Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nghiên cứu ứng dụng một số kỹ thuật chẩn đoán nhanh Vibrio cholerae gây dịch tiêu chảy cấp tại tỉnh Thái Nguyên năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.13 KB, 86 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------------------------------



PHẠM THẾ VŨ



NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG MỘT SỐ KỸ THUẬT
CHẨN ĐOÁN NHANH VIBRIO CHOLERAE GÂY DỊCH
TIÊU CHẢY CẤP TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN NĂM 2008





LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC






THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------------------------------


PHẠM THẾ VŨ


NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG MỘT SỐ KỸ THUẬT
CHẨN ĐOÁN NHANH VIBRIO CHOLERAE GÂY DỊCH
TIÊU CHẢY CẤP TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN NĂM 2008



LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60.42.30

GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LƢU THỊ KIM THANH




THÁI NGUYÊN - 2009


Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số

liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố
trong một công trình nào khác.

Tác giả




Phạm Thế Vũ















Lời cảm ơn

Để hoàn thành luận văn này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô:
Khoa Sau đại học, Khoa sinh - KTNN Trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung Ương, Viện Khoa học – Công nghệ Việt
Nam.

- TS. Lưu Thị Kim Thanh đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ giao đề tài, trực tiếp
hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
- Bs. Nguyễn Lê Minh giám đốc Trung tâm Y tế Dự phòng Thái Nguyên đã
giúp đỡ động viên và tạo mọi điều kiện cho tôi về tinh thần cũng như vật chất
trong quá trình học tập.
- NCVC.Ts. Nghiêm Ngọc Minh Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam đã tận
tình giúp đỡ trong quá trình thực hiện luận văn
Tôi xin cảm ơn tới :
- Cán bộ khoa xét nghiệm Trung tâm Y tế Dự phòng Thái Nguyên, đặc biệt
nhóm cán bộ xét nghiệm vi sinh đã không quản ngày, đêm cũng như các ngày
nghỉ giúp đỡ tôi thu thập mẫu bệnh phẩm, phân lập vi khuẩn tả, pha chế các
loại môi trường, xử lý sấy hấp dụng cụ ...
- Các Bác sỹ, kỹ thuật viên khoa lây, khoa xét nghiệm của các bệnh viện trực
thuộc tỉnh Thái Nguyên (Bệnh viện Đa khoa Trung Ương, Bệnh viện A, Bệnh
viện C, Bệnh viện Gang thép, Trung tâm y tế các huyện thành) đã cùng tham
gia thu phập mẫu khi có bệnh nhân nhập viện.
Thái nguyên, ngày 30 tháng 9 năm 2009
Tác giả

Phạm thế Vũ



MỤC LỤC


Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài

1
2. Mục tiêu nghiên cứu
3
3. Những đóng góp mới của đề tài
3
4. Giới hạn nghiên cứu
3
5. Cấu trúc của luận văn
3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình dịch tả trên thế giới và Việt Nam
4
1.1.1. Tình hình dịch tả trên Thế giới 4
1.1.2. Tình hình bệnh tả ở Việt Nam 8
1.2. Căn nguyên gây bệnh
11
1.2.1. Ổ chứa và nguồn bệnh 11
1.2.2. Tác nhân gây bệnh 11
1.2.3. Phương thức lây truyền 12
1.2.4. Tính cảm nhiễm 13
1.2.5. Diễn biến bệnh 13
1.2.6. Kháng nguyên và cấu trucas lớp vi khuẩn 14
1.2.7. Độc tố của vi khuẩn tả 16
1.2.8. Một số phương pháp phát hiện Vibrio cholerrae trong
phòng thí nghiệm
18

Chƣơng 2. ĐÓI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
19
2.2. Nguyên liệu nghiên cứu
19
2.3. Hóa chất thiết bị
20
2.4. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
21
2.4.1. Đối tượng nghiên cứu 21
2.4.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu 21
2.4.3. Phương pháp nghiên cứu 22
2.4.3.1. Các kỹ thuật lấy mẫu và vận chuyển bệnh phẩm 22
2.4.3.2. Các phương pháp chẩn đoán Vibrio cholerrae 24
2.4.3.3. Tiêu chuẩn đánh giá Vibrio cholerrae dương tính trong
nghiên cứu
27
Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Đặc điểm chung của các đối tƣợng nghiên cứu
29
3.1.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới, tuổi 29
3.1.2. Phân bố lấy mẫu bệnh phẩm theo địa điểm lấy mẫu 33
3.2. Đánh giá phƣơng pháp nghiên cứu phát hiện Vibrio
cholerae O1
35

3.2.1. Nhận biết vi khuẩn di động bằng kỹ thuật soi tươi 34
3.2.2. Nhận biết hình thể và tính chất bắt maufcuar vi khuẩn bằng
kỹ thuật nhuộm Gram
37
3.2.3. Phát hiện Vibrio cholerrae bằng kỹ thuật nuôi cấy 38

3.2.4. Nhận biết Vibio cholerrae bằng phương pháp test nhanh 52

3.2.5. Chẩn đoán Vibio cholerrae bằng kỹ thuật PCR 54
3.3. Đánh giá các kỹ thuật chẩn đoán Vibrio cholerae O1

3.3.1. Kỹ thuật soi tươi với kháng huyết thanh đặc hiệu 56
3.3.2. Kỹ thuật soi tươi và kỹ thuật nhuộm Gram 57
3.3.3. Kỹ thuật soi tươi với kỹ thuật nuôi cấy 58
3.3.4. Kỹ thuật nhuộm Gram với kỹ thuật nuôi cấy 58
3.3.5. Phương pháp test nhanh với kỹ thuật nuôi cấy 59
3.3.6. Kỹ thuật nuôi cấy với phương pháp PCR 60
3.4. Tổng hợp kết quả các phƣơng pháp và thời gian
61
KẾT LUẬN
66
ĐỀ NGHỊ
68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
69






















NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CT Cholerae Toxi ( Độc tố tả )
RNA Acid deroxy ribonucleic
DNA Acid deoxy nucleic
E.coli Escherichia coli (Vi khuẩn Ecoli )
KIA Kligler Iron Agar ( Môi trường song đường )
N.A.G Non Aglutinable Vibrios
PCR Polymerase Chain Reaction ( Phát hiện độc tố V.cholerae)
RAPD

Random Amplified Polymorphic DNA
TCBS Thiosulfate Citrate Bile Salts Sucrose ( Môi trường chọn
lọc nuôi cấy vi khuẩn tả )
V.cholerae Vibriocholerae (Vi khuẩn tả )















DANH MỤC CÁC BẢNG

1 Bảng 1.1 Tình hình dịch tả ở Việt Nam từ tháng 10/2007
đến tháng 5/2008
9
2 Bảng 1.2 Phân lập V.cholerae typ cổ điển và typ Eltor 15
3 Bảng 2.1 Danh mục một số dụng cụ, hóa chất 20
4 Bảng 3.1 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới, tuổi 29
5 Bảng 3.2 Tỷ lệ bệnh nhân theo tuổi 31
6 Bảng 3.3 Phân bố bệnh nhân dương tính Vibrio cholerrae
theo giới tính
33
7 Bảng 3.4 Tỷ lên thu thập mẫu các địa điểm nghiên cứu 34
8 Bảng 3.5 Tỷ lệ vi khuẩn di động quan sát trên lam kính 36
9 Bảng 3.6 Tỷ lệ vi khuẩn Gram âm quan sát dưới kính hiển
vi
37
10 Bảng 3.7 Phần đánh giá chung trong việc xác định các vi
khuẩn
38

11 Bảng 3.8 Tỷ lệ Vbrio cholerrae dương tính bàng kỹ thuật
nuôi cấy
39
12 Bảng 3.9 Nhận xét tính chất khuẩn lạc trên môi trường
TCBS
41
13 Bảng 3.10 Nhận xét tính chất khuẩn lạc trên môi trường
thạch kiềm
43
14 Bảng 3.11 Thời gian mọc khuẩn lạc trên 2 loại môi trường
nuôi cấy
44
15 Bảng 3.12 Bảng đọc kết quả trên môi trường sinh vật hóa
học
45
16 Bảng 3.13 Phản ứng Oxidase 47
17 Bảng 3.14 Đặc điểm nuôi cấy trên môi trường peptone kiềm 49

18 Bảng 3.15 Phân biệt vi khuẩn tả với các phẩy khuẩn khác
thuộc nhóm N.A.G trên 3 loại đường
51
19 Bảng 3.16 Kết quả ngưng kết kháng huyết thanh đa giá và
đơn giá
52
20 Bảng 3.17 Phát hiện Vibrio cholerrae O1 bằng kỹ thuật test
nhanh
54
21 Bảng 3.18 Tỷ lệ Vibrio cholerrae O1 bằng kỹ thuật PCR 55
22 Bảng 3.19 Đánh giá kỹ thuật soi tươi với kháng huyết thanh
đặc hiệu

57
23 Bảng 3.20 So sánh kỹ thuật soi tươi và kỹ thuật nhuộm
Gram
57
24 Bảng 3.21 Bảng so sánh kỹ thuật soi tươi với kỹ thuật nuôi
cấy
58
25 Bảng 3.22 Bảng so sánh kỹ thuật nhuộm Gram với kỹ thuật
nuôi cấy
59
26 Bảng 3.23 Bảng so sánh phương pháp test nhanh với kỹ
thuật nuôi cấy
59
27 Bảng 3.24 Đánh giá kết quả của phương pháp thử Oxidase
với kỹ thuật soi tươi
60
28 Bảng 3.25 Bảng so sánh phương pháp nuôi cấy và PCR 61
29 Bảng 3.26 Tổng hợp kết quả các phương pháp và thời gian
được áp dụng
61
30 Bảng 3.27 Một số phương pháp có thể áp dụng chẩn đoán
nhanh Vibrio cholerrae
62
31 Bảng 3.28 Bảng so sánh kỹ thuật nuôi cấy với (bảng 3.27) 64

DANH MỤC CÁC HÌNH

1 Hình 1.1 Biểu đồ khu trú vi khuẩn tả ở ruột non 17
2 Hình 2.1 Sơ đồ phân lập chẩn đoán Vibrio cholerrae O1 24
3 Biểu đồ 3.1 Đánh giá độ tuổi trong thu thập mẫu 30

4 Biểu đồ 3.2 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính 32
5 Biểu đồ 3.3 Số mẫu thu thập tại 6 bệnh viện trong quá trình thu
thập mẫu
35
7 Hình 3.4 Hình thể Vibrio cholerrae soi tươi 36
8 Hình 3.5 Hình thể vi khuẩn nhuộm Gram 37
9 Biểu đồ 3.6 Tỷ lệ dương tính Vibrio cholerrae bằng kỹ thuật
nuôi cấy
40
10 Hình 3.7 Hình ảnh khuẩn lạc Vparaheamoliticus và Vibrio
cholerrae
42
11 Hình 3.8 Hình ảnh khuẩn lạc Vibrio cholerrae trên môi
trường thạch kiềm
42
12 Hình 3.9 Các môi trường sinh vật hóa học trong chẩn đoán
Vibrio cholerrae
45
13 Hình 3.10 Hình ảnh phản ứng oxidase 47
14 Hình 3.11 Hình ảnh test nhanh Crystan VC 53
15 Hình 3.12 Phản ứng PCR 56
16 Biểu đồ 3.13 Tổng hợp các phương pháp chẩn đoán Vibrio
cholerrae
63








