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo như “bảo đảm tranh tụng với Luật sư, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác...” 1[12]. Tiếp đó, trong chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết 49/NQ-TW đã chỉ rõ “ … xác định rõ hơn
vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp”2[34]. Điều đó cũng phù hợp với chiến lược phát triển đất nước mà Đại hội
Đảng X đã chỉ ra rằng: “…xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…”[1512]”3 .
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, mặc dù pháp luật tố tụng hình sự đã quy định
tương đối đầy đủ và khá chặt chẽ, nhưng trong các vụ án hình sự quyền bào chữa của
bị can, bị cáo vẫn chưa được các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng thực sự tôn
trọng và bảo đảm thực hiện. Tình trạng vi phạm các quyền tố tụng của bị can, bị cáo
còn diễn ra phổ biến. Một số người tiến hành tố tụng còn chưa nhận thức được việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và minh oan cho người vô tội cũng quan

trọng như việc xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội. Ở giai đoạn điều tra, nhiều
điều tra viên cho rằng người bị tạm giữ không cần mời luật sư vì chưa cần thiết. Trong
quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra; truy tố đến giai đoạn xét xử, những người tiến
hành tố tụng thường chú ý đến việc không bỏ lọt tội phạm hơn là việc không làm oan
người vô tội và coi việc tham gia tố tụng của người bào chữa chỉ là để cho đủ thủ tục
mà thôi. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ quyền bào chữa của bị can,
bị cáo, dẫn đến tình trạng oan sai trong tố tụng.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài về quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, hạn chế tối đa tình trạng oan sai.
Với nhận thức trên, tác giả chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về quyền bào
1
2
3

Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương ĐSVN

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng cộng sản Việt Nam Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006,
trang 26.


4
chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, Trong khoa học luật Tố tụng hình sự đã có nhiều công trình đề cập
đến vấn đề quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. Trong số các công trình đó phải kể
đến Luận án Tiến sĩ luật học của Hoàng Thị Sơn: “Thực hiện quyền bào chữa của bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự” trong đó nội dung chính là những vấn đề lý luận về

quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự; phân tích thực tiễn thực hiện
quyền bào chữa của bị can, bị cáo để thấy được những tồn tại, vướng mắc để đề ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện
quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự; Ngô Ngọc Vân với luận văn
thạc sỹ về đề tài: “Vai trò của Luật sư bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”ự
trong đó đề cập đến những nội dung như: vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của Luật
sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; đánh giá thực trạng bảo đảm quyền bào chữa
của bị can, bị cáo trong giai đoạn này và đề ra các giải pháp nâng cao vai trò của Luật
sư bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; PGS.TS.LS. Phạm Hồng Hải với cuốn
sách “; Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội”, đây là cuốn sách chuyên khảo
về những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của người bị buộc tội trong các giai đoạn
của quá trình tố tụng; nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội; các giải pháp và kiến nghị nhằm
hoàn thiện chế định quyền bào chữa trong tố tụng hình sự nước ta; Luận án Thạc sĩ
của tác giả Nguyễn Thị Thu Thuỷ với đề tài: “Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ
quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam”... Những công trình nghiên cứu này
dù ở mức độ, phạm vi khác nhau đã thể hiện tương đối rõ nét vai trò của người bào
chữa khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự. Những đề xuất trong các công trình đó
rất có ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu, học tập và áp dụng trong thực tiễn.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu ở trên chủ yếu được các tác giả thực
hiện khi BLTTHS năm 2003 chưa được ban hành. Cho đến nay, sau hơn năm năm
thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, thực tiễn cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế
và vướng mắc trong việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Vì vậy, việc
nghiên cứu vấn đề này vẫn rất cần thiết để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền
bào chữa của bị can, bị cáo góp phần đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật; đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài


5

Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 được bắt đầu ngay từ khi có quyết định khởi tố bị can
hoặc quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, truy tố và xét xử. Tuy nhiên,
trong khả năng và điều kiện nghiên cứu của một luận văn cao học, tác giả tập trung
nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo từ khi có
quyết định khởi tố bị can, truy tố và xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về Nhà nước và pháp
luật.
Để làm sáng tỏ nội dung Đề tài nghiên cứu, trong luận văn tác giả đã sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử cùng các
phương pháp khoa học cụ thể như phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê,
khảo sát thực tiễn...
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những quy định của pháp luật về
quyền bào chữa của bị can, bị cáo, thực tiễn áp dụng và những bất cập làm cơ sở cho
việc đưa ra những đề xuất thiết thực nhằm tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền bào
chữa của bị can, bị cáo có hiệu quả tối đa.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ được đặt ra là:
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về thực hiện pháp luật liên quan đến
quyền bào chữa của bị can, bị cáo: khái niệm bị can, bị cáo; quyền bào chữa, ý nghĩa
của việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo.;
Tóm tắt quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về quyền bào chữa của
bị can, bị cáo ở Việt Nam.
Nghiên cứu các hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam.
Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can,
bị cáo ở Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc;
Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực

hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam hiện nay..
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn


6
Việc nghiên cứu đề tài có thể thu được các kết quả mới như sau:
Làm rõ các quy định của pháp luật ở Việt Nam về quyền bào chữa của bị can, bị
cáo.
Thông qua việc phân tích thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị
can, bị cáo ở Việt Namchỉ ra được những hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực
hiện.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can,
bị cáo; các giải pháp về hoàn thiện tổ chức bộ máy; các giải pháp về tổ chức thực hiện
pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3
chương, 9 tiết.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương 9 mục và danh
mục tài liệu tham khảo.
bao nhiêu mục.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO

1.1. KHÁI NIỆM BỊ CAN, BỊ CÁO VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO


1.1.1. Bị can, bị cáo và pháp luật về pháp luật về quyền bào chữa của bị
can, bị cáo
1.1.1.1. Bị can, bị cáo
1.1.1.1. Bị can, bị cáo
Con người luôn được coi là vốn quý của xã hội, được bảo vệ bằng các thiết chế
của nhà nước. Nước ta ngay từ khi mới giành được độc lập, chế định quyền con người
là một trong những văn bản đầu tiên được ban hành và sau đó quyền con người luôn
được ghi nhận trong các bản Hiến pháp và được các văn bản quy phạm pháp luật thể
chế hóa.
Bên cạnh việc bảo vệ quyền con người, thì việc đấu tranh phòng và chống tội
phạm là một vấn đề quan trọng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này một cách kiên
quyết, kịp thời, có hiệu quả, Quốc hội đã thông qua nhiều văn bản pháp luật quan
trọng, như Bộ luật hình sự quy định hành vi nào là nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm và phải chịu hình phạt; Bộ luật tố tụng hình sự quy định chặt chẽ về trình tự, thủ
tục các hoạt động tố tụng hình sự. Luật Tố tụng hình sự coi việc bảo vệ quyền con
người, quyền công dân là một trong những nguyên tắc đặc thù, “không ai bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật
[539]4. Như vậy, chừng nào chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật
thì người bị buộc tội vẫn được coi là chưa có tội. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng
không được đối xử với bị can, bị cáo - người bị buộc tội như người có tội.
Trong thực tế và pháp luật cũng thừa nhận không phải tất cả những người bị
buộc tội đều là có tội. Một người chỉ có thể bị khởi tố với tư cách bị can trong vụ án
hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Không ai có
thể bị coi là bị can nếu không có quyết định khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền.

4

Điều 9 – Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.



8
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự [539]. Khi một người bị khởi tố về hình sự
5

(khởi tố bị can), họ trở thành đối tượng buộc tội trong vụ án, nhưng điều đó không
đồng nghĩa với việc xác định họ là người có tội. Các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ
được phép tiến hành các biện pháp tố tụng nhất định đối với họ để xác định sự thật
(chứng minh tội phạm). Khi chứng minh tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng phải
xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ làm rõ chứng cứ xác
định có tội, chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm của bị can, bị cáo.
Bị can là khái niệm dùng để chỉ người đã bị khởi tố về hình sự và phải tham gia
tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với họ. Bị can tham gia vào giai đoạn
điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ
chấm dứt khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra; Viện kiểm sát đình chỉ vụ án; Tòa án
đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị can; hoặc Tòa án ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử (khi đó bị can trở thành bị cáo). Mặc dù bị can là người bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, nhưng với tư cách là chủ thể của hoạt động tố tụng hình sự,
họ luôn luôn được pháp luật tạo cho mọi khả năng để bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng cho mình. Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định về quyền của bị can rộng
mở hơn so với trước đây.
Trước hết bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì. Bị can phải được
biết tội danh mà họ bị khởi tố. Chỉ khi họ biết tội danh mà mình bị cơ quan có thẩm quyền
buộc tội thì họ mới có thể đưa ra những chứng cứ, lý lẽ phủ nhận việc buộc tội đó. Bị can
phải được giao nhận quyết định khởi tố bị can; trong trường hợp có sự thay đổi, bổ sung
quyết định khởi tố bị can cũng phải thông báo cho bị can biết.
Bị can có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Khi giao quyết định khởi
tố cho bị can, cơ quan điều tra phải giải thích cho bị cáo biết quyền và nghĩa vụ của họ,
để tạo điều kiện cho bị can thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ đó.
Bị can có quyền trình bày lời khai, đưa ra tài liệu, đồ vật và những yêu cầu. Đây

là quyền chứ không phải nghĩa vụ của bị can. Do đó, bị can không phải chịu trách
nhiệm hình sự về việc từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối. Ngược lại, thái độ khai
báo thành khẩn của bị can lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với

5

Điều 49- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.


