Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

đề cương nghiên cứu ứng dụng một số chủng vsv hữu ích để xử lý chất lót chuồng nuôi gia cầm làm ô nhiễm môi trường từ các trang trại chăn nuôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.63 KB, 26 trang )

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

ĐỀ CƯƠNG

Tên đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng một số chủng VSV hữu ích để xử lý chất lót
chuồng nuôi gia cầm làm giảm ô nhiễm môi trường từ các trại chăn nuôi”

Học viên: Hoàng Thị Dung
Lớp: Sinh học K15
Luận văn cao học ngành: Vi sinh vật
Mã số: 60 42 40
Người hướng dẫn: PGS.TS. Tăng Thị Chính

Hà Nội, 2013


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế ở nước ta, vấn đề ô
nhiễm môi trường trở thành vấn đề cấp thiết hiện nay. Một trong những nguồn chất
thải gây ô nhiễm môi trường là từ chăn nuôi. Ngành chăn nuôi ở nước ta những
năm gần đây đã và đang phát triển nhanh chóng về cả chất lượng và quy mô. Tuy
nhiên, việc quản lý và sử dụng các nguồn chất thải trong chăn nuôi còn nhiều bất
cập. Do chỉ tập trung đầu tư nâng cao năng suất và chất lượng vật nuôi, phần lớn
các trang trại chưa chú trọng đến công tác kiểm soát, quản lý chất thải nên làm phát
sinh dịch bệnh, tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng và ảnh hưởng trực tiếp đến
việc phát triển bền vững của ngành chăn nuôi. Một số trang trại lớn đã có những
biện pháp xử lý nguồn chất thải chăn nuôi, bên cạnh đó một số trang trại chưa quan
tâm đến việc xử lý nguồn chât thải và đặc biệt trong chăn nuôi nhỏ lẻ hộ gia đình
việc xử lý chất thải hầu như còn bị thả nổi. Một trong những nguyên nhân là do
người chăn nuôi chưa hiểu rõ tầm quan trọng của việc xử lý nguồn chất thải; kinh


phí phục vụ cho việc xử lý chất thải còn thấp; luật xử lý chất thải còn chưa đồng bộ
và khó áp dụng; chăn nuôi nhỏ lẻ cũng là một trong những nguyên nhân làm việc
quản lý và xử lý chất thải còn gặp nhiều khó khăn;… Đây là một trong các nguyên
nhân gây ô nhiễm môi trường và lây truyền các dịch bệnh cho người, vật nuôi và
cây trồng.
Hiện nay, ngành chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang có chiều
hướng phát triển cả về số lượng và chất lượng đàn gia súc, gia cầm. Qua khảo sát
thực tế tại các trang trại chăn nuôi gia cầm ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc
cho thấy, mùi hôi thối trong chuồng trại chăn nuôi và khu vực xung quanh gây khó
chịu cho sinh hoạt của người dân thường ngày, nguyên nhân chủ yếu là do các khí
NH3, H2S phát sinh trong quá trình chăn nuôi, kéo theo đó là lượng ruồi nhặng cũng
xuất hiện ngày càng nhiều. Một thực tế nữa là chất thải chăn nuôi là nguồn vi sinh
vật gây bệnh cho người và vật nuôi như: E.coli, Coliform, Salmonella, Nấm mốc
… nhưng chưa được quan tâm xử lý. Đây là nguyên nhân gây ra các bệnh dịch cho

2


người và vật nuôi khi đổ thải vào môi trường [8]. Vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta
phải tìm ra giải pháp làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường do chăn nuôi gia cầm gây
ra mà không ảnh hưởng đến vật nuôi, không làm xáo trộn gà đang đẻ. Phương pháp
phải đơn giản, dễ áp dụng cho bà con nông dân và chi phí rẻ hơn so với các phương
pháp mà các hộ chăn nuôi đang áp dụng. Đứng trước những yêu cầu trên chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng một số chủng VSV hữu ích để
xử lý chất lót chuồng nuôi gia cầm làm giảm ô nhiễm môi trường từ các trại chăn
nuôi”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Tuyển chọn được bộ chủng vi sinh vật thuộc nhóm an toàn, sinh trưởng
mạnh, cạnh tranh được với VSV trong chất thải, chuyển hóa nhanh các hợp chất
hữu cơ và ức chế hiệu quả các vi khuẩn gây bệnh, gây thối, làm giảm ô nhiễm

môi trường từ chất thải chăn nuôi gia cầm.
- Tạo được chế phẩm VSV để xử lý chất thải chăn nuôi gia cầm thành phân
hữu cơ góp phần phát triển nông nghiệp an toàn và bền vững.
3. Nội dung nghiên cứu của đề tài
- Tuyển chọn một số chủng vi sinh vật có khả năng phân giải các hợp chất
hữu cơ và sinh chất ức chế một số vi sinh vật gây bệnh từ bộ chủng vi sinh vật của
phòng Vi sinh vật môi trường – Viện Công nghệ môi trường.
- Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và sinh
enzym của các chủng vi sinh vật tuyển chọn.
- Nghiên cứu hoạt tính đối kháng của chủng vi khuẩn Lactobacillus.
- Nghiên cứu sản xuất chế phẩm vi sinh vật xử lý chất thải trong chăn nuôi
gia cầm.
- Đánh giá tác dụng chế phẩm vi sinh vật trong xử lý chất thải chăn nuôi gia
cầm tại huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc.

Chương I
3


TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Hiện trạng chăn nuôi gà ở Thế giới và Việt Nam
1.1.1. Hiện trạng chăn nuôi gà trên thế giới [16]
Lương thực, thực phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề sống còn của
nhân loại. Ngày nay nông nghiệp có vai trò quan trọng cung cấp lương thực và các
loại thực phẩm nuôi sống cả nhân loại trên trái đất. Ngành chăn nuôi không chỉ có
vai trò cung cấp thịt, trứng, sữa là các thực phẩm cơ bản cho dân số của cả hành
tinh mà còn góp phần đa dạng nguồn gen và đa dạng sinh học trên trái đất.
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Nông lương thế giới - FAO năm 2009 số
lượng đầu gia súc và gia cầm chính của thế giới như sau: Tổng đàn trâu 182,2 triệu
con và trâu phân bố chủ yếu ở các nước Châu Á, tổng đàn bò 1.164,8 triệu con, dê

