Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Báo cáo thực tập cơ sơ chuyên ngành quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.2 KB, 36 trang )

HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
KHOA QUẢN LÝ
-------***-------

BÁO CÁO THỰC TẬP CƠ SỞ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Văn Bắc
2. Đinh Thị Hòa
3. Đặng Trọng An

Nhóm trưởng
Thành viên
Thành viên

4. Trần Thị Thanh Tâm

Thành viên

Lớp: QLGDK5C

Hà Nội-2013
LỜI MỞ ĐẦU

1


Thực tập cơ sở là hoạt động gắn lý luận vào với thực tiễn, là điều kiện cần để
sinh viên hiểu rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quy trình làm việc…gắn với lý thuyết
các môn chuyên ngành mình đang theo học.
Thực tập cơ sở giúp sinh viên tìm hiểu các hoạt động quản lý giáo dục trong


thực tế của một cơ quan quản lý giáo dục, của nhà trường và các cơ sở giáo dục
khác, hoạt động của một cá nhân cụ thể trong hệ thống quản lý. Từ đó sinh viên có
điều kiện được khẳng định và bổ sung thêm những kiến thức cơ bản quản lý và
quản lý giáo dục cũng như ý thức nghề nghiệp trong tương lai.
Nó tạo điều kiện để sinh viên vận dụng các kiến thức về quản lý và quản lý
giáo dục để tìm hiểu, phân tích và đánh giá các hoạt động của một công việc tác
nghiệp cụ thể, cũng như các hoạt động của nhà trường, cơ sở giáo dục và cơ quan
quản lý giáo dục.
Qua đợt thực tập này sinh viên còn rút ra được kinh nghiệm và có sự chuẩn
bị kĩ càng hơn cho đợt thực tập tốt nghiệp kết thúc khóa học. Đồng thời thực tập cơ
sở giúp sinh viên bước đầu làm quen với các hoạt động tác nghiệp trong thực tiễn
cũng như hình thành những kỹ năng cơ bản cho công việc của bản thân trong tương
lai.
Để thực hiện mục đích đã đề ra cho đợt thực tập này, nhóm chúng em đã lựa
chọn địa điểm thực tập tại Phòng Đào tạo hệ Đại học chính quy – Học viện Hành
Chính Quốc Gia.
Qua đây, chúng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô
giáo trong Phòng Đào tạo, đặc biệt là thầy Triệu Phương Anh - Chuyên viên
Phòng đào tạo – Trưởng khóa 10 Nhân sự đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất và
hướng dẫn chúng em tận tình trong thời gian chúng em thực tập tại Phòng nói
riêng, cũng như tại Học viện nói chung. Chúng em xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới
Cô Lê Mai Phương, giảng viên khoa Quản lý cùng các thầy cô giáo tại Học viện
Quản lý giáo dục đã giúp chúng em hoàn thành báo cáo thực tập này.
2


Bản báo cáo thực tập cơ sở của chúng em bao gồm các nội dung chính sau:
Phần I: Giới thiệu chung về Học viện Hành chính Quốc Gia và Phòng Đào tạo
đại học.
Phần II: Mô tả và phân tích các hoạt động của Chuyên viên Triệu Phương Anh.

Phần III: Đánh giá chung
Bản báo cáo này là sản phẩm trí tuệ chung của cả nhóm nhưng do thời gian
tiếp xúc và làm việc tại cơ sở có giới hạn, và đây cũng là lần đầu tiên chúng em đi
thực tập, nên chắc chắn bài báo cáo còn nhiều thiếu sót. Chúng em rất mong nhận
được sự góp ý của các thầy cô cùng các bạn sinh viên để bản báo cáo của chúng
em được hoàn thiện hơn, cũng như giúp chúng em có thêm những bài học kinh
nghiệm bổ ích cho đợt thực tập tốt nghiệp sau này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

3


1. HVHCQG

Học viện Hành chính Quốc Gia.

2. PĐT ĐH

Phòng Đào tạo Đại học.

3. CV

Chuyên viên.

PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
VÀ PHÒNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC.
4



1. Giới thiệu chung về Học viện Hành Chính Quốc Gia ( HVHCQG)
* Quá trình hình thành và phát triển.
Học viện Hành Chính Quốc Gia có bề dày truyền thống lịch sử. Được hình thành từ
năm 1959 đến nay, với 53 năm tuổi, đến nay Học viện đã trải qua 7 lần đổi tên. Cụ
thể như sau:
1. TRƯỜNG HÀNH CHÍNH (TỪ THÁNG 5/1959 - 9/1961)
Ngày 29-5-1959, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại kí Nghị
định số 214-NV thành lập Trường Hành chính. Trường trực thuộc Bộ Nội vụ, có
nhiệm vụ huấn luyện cán bộ chính quyền cấp huyện. Đồng chí Tô Quang Đẩu Thứ trưởng Bộ Nội vụ làm Hiệu trưởng.
Khi mới thành lập, Trường đặt cơ sở ở thôn Phù Lưu, xã Xuân Hồng, huyện Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tại đây, Trường đã mở khoá huấn luyện đầu tiên cho 216 cán
bộ chính quyền cấp huyện, tỉnh. Khoá học khai giảng ngày 16-10-1959 và bế giảng
ngày 16-01-1960. Phó Thủ tướng Phan Kế Toại đã khai giảng và bế giảng khoá
học. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt,
Trần Hữu Dực đã tới thăm và giảng bài cho khoá học.
2. TRƯỜNG HÀNH CHÍNH TRUNG ƯƠNG (TỪ THÁNG 9/1961 5/1980)
Ngày 29-9-1961, theo Nghị định số 130-CP của Chính phủ, Trường Hành chính đổi
tên là Trường Hành chính Trung ương.
Trụ sở của Trường Hành chính Trung ương được xây dựng tại Láng Hạ - Đống Đa
- Hà Nội. Từ năm 1962 đến nay Học viện Hành chính Quốc gia vẫn đặt trụ sở
chính tại đây.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, từ tháng 9-1965 tới cuối năm
1968, Trường sơ tán về xã Đông Côi, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc. Tại đây,