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Dịch tiêu chảy cấp đang có chiều hướng gia tăng ở các địa phương, tính
từ 23/10/2007 miền Bắc đã xảy ra ba đợt dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm, số
bệnh nhân tiêu chảy cấp đã lên đến 1.335 người, có 136 trường hợp dương
tính với phẩy khuẩn tả tại 18 tỉnh / thành phố trong cả nước trong đó có tỉnh
Thái Nguyên [13].
Khống chế dịch tả là mục tiêu lớn trong chương trình quốc gia phòng
chống bệnh tiêu chảy của Việt Nam. Với những thành tựu và kinh nghiệm
phòng chống dịch tả trong nhiều năm qua, ngày nay bệnh tả không còn là nỗi
khiếp đảm của mỗi người dân, của các tổ chức chính quyền và xã hội. Các
điều kiện chuẩn mực về kiểm soát môi trường ở nước ta còn lạc hậu. Các vấn
đề cung cấp nước, vệ sinh thực phẩm, dinh dưỡng an toàn và vấn đề xử lý vệ
sinh chất thải chưa làm được bao nhiêu, nhiều nơi còn bị buông lỏng hoặc
quên lãng. Trong thời kỳ giao lưu phát triển kinh tế và ngoại giao trong quan
hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực và toàn cầu ngày càng được mở rộng
thì bên cạnh đó là những điều kiện rất dễ bùng phát các vụ dịch nói chung,
trong đó có dịch tả nói riêng [30].
Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc tiếp giáp với các tỉnh: Lạng
Sơn, Bắc Giang, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Hà Nội, là cửa ngõ giao
lưu Kinh tế - Văn hoá – Xã hội thuận lợi giữa các tỉnh miền núi phía Bắc với
đồng bằng Bắc Bộ, là trung tâm đào tạo quan trọng đứng thứ 3 trong cả nước.
Trường Đại học Thái Nguyên với 6 trường đại học thành viên và trên 20
trường cao đẳng trung học dạy nghề. Toàn tỉnh hiện có gần 4000 cơ sở sản
xuất kinh doanh và chế biến dịch vụ phục vụ, trong số 1.150 cơ sở sản xuất
kinh doanh công nghiệp có hàng ngàn bếp ăn tập thể của công nhân, học sinh,

sinh viên… Hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi như vậy tuy nhiên vẫn còn rất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nhiều khó khăn nếu không được quản lý chặt chẽ đó sẽ là nguồn lây nhiễm
gây ngộ độc thực phẩm hoặc nguồn chứa mầm gây nên bệnh dịch.
Thực hiện công điện khẩn của Cục Y tế dự phòng và Môi trường, Bộ y
tế gửi các Trung tâm y tế Dự phòng các tỉnh thành trong cả nước “Tăng
cường giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn, giám sát chặt chẽ và
phát hiện sớm nhất căn nguyên gây tiêu chảy, xử lý khoanh vùng ổ dịch và
triển khai điều trị kịp thời, không để bệnh nhân tử vong” [30].
Cần phải báo cáo khẩn cấp khi có ít nhất một ca bệnh (kể cả ca đã xác
định hoặc nghi ngờ), dù ở khu vực dịch xâm nhập hay bệnh lưu hành, y tế cơ
sở nơi phát hiện phải báo cáo ngay theo chế độ báo cáo khẩn cấp của Bộ Y tế.
Bệnh nhân mắc bệnh tả nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ
bị mất nước và chất điện giải dẫn đến tử vong. Bệnh tả lây truyền rất nhanh
qua đường tiêu hoá và môi trường (nước, chất nôn, phân, rác...) do vậy việc
phát hiện sàng lọc mẫu âm tính ngay tại cơ sở có ý nghĩa hết sức quan trọng,
không những giúp đỡ bệnh nhân có ngay phác đồ điều trị mà còn giúp các nhà
dịch tễ có hướng xử lý khoanh vùng, chủ động trong phòng chống dịch,
không để dịch lây lan rộng trong cộng đồng [4], [6].
Đáp ứng với tình hình thực tiễn kể trên, chúng tôi tiến hành đề tài:
" Nghiên cứu ứng dụng một số kỹ thuật chẩn đoán nhanh Vibrio cholerae
gây dịch tiêu chảy cấp tại tỉnh Thái Nguyên năm 2008"









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

- Xác định tỷ lệ bệnh nhân dương tính với Vibrio cholerae (V. cholerae )
trong giai đoạn từ tháng 3 năm 2008 đến tháng 7 năm 2008.
- Đánh giá hiệu quả các kỹ thuật phát hiện Vibrio cholerae (soi tươi, nhuộm
soi, test nhanh, nuôi cấy, PCR)
- Lựa chọn những kỹ thuật phù hợp để áp dụng sàng lọc chẩn đoán nhanh
Vibrio cholerae tại labo tuyến huyện khi có dịch tiêu chảy cấp.

3. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Đề tài nghiên cứu đã đánh giá các kỹ thuật phát hiện Vibrio cholerae trên
mẫu phân của bệnh nhân mắc bệnh tiêu chảy cấp tại tỉnh Thái Nguyên.
- Đáp ứng tính ứng dụng và hiệu quả tại labo tuyến huyện.

4. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
- Thời gian nghiên cứu ngắn nên ứng dụng đánh giá hiệu quả sau phân tích
chưa có số liệu đánh giá cụ thể.

