Tải bản đầy đủ (.pdf) (407 trang)

Thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 407 trang )


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ -HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ -HÀNH CHÍNH KHU VỰC I
*****************





BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ PHÂN CẤP NĂM 2009





THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP






Cơ quan chủ trì: Khoa Nhà nước và Pháp luật
Chủ nhiệm đề tài: TS Đỗ Trung Hiếu
Thư ký đề tài: Ths Vũ Ngọc Hà





7942


HÀ NỘI 2009

Danh sách cộng tác viên tham gia đề tài

1. TS Đỗ Trung Hiếu Học viện Chính trị Hành chính khu vực I
2 .TS Dơng Nguyệt Nga Đại học Kinh tế quốc dân
3. TS Đỗ Nhất Hoàng Bộ kế hoạch và đầu t
4. TS Trơng Thị Kim Dung Đại học Luật Hà Nội
5. Ths Đồng Ngọc Dám Học viện Chính trị Hành chính khu vực I
6. Ths Trần Anh Dũng Sở kế hoạch và đầu t Nam Định
7. Ths Nguyễn Nam Đình Sở Kế hoạch và đầu t Nghệ An
8. Ths Vũ Ngọc Hà Học viện Chính trị Hành chính khu vực I
9. Ths Vũ Văn Cơng Đại học Luật Hà Nội
10. Ths Trần Hoàng Hng Bộ T Pháp
11. Ths Lê Minh Thắng Học viện Chính trị Hành chính khu vực I
12. Ths Lê Hải Vân Bộ Kế hoạch và đầu t
13. Ths Nguyễn Thị Vĩnh Học viện Chính trị Hành chính khu vực I
14.CN Phạm Tuấn Anh Bộ Kế hoạch và đầu t

MC LC



Trang
mở đầu
1

Chơng 1. cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật khuyến khích
đầu t trực tiếp nớc ngoài Và KINH NGHIệM THU HúT ĐầU TƯ trực tiếp
nớc ngoài ở MộT Số NƯớC



8
1.1. Mt s khỏi nim liờn quan
8
1.2. S cn thit phi thc hin phỏp lut khuyn khớch u t
trc tip nc ngoi


20
1.3. Nhng m bo phỏp lý cho vic thc hin phỏp lut khuyn
khớch u t trc tip nc ngoi.


26
1.4.Kinh nghim thu hỳt u t trc tip nc ngoi mt s
nc trờn th gii


33
Chơng 2. Thực trạng thực hiện pháp luật khuyến khích đầu t trực
tiếp nớc ngoài ở Việt Nam



46

2.1. H thng quy phm phỏp lut v khuyn khớch u t trc
tip nc ngoi Vit Nam


46
2.2. Kt qu thc hin phỏp lut v khuyn khớch u t trc tip
nc ngoi Vit Nam .


54
2.3. Nhng khú khn, vng mc trong thc hin phỏp lut
khuyn khớch u t trc tip nc ngoi Vit Nam.


64
2.4. Nhng vn t ra t thc tin thc hin phỏp lut khuyn
khớch u t trc tip nc ngoi Vit Nam


80
Chơng 3. Định hớng và Những giải pháp đảm bảo thực hiện hiệu quả
pháp luật khuyến khích đầu t trực tiếp nớc ngoài ở Việt Nam



96
3.1. Những định hớng chủ yếu trong thực hiện pháp luật về
khuyến khích u t trc tip nc ngoi Vit Nam



96
3.2. Những giải pháp chủ yếu đảm bảo thực hiện hiệu quả hiện
pháp luật về khuyến khích đầu t trực tiếp nớc ngoài ở Việt Nam


101
Kết luận
133
Danh mục tài liệu tham khảo
135
PH LC
140

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, việc thu hút đầu tư đang trở thành mối quan tâm hàng đầu
của nhiều nước nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế mỗi quốc gia trong công
cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực
đầu tư trước hết thể hiện ở luật pháp. Đối với mọi quốc gia, Luật Đầ
u tư là
một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là cái mà tất cả nhà đầu tư quan
tâm. Nhà nước với vai trò thiết kế và quản lý mọi mặt đời sống xã hội đã sử
dụng pháp luật – một công cụ rất hữu hiệu để thống nhất và định hướng hoạt
động đầu tư. Hoàn thiện pháp luật, tạo môi trường đầu tư có sứ
c hút mạnh
mẽ là mối quan tâm của mọi quốc gia.
Tuy nhiên, pháp luật dù hoàn thiện như thế nào đi nữa mà không được
thực hiện có hiệu quả thì không thể đem lại những gì tốt đẹp mà chủ thể ban
hành mong muốn, không đem lại lợi ích cho xã hội, thậm chí là ngược lại.

Thực hiện pháp luật là sự tiếp nối xây dựng pháp luật, là quá trình hiện thực
hoá pháp luật, làm bộc lộ và phát huy những giá tr
ị tiềm năng của pháp luật
trong thực tế, là thực tiễn sinh động kiểm nghiệm chất lượng xây dựng pháp
luật. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, Nhà nước luôn quan tâm
đến vấn đề thực hiện pháp luật trong đó có thực hiện pháp luật khuyến khích
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, việc thực hiện pháp luật khuyến
khích đầ
u tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã đạt được những kết quả
đáng kể. Các biện pháp khuyến khích đầu tư về thuế đặc biệt là theo ngành
và lĩnh vực đã bước đầu phát huy tốt hiệu quả định hướng đầu tư. Các chính
sách ưu đãi hướng về xuất khẩu nhìn chung đã phát huy tác dụng tốt, góp
phần quan trọng trong việc nâng tổng kim ngạch xuấ
t khẩu, các dự án sản
xuất kinh doanh, kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh chóng qua các thời kỳ.
Vấn đề bảo vệ môi trường cũng được các doanh nghiệp quan tâm; thủ tục