5


Trường tiếp tục mở các lớp bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp huyện, phục vụ cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Từ giữa năm 1972, Chính phủ chủ trương tách phần chính quyền ra khỏi Bộ Nội vụ
đưa sang Văn phòng Nội chính Phủ Thủ tướng. Bộ Nội vụ thời gian này chỉ làm
công tác thương binh - xã hội, nên Trường chỉ tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
thương binh - xã hội.
ở miền Nam, tháng 5-1974, Trường Cán bộ chính quyền miền Nam được thành lập
tại chiến khu miền Đông do đồng chí Nguyễn Ngọc Sắt (tức Ba Linh) làm Hiệu
trưởng. Sau khi miền Nam được giải phóng, ngày 30-10-1976, Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 213-CP thành lập Phân hiệu Trường Hành chính Trung
ương tại miền Nam. Phân hiệu trực thuộc Ban Tổ chức của Chính phủ, đặt tại địa
điểm Học viện Quốc gia Hành chính của nguỵ quyền Sài Gòn cũ, số 10 đường 3-2,
quận 10, TP. Hồ Chí Minh (cơ sở Học viện Hành chính Quốc gia ngày nay). Phân
hiệu do đồng chí Doanh Thắng Lung (tức Ba Lung) và Nguyễn Ngọc Sắt (tức Ba
Linh) làm Phân Hiệu phó (không có Phân Hiệu trưởng).
Ngày 30-3-1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 81/CP chuyển
Trường Hành chính Trung ương từ trực thuộc Bộ Nội vụ sang trực thuộc Ban Tổ
chức của Chính phủ. Trường Hành chính Trung ương tiếp tục nhiệm vụ bồi dưỡng
cán bộ chính quyền phục vụ công cuộc hoà bình xây dựng đất nước.
Ngày 30-8-1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 231-CP chuyển
Trường Hành chính Trung ương từ Ban Tổ chức của Chính phủ sang trực thuộc
Phủ Thủ tướng. Trường có nhiệm vụ huấn luyện, bồi dưỡng các cán bộ quản lý nhà
nước cao cấp ở các cơ quan trung ương; các chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên Uỷ ban
nhân dân tỉnh, huyện và tương đương; cán bộ phụ trách các sở, ty của tỉnh, thành
phố; cán bộ làm công tác tổ chức ở cấp tỉnh, thành phố; cán bộ làm công tác giảng
dạy ở các Trường Hành chính (nay là Trường Chính trị) các tỉnh và thành phố.

6


Theo Quyết định trên, Trường Hành chính Trung ương có các phân hiệu phụ trách
các khu vực:

- Phân hiệu Trường Hành chính Trung ương đóng tại Hà Nội chịu trách nhiệm đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các tỉnh phía Bắc.
- Phân hiệu Trường Hành chính Trung ương đóng tại TP. Hồ Chí Minh chịu trách
nhiệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các tỉnh phía Nam (B2 cũ).
- Phân hiệu Trường Hành chính Trung ương đóng tại Đã Nẵng chịu trách nhiệm
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các tỉnh miền Trung (khu 5 cũ).

Song, trong

thực tế Trường Hành chính Trung ương mới chỉ có hai Phân hiệu tại Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Dương Văn Phúc Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.
3. TRƯỜNG HÀNH CHÍNH VÀ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG (TỪ THÁNG
5/1980 – 6/1981)
Ngày 12-5-1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 142-CP sát nhập
Trường Hành chính Trung ương và Trường Kinh tế Trung ương thành Trường
Hành chính và Kinh tế Trung ương. Giáo sư Mai Hữu Khuê - nguyên Hiệu trưởng
Trường Kinh tế - Kế hoạch - được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng.
Thực hiện Hiệp định kí kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên Xô,
Trường mở các khoá bồi dưỡng về quản lý kinh tế cho cán bộ trung - cao cấp do
các giáo sư Liên Xô giảng dạy.
4. TRƯỜNG HÀNH CHÍNH TRUNG ƯƠNG (TỪ THÁNG 6/1981 11/1990)
Ngày 08-6-1981, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 233-CP tách Trường Hành
chính và Kinh tế Trung ương thành hai trường: Trường Hành chính Trung ương và
Trường Quản lý kinh tế Trung ương. Trường Hành chính Trung ương trực thuộc
Chính phủ. Đồng chí Dương Văn Dật - nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính - được bổ
nhiệm làm Hiệu trưởng.
7


Ngày 26-9-1981, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số

91/HĐBT về nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Trường Hành chính Trung ương. Từ
đây, Trường có căn cứ pháp lý tương đối đầy đủ để hoạt động, đã không ngừng
phấn đấu vươn lên, có những bước tiến cơ bản, củng cố và thống nhất được cơ sở
Trường tại Hà Nội và Phân hiệu của Trường tại TP. Hồ Chí Minh, quy tụ các
Trường Hành chính (nay là Trường Chính trị) tỉnh, thành phố, tạo thành một hệ
thống Trường Hành chính làm nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý hành
chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, tạo đà cho sự phát triển cao hơn của
Trường trong giai đoạn mới.
Ngày 09-4-1987, Giáo sư Đoàn Trọng Truyến - nguyên Bộ trưởng Tổng thư ký
Hội đồng Bộ trưởng - được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng theo Quyết định số 121-CT
của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Trường thực hiện chuyển đổi nội dung, phương
thức bồi dưỡng cán bộ chính quyền phù hợp với yêu cầu thực tiễn, mở rộng hợp tác
quốc tế.
5. TRƯỜNG HÀNH CHÍNH QUỐC GIA (TỪ THÁNG 11/1990 - 7/1992)
Ngày 01-11-1990, Trường Hành chính Trung ương được đổi tên thành Trường
Hành chính Quốc gia theo Quyết định số 381-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ). Trường đã cùng với các cơ quan hữu quan đề xuất với Chính
phủ đề án cải cách nền hành chính quốc gia.
Ngày 01-12-1991, GS.TS Nguyễn Duy Gia - nguyên Tổng Giám đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, Phó Hiệu trưởng Trường HCQG - được bổ nhiệm làm Hiệu
trưởng.
6. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA (TỪ THÁNG 7/1992 ĐẾN
THÁNG 5/2007)
Ngày 06-7-1992, Trường Hành chính Trung ương được đổi tên thành Học viện
Hành chính Quốc gia theo Nghị định số 253-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ). GS.TS. Nguyễn Duy Gia làm Giám đốc. Từ đây, Học viện thực hiện
8