591,7 triệu con, cừu 847,7 triệu con, lợn 887,5 triệu con, gà 14.191,1 triệu con và
tổng đàn vịt là 1.008,3 triệu con...
Tốc độ tăng về số lượng vật nuôi của thế giới trong thời gian vừa qua thường
chỉ đạt trên dưới 1% năm. Về chăn nuôi gà số một là Trung Quốc với 4702,2 triệu
con, thứ hai là Indonesia với 1341,7 triệu con, thứ ba là Brazin với 1205,0 triệu
con, thứ tư là Ấn Độ với 613 triệu con và thứ năm Iran với 513 triệu con.
Về số lượng vật nuôi của thế giới, các nước Trung quốc, Hoa kỳ, Ấn Độ,
Brazin, Indonesia, Đức là những cường quốc, trong khi đó Việt Nam cũng là nước
có tên tuổi về chăn nuôi: đứng thứ 2 về số lượng vịt, thứ 4 về heo, thứ 6 về số
lượng trâu và thứ 13 về số lượng gà.
Phương thức chăn nuôi hiện nay của các nước trên thế giới có ba hình thức
cơ bản đó là: i) Chăn nuôi quy mô công nghiệp thâm canh công nghệ cao ii) Chăn
nuôi trang trại bán thâm canh và iii) Chăn nuôi nông hộ quy mô nhỏ và quảng canh.
Chăn nuôi thế giới đang từng bước chuyển dịch từ các nước đã phát triển
sang các nước đang phát triển. Các nước đã phát triển xây dựng kế hoạch chiến
lược phát triển ngành chăn nuôi duy trì ở mức ổn định, nâng cao quá trình thâm

4


canh, các biện pháp an toàn sinh học, chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Các
nước đang phát triển ở châu Á và châu Nam Mỹ được nhận định sẽ trở thành khu
vực chăn nuôi chính và cũng đồng thời là khu vực tiêu thụ nhiều các sản phẩm chăn
nuôi. Các nước đã phát triển chỉ duy trì ổn định sản lượng chăn nuôi của họ để đảm
bảo an toàn thực phẩm, phần thiếu hụt sẽ được nhập khẩu từ các nước xuất khẩu
vượt qua được hàng rào kỹ thuật về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm của họ.
Đây là cách tiếp cận để giảm thiểu rủi ro về dịch bệnh ở động vật, đặc biệt là các
bệnh dịch có khả năng lây nhiễm sang người (như dịch cúm gia cầm).
Bảng 1.1. Phân bố số lượng gia súc, gia cầm trên thế giới năm 2009


(1000 con)
Thế giới 182.275.837 1.164.893.633 591.750.636 816.967.639 877.569.546 14.191.101
Châu Á 176.797.915 407.423.038
415.238.186 345.158.332 534.329.449 9.101.291
Châu Âu 317.922
114.204.134
15.911.331 100.146.054 183.050.883 1.895.583
Châu Phi 4.000.000
175.046.563
137.580.921 199.832.226 5.858.898
708.019
Châu
Mỹ
1.160.000
430.340.339
22.925.369 66.707.744 151.705.814 2.374.152

Vịt
(1000con)
1.008.332
953.859
49.478
10

Châu Úc -

1.473

Trâu (Con)


Bò (Con)

37.879.559

Dê (Con)

94.829

Cừu (Con)

Lợn (Con)

105.123.283 2.624.502

112.056

3.512

Nguồn: FAO, 2010
1.1.2. Hiện trạng chăn nuôi ở Việt Nam [10, 18]
Chăn nuôi gia cầm là nghề chăn nuôi truyền thống ở Việt Nam, sản phẩm gia
cầm, đặc biệt là thịt gà không chỉ là nguồn cung cấp thực phẩm có giá trị mà còn in
đậm trong đời sống xã hội bởi một nền văn hóa ẩm thực với cả yếu tố tâm linh, nó
được sử dụng nhiều trong những ngày giỗ, ngày tết và lễ hội. Với những lý do đó
sản phẩm gia cầm luôn có vị trí trên thị trường tiêu thụ, đã góp phần thúc đẩy chăn
nuôi phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người chăn nuôi.
Trong 20 năm qua, chăn nuôi gia cầm có sự phát triển khá nhanh, tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm qua các giai đoạn có xu hướng tăng lên rõ rệt. Trong
các loại gia cầm, gà là loại chính chiếm trên 75% tổng gia cầm. Bên cạnh đó, trong
những năm qua một số loại gia cầm khác cũng khá phát triển như ngan, vịt. Nhu

cầu tiêu thụ các sản phẩm này khá lớn và là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển.

5


Trong thời gian gần đây, việc đưa các giống gà mới như tam hoàng, rốt ri về hộ
nông dân phát triển gà thả vườn đem lại hiệu quả tốt, góp phàn tăng thu nhập cho
người chăn nuôi.
Sản xuất chăn nuôi ở Việt Nam có 3 cách thức chăn nuôi chính: Chăn nuôi
nông hộ nhỏ lẻ, chăn nuôi bán công nghiệp và chăn nuôi công nghiệp.
Việt Nam với khoảng 73% dân số sống ở vùng nông thôn, phát triển kinh tế
nông nghiệp và nông thôn là một trong những mục tiêu được Đảng và Nhà nước
hết sức chú trọng, trong đó có phát triển kinh tế hộ gia đình thông qua các hoạt
động phát triển chăn nuôi. Theo báo cáo của 60/64 tỉnh, thành tính đến 01/10/2006
có tổng số 16.012 trang trại, trong đó miền Bắc có 6.101 trang trại, miền Nam có
9.911 trang trại. Chăn nuôi gia cầm chiếm 15,4% trang trại chăn nuôi [12]. Chăn
nuôi gà trong giai đoạn 2001 – 2005 đạt 2,74% về số lượng con, trong đó giai đoạn
trước dịch cúm tăng 9,02% và giảm trong dịch cúm gia cầm 6,67%. Sản lượng đầu
con tăng từ 158,03 triệu con năm 2001 và đạt cao nhất vào năm 2003: 185,22 triệu
con. Do dịch cúm gia cầm, năm 2004, đàn gà giảm còn 159,23 triệu con bằng
86,2% năm 2003; năm 2005, đàn gà đạt 159,89 triệu con, tăng 0,9% so với năm
2004 [34]. Theo thống kê năm 2010 của Cục Chăn nuôi, cả nước có khoảng 8,5
triệu hộ chăn nuôi quy mô gia đình và 18.000 trang trại chăn nuôi tập trung. Với
tổng đàn 300 triệu con gia cầm và hơn 37 triệu con gia súc [35].
1.2. Chất thải trong chăn nuôi
1.2.1. Thành phần chất thải chăn nuôi [9]
Phân
Phân là sản phẩm loại thải của quá trình tiêu hoá của gia súc, gia cầm bị
bài tiết ra ngoài qua đường tiêu hóa. Chính vì vậy phân gia súc, gia cầm là sản
phẩm dinh dưỡng tốt cho cây trồng hay các loại sinh vật khác như cá, giun….