5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tài liệu
Chương 2: Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả và bàn luận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.Tình hình dịch tả trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Tình hình dịch tả trên thế giới

Bệnh tả được cho là xuất hiện cách đây hàng thế kỷ tại đồng bằng sông
Hằng của các tiểu lục địa Ấn Độ. Thế kỷ thứ XI những đợt dịch tả đã lan tràn
tới nhiều vùng trên thế giới từ Nam Á theo con đường buôn bán, hành hương
và di tản. Trong thời gian có đại dịch, nhiều vụ dịch lớn có tỷ lệ tử vong cao
đã xảy ra ở khắp thành thị châu Âu, châu Mỹ. Năm 1849, có một cuộc điều
tra nổi tiếng của John Snow (Bác sỹ người Anh) đã chứng minh nước là môi
trường truyền bệnh tả [48], [51].
Năm 1817 bệnh xuất hiện tại Châu Âu và Mỹ. Đến đầu thế kỷ 20 đã có
6 "làn sóng bệnh tả" lan khắp thế giới, tiếp đó đến những năm 60 phạm vi
"tung hoành" của vi khuẩn tả đã được "khoanh vùng" và cho đến những năm
gần đây chủ yếu bệnh xuất hiện ở Đông nam Á. Năm 1961 týp "El Tor" gây
dịch tại Philippin và tạo "làn sóng thứ bảy". Từ đó trở đi týp vi khuẩn này tiếp
tục gây những vụ dịch tại châu Á, vùng Trung Đông, châu Phi và một phần
châu Âu [2], [5], [10], [57].
Năm 1883, Robert Koch (nhà vi sinh vật người Đức) phân lập thành
công vi khuẩn từ phân của bệnh nhân biểu hiện các triệu chứng của bệnh này.
Có tài liệu cho rằng trước đó 30 năm nhà giải phẫu học người Ý đã phát hiện
ra phẩy khuẩn là nguyên nhân gây bệnh [43]. Các vụ đại dịch đều bắt nguồn
từ châu Á, sau đó lan tới các châu lục khác ở nhiều nước, trong nhiều năm.
Qua các vụ dịch, có một số ghi nhận đáng chú ý về dịch tễ học, sinh bệnh học,
điều trị và phòng chống bệnh tả được tóm tắt như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Vụ đại dịch thứ nhất: Lần đầu tiên ghi nhận bệnh tả xảy ra dưới dạng một
đại dịch, vụ đại dịch này bắt đầu vào năm 1817 tại khu vực châu thổ sông
Hằng, sau đó lan tới nhiều nước thuộc châu Á vá châu Phi [5].
- Vụ đại dịch thứ hai: Lần đầu tiên bệnh tả gây dịch ở Bắc Mỹ năm 1832 tại
khu vực Quebec ( Canada), New York, Philadelphia, Washington. Trong vụ
đại dịch này, đầu những năm 1930, O’Shaughnessy là người đầu tiên chứng
minh phân của bệnh nhân bị bệnh tả có tính kiềm và có nồng độ điện giải rất
cao. sau phát hiện có ý nghĩa này, Latta đã điều trị thành công một số bệnh

nhân tả mất nước nặng bằng phương pháp tiêm tĩnh mạch dung dịch chứa
muối và điện giải [5], [47].
- Vụ đại dịch thứ 3: Dịch tả lan tới nước Anh, tại Luân Đôn, John Snow đã
phát hiện rất quan trọng về dịch tễ học là bệnh tả lan truyền theo đường nước
sinh hoạt bị ô nhiễm và từ đó đã đề ra biện pháp chống dịch hiệu quả là loại
bỏ nguồn nước sinh hoạt không hợp vệ sinh [17], [27], [61].
- Vụ đại dịch thứ 4: Dịch tả hoành hành dữ dội ở New Orleans và các thành
phố, thị trấn dọc theo triền sông Missippi, Missouri và Ohio của nước Mỹ [1],
[5], [62].
- Vụ đại dịch thứ 5: Dịch tả lan tới vùng trung cận đông, sau đó lan tới Nam
Mỹ, gây ra các vụ dịch lớn với tỷ lệ tử vong cao ở các nước Argentina, Chilê
và Peru. Tại Ai Cập và Calcutta (Ấn Độ), Robert Koch đã phân lập được vi
khuẩn tả từ phân của bệnh nhân bị bệnh tả , chỉ một năm sau khi Koch phân
lập được vi khuẩn tả, Ferran là người đầu tiên đã gây miễn dịch dự phòng
tả bằng vaccin [12], [45].
- Vụ đại dịch 6: Gây ra các vụ dịch lớn ở vùng Trung Cận Đông và bán đảo
Ban Căng, từ năm 1921 đến năm 1961, ngoài một vụ dịch tả lớn xảy ra ở Ai
Cập năm 1961 với 32.978 trường hợp tả, gây tử vong 20.472 người, dịch tả
chủ yếu lưu hành ở các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và châu Á, trong 6
vụ đại dịch đầu tiên tác nhân gây bệnh là V. cholerae O1, typ sinh học cổ điển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
do Pacini mô tả đầu tiên phân lập được năm 1854 và được nhà vi trùng học
người Đức Robert Koch khảng định lại năm 1883[5], [46], [59].
- Vụ đại dịch thứ 7: Tác nhân gây bệnh là V. cholerae O1, týp sinh học El
Tor, do Goschlich lần đầu tiên phân lập được năm 1905 được chia làm 4 giai
đoạn sau: Từ năm 1961-1962 dịch tả khu trú ở các đảo thuộc Indonesia và các
nước Đông Nam Á, với tổng số 13.393 người mắc, tử vong 1.977 người [49],
[55]. Năm 1963-1969 chỉ trong thời gian ngắn dịch xuất hiện nhiều nước châu
Á: Ấn Độ, Pakistan, Liên Xô cũ, I-Rắc, Việt Nam bắt đầu có dịch tả El Tor
vào tháng 1 năm 1964. Giai đoạn tiếp theo từ năm 1970-1990 theo số liệu của