chức năng trung tâm đào tạo công chức và nghiên cứu khoa học về hành chính của

cả nước, có sự phát triển mạnh mẽ toàn diện, đạt được những thành tựu to lớn trên
nhiều mặt; có những biến đổi rõ rệt về quy mô và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức nhà nước.
Ngày 16-12-1997, GS.TS Nguyễn Duy Gia thôi giữ chức Giám đốc. GS.TS. Vũ
Huy Từ - nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Phó Giám đốc Học viện
- được giao trách nhiệm Phó Giám đốc điều hành theo Quyết định số 108/TTg của
Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 25-9-1998, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiến - nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp được bổ nhiệm làm Giám đốc theo Quyết định số 885/TTg của Thủ tướng Chính
phủ.
Ngày 31-12-2006, TS Nguyễn Ngọc Hiến thôi giữ chức Giám đốc Học viện.
Ngày 01-01-2007, PGS. TS Nguyễn Hữu Khiển - Phó Giám đốc Học viện được
giao trách nhiệm Phó Giám đốc điều hành theo Quyết định số 09/QĐ-BNV ngày
08-01-2007 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc phân công thực hiện nhiệm vụ điều
hành các hoạt động công tác của Học viện Hành chính Quốc gia.
* Quyết định số 123/2002/QĐ-TTg Ngày 19-9-2002 của Thủ tướng Chính phủ,
Học viện từ cơ quan thuộc Chính phủ được chuyển vào Bộ Nội vụ.
Ngày 13-11-2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 234/2003/ QĐTTg về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia.
Trong đó, xác định:
- Học viện Hành chính Quốc gia là tổ chức sự nghiệp của Bộ Nội vụ và chịu sự
quản lý nhà nước của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
- Học viện Hành chính Quốc gia là Trung tâm quốc gia, tự chủ và tự chịu trách
nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính theo quy định của pháp luật; thực
hiện các chức năng: đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà
nước, các chức danh công chức hành chính các cấp, cán bộ, công chức cơ sở, công
9


chức dự bị, đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên các chuyên ngành hành chính và
quản lý nhà nước; nghiên cứu khoa học hành chính và tư vấn cho Chính phủ trong
lĩnh vực hành chính và quản lý nhà nước.

- Học viện Hành chính Quốc gia có con dấu hình Quốc huy.
- Học viện Hành chính Quốc gia có các hệ đào tạo, bồi dưỡng:
+ Hệ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về hành chính và quản lý nhà nước.
+ Hệ đào tạo tiền công vụ.
+ Hệ đào tạo đại học chuyên ngành hành chính chính quy, không chính quy và sau
đại học theo các chuyên ngành hành chính và quản lý nhà nước.
+ Hệ đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, nghiên cứu viên về hành chính và quản lý nhà
nước.
+ Hệ đào tạo, bồi dưỡng chuyên đề.
- Học viện Hành chính Quốc gia có các phân viện tại TP. Hồ Chí Minh, thành phố
Huế và các phân viện khu vực.
7. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH (TỪ THÁNG 5/2007 ĐẾN NAY)
Từ tháng 5 năm 2007 đến nay hợp nhất Học viện Hành chính Quốc gia và Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh theo Quyết định số 60-QĐ/TW ngày
07-5-2007 của Bộ Chính trị. Học viện Hành chính Quốc gia được đổi tên Học viện
Hành chính.
PGS.TS Nguyễn Trọng Điều - nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ được bổ nhiệm làm
Giám đốc Học viện Hành chính theo Quyết định số 529-QĐNS/TW ngày 18-82007 của BCH Trung Ương.
Từ ngày 1/7/2009 đến nay PGS.TS Nguyễn Đăng Thành - Phó Giám đốc Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh - Bí thư Đảng ủy Học viện Chính trị
- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh được bổ nhiệm làm Giám đốc Học viện Hành
chính.
* Các mặt hoạt động của Học viện Hành Chính Quốc Gia:
10


Trải qua hơn 53 năm xây dựng và trưởng thành Học viện Hành Chính Quốc Gia
luôn là trường hàng đầu của Việt Nam với chức năng đào tạo và bồi dưỡng nghiệp
vụ về hành chính trong cả nước.
Về mặt hoạt động đào tạo: Học viện đào tạo bồi dưỡng, bồi dưỡng cán bộ công