2
đầu tư đã và đang tiếp tục được thực hiện theo hướng chuyển dần sang cơ
chế một cửa, mở rộng phân cấp, uỷ quyền cấp phép đầu tư. Nhờ đó, các thủ
tục hành chính, nhất là các thủ tục triển khai sau giấy phép đã được đơn giản
hơn, nhiều vướng mắc của doanh nghiệp đã được phát hiện và xử lý kịp th
ời,
môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện từng bước. Nhìn chung, các
cơ quan quản lý đầu tư đã thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với
đầu tư. Trong chỉ đạo và điều hành đã kịp thời ban hành các chính sách thích
hợp theo quy định chung, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tháo gỡ
các khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.
So v

ới các năm đầu tiên thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các
cơ quan quản lý, cấp phép địa phương đến nay đã có những bước tiến đáng
kể trong hoàn thiện và nâng cao năng lực quản lý nhà nước của mình. Công
tác quản lý đầu tư đã dần đi vào nề nếp.
Tuy nhiên, thực trạng thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài cũng cho thấy nh
ững tồn tại cần được khắc phục như: Các
văn bản pháp luật về khuyến khích đầu tư quá phức tạp, kém chất lượng, gây
khó khăn trong việc thực hiện cho cả cơ quan nhà nước và các nhà đầu tư;
một số chính sách thuế, tài chính và ưu đãi đầu tư không phát huy tác dụng
trên thực tế; cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý; pháp luật đầu tư quy định nhiề
u
biện pháp ưu đãi đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn
nhưng trên thực tế, việc thu hút đầu tư vào các lĩnh vực này còn nhiều hạn
chế, các biện pháp khuyến khích đầu tư chưa thực sự phát huy vai trò định
hướng thu hút đầu tư; trong một số trường hợp, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền can thiệp sâu vào quyền tự do quyết định đầu tư củ
a nhà đầu tư nước
ngoài; việc bảo đảm quyền và lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài được quy
định trong giấy phép đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật được thực
hiện chưa nhất quán.
Vì vậy, để thực hiện chủ trương mà Đại hội toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã đề ra là: “Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xoá bỏ


3
các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác
và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước
và thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài”.
1

, việc đánh giá
thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện một cách có hiệu quả pháp
luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam hiện nay là hết sức
cần thiết và mang tính thời sự. Đây là lý do thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu đề
tài: Thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Pháp luật và thực thi pháp luật về khuyến khích đầu tư là một vấn đề
khá mới mẻ đối với Việt Nam, chỉ với hơn 20 năm đi vào cuộc sống, còn
đang ở trong giai đoạn thử nghiệm để hoàn chỉnh dần. Kinh nghiệm lập pháp
cũng như thực thi pháp luật trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế nên đang

được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, đã có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề pháp luật và thực thi pháp luật về
khuyến khích đầu tư như :
Nghiên cứu thực nghiệm ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh
nghiệp cho các doanh nghiệp tư nhân hiện nay của Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004. Kết quả chủ yếu của công trình này là
những đánh giá về việc thực hiện các ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh
nghiệp trong các doanh nghiệp tư nhân. Dựa trên kết quả nghiên cứu của
công trình, chúng ta có được những luận cứ khoa học cho việc thực hiện ưu
đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp – một trong các nội dung của biện
pháp đầu tư về thuế. Như vậy, công trình này không những chư
a đưa ra
những đánh giá toàn diện về việc thực hiện biện pháp ưu đãi đàu tư về thuế
mà còn chưa nghiên cứu việc thực hiện các biện pháp ưu đãi đầu tư khác.

1
. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, tr. 238.



4
Chuyên đề tổng kết các ưu đãi đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao của Lê Tuyển Cử và Nguyễn Thị Thanh Hà năm
2004. Mặc dù, công trình đã nghiên cứu khá toàn diện về việc thực hiện các
ưu đãi đầu tư nhưng lại chỉ giới hạn trong các khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao trong khi đó pháp luật ưu đãi đầu tư không chỉ được
th
ực hiện trong các các khu vực này mà được thực hiện ở không gian rất
rộng.
Tổng kết 17 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài của Bộ kế
hoạch và đầu tư năm 2005. Có thể thấy, đây là công trình nghiên cứu khá
công phu, tương đối sâu sắc về thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Tuy nhiên, cơ sở pháp luậ
t của những đánh giá
trong công trình này lại là các văn bản pháp luật đã được ban hành ở thời
điểm trước đây( Trước khi có Luật Đầu tư năm 2005). Những kiến giải của
công trình mới chỉ nhằm phục vụ cho việc ban hành Luật đầu tư năm 2005.
Luật đầu tư năm 2005 ra đời đã khắc phục hàng loạt những bất cập của các
văn b
ản trước đó. Vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu,đánh giá về mức độ
hiện thực hoá các quy định của pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài hiện hành và hiệu quả của nó trong đời sống thực tiễn, làm cơ sở cho
việc đưa ra các giải pháp tiếp tục thực hiện.
Tổng kết 9 năm thực hiện Luật khuyến khích đầu tư
trong nước của
Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2005. Công trình đã đi sâu nghiên cứu và đánh
giá những thành tựu và yếu kém trong thực hiện pháp luật đầu tư. Kết quả
nghiên cứu của công trình đã đưa ra cái nhìn tổng quan về các yếu tố tạo nên

hiệu quả thực hiện pháp luật nhưng lại chỉ đánh giá hiệu quả thực hiện pháp
luật khuyến khích đầ
u tư ở trong nước và trên cơ sở Luật Khuyến khích đầu
tư trong nước.
Báo cáo của Chuyên gia Quốc tế và Chuyên gia Việt Nam về hướng
dẫn thi hành Luật Đầu tư tháng 07 năm 2006. Công trình đã tổng hợp các