Tổ chức Y tế Thế giới có 36 nước có dịch tả, điều đáng chú ý là tại Li Băng,
Syri chủng gây dịch là El Tor Ogawa, trong khi đó ở các nước liền kề như Ả
rập-Xê út, Israel chủng gây dịch lại là El Tor Inaba.Tiếp theo những năm
1991 đến nay điều đáng chú ý ở nước Trung Mỹ và Nam Mỹ 21/23 nước có
bệnh tả, năm 1994 châu Mỹ La Tinh chiếm 50% số bệnh nhân tả trên toàn thế
giới.Tháng 7/1994 xảy ra một vụ dịch tả thảm khốc tại trại tỵ nạn ở Uganda
với 58.057 trường hợp bị bệnh tả, tử vong 23.800 người, năm 1996 số người
mắc tả ở châu Phi chiếm 60% tổng số các trường hợp mắc tả trên thế giới
[58], [60]. Tháng 12 năm 1992 một vụ dịch lớn lại sảy ra ở nước này. Vi
khuẩn gây bệnh được xác định là V. cholerae O139 "Bengal". Về mặt di
truyền, O139 "Bengal" hình thành từ El Tor nhưng cấu trúc kháng nguyên của
chúng cũng biến đổi. Tất cả mọi lứa tuổi (kể cả trong vùng đã có dịch ) đều có
thể bị nhiễm. Chủng O139 đã gây bệnh tại ít nhất 11 nước ở Đông nam Á
(tính đến năm 2005). Không có số liệu chính xác số người bị bệnh do O139 vì
các nước không thông báo cụ thể các trường hợp bệnh do O1 hay O139 riêng
rẽ. Trong những năm cuối thế kỷ 20 dịch tả ngày càng trở nên nghiêm trọng,
bệnh tả xảy ra ở tất cả các châu lục, tập trung chủ yếu ở những nước đang
phát triển, mặc dù y học có những hiểu biết đáng kể về sinh bệnh học và điều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trị bệnh tả nhưng tỷ lệ tử vong do bệnh tả vẫn ở mức độ cao, đặc biệt là khu
vực châu Phi [3], [8], [53].
Những đặc điểm của týp El Tor giúp nó khẳng định khả năng "tiếp tục
gây nguy hiểm" bao gồm: Tỷ lệ nhiễm El Tor thấp hơn nhiều so với tỷ lệ
nhiễm týp cổ điển, thời gian mang trùng sau khi bị bệnh do El Tor dài hơn so
với trường hợp nhiễm týp cổ điển, El Tor có khả năng tồn tại ngoài môi
trường tốt hơn, dài hơn týp cổ điển. Chính vì vậy El Tor có khả năng gây dịch
tại cả những nơi Týp cổ điển từng "tung hoành" [7], [36], [50].
Tháng 4 năm 1997, dịch bùng phát trong cộng đồng 90 ngàn người tị
nạn Ruanđa ở Cộng Hoà Công gô. Chỉ trong 22 ngày đầu đã có 1.521 người
chết. Đa số các trường hợp chết đều do không được can thiệp kịp thời. Tại

Mỹ, dịch tả xuất hiện vào những năm 1800 sau đó được khống chế do đảm
bảo vệ sinh nguồn nước sinh hoạt. Tuy vậy, giao thông và du lịch tạo điều
kiện để bệnh xuất hiện lẻ tẻ. Đa số trường hợp do đi du lịch tại các nước Mỹ
La tinh, châu Phi, châu Á. Một số trường hợp nhiễm bệnh do ăn thức ăn mang
về từ các quốc gia còn lưu hành bệnh [44], [52].
Theo Nguyễn Anh Dũng, tính đến năm 1991, đại dịch tả lần thứ 7 đã có
91 nước có dịch [6], đến năm 1992 theo Tổ chức Y tế thế giới đã có ít nhất 98
nước có dịch tả. Nhờ những hiểu biết đáng kể về căn nguyên gây bệnh, về
điều trị và cơ chế miễn dịch bệnh tả mà tỷ lệ tử vong do tả đã giảm xuống một
cách đáng kể chỉ còn 1% - 3% [6].
Phẩy khuẩn V. cholerae O1 bao gồm hơn 60 nhóm huyết thanh, nhưng
chỉ có một nhóm huyết thanh O1 là gây được bệnh tả, V. cholerae O1 lại gồm
2 sinh týp là sinh týp cổ điển và sinh týp El-Tor, mỗi sinh týp lại gồm 2 týp
huyết thanh (Ogawa và Inaba) [8], [22].
Sinh týp El-Tor gây nên hầu hết các vụ dịch tả gần đây, tuy vẫn còn
nhiều vụ dịch xảy ra ở tiểu lục địa Ấn Độ là do sinh týp cổ điển. Sinh týp El-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tor có thể sống kết hợp với một sinh vật dưới nước, làm cho nước trở thành
một kho tàng lưu trữ gây nhiễm [31], [54].
Từ cuối năm 1992, dịch tả do V. cholerae O139 đã xuất hiện ở một số
nơi thuộc Đông nam Ấn Độ, sau đó nhanh chóng lan tới Đông Bắc nước này
thuộc vịnh Belgan.Tháng 3/1993 dịch lớn sảy ra ở Bangladesh, tiếp đó xuất
hiện ở Miama, Trung Quốc (Tân Cương,7/1993), Thailand (8/1993) đến tháng
9 cùng năm đã có nhiều trường hợp mắc tả V. cholerae O139 ở Malaysia [34].
Người ta đã phân lập được V. cholerae non O1 ở các bệnh nhân tiêu chảy
nặng thuộc 2 cộng đồng ở Florida.Tính gây bệnh đường tiêu hoá ở người và
sự đồng nhất hoá của những chủng này làm nảy sinh những câu hỏi về sự
tương quan của những chủng V. cholerae O1 độc và không độc dọc bờ biển
Gulf của hoa Kỳ [39], [56].
Một đánh giá khảo sát trên tất cả các bệnh viện tư nhân ở Recife cho