9
họ . [539]. Bị can thường trình bày những tình tiết có lợi cho mình, nhằm chứng minh
6

mình vô tội hoặc phạm tội nhẹ hơn tội đã bị khởi tố, đưa ra nhưng tình tiết, lý do để
làm giảm trách nhiệm hình sự cho mình. Cơ quan điều tra cần tôn trọng quyền trình
bày lời khai của bị can để có thể xác định sự thật một cách khách quan, không phiến
diện, không được dùng những biện pháp trái pháp luật để buộc tội bị can phải khai báo,
điều đó là vi phạm quyền của bị can và có thể dẫn đến sai lầm trong kết quả điều tra.
Bị can có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng (điều tra viên, kiểm sát
viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án) nếu có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể
không vô tư trong khi làm nhiệm vụ, việc họ tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể
làm cho vụ án được giải quyết theo hướng không có lợi cho bị can. Các cơ quan tiến
hành tố tụng phải xem xét, giải quyết yêu cầu của bị can nếu đề nghị đó có căn cứ.
Bị can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Đảm bảo
quyền bào chữa của bị can, bị cáo được coi là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình
sự, thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm
cho công tác điều tra, truy tố, xét xử được khách quan, toàn diện, đầy đủ và ngăn ngừa
sự phiến diện, chủ quan trong những công tác đó.
Bị can có quyền tự bào chữa, bị can có thể dùng những lời lẽ và chứng cứ để gỡ
tội và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền bào chữa không chỉ là một

quyền độc lập, tách rời với các quyền khác của bị can, bị cáo mà có thể hiểu quyền bào
chữa là tổng hòa các quyền của bị can. Ngoài việc đưa ra những lý lẽ biện hộ cho mình
bị can còn thực hiện quyền bào chữa qua các quyền khác như quyền trình bày lời khai,
quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu ... Các quyền khác của bị can cũng nhằm
mục đích thực hiện việc gỡ tội và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị can. Việc quy định
quyền bào chữa của bị can nhằm mục đính nhấn mạnh quyền chống lại việc buộc tội,
quyền tự bảo vệ mình của bị can trước cơ quan tiến hành tố tụng.
Bị can có thể nhờ người khác bào chữa, trong trường hợp bị can là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn Luật sư cử người bào chữa cho họ, bị can và người
đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Các
cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và đảm bảo quyền bào chữa của bị can.
6

Điểm p khoản 1 Điều 46- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.


10
Ngoài ra, bị can còn có những quyền được quy định tại một số điều khoản khác
như: bị can có quyền được giao nhận bản sao quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn; được giao nhận bản kết luận điều tra sau khi kết thúc điều tra để
có thể kịp thời yêu cầu điều tra thêm về những vấn đề cần thiết; Bị can có quyền khiếu
nại các quyết định của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát…
Bên cạnh việc hưởng những quyền năng như trên, bị can cũng phải thực hiện
những nghĩa vụ nhất định như: có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án, trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị can có
thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị Cơ quan điều tra truy nã.
Trong tố tụng hình sự thì khái niệm bị can rộng hơn khái niệm bị cáo vì bất cứ
bị cáo nào cũng đã là bị can, nhưng không phải bị can nào cũng là bị cáo. Bị cáo tham
gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của

tòa án có hiệu lực pháp luật. Cũng như khái niệm bị can, bị cáo là khái niệm mang tính
hình thức, căn cứ vào văn kiện tố tụng được áp dụng đối với người đó, “Bị cáo là
người đã bị Tòa án quyết định đưa xét xử” [539]7. Một người sẽ trở thành bị cáo khi
bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, quyết định đó có thể đúng nhưng cũng có thể sai.
Vì vậy, khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm. Bị cáo
cũng không phải là người có tội, bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử,
họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật.
Do tính chất và nội dung của mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau nên những quyền
của bị can, bị cáo không hoàn toàn giống nhau. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự hiện hành thì bị cáo có các quyền:
Bị cáo được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định áp dụng thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định đình chỉ vụ án, bản án, quyết định của
Tòa án, các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quyền
được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyền quan trọng của bị cáo. Dựa vào nội
dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo biết được tội danh họ bị đưa ra xét xử,
thời gian, địa điểm mở phiên tòa, tên của những người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng, vật chứng cần xem xét tại phiên tòa… Trên cơ sở đó, họ mới
có thể thực hiện các quyền của mình như quyền tham gia phiên tòa, quyền đề nghị thay
đổi người tiến hành hoặc tham gia tố tụng, quyền yêu cầu xem xét thêm vật chứng mới
7

Khoản 1 Điều 50 – Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.