5
ý kiến của các chuyên gia trong nước và quốc tế về hướng dẫn thi hành Luật
Đầu tư. Tuy nhiên, những ý kiến này chỉ dừng lại ở việc nêu ra những nội
dung của Luật đầu tư cần chủ yếu cho việc ban hành Nghị định hướng dẫn
thi hành Luật đầu tư mà thôi. Công trình chưa quan tâm sâu sắc đến việc đưa
ra các giải pháp để hiện thực hoá các quy định đó.
Đánh giá 6 tháng thi hành Lu
ật đầu tư của Viện Quản lý kinh tế
Trung ương năm 2007. Công trình này đã đánh giá khá toàn diện về thực
hiện luật đầu tư nhưng chỉ mới đánh giá ở một giai đoạn rất ngắn(6 tháng) và
ở thời điểm mà Luật đầu tư mới vừa có hiệu lực, bắt đầu đưa vào thực hiện –
một giai đoạn có nhi
ều khó khăn khách quan, ảnh hưởng không nhỏ tới thực
hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Một năm thi hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư: Mặt được,
chưa được và việc cần làm, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 15/2007; Thực
hiện Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp: Nhìn từ góc độ cải cách thể chế,
Tạp chí Quản lý kinh tế, số 19/2008 c
ủa Thạc sỹ. Nguyễn Đình Cung. Tác
giả đã đánh giá những mặt được, chưa được của công tác thực hiện pháp luật
đầu tư nói chung, từ đó đánh giá những bất cập nhìn từ góc độ thể chế. Tuy
nhiên, công trình này mới chỉ tập trung đánh giá những hạn chế nhìn từ góc
độ thể chế chưa đi vào các yếu tố bộ máy, trình đọ dân trí Mặt khác, Công

trình cũng ch
ỉ mới đánh giá việc thực hiện pháp luật trong một thời gian rất
ngắn và chưa đi sâu vào đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi đó, thực hiện
pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải được đánh giá
một cách sâu sắc và toàn diện.
Luật đầu tư năm 2005 - Một số vấn đề bất cập của Thạc sỹ.
Đoàn
Trung Kiên, Tạp chí Luật học số 5/2008. Công trình đã chỉ ra những bất cập
của Luật đầu tư năm 2005, một trong những khó khăn của việc thực hiện
pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Tuy nhiên,

6
hiu qu thc hin phỏp lut khụng ch ph thuc vo thc trng phỏp lut
m cũn ph thuc vo nhiu yu t khỏc.
Nh vy, cỏc cụng trỡnh nghiờn cu nờu trờn ó tip cn vn thc
hin phỏp lut khuyn khớch u t trc tip nc ngoi nhng phm vi v
mc khỏc nhau, cho n nay cha cú mt cụng trỡnh no i sõu vo
nghiờn cu mt cỏch cú h thng,
ng b, gn vi vic kho sỏt thc tin,
nht l sau khi cú Lut u t nm 2005.
3. Mc tiờu nghiờn cu ti:
Mc tiờu nghiờn cu:
ỏnh giỏ thc trng thc hin phỏp lut khuyn khớch u t trc tip
nc ngoi Vit Nam trong thi gian qua, t ú xut nhng gii phỏp
nhm gii quyt nhng vn bc xỳc m thc ti
n t ra, m bo thc
hin mt cỏch cú hiu qu phỏp lut khuyn khớch u t trc tip nc
ngoi Vit Nam.
t c mc tiờu trờn, ti cú nhim v sau:
- H thng hoỏ mt s vn lý lun c bn v thc hin phỏp lut

khuyn khớch u t trực tiếp nớc ngoài .
- Phõn tớch, ỏnh giỏ khỏch quan, khoa hc v thc hin phỏp lu
t
khuyn khớch u t trực tiếp nớc ngoài nc ta thi gian qua; khỏi quỏt
thnh tu, kt qu t c cng nh ch ra nhng yu kộm, tn ti v
nguyờn nhõn.
-Khỏi quỏt nhng quan im, nh hng c bn ca ng, Nh nc
v thc thi phỏp lut khuyn khớch u t trực tiếp nớc ngoài; ng thi
xut nhng gii phỏp c th, cú tớnh kh
thi nhm thực thi một cách có hiệu
quả pháp luật khuyến khích đầu t trực tiếp nớc ngoài trong thi k y
mnh cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ v hi nhp kinh t quc t ở Việt Nam.

7
4. Nội dung của đề tài
Đề tài nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc thực hiện pháp luật
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, gồm các nội
dung sau:
1. Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật khuyến khích
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2. Thực trạng thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trự
c
tiếp nước ngoài ở Việt Nam
3. Định hướng và những giải pháp đảm bảo thực hiện hiệu quả
pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài vận dụng lý luận và phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước để phân tích, đánh giá và giải quyết các vấ
n đề.

- Ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp,
phương pháp chuyên gia, tổng kết thực tiễn và một số sơ đồ minh hoạ các số
liệu cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài :
- Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung luận cứ khoa học cho
chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam trong những năm tớ
i; trực
tiếp phục vụ việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật đầu tư.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc thực hiện pháp luật
về đầu tư trước mắt cũng như trong tương lai.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học
tập liên quan tới xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế.

8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT KHUYẾN
KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KINH NGHIỆM
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở MỘT SỐ NƯỚC

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.1.1.Khái niệm pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Với những cách tiếp cận khác nhau, có nhiều định nghĩa khác nhau
về đầu tư. Tuy nhiên, định nghĩa về đầu tư được thừa nhận về mặt pháp lý ở
Việt nam là định nghĩa trong Điều 3 của Luật đầu tư năm 2005. Theo luật
này, “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các lo
ại tài sản hữu hình hoặc
vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định
của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Có nhiều cách phân loại đầu tư nhưng dựa vào tính chất đầu tư, người
ta có thể chia đầu tư thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Trong đó, đầu

tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ v
ốn đầu tư và tham gia quản
lý hoạt động đầu tư. Với hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư thường kiểm
soát hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp có vốn đầu tư của mình. Đầu tư trực tiếp mang theo sự đồng bộ về
nguồn lực của đối tác kinh doanh( vốn, kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, khả
n
ăng cung ứng vốn và năng lực maketing) nên tạo ra nhiều nghành nghề mới
và thúc đẩy sự phát triển của tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Nếu dựa vào nguồn gốc đầu tư, chúng ta có thể chia đầu tư thành hai
loại : Đầu tư trong nước và đầu tư ngoài nước. Theo định nghiã tại Điều 3
Luật đầu tư 2005 của Việt Nam : “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư
nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến
hành hoạt động đầu tư ”.