chức, đào tạo đại học, đào tạo sau đại học và đào tạo ngắn hạn.
Về quy mô đào tạo, hiện nay Học viện có quy mô đào tạo rộng lớn. Trụ sở chính
đặt tại Hà Nội và 3 phân viện:
+Cơ sở Học viện Hành Chính tại miền Trung
+Phân viện Học viện Hành Chính tại Tây Nguyên
+Cơ sở Học viện Hành Chính tại TP.HCM
Do điều kiện có hạn, chúng em chỉ xin giới thiệu chi tiết hơn về cơ sở chính của
Học viện tại Hà Nội – cơ sở mà chúng em thực tập.
Học viện gồm có 4 ban, 10 khoa, và một số phòng ban khác.
Trường có Đội ngũ cán bộ, công chức(CB,CC) đông đảo với 856 CB,CC, trong
đó có 583 giảng viên với chức danh, trình độ đào tạo như sau: 3 Giáo sư, 34 Phó
Giáo sư, 4 Giảng viên cao cấp, 133 Giảng viên chính, 108 Tiến sĩ và 327 Thạc sĩ.
Có 274 chuyên viên, kĩ thuật viên, cán bộ hành chính phục vụ.
Quá trình đào tạo bước đầu thực hiện theo hướng niên chế, phương pháp giảng
dạy được đổi mới theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin và phương tiện kĩ
thuật hiện đại vào quá trình dạy- học, sử dụng bài giảng điện tử, dạy học trực tiếp,
phát huy tính tích cực, chủ động của người học.
Với sự nỗ lực của Cán bộ và nhân viên cùng toàn thể Sinh viên, Học viên của
Học viện và sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nướcHVHCQG đã, đang và sẽ
hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức năng của mình.
Cơ cấu tổ chức bộ máy Học viện: (*)

11


1.2. Giới thiệu về Phòng Đào tạo Đại học (PĐT ĐH).
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của PĐT ĐH
Là một bộ phận của Ban Đào tạo, PĐT ĐH được hình thành từ năm 2000 theo
quyết định thành lập của Giám đốc Học viện, đến nay đã được 13 năm.
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Ban Đào tạo

Phòng Đào tạo tham gia thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cụ thể như sau:
A. Chức năng, nhiệm vụ
Phòng Đào tạo đại học có chức năng tổ chức tuyển sinh, quản lý đào tạo và quản lý
chương trình đào tạo Đại học Hành chính hệ chính quy, Đại học Hành chính cấp
bằng thứ hai.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Học viện giao.
B. Các hoạt động chủ yếu
- Tham mưu, giúp Giám đốc Học viện tổ chức các đợt thi tuyển sinh quốc gia đảm
bảo hiệu quả, an toàn và đúng Quy chế.
- Xây dựng chương trình đào tạo Trung cấp hành chính được Bộ Giáo dục và Đào
tạo phê duyệt.
- Tổ chức tuyển sinh, quản lý đào tạo các khóa đào tạo Đại học hệ chính quy, Đại
học văn bằng hai và Trung cấp Hành chính đúng Quy chế.
- Tham mưu, giúp Giám đốc Học viện quản lý chương trình, nội dung đào tạo Đại
học hành chính, Trung cấp hành chính.
12


- Thực hiện các báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong
phạm vi quản lý và Lãnh đạo Học viện chỉ đạo.
1.2.3. Cơ cấu tổ chức nhân sự của PĐT ĐH:
- Tổng số cán bộ, chuyên viên: 16 cán bộ, chuyên viên. Trong đó:
Trưởng PĐT ĐH: Ths. Phan Thị Thanh Hương
Gồm 4 trưởng khóa phụ trách các khoa: 10, 11, 12, 13.
+ Phòng Đào tạo đại học có chức năng tổ chức tuyển sinh, quản lý đào tạo và quản
lý chương trình đào tạo Đại học Hành chính hệ chính quy, Đại học Hành chính cấp
bằng thứ hai.

Giám đốc TT


Phó Giám đốc I

CV

CV

CV

CV

Cố vấn TT

Phó Giám đốc II

CV

CV

13

CV

CV

CV

CV


1.2.4. Thành tích đã đạt được của PĐT ĐH:

Từ năm 2000 đến nay luôn đạt danh hiệu đơn vị lao động Giỏi.
Hàng năm, 100% cán bộ Ban Đào tạo đạt danh hiệu lao động tiên tiến; nhiều
cán bộ đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua các cấp. Tập thể đơn vị được Giám đốc Học
viện, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh tặng Bằng khen.
PHẦN II: MÔ TẢ VÀ PHÂN TÍCH CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CHUYÊN
VIÊN
2.1. Mô tả hoạt động chung của PĐT ĐH
Trung tâm Đảm bảo chất lượng Trường Đại học Vinh trước đây là một bộ phận
của Phòng Kiểm Định Chất lượng và Thanh tra Giáo dục (2003). Nhưng đến ngày
04/04/2007, Trường đã tách bộ phận Đảm bảo Chất lượng trong Phòng Kiểm Định
Chất lượng làm nòng cốt xây dựng Trung tâm Đảm bảo Chất lượng. Qua 3 năm
xây dựng và phát triển, Trung tâm ngày càng lớn mạnh về cơ cấu cũng như chất
lượng bên trong khẳng định thương hiệu của mình trong Nhà trường, đồng thời còn
khẳng định thương hiệu nổi bật trên khắp các Trường Đại học, Cao đẳng trong cả
nước.
Trung tâm Đảm bảo chất lượng với 2 nhiệm vụ chính đó là: Khảo thí và Đảm
bảo chất lượng được thực hiện theo Điều 19, 20, 21, 22, 23 của Quy chế đào tạo đại
học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định
số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 15/08/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đối với công tác Khảo thí:
Thứ nhất, xây dựng và trình Hiệu trưởng ban hành các văn bản, quy định và
hướng dẫn liên quan tới việc tổ chức các kỳ thi tuyển sinh, tốt nghiệp, hết học phần
và các kỳ thi khác;
14