Thành phần hoá học của phân bao gồm:
- Các chất hữu cơ gồm các chất protein, carbonhydrate, chất béo và các

6


sản phẩm trao đổi của chúng.
- Các chất vô cơ bao gồm các hợp chất khoáng (đa lượng, vi lượng).
- Nước: là thành phần chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 65 – 80% khối lượng
của phân. Do hàm lượng nước cao, giàu chất hữu cơ cho nên phân là môi trường
tốt cho các vi sinh vật phát triển và phân hủy các chấ t hữu cơ tạo nên các sản
phẩm có thể gây độc cho môi trường.
- Dư lượng của thức ăn bổ sung cho gia súc, gồm các thuốc kích thích
tăng trưởng, các hormone hay dư lượng kháng sinh…
- Các men tiêu hóa của bản thân gia súc, chủ yếu là các men tiêu hóa sau
khi sử dụng bị mất hoạt tính và được thải ra ngoài…
- Các mô và chất nhờn tróc ra từ niêm mạc đường tiêu hoá.
- Các thành phần tạp từ môi trường thâm nhập vào thức ăn trong quá trình
chế biến thức ăn hay quá trình nuôi dưỡng gia súc.
- Các yếu tố gây bệnh như các vi khuẩn hay ký sinh trùng bị nhiễm trong
đường tiêu hoá gia súc hay trong thức ăn.
Bảng 1.2. Thành phần hóa học của phân gia súc, gia cầm
Thành phần hóa học
(% trọng lượng vật nuôi)
Loại vật nuôi
Nitơ tổng số
Phospho tổng số
Bò sữa
0,38
0,10

Bò thịt
0,70
0,20
Cừu
1,00
0,30
Gia cầm (gà)
1,20
1,20
Ngựa
0,86
0,13
Nguồn: Ngô Kế Sương và Nguyễn Lân Dũng, 1997
- Trong phân còn chứa nhiều loại vi sinh vật và ký sinh trùng kể cả có lợi
và có hại. Trong đó, các vi khuẩn thuộc loại Enterobacteriacea chiếm đa số với
các loài điển hình như E.coli, Samonella, Shigella, Proteus,…
Nước tiểu
Nước tiểu gia súc, gia cầm là sản phẩm bài tiết của con vật, chứa đựng

7


nhiều độc tố, là sản phẩm cặn bã từ quá trình sống của gia súc, khi phát tán vào
môi trường có thể chuyển hoá thành các chất ô nhiễm gây tác hại cho con người
và môi trường.
Thành phần chính của nước tiểu là nước, chiếm 99% khối lượng. Ngoài ra
một lượng lớn nitơ (chủ yếu dưới dạng urê) và một số chất khoáng, các
hormone, creatin, sắc tố, axít mật và nhiều sản phẩm phụ của quá trình trao đổi
chất của con vật...
Trong tất cả các chất có trong nước tiểu, urê là chất chiếm tỷ lệ cao và dễ

dàng bị vi sinh vật phân hủy trong điều kiện có oxy tạo thành khí amoniac
gây mùi khó chịu. Amoniac là một khí rất độc và thường được tạo ra rất
nhiều từ ngay trong các hệ thống chuồng trại, nơi lưu trữ, chế biến và trong giai
đọan sử dụng chất thải. Tuy nhiên nếu nước tiểu gia súc, gia cầm được sử dụng
hợp lý hay bón cho cây trồng thì chúng là nguồn cung cấp dinh dưỡng giàu nitơ,
photpho và các yếu tố khác ở dạng dễ hấp thu cho cây trồng.
Thành phần nước tiểu thay đổi tùy thuộc loại gia súc, gia cầm, tuổi, chế
độ dinh dưỡng và điều kiện khí hậu.
Nước thải
Nước thải chăn nuôi là hỗn hợp bao gồm cả nước tiểu, nước tắm gia súc,
rửa chuồng. Nước thải chăn nuôi còn có thể chứa một phần hay toàn bộ lượng
phân được gia súc, gia cầm thải ra. Nước thải là dạng chất thải chiếm khối
lượng lớn nhất trong chăn nuôi.
Thành phần của nước thải rất phong phú, chúng bao gồm các chất rắn ở
dạng lơ lửng, các chất hòa tan hữu cơ hay vô cơ, trong đó nhiều nhất là các
hợp chất chứa nitơ và photpho. Nước thải chăn nuôi còn chứa rất nhiều vi sinh
vật, ký sinh trùng, nấm, nấm men và các yếu tố gây bệnh sinh học khác. Do ở
dạng lỏng và giàu chất hữu cơ nên khả năng bị phân hủy vi sinh vật rất cao.
Chúng có thể tạo ra các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm cho cả môi trường

8


đất, nước và không khí.
Xác gia súc, gia cầm chết
Xác gia súc, gia cầm chết là một loại chất thải đặc biệt của chăn nuôi.
Thường các gia súc, gia cầm chết do các nguyên nhân bệnh lý, cho nên chúng là
một nguồn phát sinh ô nhiễm nguy hiểm, dễ lây lan các dịch bệnh. Xác gia súc
chết có thể bị phân hủy tạo nên các sản phẩm độc. Các mầm bệnh và độc tố có
thể được lưu giữ trong đất trong thời gian dài hay lan truyền trong môi trường

nước và không khí, gây nguy hiểm cho người, vật nuôi và khu hệ sinh vật trên
cạn hay dưới nước. Gia súc, gia cầm chết có thể do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Việc xử lý phải được tiến hành nghiêm túc. Gia súc, gia cầm bị bệnh hay
chết do bị bệnh phải được thiêu hủy hay chôn lấp theo các quy định về thú y.
Chuồng nuôi gia súc bị bệnh, chết phải được khử trùng bằng vôi hay hóa chất
chuyên dùng trước khi dùng để nuôi tiếp gia súc. Trong điều kiện chăn nuôi
phân tán, nhiều hộ gia đình vứt xác chết vật nuôi bị chết do bị dịch ra hồ ao,
cống rãnh, kênh mương… đây là nguồn phát tán dịch bệnh rất nguy hiểm.
Thức ăn thừa, đệm lót chuồng và các chất thải khác
Trong các chuồng trại chăn nuôi, người chăn nuôi thường dùng rơm, rạ
hay các chất độn khác,… để lót chuồng. Sau một thời gian sử dụng, những vật
liệu này sẽ được thải bỏ đi. Loại chất thải này tuy chiếm khối lượng không lớn,
nhưng chúng cũng là một nguồn gây ô nhiễm quan trọng, do phân, nước tiểu các
mầm bệnh có thể bám theo chúng. Vì vậy, chúng cũng phải được thu gom và xử
lý hợp vệ sinh, không được vứt bỏ ngoài môi trường tạo điều kiện cho chất thải
và mầm bệnh phát tán vào môi trường.
Ngoài ra, thức ăn thừa, thức ăn bị rơi vãi cũng là nguồn gây ô nhiễm, vì
thức ăn chứa nhiều chất dinh dưỡng dễ bị phân hủy trong môi trường tự nhiên.
Khi chúng bị phân hủy sẽ tạo ra các chất kể cả chất gây mùi hôi, gây ô nhiễm
môi trường xung quanh, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của gia súc và