11
… và nhất là quyền được bào chữa. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho
bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Nếu không được đảm bảo quyền
này, bị cáo có quyền yêu cầu hoãn phiên tòa.
Bị cáo được giải thích quyền và nghĩa vụ: Chủ tọa phiên tòa phải giải thích
quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong thủ tục bắt đầu phiên tòa. Bị cáo cần phải được biết

họ có các quyền và nghĩa vụ gì để họ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó theo
đúng quy định của pháp luật.
Bị cáo được quyền tham gia phiên tòa để trình bày về mọi vấn đề nhằm bảo vệ
lợi ích hợp pháp của mình. Tại phiên tòa, bị cáo bình đẳng với Kiểm sát viên và những
người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu
và tranh luận dân chủ tại phiên tòa. Vì vậy, việc bị cáo có quyền tham gia phiên tòa sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho việc bị cáo thực hiện quyền bào chữa và bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án phải đảm bảo quyền bình đẳng trước Tòa án của
bị cáo và chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp luật định, những
trường hợp vắng mặt khác phải hoãn phiên tòa.
Trong tố tụng hình sự thì giai đoạn xét xử là giai đoạn quan trọng nhất, là trung
tâm của quá trình tố tụng. Các hoạt động tố tụng trước đó chỉ là những hoạt động nhằm
tạo điều kiện cho việc xét xử vụ án hình sự. Trong các trình tự, từ xét xử sơ thẩm đến
xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì trình tự xét xử sơ thẩm là trình tự bắt
buộc. Các trình tự khác có thể phát sinh, có thể không. Khi đó tội trạng của bị cáo sẽ
được xác định trong phiên tòa công khai với sự tham gia của các bên tố tụng. Thay mặt
nhà nước, Hội đồng xét xử quyết định những vấn đề quan trọng nhất của tố tụng hình
sự là xác định tội danh và quyết định áp dụng hình phạt đối với bị cáo dựa trên kết quả
tranh tụng tại phiên tòa. Chính vì vậy, thực hiện quyền bào chữa tại phiên tòa có thể
coi là một hành vi tố tụng quan trọng nhất trong số các hành vi tố tụng của bị cáo. Để
thực hiện quyền bào chữa của mình, bị cáo có thể đưa ra các tài liệu, đồ vật, yêu cầu
nhằm mục đích gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, hoặc cũng có thể bị cáo đưa ra
những yêu cầu như: triệu tập thêm người làm chứng; yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài
liệu ra xem xét; yêu cầu hoãn phiên tòa … Quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa có
thể do bị cáo tự thực hiện hoặc nhờ người bào chữa. Trong khi tranh luận, bị cáo ngang
quyền với những người tham gia tố tụng khác, có quyền đặt câu hỏi với người khác và


12

cũng có quyền trả lời đáp lại những câu hỏi của người khác đặt ra. Bị cáo có quyền
phản bác lại, đánh giá các tình tiết do đại diện Viện kiểm sát hoặc những người tham
gia tố tụng khác đưa ra. Nếu nhờ người bào chữa thì bị cáo có quyền bổ sung ý kiến
của mình. Tòa án phải tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo. Việc tôn trọng quyền bào
chữa của bị cáo không chỉ là đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo và
dân chủ trong tố tụng hình sự mà còn là đảm bảo quan trọng để xác định sự thật của vụ
án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhất.
Trong phiên tòa, sau khi phần tranh luận kết thúc, trước khi Hội đồng xét xử
quyết định các vấn đề của vụ án trong phòng nghị án, bị cáo được quyền nói lời sau
cùng. Quyền nói lời sau cùng của bị cáo là sự đảm bảo quan trọng của pháp luật để bị
cáo thực hiện quyền bào chữa của mình. Quyền nói lời sau cùng là quyền tố tụng đặc
biệt, chỉ bị cáo mới có. Những tình tiết do bị cáo đưa ra khi nói lời cuối cùng có ý
nghĩa pháp lý quan trọng và Hội đồng xét xử cần phải đánh giá, xem xét và trong một
số trường hợp nếu chúng có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án thì thậm chí vụ án phải
được giải quyết lại từ khâu xét hỏi tại phiên tòa. Khi bị cáo nói lời sau cùng, không ai
được đặt câu hỏi đối với bị cáo; bị cáo được tự mình trình bày về những điều liên quan
đến vụ án mà không bị hạn chế thời gian.
Ngoài ra, bị cáo còn có các quyền khác như: kháng cáo bản án, quyết định của
Tòa án; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. Cũng như bị can, bị cáo phải tuân thủ những nghĩa vụ nhất định: phải có
mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính
đáng thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
1.1.1.2.1.1.1.2. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo và pPháp luật về quyền bào
chữa của bị can, bị cáo
Pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quy phạm pháp
luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo bao gồm cả việc tự bào chữa và nhờ người
khác bào chữa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhà nước luôn tạo mọi khả năng và điều kiện
thuận lợi để đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân. Việc bảo đảm tự do dân
chủ và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân trong xã hội xã hội chủ nghĩa