Thứ hai, nghiên cứu xây dựng và trình Hiệu trưởng phê duyệt các quy trình
ra đề thi, chấm thi, công bố kết quả thi và cho các kỳ thi; phối hợp với các đơn vị
có liên quan nghiên cứu cải tiến, đổi mới và hoàn thiện các phương pháp thi,

phương thức thi phù hợp với yêu cầu đào tạo của các ngành, các hệ, bậc đào tạo
nhằm nâng cao hiệu quả đánh giá và đảm bảo chất lượng đào tạo;
Thứ ba, tổ chức xây dựng và quản lý ngân hàng đề thi học phần các ngành
đào tạo trong toàn trường; chủ trì phối hợp với các đơn vị có liên quan thực hiện kế
hoạch thi, quy trình ra đề thi, chấm thi, công bố và lưu trữ kết quả thi theo các văn
bản, quy định, hướng dẫn của Bộ và của trường;
Thứ tư, tham gia tư vấn bồi dưỡng nghiệp vụ về quy trình, phương pháp đảm
bảo chất lượng giảng dạy, thi kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo cho các đơn vị liên
quan.
Đối với công tác đảm bảo chất lượng:
Thứ nhất, xây dựng và trình Hiệu trưởng ban hành các văn bản, quy định và
hướng dẫn liên quan tới việc đánh giá chất lượng đào tạo nhằm cải tiến phương
pháp giảng dạy, học tập, nâng cao chất lượng đào tạo;
Thứ hai, nghiên cứu, xây dựng và trình Hiệu trưởng phê duyệt hệ thống
công cụ đánh giá chất lượng: chương trình đào tạo, chất lượng giảng dạy, việc học
tập của sinh viên, việc làm của sinh viên ra trường;
Thứ ba, nghiên cứu, xây dựng và trình Hiệu trưởng kế hoạch, dự trù kinh phí
cho việc tổ chức triển khai định kỳ công tác đánh giá và cải thiện chất lượng đào
tạo của trường;
Thứ tư, chủ trì hướng dẫn và chủ động phối hợp với các đơn vị chức năng
giám sát, theo dõi việc thực hiện các văn bản, quy định của Hiệu trưởng trong các
hoạt động đánh giá phục vụ công tác đảm bảo chất lượng của trường;

15


Thứ năm, phối hợp với các cơ quan chức năng, tổ chức có liên quan trong và
ngoài nước tổ chức các khóa bồi dưỡng, tập huấn đào tạo về lĩnh vực đảm bảo chất
lượng giáo dục cho cán bộ, giáo viên thuộc trường;
Thứ sáu, tổ chức và duy trì cơ sở dữ liệu về đảm bảo chất lượng giáo dục của

trường, công bố kết quả, tuyên truyền hiệu quả hoạt động của trường nhằm phát
huy vị thế và thương hiệu của trường.
Với hai nhiệm vụ chính là Khảo thí và đảm bảo chất lượng, Trung tâm Đảm
bảo chất lượng Trường Đại học Vinh đã phối hợp với các Phòng Ban trong trường
để hoàn thành tốt công tác được giao.
2.2. Mô tả, phân tích các hoạt động của Chuyên viên Triệu Phương Anh.
Chuyên viên Triệu Phương Anh sinh năm 1979 tại Hà Nội. Thầy đã tốt
nghiệp Trường Đại học Luật và Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Năm 2004 thầy bắt đầu công tác tại Học viện
Chức vụ: Chuyên viên PĐT ĐH. Trong quá trình làm việc, thầy đã trở thành
một chuyên viên có nhiều thành tích cống hiến cho HV nói chung và PĐT ĐH nói
riêng.
Với nhiệm vụ và vai trò của PĐT ĐH, CV Triệu Phương Anh đã thực hiện
tốt các nhiệm vụ được cấp trên giao cho.
Qua ba tuần về thực tập cơ sở tại PĐT ĐH, HVHCQG , nhóm chúng em
quan sát CV và thấy được các hoạt động chủ yếu của CV như sau:
1. In sao đề thi hết học phần:
CV được giao nhiệm vụ làm thư kí trực in sao đề thi kết thúc học phần vào
thứ hai hàng tuần, CV thực hiện quy trình in sao đề thi kết thúc học phần theo quy
định của TT. Kỳ thi kết thúc học phần ở đây được hiểu là tất cả các kỳ thi chính
hoặc kỳ thi phụ, thi lại học phần. Quy trình in sao đề thi được quy định bởi
16


TTĐBCL nhằm đảm bảo tối đa tính bảo mật, khách quan của việc in sao đề thi, góp
phần nâng cao chất lượng của kỳ thi kết thúc học phần.
Đề thi được in sao là đề thi do Trưởng Bộ môn hoặc người được ủy quyền
mang đến TTĐBCL. Số lượng đề cho một ca thi là 6 đề gốc, được cho vào phong
bì và niêm phong bảo mật (tuyệt đối không nhận đề chưa được cho vào phong bì
hoặc phong bì không có niêm phong).

Trước khi in sao đề, CV kiểm tra thông tin ghi ngoài phong bì: số lượng đề thi
cần sao in, số túi đề thi và điền đầy đủ thông tin vào các túi đề: môn thi, số lượng
đề thi, ca thi, ngày thi, lớp, khóa, địa điểm thi, phòng thi;
Thư ký bốc thăm ngẫu nhiên 4 trong số 6 đề gốc mà Bộ môn đã gửi, CV ghi rõ
ràng số đề đã sử dụng và số đề chưa sử dụng, tên người chuyển đề gốc để sao in, số
lượng đề cần sao in và ký xác nhận vào sổ theo dõi sao in đề của TT;
Thư ký trực in đề kiểm tra tình trạng làm việc của máy photo, mực in, giấy và
vệ sinh máy;
Khi tiến hành in sao phải in từng đề một và tiến hành trộn đề. Mỗi túi sẽ trộn 4
đề, tổng số đề in sao được điền trên mặt túi;
Trước khi CV dán mép mỗi túi đề thi, CV đã kiểm tra lần cuối các thông tin
ghi trên túi (môn thi, số lượng đề); tình trạng đề thi (nếu mờ, có giấy trắng, thiếu
chữ… phải thay bằng đề khác hoặc xử lí tại chỗ đề thi không đạt yêu cầu), sau đó
dán mép túi, niêm phong, đóng dấu. Khi kết thúc việc in đề cho một môn thi, CV
đã kiểm tra số lượng túi theo số phòng thi. Sau khi đã kiểm tra xong thì đóng gói lại
theo từng môn, ca, ngày và ghi vào sổ theo dõi;
Tiến hành bàn giao đề đã in cho Trưởng Bộ môn hoặc người được ủy quyền.
Bàn giao phải có biên bản và có chữ ký của người giao, nhận. Đề gốc đã sao in phải
cho vào một túi, ghi rõ “đề thi đã sử dụng”, một túi khác “đề chưa sử dụng”, dán túi
lại và niêm phong đóng dấu để dự trữ;