9


sức khỏe con người.
Vật dụng chăn nuôi, bệnh phẩm thú y
Các vật dụng chăn nuôi hay thú y bị loại bỏ như bao bì, kim tiêm, chai lọ
đựng thức ăn, thuốc thú y,… cũng là một nguồn quan trọng dễ gây ô nhiễm môi
trường. Đặc biệt các bệnh phẩm thú y, thuốc khử trùng, bao bì đựng thuốc có thể
xếp vào các chất thải nguy hại cần phải có biện pháp xử lý như chất thải nguy

hại.
Khí thải
Chăn nuôi là một ngành sản xuất tạo ra nhiều loại khí thải nhất. Theo
Hobbs và cộng sự (1995), có tới trên 170 chất khí có thể sinh ra từ chăn nuôi,
điển hình là các khí CO2, CH4, NH3, NO2, N2O, NO, H2S, indol, schatol
mecaptan…và hàng loạt các khí gây mùi khác. Hầu hết các khí thải chăn nuôi
có thể gây độc cho gia súc, cho con người và môi trường.
Ở những khu vực chăn nuôi có chuồng trại thông thoáng kém thường dễ
tạo ra các khí độc ảnh hưởng trực tiếp, gây các bệnh nghề nghiệp cho công
nhân chăn nuôi và ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân xung quanh khu vực
chăn nuôi. Trừ khi chất thải chăn nuôi được thu gom sớm, lữu trữ và xử lý hợp
quy cách, ở điều kiện bình thường, các chất bài tiết từ gia súc, gia cầm như
phân và nước tiểu nhanh chóng bị phân giải tạo ra hàng lọat chất khí có khả
năng gây độc cho người và vật nuôi nhất là các bệnh về đường hô hấp, bệnh về
mắt, tổn thương các niêm mạc, gây ngạt thở, xẩy thai và ở trường hợp nặng có
thể gây tử vong.
Tiếng ồn
Tiếng ồn trong chăn nuôi thường gây nên bởi hoạt động của gia súc, gia
cầm hay tiếng ồn sinh ra từ hoạt động của các máy công cụ sử dụng trong chăn
nuôi. Trong chăn nuôi, tiếng ồn chỉ xảy ra ở một số thời điểm nhất định (thường
là ở thời gian cho gia súc, gia cầm ăn). Tuy nhiên tiếng ồn từ gia súc gia cầm là

10


những âm thanh chói tai, rất khó chịu, đặc biệt là trong những khu chuồng kín.
Người tiếp xúc với dạng tiếng ồn này kết hợp với bụi và các khí độc ở nồng độ
cao trong chuồng nuôi hay khu vực xung quanh rất dễ rơi vào tình trạng căng
thẳng dẫn tới ảnh hưởng tới trạng thái tâm lý, sức khỏe và sức đề kháng với bệnh
tật.

Tất cả các chất thải nói trên của chăn nuôi cần được nghiên cứu cẩn thận
và xử lý triệt để nhằm bảo vệ môi trường.
1.2.2. Các vấn đề môi trường từ việc chăn nuôi gà [4]
Chăn nuôi gà ở Việt Nam chủ yếu sản xuất tập trung tại các hộ quy mô nhỏ
lẻ trong nông hộ, thiếu quy hoạch nhất là các vùng dân cư đông đúc đã gây ra ô
nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Vì vậy, việc hiểu rõ thành phần và các
tính chất của chất thải chăn nuôi nhằm có biện pháp quản lý và xử lý thích hợp,
khống chế ô nhiễm, tận dụng nguồn chất thải giàu hữu cơ vào mục đích kinh tế
là một việc làm cần thiết.
Trên thực tế, thực trạng chăn nuôi theo phương pháp truyền thống đã bộc lộ
nhiều hạn chế. Do thiết kế chuồng hở và việc vệ sinh không đảm bảo, nên mùi hôi
của thức ăn và phân gà toả ra môi trường bên ngoài gây tình trạng hôi thối, mất vệ
sinh. Nghiêm trọng nhất là nạn ruồi, nhặng phát sinh từ trang trại gà ảnh hưởng đến
sức khoẻ của con người. Việc thải phân và nước rửa chuồng trực tiếp ra môi trường
gây ra mùi hôi thối cũng gây ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Người dân ở tổ 7,
khu 14, xã Long Đức (huyện Long Thành) đang khổ vì nạn ruồi, nhặng phát sinh từ
các trại chăn nuôi gà trong khu vực [4].
1.3. Vai trò của vi sinh vật trong khắc phục ô nhiễm môi trường chăn nuôi gia
cầm
Hệ vi sinh vật trong chất thải chăn nuôi gồm nhiều nhóm VSV có hoạt tính
sinh học khác nhau giữ vai trò hết sức quan trọng trong chu trình chuyển hóa các
hợp chất hữu cơ thành các chất mùn mà cây trồng có thể sử dụng được. Ở đây

11


chúng tôi chỉ đề cập các nhóm VSV có khả năng phân huỷ các hợp chất phổ
biến, là thành phần chính trong chất thải chăn nuôi gồm xenluloza, tinh bột,
protein và VSV có khả năng ức chế các vi khuẩn gây bệnh đường ruột, vi khuẩn
gây thối.

1.3.1. Vi sinh vật phân giải xenluloza [6; 12; 14; 17; 20; 21; 27].
Xenluloza là thành phần chủ yếu của thành tế bào thực vật. Về cấu trúc hoá
học, xenluloza là một polime mạch thẳng do các β - D - gluco - pyranora liên kết
với nhau bằng liên kết 1 - 4 - glucozit. Xenluloza có cấu tạo sợi, các sợi xenluloza
thiên nhiên thường chứa khoảng 10 - 12 nghìn gốc gluco pyranoza. Các sợi này liên
kết lại thành từng bó nhỏ gọi là các microfibrin. Microfibrin có cấu trúc không
đồng đều, những phần đặc (phần kết tinh) và những phần xốp (phần vô định hình).
Vùng vô định hình của xenluloza có thể hấp thu nước và trương lên. Trong khi đó
các mạng lưới liên kết hydrogen ở vùng kết tinh lại ngăn cản sự trương này, nên
enzym chỉ tác động lên bề mặt các sợi. Xenluloza có cấu trúc đặc, bền chắc cùng
với sự có mặt của lớp vỏ hemixenluloza-lignin khiến cho sự xâm nhập của enzym
vào cấu trúc hết sức khó khăn. Do vậy, trong tự nhiên xenluloza được phân giải
kém, cần có sự tác động và vi sinh vật đóng vai trò quan trọng trong việc phân giải
xenluloza.
Xenlulaza là một phức hệ 3 enzym (Endo-1,4-glucanaza, Exo-1,4gluconaza, β-1,4-glucozidaza) hoạt động cùng nhau để thuỷ phân xenluloza tạo
ra các loại đường có thể đi qua thành tế bào VSV.
Trong tự nhiên khu hệ VSV có khả năng sinh tổng hợp enzym xenlulaza
phân giải xenluloza vô cùng phong phú, bao gồm vi khuẩn, xạ khuẩn và vi nấm.
-

VK

Pseudomonas,

hiếu

khí:

Bacillus,


Azotobacter,
Cellulomonas,

Flavobacterium,
Vibrio,

Archromobacter,

Cellvibrio,

Cytophaga,

Angioccocus, Polyangium, Sporocytophaga, Sorangium, Archangium, Promyxobacterium, ...