không còn là những khẩu hiệu mang tính hình thức như trong các xã hội bóc lột trước
đây mà giờ đây, chẳng những nó đã được khẳng định trong các văn kiện của các Đảng


13
cộng sản, hiến pháp và pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa cùng hàng loạt văn
bản pháp luật của các tổ chức quốc tế mà còn được thực hiện sinh động trong thực tiễn.
Một trong các quyền tự do dân chủ của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa
là quyền được đưa ra những bằng chứng, chứng cứ chứng minh về sự không có lỗi
hoặc để làm giảm lỗi của họ trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự cũng là một trong những nội dung của quyền trên. Quyền bào
chữa thuộc về người bị buộc tội bởi lẽ trước khi bản án buộc tội có hiệu lực pháp luật,
người bị buộc tội không thể bị coi là người có tội, các quyền và lợi ích hợp pháp của
họ vẫn được pháp luật bảo đảm. Trong lịch sử của loài người tư tưởng trên đã xuất hiện
từ rất lâu. Hiến chương vì quyền tự do của nước Anh năm 1212 đã khẳng định “Không
người nào có thể bị bắt và bị bỏ tù hoặc bị tước tài sản nếu không có bản án của tòa án
được tuyên theo quy định của pháp luật” [5727].
Bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là nguyên tắc quan trọng của
luật tố tụng hình sự xã hội chủ nghĩa. Điều này có nghĩa là ngoài việc pháp luật quy
định quyền năng tố tụng của người bị buộc tội trước các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, pháp luật còn quy định các cơ quan nhà nước đó có nhiệm vụ tạo mọi khả năng
và điều kiện thuận lợi để họ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc thực
hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự chẳng những thể hiện
tính dân chủ mà còn thể hiện bản chất nhân đạo xã hội chủ nghĩa của hoạt động tư pháp
trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tại khoản 4 Điều 14 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà
Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 nêu rõ:
“Bị cáo được bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ pháp lý do mình chọn;
nếu chưa có sự giúp đỡ về pháp lý thì phải được thông báo về quyền này;
trong trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí cho người đó một

sự giúp đỡ về mặt pháp lý mà không phải trả tiền, nếu người đó không có
điều kiện trả”ả [5727].
Ở nước ta, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự
luôn luôn được coi là nguyên tắc hiến định, được thể chế hóa trong tất cả các bản Hiến
pháp 1946, 1959, 1980, 1992. Nguyên tắc này cũng đã được quy định cụ thể trong
Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và được bổ sung tại Điều 11 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003: “ Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền bào chữa hoặc nhờ


14
người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ”.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố vụ án đến điều tra,
truy tố, xét xử, việc bảo đảm quyền bào chữa của những người bị buộc tội là điều kiện
quan trọng nhằm bảo đảm cho công tác xử lý hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không để lọt tội phạm và không xử oan người vô tội.
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một trong những chế định quan trọng và
phức tạp, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Vấn đề này từ trước đến
nay đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Song xung quanh khái niệm, nội
dung, đối tượng của quyền bào chữa thì còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy, việc xác
định khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trên cơ sở lý luận và thực tiễn phù
hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nói riêng và pháp luật nói chung là cần
thiết nhằm không ngừng phát huy dân chủ, củng cố cơ sở pháp luật trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xung quanh khái niệm quyền bào chữa, hiện
nay có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyền bào chữa của bị can là tất cả các quyền
năng tố tụng mà pháp luật quy định cho bị can để bảo vệ mọi sự buộc tội và được bị
can sử dụng để bãi bỏ sự buộc tội, để đưa ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình.
Quan điểm về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự nêu trên được hiểu hoàn