17


CV tổ chức hoạt động phối hợp với mọi người trong TT cùng thực hiện thao
tác in sao đề thi học phần theo quy định và chịu sự giám sát chặt chẽ của ban lãnh
đạo trong TT.
2.Công tác bảo mật đề thi:
Đề thi thuộc loại tài liệu mật của Trường. Chỉ có giảng viên được phân công
ra đề thi, Trưởng Bộ môn, thư ký được phân công trực in sao đề thi được phép tiếp

cận nội dung đề thi, tất cả những cá nhân đã tiếp xúc nội dung đề thi phải chịu trách
nhiệm về bảo mật đề thi. Đề thi gốc đã in xong phải niêm phong và lưu trữ tại
TTĐBCL. Đề thi in sao bị lỗi, bị mờ phải hủy tại chỗ. Thư ký được phân công trực
in sao đề thi không được rời khỏi phòng in sao đề trong suốt thời gian in sao đề.
Khu vực in sao đề thi chỉ có thư ký được phân công trực in sao đề thi đến
làm việc tại ngày hôm đó (theo bản phân công trực của TT) mới được vào. Mọi cá
nhân không có nhiệm vụ không được vào khu vực in sao đề thi. Thư ký đến làm
việc không được mang theo túi xách, giấy tờ, tài liệu vào khu vực in sao đề thi.
Cuối buổi, thư ký in đề quét dọn phòng in đề sạch sẽ.
Trên thực tế, CV đã cùng các CV khác trong Trung tâm đã thực hiện công
tác bảo mật đề thi như sau: Nơi in sao đề thi có sự giám sát của ban lãnh đạo TT,
sau khi in sao đề thi thì CV cho vào các túi đựng đề thi và dùng con dấu của TT
đóng dấu lên tất cả các mép, cạnh của túi đựng đề thi đảm bảo cho túi đựng đề thi
được niêm phong và bảo mật tuyệt đối. Các túi đựng đề thi được sắp xếp và cho
vào tủ của TT trước khi giao cho các cán bộ coi thi. Trong công tác bảo mật đề thi
CV đã thực hiện bảo mật từ khâu đầu đến khâu cuối (từ khâu nhận các đề thi từ các
khoa gửi lên đến khi in, sao, đóng dấu và bảo quản các túi đựng bài thi một cách
nghiêm ngặt).

18


3. Bàn giao bài thi kết thúc học phần (đối với các học phần do TTĐBCL tổ chức
công tác làm phách):
Có hai hình thức mà CV áp dụng đúng theo quy định, đó là: Thứ nhất, Trực
tiếp nhận bài thi tại khu vực thi: Trưởng Bộ môn hoặc người được ủy quyền bàn
giao bàn thi cho chuyên viên ngay sau khi kết thúc ca thi. Thứ hai, Trưởng Bộ môn
hoặc người được ủy quyền đến giao túi đựng bài thi cho chuyên viên thuộc TT tại
Văn phòng TT. Thời gian bàn giao tối đa là 01 ngày tính từ ngày tổ chức thi.
Trong quá trình bàn giao bài thi kết thúc học phần cho các giảng viên, CV đã

ghi vào sổ bàn giao bài thi và có chữ ký giữa bên giao và bên nhận rõ ràng, có dấu
đỏ của Trung tâm. Trong quyển sổ bàn giao bài thi CV ghi đầy đủ thời gian và địa
điểm nhận bài thi để tránh làm thất lạc các bài thi của người thi. Công tác bàn giao
bài thi được thực hiện nhanh chóng, chính xác giữa bên giao và bên nhận; đảm bảo
cho các quá trình đánh phách, làm phách, bàn giao được thực hiện đúng tiến độ
hoạt động của toàn trường.
4. Tổ chức công tác làm phách:
Việc tổ chức công tác làm phách bài thi học phần có hai hình thức được quy
định tại Điều 2 trong Quy định về công tác làm phách của Trung tâm:
TTĐBCL tổ chức công tác làm phách: được hiểu là việc TTĐBCL chủ trì và
chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng các khâu công việc: nhận túi bài thi, dồn túi,
đánh phách, rọc phách, ghép phách, lên điểm (nếu có), không phân biệt hệ đào tạo.
CV trước khi thực hiện công tác đánh phách thì nhận các tùi bài thi và dồn
lại một nơi để tiện lợi cho việc xử lý các túi bài thi đó. CV đánh phách theo hướng
dẫn và các quy định của Trung tâm: Đầu tiên cô bóc túi đựng bài thi sau đó đưa
danh sách thí sinh và đề thi trong túi đựng bài thi ra để một nơi; Tiếp theo sau đó
CV kiểm tra xem có đủ bài thi không, có thí sinh dự thi không để đánh phách
không bị nhầm lẫn, tránh sai sót của công tác lên điểm sau này.
19


CV thực hiện công tác rọc phách như sau: Đầu tiên gấp cả túi bài thi gọn
gàng, trật tự số phách từ 01 đến hết rồi sau đó dùng dao hoặc kéo để cắt sao cho
không bị mất nội dung và không bị mất số phách của bài thi. CV cắt lần lượt từng
xấp bài thi nhỏ để tiện cho việc kiểm tra các bài thi có bị mất nội dung không, có bị
mất số phách không. Trong quá trình rọc phách, CV vẫn bị mắc phải trường hợp
làm mất nội dung của một thí sinh; nhưng sau đó cô đã kịp thời dùng ghim để ghim
lại nội dung đã bị cắt vào bài thi của thí sinh.
Bộ môn tổ chức công tác làm phách: được hiểu là việc Bộ môn đăng ký với
nhà trường để tự chủ trì và chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng các khâu công việc.