12


- VK kị khí: Người ta thường gọi quá trình phân giải xenluloza kị khí là quá
trình lên men xenluloza. Điển hình là VK trong khu hệ VSV trong dạ cỏ của động
vật nhai lại: Ruminococcus flavofeciens, R. albus, R. parvum, Bacteroides
succinpgenes,

Butyrivibrio

fibriosolvens,

Clostridium

cellobioparum,


Cillobacterium cellosolvens...
- XK: Là một nhóm VK đặc biệt, Gram dương, hiếu khí, tế bào đặc trưng bởi
sự phân nhánh, thường có mặt quanh năm trong tất cả các loại đất. XK phân giải
xenluloza được phân lập từ các mẫu đất, mùn rác, mẫu mùn: ở những nơi có chứa
xenluloza. Các nhóm XK phân giải xenluloza: Micromonospora, Proactinomyces,
Nocardia, Actinomyces, Streptomyces, Streptosporangium, Thermomonospora,
Thermoactinomyces....
- Nấm: Có rất nhiều loài nấm phân giải xenluloza mạnh, nhưng phần lớn
chúng thường phân huỷ xenluloza khi độ ẩm cao và ở nhiệt 20 - 30 0C, pH trong
khoảng từ 3,5-6,6. Các chủng nấm có khả năng sinh tổng hợp xenlulaza cao:
Trichoderma, Fusarium, Chaetomium, Aspergillus,, Phanerochaete, Penicilium,
Verticilium, ....
Nhiều loại nấm, vi khuẩn và xạ khuẩn có khả năng phân giải xenluloza. Các
nghiên cứu cho thấy trong điều kiện hiếu khí, nấm thường chiếm ưu thế và ngược
lại trong điều kiện yếm khí vi khuẩn và xạ khuẩn chiếm ưu thế. Các loại vi sinh vật
có khả năng phân giải xenluloza mạnh mẽ thường thuộc về các chi sau:
Achromobacter,

P.Seudomonas,

Vibrio,

Cellvibrio,

Bacillus,

Cytophaga,

Anginococcus, Micromonospora, Actinomyces, Streptomyces, Streptospotangium,
Fusarium, Aspergillus.

1.3.2. Vi sinh vật phân giải tinh bột
Đại phân tử tinh bột bao gồm hai cấu tử là amiloza và amilopectin, thường tỷ
lệ amiloza/amilopectin ~ 1/4. Trong phân tử amiloza các gốc D-glucoza được gắn
với nhau bằng liên kết α-1,4 glucozit tạo nên chuỗi dài khoảng 200-1000 gốc

13


glucoza và phân tử amyloza có một đầu khử. Trong phân tử amilopectin các gốc
glucoza được gắn với nhau không chỉ bằng liên kết α-1,4 glucozit mà còn bằng liên
kết α-1,6 glucozit. Vì vậy phân tử amilopectin có cấu trúc nhánh, có một đầu khử.
Tinh bột không tan trong nước lạnh nhưng bị hồ hóa ở nhiệt độ 60 – 80oC.
Tinh bột bị thủy phân duới tác dụng của enzym amilaza hoặc acid tạo thành
phân tử có trọng lượng thấp hơn gọi là dextrin. Quá trình thủy phân tinh bột này có
sự tham gia của nhiều loại enzym khác nhau và mỗi enzym có một phương thức tác
dụng đặc hiệu riêng. Amylaza là hệ enzym rất phổ biến đối với VSV. Theo tính
chất và cách tác dụng lên tinh bột, phân biệt amylaza thành các loại: α-amylaza,
β-amylaza, glucoamylaza và oligo 1-6 glucozidaza [1; 25].

Nhiều nhóm vi sinh vật có khả năng sinh amilaza như vi khuẩn, nấm mốc, xạ
khuẩn và nấm men.
Các vi khuẩn gram dương đặc biệt là Bacillus thường tạo ra nhiều α-amilaza
hơn các vi khuẩn gram âm (Forgarty & Kelly, 1990). Ngoài α-amilaza ra vi khuẩn
còn tạo ra β- amilaza (β- amilaza trước đây chỉ thấy ở thực vật). Ví dụ β -amilaza
từ B. polymyxa, khi thủy phân tinh bột có thể tạo ra 92 - 94% maltoza. Đây là βamilaza đầu tiên được phát hiện ở vi khuẩn. Hoạt tính của nó gần giống như βamilaza của thực vật. Sau này, người ta tìm thấy β- amilaza ở một số vi khuẩn khác
như Acetobacter, B. megaterium, B. cereus.
Khả năng sinh amilaza của nấm mốc là mạnh nhất trong các nhóm vi sinh
vật. Các giống nấm mốc điển hình có khả năng phân giải tinh bột mạnh đó là:
Aspergillus (A. niger, A. awamori, A. oryzae). Rhizopus (R. delemar, R. niveus..).
Xạ khuẩn cũng là một nhóm vi sinh vật có khả năng sinh amilaza mạnh, trong đó

Streptomyces là nhóm giữ vị trí tiên phong sinh amilaza (S. limosus, S. aurefaciens,
S. praecox ....). Nấm men là vi sinh vật ít thấy có khả năng tổng hợp amilaza. Tuy
nhiên, gần đây cũng đã có nhiều công bố về nấm men có khả năng thuỷ phân tinh
bột ( Candida antaritica, lipomyces, ..) [5; 19].

14


1.3.3. Vi sinh vật phân giải protein
Proteaza được sinh tổng hợp từ nhiều loại vi sinh vật như: vi khuẩn, nấm
sợi... Hầu hết proteaza thương mại hiện nay đều được sản xuất từ vi khuẩn thuộc
chi Bacillus. Những proteaza chịu kiềm, chịu mặn thường được phân lập từ các
chủng vi khuẩn ưa kiềm, ưa mặn. Nấm mốc cũng là một nguồn cung cấp proteaza
đa dạng, một chủng nấm có thể tổng hợp được nhiều loại proteaza khác nhau. Ví dụ
chủng Aspergillus ozyzae sản sinh proteaza kiềm, axit và trung tính. Tuy nhiên,
proteaza có nguồn gốc từ nấm mốc lại kém bền so với vi khuẩn [23; 26].
VK có khả năng sinh ra cả hai loại proteaza (endopeptidaza và
exopeptidaza), do đó proteaza của VK có tính đặc hiệu cơ chất cao. Các VK có
khả năng tổng hợp proteaza mạnh nhất. Nhiều loại nấm mốc cũng có khả năng
tổng hợp một lượng lớn proteaza còn xạ khuẩn ít được nghiên cứu hơn.
1.2.4. Vi khuẩn lactic sinh tổng hợp axit lactic và bacterioxin [12]
Đặc tính của vi khuẩn lactic là Gram dương, oxydase và catalase âm tính,
hình que hay hình cầu, không tạo bào tử (Abee et al., 1999). Vi khuẩn lactic có
khả năng sinh axit lactic làm tăng sự phân hủy các hợp chất hữu cơ, là chất tiệt
trùng được ứng dụng nhiều trong bảo quản, chế biến thực phẩm, trong y, dược và
xử lý môi trường. Gần đây vi khuẩn lactic còn được đặc biệt quan tâm nghiên
cứu về khả năng sinh bacterioxin là các chất diệt khuẩn thế hệ mới có phổ kháng
khuẩn đa dạng, tính đặc hiệu tế bào đích cao, an toàn với người, vật nuôi, cây
trồng và môi trường là giải pháp cho vấn đề kiểm soát các nguồn bệnh. Hầu hết
vi khuẩn lactic đều tổng hợp được bacteriocin nên thành phần kháng khuẩn

này rất đa dạng như Lactacin, Nisin, Acidolin,...
1.4. Một số phương pháp xử lý ô nhiễm môi trường do chăn nuôi gà
1.4.1. Công nghệ EM [13; 16; 33]
Vai trò của từng nhóm vi sinh vật trong EM. GS. Teruo Higa cho biết chế
phẩm EM giúp cho quá trình sinh ra các chất chống oxy hoá như inositol,