9
Như vậy, có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI = Foreign Direct
Investment) là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư và tham gia quản
lý hoạt động đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam dưới các hình thức: 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; liên
doanh; hợ
p đồng BCC, BTO và BT ; đầu tư phát triển kinh doanh; mua cổ
phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; sáp nhập và mua
lại doanh nghiệp…
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề tăng nhanh vốn đầu tư và tăng liên tục
tốc độ tăng trưởng kinh tế là một vấn đề sống còn của dân tộc. Khuyến khích
đầu tư trong nước đồng thời thu hút vốn đầu tư nướ
c ngoài như hai dòng

chảy vào một con kênh, tạo nguồn lực cho đất nước trong hiện tại và những
năm sắp tới. Về lâu dài thì nguồn lực bên trong sẽ tăng dần và trở thành chủ
đạo. Nhưng trước mắt, trong khi nguồn lực bên trong còn có hạn, hơn nữa lại
chưa tạo ra được môi trường đầu tư để huy động tối đa nguồn lực đó, thì
nguồn lực bên ngoài lại chi
ếm tỷ lệ lớn và đáp ứng được những dự án đầu tư
quan trọng nhất. Vì vậy, Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới
đều xây dựng một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài hấp dẫn theo
xu hướng xoá bỏ dần những rào cản bất lợi trong việc dịch chuyển vốn đầu
tư.
Khuyến khích đầu tư là hệ thố
ng các chính sách, biện pháp ưu đãi đầu
tư của Nhà nước nhằm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài
nước hoặc định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định.
Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực khuyến khích đầu tư dưới nhiều hình thức phong phú, đa
dạng với nội dung ngày càng trở nên phức tạp. Để đả
m bảo cho hoạt động
đầu tư và hệ thống các biện pháp, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển
theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo quyền lợi và sự bình đẳng trong

10
quỏ trỡnh u t, cỏc bin phỏp khuyn khớch u t khụng th tn ti di
dng cỏc quan h xó hi bỡnh thng m cn phi cú s iu chnh ca Phỏp
lut. Di s tỏc ng ca cỏc quy phm phỏp lut, Nh nc qun lý v
hng cỏc hot ng u t v u ói u t theo nh hng ca mỡnh. Do
ú, phỏp lut khuyn khớch u t trong
ú cú u t trc tip nc ngoi
ra i.
Phỏp lut khuyn khớch u t trc tip nc ngoi l h thng

nhng quy phm phỏp lut, to nhng iu kin thun li nht m mi
quc gia cú th dnh cho nh u t nc ngoi nhm thu hỳt vn u t
v trờn c s ú to ra li th so sỏnh vi cỏc nc khỏc.
Chớnh ph cỏc nc ó s
dng nhiu bin phỏp khuyn khớch u t
trong cỏc quy nh phỏp lut. Vit Nam, thỳc y u t trong phm vi
ton b nn kinh t v hng u t vo mt s a bn, lnh vc u tiờn
phỏt trin, cỏc bin phỏp khuyn khớch u t trong ú cú u t trc tip
nc ngoi c quy nh nhiu vn bn phỏp lý t Hin phỏp n cỏc
o
lut v cỏc vn bn di lut, th hin tp trung nht l trong Lut u t,
Lut t ai, Lut xõy dng, cỏc Lut Thu v cỏc vn bn hng dn thi
hnh.
Nhỡn chung cỏc bin phỏp khuyến khích u t c quy nh trong
pháp luật bao gm cỏc các biện pháp u đãi đầu t và cỏc biện pháp hỗ trợ
đầu t. Trong ú, cỏc bin phỏp u ói u t gm u ói v thu v u ói
khỏc v
ti chớnh. Mc tiờu chớnh ca cỏc u ói thu l nhm gim bt gỏnh
nng v thu thc s v nõng cao t l thu hi vn i vi u t m ỏng k
l quy nh min mt phn hoc ton b Thu thu nhp doanh nghip thụng
thng. Cỏc u ói v thu khỏc l vic min thu nhp khu, hon thu
nhp khu, khu hao nhanh, cỏc khon kh
u tr c th, gim thu i vi
u t v tỏi u t v cỏc khon khu tr i vi úng gúp an ninh xó hi.
Cỏc u ói khỏc v ti chớnh bao gm vic cung cp vn cho cỏc cụng ty

11
tài trợ cho các dự án đầu tư mới hoặc thanh toán vốn và các chi phí hoạt
động, chuyển lỗ trong kinh doanh, khấu hao tài sản, ưu đãi về sử dụng
đất…Hộ trợ đầu tư là những biện pháp tích cực chủ động về phía nhà nước