Phân công tổ chức làm phách bài thi học phần:
Trung tâm ĐBCL tổ chức công tác làm phách bài thi đối với các học phần
thuộc khối kiến thức giáo dục đại cương, kiến thức cơ sở khối ngành, kiến thức cơ
sở ngành của tất cả các chuyên ngành; Đối với các đợt chấm thi tập trung, Trung
tâm ĐBCL tổ chức công tác làm phách bài thi;
Bộ môn tổ chức công tác làm phách bài thi đối với các học phần thuộc khối
kiến thức chuyên ngành, bổ trợ ngành, bổ trợ chuyên ngành.
Căn cứ vào khả năng của Bộ môn, hàng năm Bộ môn có thể đăng ký với nhà
trường (qua TTĐBCL từ ngày 01 đến ngày 15 tháng 09 hàng năm) danh mục các
học phần Bộ môn tổ chức công tác làm phách bài thi. Những học phần còn lại sẽ do
TTĐBCL đảm nhận công tác làm phách.
CV đảm bảo thời gian làm phách và các công tác phục vụ khác tối đa là 01
tuần tính từ ngày TT nhận bàn giao túi bài thi. Trưởng Bộ môn căn cứ vào thời gian
nói trên để có kế hoạch nhận bài thi đã rọc phách từ TT và phân công cán bộ chấm
thi.
Trong quá trình làm phách, CV đã rất kịp thời phản ánh những sai sót của
cán bộ coi thi (không ký xác nhận vào bài thi, không nhắc nhở thí sinh gấp bài thi

20


đúng quy định). Những kiến nghị này được Bộ môn tiếp nhận và khắc phục, góp
phần nâng cao hiệu quả coi thi.
5. Công tác phục vụ chấm thi kết thúc học phần (đối với các học phần do
TTĐBCL tổ chức công tác làm phách):
Chuyên viên đã thực hiện đúng quy trình được quy định như sau: CV cùng
cán bộ TT mở túi đựng bài thi, kiểm tra bài thi; nếu thiếu bài thi, số tờ giấy thi có
các trường hợp đặc biệt khác, phải lập biên bản và mời đại diện lãnh đạo Bộ môn,
cán bộ chấm thi đến để thông báo, đồng thời báo cáo Hiệu trưởng để xử lý; nếu
không có trường hợp đặc biệt, TT tổ chức dồn túi bài, làm phách, rọc phách và bàn

giao bài thi cho Bộ môn chấm thi kèm theo mẫu Biểu 4 và giấy thanh toán tiền
chấm thi theo quy định của Trường;
6. Giải quyết các yêu cầu xem lại bài thi của SV:
CV không trực tiếp nhận giải quyết yêu cầu xem lại bài thi của SV mà chỉ
tiếp nhận giải quyết các trường hợp được Khoa/ Bộ môn yêu cầu. Quy trình cụ thể
là:
Sinh viên có nguyện vọng xem lại bài thi nộp đơn đề nghị xem lại bài thi và
lệ phí thi xem lại bài thi tại các đơn vị quản lý sinh viên tương ứng. Hàng tuần các
đơn vị QLSV chuyển đơn xem lại bài thi về các Bộ môn;
Trong thời gian tối đa là 3 tuần sau khi nhận đơn, Bộ môn trả lời kết quả xem
lại bài thi cho sinh viên; trong đó Bộ môn giao nhiệm vụ cho các Giảng viên chấm
thi xem lại bài thi cho các trường hợp thắc mắc.
CV có trách nhiệm cung cấp số phách, số túi cho Bộ môn đối với những bài
thi rọc phách tại TT khi Bộ môn yêu cầu để thực hiện được tốt nhất công tác xem
lại bài thi cho SV.

21


CV trực tiếp nhận đơn xem lại bài thi và bàn giao trực tiếp cho các Giảng
viên chấm bài thi để xem lại bài thi cho các thí sinh thắc mắc. Khi có sự phản hồi
lại của các Giảng viên xem lại bài thi cho sinh viên thì CV lên điểm đã chỉnh sửa
lại điểm trên hệ thống cho các SV đảm bảo quyền lợi cho mỗi SV.
7. Các hoạt động khác:
Ngoài các công việc trên CV Trần Thị Minh Hảo còn thực hiện các hoạt
động khác là:
Hằng ngày, CV thường thu thập thông tin trên website của Trung tâm; tiếp
nhận các văn bản chỉ đạo từ các từ các khoa, phòng, ban, trung tâm giải quyết
nhanh chóng các công văn chỉ đạo một cách kịp thời và có hiệu quả. CV thu thập
các thông tin ý kiến phản hồi của SV ở mục hỏi đáp trong trang web của TT. Các