15


ubiquinone, saponine, polysaccharide phân tử thấp, polyphenol và các muối
chelate. Các chất này có khả năng hạn chế bệnh, kìm hãm các vi sinh vật có hại và
kích thích các vi sinh vật có lợi. Đồng thời các chất này cũng giải độc các chất có
hại do có sự hình thành các Enzyme phân huỷ.
Chế phẩm EM là một hỗn hợp chứa các vi sinh vật có ích tồn tại trong tự
nhiên được phân lập ra, có tác dụng tiêu diệt các vi sinh vật có hại và hướng quá
trình phân huỷ hữu cơ theo hướng có lợi cho môi trường. Sử dụng chế phẩm EM an
toàn, không độc hại và cân bằng sinh học, làm cho môi trường không khí, đất và
nước trong lành, không bị ô nhiễm, xúc tiến tăng trưởng và tăng sức đề kháng cho
gia cầm.
EM là chế phẩm được nuôi cấy hỗn hợp gồm 5 nhóm vi sinh vật có ích: Vi
khuẩn quang hợp, vi khuẩn lactic, nấm men, xạ khuẩn và nấm sợi.
EM được thử nghiệm ở nhều quốc gia: Mỹ, Nam Phi, Thái Lan, Philippin,
Trung Quốc, Braxin, Nhật Bản, Singapore, Srilanca, Nepal, Việt Nam, Triều Tiên,
Belarus,… và cho thấy những kết quả khả quan. Trong chăn nuôi, EM có tác dụng:
- Làm tăng sức khoẻ vật nuôi, tăng sức đề kháng và khả năng chống chịu
đối với các điều kiện ngoại cảnh.
- Tăng cường khả năng tiêu hoá và hấp thụ các loại thức ăn.
- Kích thích khả năng sinh sản.
- Tăng sản lượng và chất lượng trong chăn nuôi.
- Tiêu diệt các vi sinh vật có hại, hạn chế sự ô nhiễm trong chuồng trại

chăn nuôi.
Trong bảo vệ môi trường: Do có tác dụng tiêu diệt các vi sinh vật gây thối
(sinh ra các loại khí H2S, SO2, NH3,…) nên khi phun EM vào rác thải, cống rãnh,
tolet, chuồng trại chăn nuôi,… sẽ khử mùi một cách nhanh chóng. Đồng thời số
lượng ruồi, muỗi, ve, các loại côn trùng bay khác giảm hẳn số lượng. Xử lý phân gà

16


bằng EM Bokashi C để khử mùi hôi, ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn gây
bệnh, làm phân chóng hoai và trở thành phân bón hữu cơ có chất lượng.
1.4.2. Công nghệ ozon [7]
Công nghệ ozon được xem là công nghệ mới trong lĩnh vực chăn nuôi. Công
nghệ này mới chỉ được áp dụng ở các nước tiên tiến trên thế giới. Hiện nay ở Việt
Nam ozon đã được ứng dụng trong chăn nuôi để xử lý: nguồn nước, thức ăn,
chuồng trại và môi trường xung quanh.
Trong chăn nuôi gà, thổi khí ozone trực tiếp vào chăn nuôi đồng thời kết hợp
với hệ thống phun suơng trực tiếp (nếu có) sẽ có tác dụng:
- Làm mát môi trường, giảm nhiệt độ trong chuồng trại từ 20 – 30 oC, ngăn
ngừa tình trạng nóng lạnh thất thường dễ phát sinh mầm bệnh.
- Khử mùi chuồng trại.
- Diệt khuẩn nhằm ngăn ngừa dịch bệnh lây lan trong không khí. Đặc biệt
ruồi, muỗi hầu như bị tiêu diệt.
- Phòng chống lây lan dịch bệnh trên diện rộng.
- Đồng thời khử mùi các loại khí như NH 3, H2S,… phát sinh từ phân của vật
nuôi. Gây nên cay mắt và nghẹt thở cho người, ảnh hưởng đến môi trường xung
quanh. Ozone khử một số chất khí thành khí O2, CO2 và hơi nước.
Những ưu điểm khi sử dụng ozone trong chăn nuôi là:
- Hiệu quả xử lý nhanh.
- Dễ dàng kết hợp với các phương pháp xử lý khác.

- Thao tác xử lý đơn giản, chi phí vận hành thấp.
- Giá cả phù hợp với thu nhập người chăn nuôi.
- Sau xử lý chuyển hoá thành oxy không để lại dư lượng độc hại.
Bảng 1.3. Khả năng khử một số hợp chất mang mùi của ozone
Hợp chất mang mùi
Hydrogen sulfide (mùi trứng thối)

Nồng
(ppm)
0.03
0.27

độ

mùi Hiệu suất xử lý
của ozone (%)
54
97

17


Methyl mercaptan (mùi bắp cải hôi) 0.01
0.03
Methyl sulfide (mùi cống rãnh)
0.01

72
92
88


Methyl disulfide (mùi cống rãnh)

65

0.02

Ammonia (mùi khai)

0.04
0.33
Trimethilamine (mùi tanh cá)
0.02
Nguồn: Công ty TNHH Môi trường Phương Nam, 2010

98
91
80

1.3.3. Sử dụng chế phẩm Balasa – N01 làm đệm lót chuồng trong chăn nuôi gà
[31]
Thành phần của chế phẩm Balasa – N01 là các tế bào sống của các chủng vi
khuẩn, nấm men, nấm sợi và các enzym thuỷ phân các chất hữu cơ.
Lợi ích của việc sử dụng chế phẩm để xử lý đệm lót:
- Làm tiêu hết phân do đó mùi hôi thối, khí độc trong chuồng nuôi hầu như
không còn, tạo môi trường sống tốt không ô nhiễm.
- Sẽ không phải thay chất độn trong suốt quá trình nuôi do đó giảm tối đa
nhân công dọn chuồng và nguyên liệu làm chất độn.
- Giảm rõ tỷ lệ mắc bệnh đặc biệt là bệnh tiêu chảy và bệnh hen. Vì vậy giảm
công và chi phí thuốc trong việc chữa trị bệnh.