toàn theo nghĩa hẹp và không chính xác. Mặc dù đồng tình với quan niệm quyền bào
chữa là quyền của bị can vì chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự thường chỉ xuất
hiện từ thời điểm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người cụ thể, nhưng trong tố
tụng hình sự khái niệm bị can chỉ tồn tại cho đến thời điểm trước khi tòa án ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Sau đó họ tham gia tố tụng với tư cách là bị cáo. Phải chăng từ khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử họ không có quyền bào chữa nữa hay sao. Thực tiễn cho
thấy, chính giai đoạn này quyền bào chữa của họ mới được thể hiện rõ nét nhất, vì họ được
bình đẳng, công khai đưa ra các chứng cứ; được tham gia tranh luận tại phiên tòa... để
thanh minh, bác bỏ lời buộc tội và bào chữa.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Trong tố tụng hình sự, bị can, người bị tình nghi
cũng như những công dân tham gia trong tố tụng với tư cách khác trong đó có cả người
bị hại đều cần có sự bảo vệ các lợi ích có thể bị xâm phạm.


15
Quan điểm này cho rằng quyền bào chữa thậm chí còn có cả trong trường hợp
mà ở đó không có sự buộc tội. Với quan điểm này, quyền bào chữa trong tố tụng hình
sự được hiểu không chính xác và quá rộng. Trong tố tụng hình sự chức năng gỡ tội
(bào chữa) chỉ xuất hiện khi có một người nào đó bị buộc tội, có thể nói buộc tội và gỡ
tội luôn luôn song hành hay chỉ khi nào có sự buộc tội thì chức năng gỡ tội mới xuất
hiện. Trong tố tụng hình sự, chỉ có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải đối diện với sự
buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng còn những người tham gia tố tụng khác khi
quyền lợi của họ bị xâm hại thì họ được pháp luật bảo vệ nhưng họ không có quyền
bào chữa.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hòa
các hành vi tố tụng do người bị tam giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên
cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự
buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm của
mình trong vụ án hình sự.
Quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn thuộc về những người

tham gia tố tụng khác nữa như người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, nếu hiểu
quyền bào chữa như vậy là quá rộng, không hoàn đúng với nghĩa bào chữa trong tố
tụng hình sự.
Ngoài những quan điểm rất khác nhau như trên về Quyền bào chữa của bị can,
bị cáo, trong Bộ luật tố tụng hình sự của các nước khác nhau cũng có những quy định
khác nhau về chủ thể của Quyền bào chữa. Cụ thể là:
Bộ luật tố tụng hình sự của Sài Gòn trước đây quy định: "Trong giai đoạn điều
tra sơ vấn, nghi can bị bắt giữ hoặc bị điều tra phải được cho biết ngay là phạm tội gì
và có quyền được luật sư dự kiến" (Điều 38).
Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định: "Người bào chữa được tham
gia tố tụng từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp người bị tình
nghi thực hiện tội phạm bị tạm giữ hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trước
khi khởi tố bị can thì từ khi nhận được biên bản về việc bắt hoặc quyết định áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giam" (Điều 47).
Khoản 1, Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 quy định: "Người
bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong những trường hợp cần phải giữ
bí mật điều tra đối với các tội

xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện


16
kiểm sát nhân dân quyết định để Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều
tra".
Còn tại Khoản 1, Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 (Bộ luật
hiện hành) quy định: người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong
trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang hoặc đang bị
truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong những
trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ

khi kết thúc điều tra.
Như vậy, hiện nay khái niệm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được hiểu
rất khác nhau và thực tế nó cũng được quy định khác nhau trong Bộ luật tố tụng hình
sự của các nước. Tuy nhiên, quan điểm của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay
về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được coi là đầy đủ nhất. Điều 11, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có
nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của
họ theo quy định của Bộ luật này”. Khác với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cho
rằng quyền bào chữa là quyền của bị can và bị cáo, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành
đã mở rộng đối tượng và phạm vi sử dụng quyền bào chữa, cụ thể: người bào chữa
được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can; đối với trường hợp bắt người trong trường
hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia
tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Không chỉ bị can, bị cáo phải đối diện với tội
danh mà các cơ quan tiến hành tố tụng truy tố mà người bị tạm giữ cũng phải đối diện
với khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bản thân họ đã bị hạn chế về quyền tự do
của công dân trong một thời gian dài và đối diện với nguy cơ bị buộc tội, vì vậy luật tố
tụng hình sự quy định cho họ có quyền bào chữa là hoàn toàn phù hợp.
Để bị can, bị cáo có điều kiện thực hiện quyền bào chữa của mình, pháp luật cho
phép họ được hưởng những quyền năng tố tụng nhất định quy định tại các điều luật
khác liên quan của Bộ luật tố tụng hình sự. Đó là những quyền mà bị can, bị cáo được
phép sử dụng để bảo vệ mình như quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu, quyền
được tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa v.v... Những quy định về quyền này
thực chất là tạo điều kiện để bị can, bị cáo sử dụng để bảo vệ mình trước cơ quan tiến


17
hành tố tụng khi bị buộc tội. Điều này có nghĩa là bị can, bị cáo có thể thanh minh, bác
bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội hoặc đưa ra những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
cho mình.