nhằm giúp đỡ các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Các biện pháp này thường
được áp dụng trong trường hợp xảy ra những khó khăn, những bất lợi, những
r
ủi ro đối với nhà đầu tư trong những dự án, những lĩnh vực, những địa bàn
mà Chính phủ khuyến khích đầu tư. Các biện pháp này bao gồm cơ sở hạ
tầng được bao cấp, các dịch vụ được bao cấp, hỗ trợ về thủ tục hành chính,
hỗ trợ chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ thông tin…
Pháp luật về khuyến khích đầu tư củ
a các nước OECD nói chung
không phân biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước trong việc thiết
kế và thực hiện các ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, các nước đang phát triển
thường phân biệt có lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, một phần là do
định hướng thực tiễn đầu tư, muốn thu hút đầu tư nước ngoài được nhiều hơn
do sự thiếu vốn để công nghiệp hóa và m
ột phần là do chi phí tài chính phải
trả nếu giành cho tất cả các nhà đầu tư.
Trong khi pháp luật về ưu đãi đầu tư có thể hợp lý đối với một nước
cụ thể thì cuộc cạnh tranh thu hút FDI đã dẫn đến pháp luật về ưu đãi đầu tư
nói chung là tương tự giữa các nước. Kết quả là một số lợi ích của đầu tư
đang được chuyể
n từ lợi ích của nhà nước chủ nhà sang các công ty đa quốc
gia dưới hình thức các nhân nhượng về thuế và các khoản bao cấp, và điều
này làm giảm nguồn lợi đối với nhà nước chủ nhà.
1.1.2. Khái niệm chung về thực hiện pháp luật
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng song sinh. Nhà nước ban
hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai
cấp thố
ng trị, đồng thời duy trì trật tự xã hội. Pháp luật với các đặc trưng của
nó, trở thành công cụ hữu hiệu nhất để nhà nước quản lý xã hội. Tuy nhiên,


12
pháp luật chỉ thực sự có giá trị khi nó được thực hiện trong đời sống thực
tiễn.
Vấn đề thực hiện pháp luật luôn được các nhà nước quan tâm cả trên
phương diện nghiên cứu lý luận và phương diện tổ chức thực tiễn. Trên
phương diện lý luận, thực hiện pháp luật là nội dung trọng tâm của khoa học
pháp lý. Vấn đề là ở chỗ những quy phạm pháp luậ
t được nhà nước ban hành
để điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác lập trật tự xã hội, cho dù có sức mạnh
cưỡng chế, thậm chí bằng cả những chế tài tàn khốc cũng không thể tự mình
đi vào cuộc sống. Pháp luật được ban hành nếu chỉ “đọng” lại trên các văn
bản thì chỉ là pháp luật ở trạng thái “tĩnh”, vấn đề quan trọng là pháp luật
phải trở thành chế độ
pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; trở thành phương thức quản
lý xã hội, quản lý nhà nước,cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời
sống cộng đồng. Thực hiện pháp luật là một hiện tượng mang tính lịch sử,
thể hiện ra là một quá trình hết sức phức tạp nhằm thực hi
ện hóa các giá trị
của pháp luật. Và cũng vì thế, trước đây cũng như hiện nay trong khoa học
pháp lý khái niệm thực hiện pháp luật vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm, nhận
thức và cách thức giải thích khác nhau, đáng chú ý là các quan niệm sau:
- Có quan điểm cho rằng “ Thực hiện pháp luật là hành vi hành động
hoặc không hành động của con người phù hợp với những quy định của pháp
luật. Nói khác đi, tất c
ả những hoạt động nào của con người, của các tổ
chức mà thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì đều được coi là
biểu hiện của việc thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật”
2


- Quan điểm thứ hai cho rằng “ Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá
trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt
động thực tế của các chủ thể pháp luật”
3
.

2
Trường Đại học Luật Hà Nội (2004),Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội
3
Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật(2007), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, Tr.396

13
- Lại có quan điểm coi “ Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt
động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực
trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể
pháp luật”
4
.
Các quan niệm trên đều tương đối đồng nhất về nội dung, đó là:
Khẳng định thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm là cho các
quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Sự khác nhau
trong các quan niệm là không cơ bản, chỉ ở chỗ coi thực hiện pháp luật là
một quá trình hay là một hiện tượng xã hội, song đều hướng đến mục đích
chung là hành vi h
ợp pháp của đối tượng thực hiện pháp luật.
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc tăng cường pháp chế, coi
trọng việc thực hiện pháp luật, củng cố trật tự pháp luật và kỷ cương nhà
nước. Những quan điểm tư tưởng trên về thực hiện pháp luật đã được Hiến

pháp- luật cơ bản của Nhà nước nghi nhận như một nguyên t
ắc cơ bản trong
tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội. Điều 12 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi,
bổ sung một số điều năm 2001) quy định: “ Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân phả
i nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật. Mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể
và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”
Từ việc nghiên cứu những quan điểm trên có thể rút ra khái niệm về
thực hiện pháp luật như sau: Thực hiện pháp luật là toàn bộ quá trình được
diễn ra theo một cơ chế chặt chẽ, trong đó các cá nhân, tổ ch
ức thực hiện
các hành vi phù hợp với ý chí của nhà nước được thể hiện trong pháp luật
về từng lĩnh vực cụ thể mà cá nhân, tổ chức đó chịu tác động điều chỉnh.

4
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật(2004), Giáo trình lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Tr 162

14
Dưới góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành
vi đó không trái, không vượt quá phạm vi quy định của pháp luật, phù hợp
với quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho nhà nước, cho cá nhân.
Tuy nhiên, đó chỉ là cách nhìn nhận chung, chưa cụ thể. Pháp luật gồm rất
nhiều các quy phạm khác nhau về nội dung, về cách thức, phương pháp điều
chỉnh. Vì thế, với mỗi loại quy phạm đòi hỏi phả
i có cách thức thực hiện phù
hợp; có thể đó là các xử sự chủ động (hành động) nhằm đạt được mục đích