kết quả trong 1.435 mẫu chỉ có 1 mẫu dương tính với V. chlerae El-Tor Inaba
(0.07%), 17 mẫu dương tính (1.2%) gồm V. cholerae non O1, V. fluvialis, V.
fumissii, V. parahaemolyticus, V. spp. và rất ít gặp ở những người có điều
kiện xã hội khá, ngay cả khi dịch đang xảy ra [49].
1.1.2.Tình hình bệnh tả ở Việt Nam
Bệnh tả là nguyên nhân quan trọng gây tiêu chảy cấp ở Việt Nam từ
hơn một thế kỷ qua với 2 triệu trường hợp mắc bệnh tả được thông báo. Năm
1937-1938 dịch tả từ Hồng Kông theo đường biển xâm nhập vào các tỉnh
miền Bắc là Hải Phòng, Móng Cái, từ đó dịch lan sang theo đường sắt và
đường bộ tới nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Số người mắc lên tới
20.678 người, trong đó số chết là 14.992 người, tỷ lệ tử vong tới 70%. Bệnh
tả Eltor lần đầu tiên xuất hiện ở miền Nam năm 1964 với 20.009 người mắc
bệnh, trong đó 821 người tử vong. Từ đó đến nay, ở miền Trung và miền Nam
bệnh tả xảy ra dưới dạng lưu hành, hàng năm có hàng trăm bệnh nhân bị bệnh
tả được thông báo. Năm 1994 sau hàng chục năm vắng bóng, bệnh tả xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hiện lại ở khu vực Tây Nguyên ( các tỉnh Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai ) với
1.459 bệnh nhân mắc bệnh tả được thông báo [5], [11], [16].
Dịch tả hiện nay vẫn là gánh nặng đối với ngành y tế và toàn xã hội.
năm 1993 dịch xảy ra ở 21 tỉnh với 3.460 người mắc bệnh. Năm 1994 dịch
xuất hiện ở cả miền Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên với 4.123 trường hợp bị
bệnh. Năm 1995 có 29 tỉnh, thành phố báo cáo có bệnh nhân mắc tả với 6.088
trường hợp mắc bệnh tả. Năm 1996, cả nước có 630 trường hợp mắc bệnh tả
ElTor ở 19 tỉnh, thành phố. Vài năm gần đây từ 2001-2002 nước ta vẫn có các
trường hợp tả xảy ra, tuy nhiên bệnh không bùng phát thành các dịch lớn mà
chủ yếu là những ca lẻ tẻ ở khắp cả nước [5].

Bảng 1.1. Tình hình dịch tả ở Việt Nam từ 10/2007 - 5/2008

Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Tổng

Ngày xuất hiện 23/10/2007 24/12/2007 5/3/2008
Tổng số mắc 1.907 58 3.480 5.445
Số dương tính (+) với tả 295 32 581 908
Số tỉnh/thành có tả (+) 14 1 18
Tập trung nhiều nhất tại Hà Nội Hà Nội Hà Nội
Số tử vong 0 0 0 0
Ngày kết thúc 06/12/2007 5/2/2008 22/5/2008

(Nguồn số liệu: Cục Y tế Dự phòng và Môi trường Việt Nam)

Nguyễn Phú Quý (1993) đã thông báo về những đặc điểm sinh học của
V. cholerae O139 và quy trình kỹ thuật phân lập xác định mầm bệnh với
kháng huyết thanh đặc hiệu của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương [36].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Kết quả xét nghiệm phân lập được V. cholerae El-Tor có sự dao động
lớn giữa các tác giả, thấp nhất là 1,52 % và cao nhất là 45,70 %. Phan Đạo và
cộng sự cho rằng thời gian đỉnh của vụ dịch tỷ lệ phân lập cao trên 50% [9].
Một số tác giả còn đưa ra tỷ lệ phân lập theo nhóm tuổi, tỷ lệ phân lập vi
khuẩn tả dương tính ở nhóm tuổi 6-16 tuổi là 15,08 %, 17-50 tuổi là 44,56 %,
điều này càng chứng tỏ dưới 50 tuổi có tỷ lệ mắc tả cao [6], [7]. Tỷ lệ người
lành mang trùng, khi phân lập vi khuẩn tả ở những người lành trong các vụ
dịch, các tác giả trong nước cho thấy rất thấp là 1% và cao nhất là 15% [9],
[14].
So với nhiều dịch bệnh mới xuất hiện và đang diễn biến phức tạp hiện
nay, bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm không phải là bệnh khó kiểm soát, dịch
bệnh có thể bùng phát khi có đủ ba mắt xích liên kết với nhau (nguồn bệnh,
đường lây, sức cảm thụ), cả 3 mắt xích này đã được xác định rất rõ bởi các
nhà dịch tễ học. Mặc dù chưa khẳng định được nguyên nhân gây bệnh, nhưng
qua số liệu nghiên cứu của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, có thể khẳng
định vi khuẩn tả xuất phát từ thực phẩm. Chưa bao giờ có một vụ dịch nào