- Tăng chất lượng đàn gà và chất lượng của sản phẩm.
- Hiệu quả của việc sử dụng đệm lót lên men: Tiết kiệm 80% nước trong
chăn nuôi, 60% nhân lực, 10% thức ăn, giúp môi trường chăn nuôi không bị ô
nhiễm, giúp sản phẩm thịt có màu, mùi, vị gần với chăn nuôi hữu cơ, đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm
- Hoạch toán kinh tế người chăn nuôi sẽ lợi: Môi trường không ô nhiễm,
giảm được công việc nặng nhọc trong công việc thường xuyên thay chất độn, chi
phí chung sẽ ít hơn nên thu nhập tăng lên.
Một số chú ý khi sử dụng chế phẩm Balasa – N01:

18


- Phải chú ý làm tơi xốp bề mặt đệm lót: cứ sau 1 – 2 ngày cào trên bề mặt
đệm lót một lần để giúp cho đệm lót được tơi xốp, phân sẽ được phân huỷ nhanh
hơn.
- Tránh để bị nước mưa và nước ở máng uống làm ướt đệm.
- Kiểm tra ẩm độ lớp đệm để bổ sung nước cho phù hợp.
- Khi phát hiện độn lót có mùi của khí NH 3 và thối nhẹ là tác dụng phân giải
phân chưa tốt cần phải xử lý kịp thời.
Công nghệ chăn nuôi trên đệm lót sinh thái với kỹ thuật làm chuồng, chuẩn
bị đệm lót và chăm sóc vật nuôi đơn giản vì vậy người chăn nuôi có thể dễ dàng áp
dụng, mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi mà lại giải quyết được vấn đề về ô
nhiễm môi trường.
1.4. Hiện trạng môi trường ở tỉnh Vĩnh Phúc [29]
Chăn nuôi ở Tam Dương đã giải quyết hàng ngàn lao động, nông dân có việc
làm và thu nhập ổn định, nhiều gia đình từ nghèo khó đã trở thành hộ giàu có thực
sự. Tam Dương có nguồn thực phẩm phong phú, ổn định cung cấp cho việc tiêu
dùng ở Vĩnh Phúc mà thực phẩm ở đây còn cung cấp tới cả Thủ đô Hà Nội.
Tam Dương là một huyện tuy không có rác thải độc hại phát sinh từ các khu công

nghiệp, khu du lịch, nhưng vấn đề môi trường tại huyện Tam Dương đã đến lúc báo
động. Trên địa bàn toàn huyện mới chỉ có 30% số hộ dân đăng ký thu gom, xử lý
rác thải, 90% các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, trang trại chăn nuôi gia súc,
gia cầm không chịu đầu tư hệ thống xử lý chất thải.
Ô nhiễm môi trường của Tam Dương chủ yếu phát sinh từ các mô hình kinh
tế gắn liền với sản xuất, chế biến nông sản và đặc biệt là chăn nuôi gia súc, gia
cầm. Công tác quy hoạch khu vực chứa và sử dụng rác thải còn nhiều bất cập. Dịch
vụ vệ sinh môi trường còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu xử lý rác thải tại địa
phương. Bên cạnh đó, ý thức của người dân về bảo vệ môi trường còn yếu, hiện
tượng xả rác thải bừa bãi, xác súc vật chết ra các kênh mương…còn phổ biến.

19


Huyện hiện có gần 190 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm với quy mô lớn. Tổng
số các trang trại hiện đang nuôi khoảng 3.000 con trâu, 89.000 con bò; 9.832 con
lợn; 581.250 con gia cầm... Bình quân một trang trại chăn nuôi có quy mô gần 60
đầu lợn và 2.200 con gia cầm. Một số hộ trang trại chăn nuôi có quy mô lớn trên
địa bàn huyện như ông Phạm Quang Hải ở xã Kim Long nuôi 1.400 con lợn; ông
Bùi Văn Chuyên nuôi 1.200 con lợn. Nhiều hộ nuôi trên 20.000 con gà.
Mặc dù chăn nuôi ở Tam Dương phát triển như vậy, nhưng chỉ có hơn 10% số
trang trại áp dụng mô hình biogas và lắng lọc, số còn lại xả thẳng chất thải rắn và
lỏng ra môi trường. Chính vì không xử lý chất thải, nên các trang trại này gây ảnh
hưởng đến cả môi trường không khí. Ngoài 190 trại chăn nuôi gia súc, gia cầm này,
trên địa bàn huyện còn có hàng ngàn hộ dân chăn nuôi trong khu dân cư với quy
mô nhỏ lẻ. Tất cả những hộ chăn nuôi nhỏ lẻ này đều không có hệ thống xử lý chất
thải, làm ô nhiễm môi trường trong khu dân cư.
Theo kết quả khảo sát năm 2010 tại một số xã có nhiều hộ chăn nuôi đã được
Chi cục Thú y tỉnh công bố, nồng độ khí NH3, H2S có trong không khí tại một số
nơi đã cao hơn mức cho phép từ 1 – 2,3 lần, độ nhiễm khuẩn coliform cao hơn gấp

3,2 lần TCCP); nước thải nhiễm E.coli và tỷ lệ số mẫu nước thải nhiễm trứng giun
cao. Hàm lượng COD trong nước thải từ 314 – 542mg/l, cao hơn giới hạn cho phép
từ 1,57 – 2,71 lần, hàm lượng BOD từ 182,5 – 406,4mg/l vượt TCCP từ 1,22 – 2,7
lần. Thực tế, do chưa thực hiện tốt công tác bảo đảm an toàn, vệ sinh môi trường
nên tình hình dịch bệnh đã xảy ra ở nhiều địa phương trong tỉnh như dịch tai xanh,
dịch lở mồm long móng ở gia súc; dịch cúm gia cầm tại xã Tam Quan (Tam
Dương),…
Với sự vào cuộc quyết liệt của các cấp chính quyền và các ngành chức năng,
các hộ chăn nuôi cũng đã thay đổi nhận thức về tác hại của tình trạng ô nhiễm môi
trường nên chủ động thực hiện nhiều biện pháp giảm thiểu. Đặc biệt là phương
pháp sử dụng chế phẩm sinh học thân thiện với môi trường trong xử lý chất thải

20


chăn nuôi. Ngoài việc tạo ra nguồn phân bón hữu cơ dồi dào cho phát triển nông
nghiệp, hạn chế nguồn sâu bệnh, tái chế các chất phế thải nông nghiệp thành phân
bón còn góp phần giảm chi phí sản xuất. Đây là một sản phẩm được khuyến cáo sử
dụng rộng rãi trong cộng đồng, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

21


Chương II
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
- Mẫu phân gà: Thu thập từ một số hộ chăn nuôi gà tại huyện Tam Dương,
tỉnh Vĩnh Phúc.
- Chủng vi sinh vật kiểm định: Do phòng Vi sinh vật môi trường – Viện Công
nghệ môi trường cung cấp.