Buộc tội và bào chữa song song tồn tại, ở đâu có buộc tội thì ở đó có bào chữa.
Bị can, bị cáo có quyền bào chữa vì họ là những người bị buộc tội. Những người tham
gia tố tụng khác không phải là đối tượng của sự buộc tội, thì vấn đề bào chữa không
đặt ra đối với họ. Tuy nhiên, khi tham gia tố tụng, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của
họ bị xâm hại thì họ cũng có quyền bảo vệ bằng những biện pháp theo quy định của
pháp luật, nhưng đó không phải là hoạt động bào chữa. Như vậy, quyền bào chữa của
bị can, bị cáo hoàn toàn khác với quyền bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
những người tham gia tố tụng khác.
Vậy, quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy
định, cho phép bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự
buộc tội và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được quy định khá sớm trong pháp luật nước
ta. Hiến pháp - luật gốc của các đạo luật ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên đã ghi nhận
về quyền bào chữa của người bị cáo tại phiên tòa và nó ngày càng được hoàn thiện hơn
trong các Hiến pháp sau này. Trong BLTTHS, quyền bào chữa của bị can, bị cáo được
tiếp tục phát triển và nâng lên tầm cao mới, không những quyền bào chữa được ghi
nhận là 1 nguyên tắc của luật tố tụng hình sự mà BLTTHS còn quy định nghĩa vụ cảu
của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện
quyền bào chữa của họ.
Bị can, bị cáo có thể tự mình thực hiện quyền bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa. Các tổ chức luật sư được thành lập đã góp phần giúp bị can, bị cáo thực hiện
quyền bào chữa của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng - bên buộc tội. Pháp lệnh
luật sư, sau đó là Luật Luật sư đã quy định chi tiết điều kiện để trở thành người bào
chữa cho bị can, bị cáo, quy định trình tự, thủ tục để luật sư tham gia các hoạt động tố
tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo.
1.2. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO

Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
tổng thể các quy phạm pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo. CHÚNG
BAO GỒM NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT Ở ĐÂU?



18
1.2.*/1. Khái niệm và đặc điểm của của việc thực hiện pháp luật về quyền
bào chữa của bị can, bị cáo
Thực hiện pháp luật theo nghĩa chung nhất là hiện thực hóa các quy định của
pháp luật vào cuộc sống thông qua các hoạt động có mục đích của các chủ thể pháp
luật. Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là hoạt động có mục
đích của các chủ thể đặc biệt nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật về quyền
bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
Bị can, bị cáo là người bị buộc tội, họ đứng trước nguy cơ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; phải gánh chịu hình phạt do hành vi vi phạm pháp luật hình sự của
mình gây nên. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, pháp luật đã
quy định cho họ có quyền bào chữa nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Bị can, bị cáo có thể tự mình sử dụng quyền bào chữa để bào chữa cho mình
hoặc có thể ủy quyền cho người khác (nhờ người bào chữa) thực hiện thay mình quyền
bào chữa.
Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo có những đặc điểm sau:
- Về chủ thể thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Người tham gia tố tụng hình sự có thể là người bị tam giữ, bị can, bị cáo,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan… họ cũng có
quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, luật tố tụng hình sự chỉ trao quyền
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (người bị buộc tội) mà không trao quyền
này cho nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vì
những người bị buộc tội đang phải đối mặt với nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, phải gánh chịu hình phạt do hành vi vi phạm pháp luật của mình gây nên, họ có thể
bị hạn chế quyền nhân thân (bị tạm giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú…) trong khi đó những
người tham gia tố tụng khác không bị hạn chế quyền nhân thân và cũng không phải
đối mặt với nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là quyền đặc trưng của người bị buộc tội
(người bị tạm giữ, bị can, bị cáo). Bị can, bị cáo có thể tự mình thực hiện quyền bào
chữa trong tố tụng hình sự, song cũng có thể ủy quyền cho người khác thực hiện thay
cho mình. Vì vậy, chủ thể thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng hình sự có thể là bị