phức tạp như bây giờ, gần như đồng loạt tất cả các Quận huyện của Hà Nội
đều có dịch. Trong khi đó các ổ dịch lại không liên quan đến nhau, các bệnh
nhân không sống cùng nhau, không ăn cùng nhau [13].
Tại tỉnh Thái Nguyên, sau nhiều năm không xuất hiện bệnh tả, đến
ngày 13/11/2007 có 23 bệnh nhân mắc bệnh tiêu chảy cấp trong đó có 01
bệnh nhân dương tính với V. cholerae O1. Dịch bệnh xuất hiện sau khi đã
được phát hiện tại nhiều tỉnh lân cận, hầu hết các trường hợp mắc bệnh là do
đến các vùng có dịch ăn uống phải thức ăn nhiễm khuẩn sau đó về địa phương
và phát bệnh, tuy vậy dịch đã được khống chế thành công không lan rộng
thêm và không truờng hợp nào tử vong.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.2. Căn nguyên gây bệnh
1.2.1. Ổ chứa và nguồn bệnh
Người là ổ chứa vi khuẩn tả quan trọng và cũng là nguồn bệnh, bao
gồm người mắc bệnh thể điển hình hoặc các thể nhẹ, không điển hình và
người mang mầm bệnh không triệu chứng (còn gọi là người lành mang trùng).
Sau vụ dịch tả có một tỷ lệ nhỏ (khoảng 3-5%) bệnh nhân các thể có khả năng
mang vi khuẩn tả kéo dài một vài tháng, đôi khi kéo dài hàng năm nếu không
được điều trị đặc hiệu đúng quy định. Vi khuẩn tả có thể tồn tại lâu dài ở một
số loài nhuyễn thể (trai, sò, ngao...) vùng cửa sông hay ven biển. Đây là ổ
chứa thiên nhiên của vi khuẩn tả ngoài ổ chứa quan trọng là người [15], [24].
1.2.2. Tác nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh tả là V. cholerae lần đầu tiên được Pacini người Ý
mô tả năm 1854 khi ông tìm thấy rất nhiều vi khuẩn hình cong trong ruột của
bệnh nhân bị tả. Năm 1883 Robert Koch cũng tìm thấy tác nhân có hình thể
tương tự khi ông nghiên cứu bệnh tả ở Ai Cập, ông mô tả vi khuẩn có hình
dấu phẩy và Koch đặt tên là Vibrio comma, tên này được dùng mấy chục năm
trước khi người ta đổi tên là V. cholerae, để tưởng nhớ ông Pacini, V.

cholerae được xác định rất rõ thông qua các tính chất sinh vật, hoá học và sự
đồng nhất của DNA, tuy nhiên chúng không đồng nhất về khả năng gây bệnh,
điều này đặc biệt quan trọng vì các chủng gây bệnh mới có khả năng sinh độc
tố ruột và gây dịch. Một sự phân biệt đơn giản trong y tế cộng đồng là V.
cholerae thuộc nhóm huyết thanh O1 có khả năng sinh được độc tố, còn lại tất
cả các nhóm khác thì không có khả năng gây bệnh hoặc rất hiếm khi gây
bệnh. V. cholerae O1 thuộc nhóm huyết thanh O1 có khả năng sinh độc tố và
gây thành đại dịch tả, tuy nhiên có một số ít chủng không sinh ra độc tố và
không có gen mã hoá độc tố. Các chủng ở môi sinh không có khả năng sinh
độc tố và không gây bệnh, ngoại lệ có một só chủng V. cholerae O1 phân lập
được ở một số bệnh nhân tiêu chảy hoặc nhiễm trùng ngoài đường tiêu hóa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
V. cholerae O1 gồm 3 týp huyết thanh là Inaba, Ogawa và Hikojima và bao
gồm hai sinh týp khác nhau là sinh typ cổ điển và sinh týp El tor [23], [35].
Những năm gần đây, khi các vụ dịch tả do V.cholerae O139 gây ra,
việc định danh tất cả các chủng V. cholerae đều dựa trên tính chất sinh vật
hoá học, sau đó nếu chủng nào không ngưng kết với O1 thì được gọi là
“Vibrio cholerae - không O1”, sau này được đổi thành Vibrio không gây tả
hoặc “nhóm Vibrio không ngưng kết”. Hiện nay các nhóm này thuộc các
nhóm huyết thanh từ O2 - O138, không có khả năng gây dịch tả. Nhóm Vibrio
này đôi khi gây tiêu chảy do liên quan đến ăn hải sản, hoặc các nhiễm trùng
ngoài đường tiêu hoá như vết thương...
Vụ dịch tả xảy ra vào đầu năm 1993 tại Ấn Độ và Bangladaesh do một
loại Vibrio non O1 gây ra, đó là V. cholerae O139 còn gọi là Vibrio Bengal.
Nhìn chung đây là một chủng lai giữa V. cholerae O1 và Vibrio cholerae -
non O1 và điều quan trọng là độc lực của nó là độc tố ruột và kháng nguyên
nhung mao đồng điều hoà độc tố, tuy nhiên chủng O139 giống với sinh týp
ElTor hơn [38], [41].
Dựa vào độc tính vi khuẩn V. cholerae O1 có thể chia thành 2 nhóm
chính theo huyết thanh (serogroups) đó là O1 và O139. Nhóm O1 có hai týp