luật định, như sử dụng quyền hay làm nghĩa vụ pháp lý; có thể là cách xử sự
thụ động (không hành động), là kiềm chế không làm những điều mà pháp
luật cấm.
Vì vậy, hành vi hợp pháp rất đa dạng, được thực hiện tùy thuộc vào ý
chí mỗi cá nhân, vào ý chí c
ủa nhà nước. Hành vi hợp pháp có thể được thực
hiện trên cơ sở nhận thức sâu sắc của chủ thể về sự cần thiết phải xử sự theo
pháp luật, và do vậy nó là hành vi tự giác, tích cực. Cũng có thể hành vi hợp
pháp được thực hiện thụ động, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau,
trong khi chủ thể thực hiện pháp luật chưa hoặc không nhận thứ
c được đầy
đủ tại sao phải làm như vậy. Cũng có thể có những hành vi hợp pháp được
thực hiện do kết quả của việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước
hoặc do sợ bị trừng phạt.
Những trường hợp trên đều cho thấy thực hiện pháp luật là quá trình
hiện thực hóa pháp luật; quá trình này diễn ra với nhiều hình thức khác nhau,
tùy thuộc vào tính chất các quy phạm pháp luậ
t, vào yêu cầu của các chủ thể,
và vào vị trí, vai trò của các chủ thể đó trong xã hội, đối với Nhà nước. Căn
cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý xác
định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
Thứ nhất, hình thức tuân thủ pháp luật.
Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật thụ động, trong đó
các chủ thể pháp luật kiềm ch
ế không tiến hành những hoạt động mà pháp

15
luật ngăn cấm. Xét về tính chất, các quy phạm pháp luật do nhà nước ban
hành được phân chia thành nhiều loại khác nhau, trong đó có quy phạm
mệnh lệnh buộc chủ thể phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi

nào đó. Về hình thức, những quy phạm này có thể không mổ tả cụ thể hành
vi, nhưng quy định rõ các chế tài sẽ được áp dụng khi chủ thể vi phạm.
Trong thực tế lậ
p pháp, các quy phạm mệnh lệnh được Nhà nước sử dụng
phổ biến trong lĩnh vực hình sự, hành chính, hoặc trong pháp luật về các lĩnh
vực chuyên ngành.
Thứ hai, hình thức thi hành hay chấp hành pháp luật.
Thi hành hay chấp hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật
trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng
hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật quy định nghĩa vụ của chủ

thể phải thực hiện hành vi tích cực được quy định ở rất nhiều lĩnh vực khác
nhau. Ví dụ, pháp luật quy định cá nhân, tổ chức kinh doanh phải nộp thuế.
Khi tổ chức, cá nhân kinh doanh đó thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cũng tức là
họ đã thực hiện pháp luật dưới hình thức chấp hành pháp luật.
Thứ ba, hình thức sử dụng pháp luật.
Sử dụ
ng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể, tức là thực hiện những hành vi mà
pháp luật cho phép. Những quy phạm pháp luật quy định quyền và tự do dân
chủ của công dân được thực hiện ở hình thức này.
Hình thức sử dụng pháp luật có đặc điểm là chủ thể pháp luật có thể
thực hiện hoặc không thực hiệ
n quyền được pháp luật cho phép theo ý chí
của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật quy định
công dân có quyền tự do kinh doanh. Nếu một công dân đầu tư vốn thành lập
doanh nghiệp và thực hiện hoạt động kinh doanh, tức là công dân đó đã sử
dụng pháp luật (quyền được kinh doanh của mình). Hoặc công dân đó mặc
dù có đủ các điều kiện để thực hiện hoạt động kinh doanh theo quy đị
nh của


16
pháp luật nhưng họ không tham gia kinh doanh tức là công dân đó không sử
dụng pháp luật, và cũng không vì thế mà phát sinh trách nhiệm pháp lý.
Thứ tư, hình thức áp dụng pháp luật.
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước
thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các
chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật; hoặc tự mình căn cứ vào
các quy định của pháp luậ
t để ban hành các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trường
hợp này, các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự
can thiệp của nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt, theo quy định
của pháp luật, một số tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể quần chúng cũng có
thể th
ực hiện hoạt động áp dụng pháp luật theo sự ủy quyền của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật luôn gắn liền với việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước với hoạt động quản
lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, áp dụng pháp
luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiệ
n quyền lực nhà nước; được thực
hiện theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định; điều chỉnh
cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội xác định; đòi hỏi tính sáng tạo.
1.1.3 Khái niệm thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Pháp luật chỉ phát huy hiệu lực, hiệu quả khi nó được thực hiện trong
đời sống th
ực tiễn. Vì vậy, có một hệ thống pháp luật về khuyến khích đầu tư
trực tiếp nước ngoài hoàn thiện cũng không có nghĩa là Nhà nước thực hiện
được việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài,
thu hút được các nguồn lực nước ngoài, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước. Muốn phát huy vai trò đó của pháp lu
ật khuyến
khích đầu tư trực tiếp nước ngoài đòi hỏi Nhà nước phải xác lập được cơ
chế, quy trình nhờ đó tác động lên ý thức, hành vi của chủ thể pháp luật quan
hệ đầu tư nước ngoài, làm cho các chủ thể này thực hiện đúng đắn, chính xác

17
những yêu cầu, đòi hỏi mà các quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài đề ra.
Do vậy, có thể quan niệm thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài là quá trình hoạt động có mục đích, theo một cơ chế và
quy trình chặt chẽ nhờ đó các chủ thể đầu tư nước ngoài thực hiện các
hành vi phù hợp với yêu cầu của các quy phạm pháp luậ
t khuyến khích
đầu tư trực tiếp nước ngoài, đảm bảo cho pháp luật khuyến khích đầu tư
trực tiếp nước ngoài trở thành hiện thực trong cuộc sống.
Thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài là thực
hiện pháp luật về một lĩnh vực cụ thể, do đó, ngoài những đặc điểm chung
của thực hiện pháp luật, việc th
ực hiện lĩnh vực pháp luật này còn có những
đặc điểm riêng. Đó là những đặc điểm quy định bởi những đặc điểm của hoạt
động đầu tư nước ngoài. Có thể phân tích một số đặc điểm riêng biệt đó của
thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Một là, tính phức tạp và liên ngành trong th
ực hiện pháp luật về
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các quy phạm pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài rất
rộng, được quy định ở nhiều văn bản khác nhau, thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, với thứ bậc về hiệu lực pháp lý khác nhau. Mặc
khác, lĩnh vực pháp luật này liên quan đến nhiều loại chủ th
ể khác nhau