thông tin này được CV tiếp nhận, xử lý nếu là những thông tin đúng chức trách
được giải quyết; còn các thông tin không được quyền giải quyết thì báo cáo với
lãnh đạo TT để kịp thời giải quyết. Hoạt động lấy ý kiến của SV phản hồi về giảng
viên và các ý kiến của các giảng viên phản hồi về công tác đảm bảo chất lượg được
CV rất chú trọng. CV trực tiếp ghi lại những ý kiến đó để xem xét và xử lý nếu có
đủ bằng chứng về sự việc. CV sử dụng rất nhiều phương pháp để lấy ý kiến: dùng
phiếu hỏi, phiếu trưng cầu ý kiến, các đơn thư khiếu nại...nhằm mục đích thu thập
thông tin đa dạng, nhiều chiều đảm bảo cho công tác giải quyết các trường hợp
phản ánh một cách nhanh chóng, chính xác nhất.
Hằng tuần vào các thứ 6, CV thường tổ chức đi kiểm tra đột xuất điểm ở các
khoa. Đây cũng là một hoạt động thường xuyên để kiểm tra xem các phản ánh, thắc
mắc về điểm của SV có được giải quyết kịp thời không. Công tác kiểm tra thường
diễn ra vào thời điểm bất kỳ vào các ngày cuối tuần ở bất kỳ khoa nào nhằm phát
hiện ra các sai sót một cách khách quan nhất. Kiểm tra có tác dụng điều chỉnh, uốn
nắn và xử lý kịp thời các trường hợp sai sót, bất thường ảnh hưởng đến quyền lợi
22


của người dạy và người học. CV Trần Thị Minh Hảo trong công tác kiểm tra vừa
điều chỉnh, vừa uốn nắn các sai sót mang lại hiệu quả rất cao trong công việc.
Bên cạnh đó, còn có một số hoạt động khác như: Sắp xếp các văn bản, giấy
tờ, hồ sơ, sổ sách của TT; Thực hiện công tác chỉ đạo trong các hoạt động chung
của TT; Lên lịch thi cho hệ Cao học, hệ vừa học vừa làm...

23


PHẦN III: ĐÁNH GIÁ CHUNG
3.1. Những đánh giá chung về hoạt động của Trung tâm đảm bảo chất lượng
trường Đại học Vinh:

Trung tâm đảm bảo chất lượng trường Đại học Vinh đóng vai trò quan trọng
đối với hoạt động và sự phát triển của nhà trường. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn
trong hoạt động tác nghiệp nhưng với tinh thần trách nhiệm và sự nỗ lực của mỗi cá
nhân trong trung tâm cùng với sự chỉ đạo của Ban giám đốc Trường Đại học Vinh,
Trung tâm đảm bảo chất lượng đã thực hiện tương đối tốt các chức năng và nhiệm
vụ của mình.
Những mặt TT đã đạt được từ sau khi hình thành và phát triển tới nay thể
hiện qua các hoạt động chủ yếu sau đây: Trung tâm tiến hành hoạt động ĐBCL
dưới sự chỉ đạo của một hệ thống văn bản quy phạm tương đối đầy đủ dùng làm cơ
sở pháp lý hướng dẫn chi tiết các quy trình, các hoạt động tác nghiệp cụ thể; Trung
tâm có một đội ngũ cán bộ quản lý trẻ có trình độ, năng lực quản lý, chuyên môn
vững vàng, năng động, tích cực tìm tòi để bổ sung và nâng cao hiểu biết của bản
thân trong công việc cũng như trong các lĩnh vực khác. Cùng phong cách lãnh đạo
dân chủ đã tạo cho trung tâm một bầu không khí làm việc thân tình, cởi mở. Mối
quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các bộ phận luôn gắn kết phối hợp chặt
chẽ với nhau.

24


Hoạt động tác nghiệp ở trung tâm được tiến hành với sự hỗ trợ của hệ thống
cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ, hiện đại. Đây là hoạt động vừa mang tính chuyên
môn hóa, vừa mang tính phối hợp cao giữa các bộ phận,các cá nhân:mỗi cá nhân
vừa phụ trách một mảng hoạt động riêng, vừa hợp tác, phối hợp với các cá nhân, bộ
phận khác, đã thể hiện cách tổ chức lao động khoa học, chặt chẽ của trung tâm.
Chính nó đã góp phần tạo nên hiệu quả hoạt động cho toàn đơn vị.
Trung tâm đã ứng dụng rộng rãi CNTT vào trong quản lý đào tạo như là hệ
thống phần mềm quản lý hiện đại trong mọi hoạt động tác nghiệp, từ lập kế hoạch,
quản lý tổ chức đào tạo, quản lý điểm số, xử lý số liệu thống kê; Các phần mềm
quản lý của trường thường xuyên cập nhật và nâng cấp, có độ tương thích cao với

các hệ điều hành khác nhau, thuận tiện cho việc truy xuất dữ liệu và khai thác các
báo cáo cần thiết. Chính yếu tố CNTT đã góp phần quan trọng vào việc đảm bảo hệ
thống thông tin được chính xác, nhanh chóng, kịp thời và có giá trị đáp ứng các yêu
cầu mà công tác quản lý chất lượng đặt ra.
Tính kế hoạch cao trong mọi hoạt động quản lý cũng là một ưu điểm lớn của
Trung tâm: Quy trình lập kế hoạch quản lý đào tạo rất chuyên nghiệp với sự hỗ trợ
của CNTT và được thực hiện bởi đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn lập kế hoạch
và thành thạo CNTT. Mỗi CV tự lập kế hoạch cá nhân, đảm bảo mọi hoạt động tiến
hành thông suốt.
Việc tổ chức thực hiện kế hoạch diễn ra đúng tiến độ, khẩn trương, đạt hiệu
quả cao; CV có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, vì vậy có thể giải quyết
được khối lượng công việc lớn; kết quả học tập của người học được công bố công
khai, kịp thời theo quy định, không bị chậm gây ảnh hưởng đến kết quả của sinh
viên, được lưu trữ đầy đủ, chính xác và an toàn…
Về tổ chức lao động khoa học: Để góp phần hiện thực hóa mục tiêu, mỗi CV
luôn chủ động tổ chức một cách khoa học lao động của chính mình cũng như của
cả đơn vị trên cơ sở thực hiện một cách sáng tạo, linh hoạt các chức năng QL. Việc
25


×