19
can, bị cáo hoặc người bào chữa (luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp
pháp của bị can, bị cáo).
Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo có thể là: bố mẹ đẻ, anh chị em ruột
và những người khác theo quy định của pháp luật. Những người này có quyền tham gia
tố tụng với tư cách là người bào chữa để minh oan, bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo. Tuy nhiên hiệu quả bào chữa của người đại diện
hợp pháp không cao, nguyên nhân chủ yếu là do trình độ nhận thức pháp luật còn hạn
chế nên họ không thể am hiểu những thủ tục tố tụng như luật sư bào chữa chuyên
nghiệp được.
Luật sư là người am hiểu về pháp luật, tham gia tố tụng theo sự ủy quyền của bị
can, bị cáo để bảo vệ các quyền và lợi ích cho họ. Luật sư có toàn quyền tham gia tố
tụng nghiên cứu hồ sơ vụ án, tiếp xúc với thân chủ, áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ… theo quy định của pháp luật. Bằng nghiệp vụ của mình, luật sư tư vấn pháp
lý cho thân chủ hoặc bảo vệ quyền lợi cho thân chủ thông qua hoạt động bào chữa
trước tòa.
Bào chữa viên nhân dân là người có hiểu biết pháp luật, đại diện cho cơ quan,
đơn vị, địa phương nơi bị cáo học tập, làm việc hay sinh sống, tham gia phiên tòa với
tư cách đảm bảo sự công bằng, giám sát hoạt động xét xử của tòa án, tránh làm oan
người vô tội.
- Về nội dung của việc thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là hoạt động hợp pháp
của các chủ thể pháp luật. Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho bị can, bị cáo các
quyền năng tố tụng nhất định để họ có thể trực tiếp sử dụng hoặc ủy quyền cho người

khác thực hiện nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho mình.
Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là hoạt động vô cùng
quan trọng trong tố tụng hình sự. Một mặt, nó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo. Mặt khác, thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là động
lực giúp các cơ quan tiến hành tố tụng thận trọng hơn trong công việc, tránh được sai
lầm, thiếu sót trong các giai đoạn tiến hành tố tụng.
Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo có thể do nhiều chủ
thể khác nhau tiến hành theo những cách thức khác nhau. Thực hiện quyền bào chữa


20
của bị can, bị cáo có thể do chính bị can, bị cáo chủ động thực hiện, song cũng có thể
do người bào chữa thực hiện thông qua hai hình thức: do bị can, bị cáo ủy quyền cho
người bào chữa; hoặc cũng có thể do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật sư
cử người bào chữa trong các trường hợp do luật quy định: khi bị can, bị cáo là người
chưa thành niên, hoặc bị can, bị cáo có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần.
- Về hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Nhằm đối trọng lại với sự buộc tội của viện kiểm sát, bị can, bị cáo được pháp
luật trao cho quyền bào chữa, họ có thể trực tiếp sử dụng những quyền năng đó hoặc ủy
quyền cho người khác nhằm tìm ra sự thực khách quan; xác định mức độ lỗi của hành vi;
nguyên nhân và hoàn cảnh phạm tội… để bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc
tìm ra những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình.
Khi một người bị tạm giữ; bị khởi tố về hình sự với tư cách bị can; hoặc có
quyết định đưa ra xét xử với tư cách bị cáo, họ được giải thích về quyền và nghĩa vụ
trong đó có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Mặc dù được pháp luật
tố tụng hình sự trao cho quyền bào chữa nhưng bị can, bị cáo hoàn toàn có quyền quyết
định sử dụng hay không sử dụng quyền năng đó.
Để thực hiện quyền tự bào chữa, pháp luật quy định bị can, bị cáo có một số
quyền năng tố tụng nhất định: quyền biết mình bị khởi tố về tội gì; đưa ra chứng cứ, tài

liệu và những yêu cầu; được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; người giám
định, người phiên dịch; được giao nhận quyết định khởi tố; quyết định đưa vụ án ra xét
xử; quyền được tranh tụng tại phiên tòa; quyền được nói lời cuối cùng… Trong giai
đoạn điều tra, thu thập chứng cứ, để đảm bảo quyền bào chữa của bị can, pháp luật quy
định cho bị can được tham gia vào một số hoạt động: khám nghiệm hiện trường, thực
nghiệm điều tra. Khi tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo
và quyền bào chữa của họ vẫn tiếp tục được đảm bảo thực hiện bằng những quy định
của BLTTHS.
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo cũng có thể được thực hiện thông qua người
bào chữa, người bào chữa có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp
pháp của bị can, bị cáo. Người bào chữa tham gia tố tụng có thể do bị can, bị cáo ủy
quyền hoặc do cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý.
Hiện quả của hoạt động tự bào chữa của bị can, bị cáo rất thấp do hạn chế về trình độ
hiểu biết pháp luật, khả năng trình bày trước đám đông của bị can, bị cáo, nên việc nhờ
người bào chữa đang là xu hướng lựa chọn chung hiện nay của các bị can, bị cáo.


×