trong xã hội, từ cơ quan hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước đến các tổ
chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, các cá nhân, liên quan đến không chỉ
chủ thể trong nước mà còn chi phối nhiều chủ thể có yếu tố nước ngòai. Tính
phức tạp của các quy phạm pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài quy định tính phức tạp trong thực thi. Khi thực hiện pháp luật
đầu tư
nước ngoài, các chủ thể đầu tư nước ngoài không chỉ thực hiện các quy
phạm pháp luật của pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà
còn phải thực hiện các quy phạm của nhiều ngành luật khác có liên quan.
Điều này có lý do bởi pháp luật đầu tư nước ngoài có tính hệ thống, tính mở,

18
có mối liên quan và sự giao thoa, tương tác với nhiều lĩnh vực pháp luật
khác, như lĩnh vực pháp luật về tổ chức nhà nước, về kinh tế, tư pháp quốc
tế, dân sự, lao động, đất đai…
Chính vì có tính liên quan chặt chẽ như vậy mà mục đích điều chỉnh
của pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ có thể đạt được
đầy
đủ, toàn vẹn khi đồng thời có sự thực hiện tốt các quy phạm của pháp
luật đầu tư trong mối quan hệ với lĩnh vực pháp luật lao động do lĩnh vực
này pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài không có quy phạm
riêng điều chỉnh. Vì thế, để xác lập và thực hiện các quan hệ lao động trong
đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải thực hiện các quy phạm
được quy định trong
Bộ luật Lao động và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan. Tương
tự như vậy, trong các mối quan hệ về thuế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài cũng như các doanh nghiệp khác khi đi vào hoạt động phải có
nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước; có thể được hưởng các ưu đãi về thuế.
Pháp luật đầu tư nước ngoài chỉ quy định các trường h
ợp được miễn, giảm ,

đồng thời chỉ quy định các loại thuế có tính chất đặc thù mà doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài phải nộp, như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển
lợi nhuận ra nước ngoài, thuế nhập khẩu…Để có thể thực hiện các quy định
về ưu đãi thuế khi thực hiện hoạt động đầu tư, các chủ thể phải thực hiệ
n
cùng với các quy định trong các văn bản quy định về chức năng, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đặc biệt, trong
mối quan hệ với pháp luật đất đai, nhiều quy định của pháp luật đất đai là bộ
phận quan trọng của pháp luật đầu tư nước ngoài, và là cơ sở pháp lý trực
tiếp giải quyết các quan hệ phát sinh trong lĩ
nh vực sử dụng đất của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong trường hợp các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài bị tuyên bố phá sản, các quy phạm pháp luật là cơ
sở pháp lý trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giải
quyết phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu lại thuộc Luật
phá sản và các văn bản quy định cụ
thể, hướng dẫn thực hiện Luật này….

19
Đặc điểm về tính liên ngành trong thực hiện pháp luật về khuyến
khích đầu tư trực tiếp nước ngoài đặt ra các yêu cầu cần phải đáp ứng. Đó là:
1) Phải đảm bảo tính đồng bộ, liên thông giữa các quy phạm pháp luật về
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài với các quy phạm thuộc các lĩnh
vực khác; 2) Đòi hỏi các cơ quan nhà nước thực thi pháp luật, cả
chủ thể đầu
tư nước ngoài và các doanh nghiệp Việt Nam phải am hiểu pháp luật, nhất là
các lĩnh vực pháp luật trực tiếp liên quan, các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên có liên quan
Hai là, thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên cơ sở nguyên tắc về tính ưu trội của các quy định trong các điều

ước quốc tế và quy định về gi
ải quyết xung đột pháp luật.
Trong quá trình thực hiện chính sách mở cửa, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, Nhà nước Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia nhiều điều ước quốc
tế có liên quan đến đầu tư nước ngoài, ký kết các hiệp định song phương với
nhiều nước để khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chính vì vậy,
các quy định về đầu t
ư nước ngoài trong nhiều điều ước quốc tế được coi là
một bộ phận quan trọng của pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài của một quốc gia. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nếu điều
ước quốc tế có quy định khác với quy định của Luật trong nước thì áp dụng
các quy định của điều ước quốc tế. Nh
ư vậy, trong trường hợp này các cơ
quan có thẩm quyền phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định cho phù hợp
với các quy định của điều ước quốc tế, trường hợp có xung đột pháp luật
trong việc điều chỉnh các quan hệ đầu tư nước ngoài thì phải áp dụng các
biện pháp giải quyết xung đột pháp luật đã được quy định trong các điều ước
qu
ốc tế.
Ba là, việc thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, trong đó có chủ thể là nhà đầu
tư nước ngoài. Đó là những cá nhân có quốc tịch của một nhà nước khác,

20
được nhà nước và hệ thống pháp luật mà cá nhân có quốc tịch của nhà nước
đó bảo hộ. Ngoài các hoạt động kinh doanh, các chủ thể là nhà đầu tư nước
ngoài còn tham gia vào các giao dịch xã hội khác như những công dân Việt
Nam. Trong những trường hợp xảy ra xung đột pháp luật giữa hai hệ thống
pháp luật Việt Nam và hệ thống pháp luật mà nhà đầu tư có quốc tịch, hoặc
trong các giao dịch mà chủ thể đầu tư