sinh học (biotype) ElTor và cổ điển, El Tor là tên của một trạm y tế ở Ai cập
nơi mà týp vi khuẩn này được phát hiện trong đại dịch năm 1907, hiện nay
Eltor là thủ phạm chính của các trận dịch tả trên thế giới. Mỗi týp sinh học
Eltor hay cổ điển có thể chia thành 3 nhóm nhỏ theo huyết thanh là Ogawa,
Inaba, Hikojima, mỗi nhóm còn có thể chia thành nhóm nhỏ hơn dựa vào
kháng nguyên (antigen) A, B hay C [21], [33], [40].
1.2.3. Phƣơng thức lây truyền
Bệnh tả lây theo đường tiêu hóa, chủ yếu qua ăn uống. Vi khuẩn tả xâm
nhập vào đường tiêu hóa của người lành từ 2 nguồn chính: Thức ăn, nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
uống ô nhiễm phân có vi khuẩn tả và thức ăn có nguồn gốc thủy hải sản cửa
sông, ven biển có chứa các thể tiềm sinh lâu dài của vi khuẩn tả.
Bệnh tả lây mạnh nhất ở giai đoạn toàn phát của bệnh. Thời gian thải vi
khuẩn thường kéo dài khoảng 1 tuần sau khi hết tiêu chảy cấp. Một số ít bệnh
nhân có thể gây nhiễm sau mắc bệnh nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng do khả
năng đào thải vi khuẩn tả từng đợt theo phân. Các yếu tố lây truyền vi khuẩn
tả là nước, thực phẩm tươi sống, thực phẩm đã qua chế biến, bàn tay, dụng cụ
ăn uống, đồ dùng cá nhân và ruồi nhặng bị nhiễm phẩy khuẩn tả. Những yếu
tố nguy cơ làm tăng khả năng lan truyền bệnh tả là mật độ dân cư đông đúc,
đời sống kinh tế, xã hội và dân trí thấp, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm
không đảm bảo, nguồn nước sinh hoạt khan hiếm, thiếu nhà vệ sinh hợp tiêu
chuẩn, vệ sinh môi trường không tốt, thực hành vệ sinh cá nhân kém, khu vực
bị lũ lụt và sau lũ lụt [32], [41].
1.2.4. Tính cảm nhiễm
Mọi người đều có thể nhiễm vi khuẩn tả. Cơ thể sau khi mắc bệnh tả
hoặc nhiễm khuẩn không triệu chứng có miễn dịch đặc hiệu với chủng tả gây
nhiễm nhưng thời gian miễn dịch thường ngắn, trung bình 6 tháng, không có
miễn dịch chéo giữa nhóm V. cholerae O1 với nhóm O139. Những nhóm
người có nguy cơ cao với tả là những người tiếp xúc gần gũi (cùng ăn, uống,
sinh hoạt) với bệnh nhân tả, dân cư tại vùng có tập quán ăn uống không hợp

vệ sinh, sử dụng thức ăn đường phố, hải sản chưa chín, nước chưa qua khử
trùng, dùng phân tươi trong trồng trọt, khu vực đồng bằng cửa sông, ven biển,
vùng bị ngập lụt [31].
1.2.5. Diễn biến bệnh
Thời kỳ ủ bệnh từ vài giờ tới 5 ngày, thường từ 2-3 ngày, thời kỳ khởi
phát rất ngắn, bệnh nhân bắt đầu cảm thấy đầy bụng và sôi bụng; tiếp theo đó
tiêu chảy, lúc đầu có phân, sau chỉ toàn nước và kiệt sức nhanh chóng. Bệnh
nhân thường chỉ nôn sau khi đã tiêu chảy nhiều lần, thời kỳ toàn phát thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
có các triệu chứng tiêu chảy liên tục, nhiều lần, phân toàn nước, nước phân lờ
lờ đục như nước vo gạo, trong đó có những vẩy màng màu trắng (là mảnh tế
bào thượng bì niêm mạc ruột lẫn phẩy khuẩn tả). Bệnh nhân không đau bụng,
mót rặn và không có nhày máu mũi. Số lần tiêu chảy và số lượng nước mất
thay đổi tùy từng trường hợp nặng nhẹ khác nhau như nôn dễ dàng, lúc đầu
nôn ra thức ăn, sau chỉ toàn nước trong hoặc vàng nhạt, tiếp theo các triệu
chứng khác bệnh nhân không sốt, người mệt lả, có thể bị chuột rút, biểu hiện
tình trạng mất nước từ độ I đến độ III như khát nước, da khô, nhăn nheo, hốc
hác, mắt trũng, mạch nhanh, huyết áp hạ, có khi không đo được, tiểu tiện ít
hoặc vô niệu, chân tay lạnh... Ngoài ra bệnh nhân có thể bị rối loạn thăng
bằng điện giải như hạ kali máu [5], [19].
1.2.6. Kháng nguyên và cấu trúc lớp vỏ vi khuẩn
Sự thay đổi tính chất kháng nguyên là yếu tố quan trọng trong nghiên
cứu dịch tễ và độc lực của vi khuẩn. Đối với vi khuẩn tả, khả năng gây thành
dịch của chủng Bengal nói trên là môt ví dụ minh hoạ. Nhiều loại vi khuẩn
khác trong môi trường nước cũng có kháng nguyên roi như vi khuẩn tả vì vậy
không thể căn cứ vào loại kháng nguyên này để phân biệt. Týp huyết thanh
phẩy khuẩn đã được phân biệt dựa trên đặc điểm vào kháng nguyên O ( kháng
nguyên vỏ). Hầu hết các chủng vi khuẩn tả đều không có độc tính. Chủng
Bengal gây thành dịch được định danh là O1. Tuy vậy có tới 3 týp sinh học
của O1 được gọi tên Ogawa, Inaba và Hikojima. Mỗi chủng trong 3 loại này

có khả năng thể hiện đặc tính của chủng cổ điển hay của El Tor. Chủng
Bengal O139 là chủng huyết thanh mới có kháng nguyên O đặc thù. Đặc tính
kháng nguyên đặc thù của Bengal O139 có thể giúp chúng ta giải thích vì sao
cơ thể không có miễn dịch sau khi bị bệnh [5].
Các kháng nguyên vỏ của phẩy khuẩn gồm:
Týp Ogawa có kháng nguyên A và B;
Týp Inaba có kháng nguyên A và C;

×