- Chất độn, lót chuồng (trấu) và chất thải chăn nuôi gia cầm.
- Hóa chất: Cao thịt, cao nấm men, pepton, tinh bột, bột xenluloza, MRS,
NaCl, K2HPO4, KH2PO4 Glucoza, arabinoza, saccaroza, manitol, fructoza,
xenluloza, thạch, ...
- Thiết bị: Máy lắc Vortex, cân phân tích, kính hiển vi quang học, máy lắc, tủ
ấm và một số thiết bị cần thiết khác.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp đo, thống kê, phân tích, so sánh với các tiêu chuẩn quy
định.
2.2.2. Phương pháp phân lập, tuyển chọn vi sinh vật có hoạt tính sinh học
2.2.3. Phương pháp cấy truyền và bảo quản chủng vi sinh vật
2.2.4. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm phân loại vi sinh vật
2.2.5. Phương pháp xác định hoạt tính phân giải các hợp chất hữu cơ của các
chủng vi sinh vật
2.2.6. Phương pháp xác định hoạt tính bacteriocin của các chủng vi khuẩn
lactic
2.2.7. Nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện và môi trường nuôi cấy lên sinh
trưởng và sinh tổng hợp enzym của các chủng vi sinh vật.
2.2.8. Phương pháp nhân giống vi sinh vật
2.2.9. Phương pháp phân tích vi sinh vật
2.2.10. Phương pháp thu mẫu khí và phân tích các khí NH3 và H2S

22


Chương III
KẾT QUẢ DỰ KIẾN
- Tuyển chọn 4 chủng vi sinh vật an toàn, có hoạt tính sinh học cao trong
sản xuất chế phẩm vi sinh xử lý chất thải chăn nuôi gia cầm, tạo phân hữu cơ góp
phần giảm lượng phân hoá học và nâng cao hiệu quả sản xuất của nông dân.


- Đưa ra được quy trình bổ sung vi sinh vật vào các chất độn lót chuồng gia
cầm.

- Đánh gía hiệu quả xử lý chất thải chăn nuôi gia cầm của chế phẩm vi sinh
vật.

Hà Nội, ngày 09 tháng 01 năm 2013
Người hướng dẫn

Học viên

PGS.TS. Tăng Thị Chính

Hoàng Thị Dung

TÀI LIỆU THAM KHẢO
23


A. Tài liệu tiếng Việt
1. Phạm Thị Trân Châu, Trần Thị áng (1992), Hóa sinh học, NXB Giáo dục.

2. GS.TS. Trần Ngọc Chấn (2002), Ô nhiễm không khí và xử lý khí thải – tập 1: Ô
nhiễm không khí và tính toán khuếch tán chất ô nhiễm. Nhà xuất bản khoa học và
kỹ thuật Hà Nội.
3. Tăng Thị Chính, Đặng Đình Kim, Phan Thị Tuyết Minh, Lê Thanh Xuân
(2006). Nghiên cứu và ứng dụng một số chế phẩm vi sinh vật để xử lý chất thải hữu
cơ. TC khoa học – Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Võ Văn Cường (2009), Cảnh báo ô nhiễm môi trường từ chăn nuôi, giải pháp

đi cùng phát triển. Sở nông nghiệp & PTNT Quảng Nam.
5. Nguyễn Lân Dũng (1983). Một số sản phẩm của vi nấm, NXB Khoa học Kỹ thuật, tr.530.
6. Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Anh Đức, Đỗ Hồng Miên, Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Đình
Quyến, Phạm Văn Ty (1976). Một số phương pháp nghiên cứu vi sinh vật học tập II, NXB
Khoa học và Kỹ thuật.

7. Phạm Ngọc Đăng (1997), Môi trường không khí. NXB Khoa học và kỹ thuật.
8. Đinh Hữu Đại (2010), Công nghệ ozon. Công ty TNHH Môi trường Phương
Nam.
9. PGS.TS. Bùi Hữu Đoàn, PGS.TS. Nguyễn Xuân Trạch, PGS.TS. Vũ Đình Tôn
(2011), Bài giảng Quản lý chất thải chăn nuôi. NXB Nông Nghiệp
10. Tăng Văn Đoàn, Trần Đức Hạ (1995), Giáo trình kỹ thuật môi trường. NXB
Giáo dục
11. PGS.TS. Lê Đức, PGS.TS. Trần Khắc Hiệp, TS. Nguyễn Xuân Cự, ThS. Phạm
Văn Khang, CN. Nguyễn Ngọc Minh, Một số phương pháp phân tích môi trường.
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Phạm Bích Hiên, Nghiên cứu vi sinh vật để xử lý chất thải chăn nuôi dạng rắn.
13. Đoàn Đức Lâm (2005), Chế phẩm EM – Một sản phẩm độc đáo của công nghệ
sinh học Nhật Bản. Đề tài nghiên cứu khoa học Đại học Tây Bắc.

24


14. Ngô Kế Sương, Nguyễn Lân Dũng, (1997). Sản xuát khí đốt (Biogas) bằng kỹ thuật lên

men kị khí, Nxb nông nghiệp, Tp Hồ Chí Minh

15. Báo cáo tổng quan: Các nghiên cứu về ngành chăn nuôi Việt Nam. Viện Kinh
tế nông nghiệp, 2005.
16.Tạp chí số 8 - 2004, Công nghệ EM – Một giải pháp phòng bênh cho gia cầm

có hiệu quả. Tạp chí hoạt động khoa học.
17. Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT – BNN – TCTK ngày 26/3/2000 của Liên
Bộ Nông Nghiệp – Tổng cục thống kê.
B. Tài liệu tiếng anh
18. Alois S., et al, 1997 . Production of hemicelllose and cellulose degrading enzymes by

various strains of Sclerotium rolfsii, Applied Biochem. Biotech , 63-65, pp. 189-201.
19.

Cross F.L (1973), Handbook on air pollution control. Technomic, USA.

20. Forgaty W. M and Kelly C.T (1990). Amylases, amyloglucosidase and related glucanase,

In: “ Microbial enzym and Biotechnology. 2nd Ed, ed. By W.M Forgaty and C,T. Kelly,
Elsevier Applied Science, London and New York., pp.71-183.
21. Kundu R., Dube S. and Dube D., 1989. Extracellular cellulytic enzymes systems of A.
japonicus. Isolation, purification and characterization of multiple forms of endoglucanase,
Enzyme Microbiol. Tecnol, (10), pp. 100-108.
22. Lutzen, N.V. and m.H. Nielson (1983). Cellulose and their application in the
conversion lignocellulose to fermentable surgurs. Research and Sciene, London, Vol.
300, pp:283-291.

23. Pradyot Patnaik (1997), Handbook of Environmental Analysis. Lewis
Publishers.
24. Rao Mala B., Aparna M. Tanksale, Mohini S. Ghatge and Vasantin V. Deshpande (1998).
Molecular and biotechnological aspects of microbial proteases, Microbiology and molercular
biology reviews, 62(3), pp. 597-635.

25. Teruo Higa (2002). Technology of Effective Microorganisms: Concept and
Phisiology. Royal Agricultural College, Cirencester, UK.


25


×