vi phạm thì cũng có thể ảnh hưởng đến
việc thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt
khác, sự phong phú và khác biệt về văn hóa, truyền thống của các quốc gia,
vũng lãnh thổ trên thế giới cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực thi
pháp luật.
1.2 SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
* Trong bất kỳ chế độ nhà nước nào, khi đề ra pháp luật, các nhà nước
đều mong muốn và dùng mọi biện pháp để pháp luật đó được thi hành. Thực
hiện pháp luật cũng do chính đòi hỏi của xã hội nhằm xác lập trật tự xã hội,
từ đó bảo đảm được an ninh xã hội, an sinh cho các thành viên, đặt nền móng
cho sự phát triển xã hội.
Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, những yêu cầu khách quan trên của
vi
ệc bảo đảm thực hiện pháp luật – do bản chất của pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà có đặc thù riêng, đó là:
- Việc thực hiện pháp luật trở thành đòi hỏi chung, thống nhất của cả
xã hội, cả nhà nước, của từng công dân, trở thành nghĩa vụ pháp lý và đạo lý
của mỗi người dân. Nói cách khác, việc thực hiện pháp luật mang tính xã hội
sâu sắc, tính tự giác và chủ động cao của t
ừng thành viên xã hội.
- Việc thực hiện pháp luật gắn liền với việc xây dựng một xã hội với
đầy đủ những đặc trưng của một hình thái kinh tế - xã hội mới xã hội xã hội
chủ nghĩa, trong đó con người là chủ thể và làm chủ, với ý thức của người
làm chủ, ý thức pháp luật cao. Như vậy, yêu cầu đảm bảo thực hiện pháp

21
luật, trong đó có pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài thể
hiện như một tất yếu của mối quan hệ hữu cơ giữa cá nhân và xã hội; sự phát
triển của xã hội và cá nhân gắn liền chặt chẽ với nhau, phù hợp định hướng

điều chỉnh chung của pháp luật. Trật tự pháp luật của xã hội là do chính các
chủ thể trong xã hộ
i bằng hành vi hợp pháp của mình tạo lập ra và để đảm
bảo cho sự phát triển của chính mình.
- Yêu cầu khách quan bảo đảm thực hiện pháp luật trong nhà nước xã
hội chủ nghĩa còn do nhu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Yêu cầu khách quan này phản ánh mối quan hệ hữu cơ giữa người thực hiện
được pháp luật hay không trước hết phụ thuộc vào chất lượng pháp luật;
pháp luật phả
i là một hệ thống hoàn thiện, thể hiện chính xác ý chí của nhân
dân, với đầy đủ các thuộc tính của hệ thống hiện đại, mang đậm bản sắc
truyền thống văn hóa của dân tộc. Như vậy, yêu cầu này chỉ đạt được khi
công tác xây dựng pháp luật phải phản ánh chính xác những nhu cầu điều
chỉnh pháp luật của xã hội, của nhà nước mà những nhu cầu này chỉ có thể
phát hiện ra qua thực tiễn thực hiện pháp luật. Thực tiễn thực hiện pháp luật
cũng là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chất lượng pháp luật, chất lượng xây dựng
pháp luật. Trên cơ sở thực trạng mà phát hiện ra những mâu thuẫn, chồng
chéo, những điểm không còn phù hợp trong chính sách và pháp luật, từ đó
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế khách quan. Đồng thời, cũng trên

sở đánh giá đúng thực trạng thực hiện pháp luật mà phát hiện ra những
nhu cầu điều chỉnh mới của pháp luật để kịp thời xây dựng và ban hành pháp
luật. Nếu không có những khảo sát, đánh giá từ thực tiễn cuộc sống thì
không thể có cơ sở khoa học và thực tiễn xác đáng để xây dựng và thực hiện
pháp luật, không phát huy được vai trò của nó trong cuộc sống.
* T
ừ những yêu cầu chung mang tính khái quát trên, đối chiếu với bối
cảnh lịch sử của giai đoạn hiện nay của cách mạng Việt Nam, và từ vị trí, vai
trò của pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ những điều
kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa hết sức đặc thù của Việt Nam, có thể


22
phân tích một số yêu cầu khách quan của việc bảo đảm thực hiện pháp luật
về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam như sau:
Một là, thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài
nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước về đầu tư.
Hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý
đầu tư nói riêng là
chức năng quan trọng của Nhà nước. Sự quản lý hoạt động đầu tư, đặc biệt là
các biện pháp khuyến khích đầu tư bằng pháp luật trong điều kiện phát triển
kinh tế của Việt nam hiện nay là hoàn toàn cần thiết. Mặt khác, quản lý nhà
nước đối với hoạt động đầu tư trên cơ sở pháp luật là xu thế chung của hầu
hết các nước trên th
ế giới.
Các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư được đặt ra nhằm mục
đích thu hút các nhà đầu tư đầu tư nguồn vốn của họ vào các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh cụ thể. Song, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
đầu tư, đòi hỏi Nhà nước phải có những đầu tư theo một trật tự có định
hướng, đảm bảo đầy đủ các quy
ền và lợi ích cho các nhà đầu tư là nội dung
quan trọng của quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư. Với các đặc trưng
của pháp luật, hầu hết các nhà nước thường cụ thể hoá các nghị quyết, chủ
trương, đường lối thành pháp luật và đảm bảo thực hiện. Nếu không có một
hành lang pháp lý cụ thể, Nhà nước không thể phát huy hết quyền lực và vai
trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực
đầu tư.
Nếu như trong thời kỳ quản lý tập trung, các quan hệ đầu tư diễn ra hết
sức tẻ nhạt và theo kiểu cơ chế “ Xin cho”, nguồn vốn đầu tư rất nhỏ thì
trong nền kinh tế thị trường, với một cơ chế thông thoáng, các chủ thể là các
nhà đầu tư nước ngoài xuất hiện, hệ thống các chính sách liên quan đến đầu

tư ngày càng cởi mở đã làm cho môi tr
ường đầu tư dần nóng lên và ngày
càng sôi động. Sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư trong một “sân chơi” với
những nội dung cạnh tranh phức tạp đòi hỏi các nhà quản lý cần phải có
phương tiện để điều khiển các “Cuộc chơi” hướng các hoạt động đầu tư theo

×