Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

GIẢI PHÁP HỮU ÍCH RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 1 THÔNG QUA TIẾT TẬP VIẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.97 KB, 27 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
GIẢI PHÁP HỮU ÍCH

RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 1
Mã số SKKN:

THÔNG QUA TIẾT TẬP VIẾT
Họ và tên tác giả:
TRẦN THỊ DIÊN
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác:
Trường TH Đinh Trang Hòa II
Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được
đến trường, được học đọc, học viết. Biết đọc, biết viết thì cả một thế giới mới
rộng lớn mênh mông sẽ mở ra trước mắt các em. Nếu phân môn tập đọc – học
vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn tập viết sẽ giúp trẻ viết thạo. Trẻ đọc
thông, viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện
của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn
luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy
và bạn đọc bài của mình”. Thật vậy, nhìn trang vở của học sinh với những dòng
chữ đều tăm tắp, sạch sẽ thì cả cha mẹ và thầy cô đều dấy lên một niềm vui.
Chúng ta như đặt niềm tin vào tương lai của con trẻ. Việc rèn chữ viết cho học
sinh còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất tốt như:
tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ.
Dạy tập viết không chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản về
chữ viết mà còn rèn kỹ thuật viết chữ. Trong các tiết Tập viết, học sinh nắm bắt
được các tri thức cơ bản về cấu tạo các chữ cái tiếng Việt được thể hiện trên bảng


cài, bảng lớp, bảng con, trong vở tập viết và vở ghi bài các môn học khác… Đồng
thời, học sinh được giáo viên hướng dẫn các yêu cầu kỹ thuật viết từng nét chữ để
hình thành một chữ cái rồi đến tiếng, từ, cụm từ và cả câu. Ở giai đoạn đầu, trọng
tâm của việc dạy Tập viết là dạy viết chữ cái và kết nối các chữ cái lại để ghi
tiếng.
Học chữ chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường. Tập viết là một
phân môn có tầm phần quan trọng đặc biệt ở tiểu học, nhất là đối với các em lớp
1.
Tuy nhiên, chúng ta đang ở trong một thời đại mới, thời đại công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi người thường ngồi
với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo một văn bản thay vì cầm bút để viết
trên giấy nên việc rèn chữ viết của mọi người cũng đang dần mất đi vị trí của nó.
Ở trong trường Tiểu học cũng vậy, trong những năm học gần đây, học sinh
viết chữ xấu hơn là một tình trạng đáng báo động. Hiện nay học sinh lựa chọn đủ
các loại bút để viết, đặc biệt là học sinh rất yêu thích với chiếc bút lông có ngòi là
một viên bi nhỏ của mình hơn là những loại bút máy bơm mực đòi hỏi phải có kĩ
thuật, phải có sự khéo léo mới có thể viết được như ngày xưa. Mặt khác, các thầy
1.
2.
3.
4.

-1-


cô giáo cũng chưa thực sự quan tâm đến việc rèn chữ viết của mình, chữ viết của
khá nhiều giáo viên chưa đúng quy định điều đó cũng ảnh hưởng rất nhiều đến
việc rèn chữ viết của học sinh. Bởi vì, mỗi thầy, cô giáo được xem như là một tấm
gương phản chiếu để học sinh soi rọi vào đó. Lứa tuổi của học sinh Tiểu học là
lứa tuổi hay “bắt chước”, giáo viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế đó;

đặc biệt là học sinh lớp 1.
Từ những hạn chế về chữ viết của học sinh nêu trên và nhận thức được tầm
quan trọng của chữ viết đối với sự hình thành và phát triển tri thức đối với mỗi
đứa trẻ, cùng với ý thức lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của giáo viên, bản
thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở về điều này . Trong giảng dạy, tôi đã không
ngừng tích lũy kinh nghiệm về chữ viết để sớm giúp các em viết chữ đẹp hơn,
luôn cố gắng tìm ra phương pháp dạy học thích hợp để giúp các em khắc phục
những hạn chế và phát huy những ưu điểm về viết chữ viết của mình. Để giúp học
sinh lớp 1 viết đúng, viết đẹp hơn, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Rèn chữ viết cho
học sinh lớp 1 thông qua tiết Tập viết”.
5.Nội dung giải pháp hữu ích:
5.1. Khó khăn, thuận lợi và sự cần thiết của đề tài:
5.1.1 Khó khăn:
HS lớp 1 còn rất nhỏ tuổi, hoạt động học tập là hoạt động mới được hình
thành.
Cột sống của HS ở cổ, ở ngực, ở thắt lưng đang được hình thành, nên ngồi
lâu các em dễ mệt mỏi, chán nản dẫn đến tư thế ngồi viết thường thay đổi theo
hướng chưa đúng.
Tri giác của học sinh thiên về nhận biết tổng quát, nên khi áp dụng những
kỹ thuật viết chữ các em không tránh khỏi những lúng túng khi viết. Vì vậy việc
rèn cho HS viết đúng, viết đẹp là rất khó khăn.
Một bộ phận không nhỏ học sinh viết chưa đúng mẫu các chữ ghi âm,
không đúng cỡ chữ (độ cao, độ rộng) ghi dấu thanh không đúng vị trí.
Một số HS chưa nắm chắc luật chính tả nên còn viết sai chính tả: ge, nge,
ci…
Phần lớn HS viết chữ chưa đẹp (chưa có tính thẩm mĩ) các nét chữ, con chữ
chưa đều, sự kết hợp các con chữ chưa hài hoà, mềm mại, chữ viết nghiêng ngả
(lúc nghiêng bên phải, lúc nghiêng bên trái) một cách tuỳ tiện. Một số học sinh
(HS) chưa biết cách trình bày một bài viết sao cho cân đối về khoảng cách các
vần, các từ.

Khi viết chưa biết nối nét giữa các chữ, các chữ rời rạc, xa – gần không
đúng khoảng cách,…
Tư thế ngồi, cách cầm bút sai: Nhiều em ngồi cúi sát mặt xuống vở, người
cong vẹo, vai thấp, vai cao. Rất nhiều em cầm bút bằng 4 ngón, có em cầm bút
bằng 5 ngón tay, có em cầm bút ngả về phía trước, cán bút vuông góc với mặt vở.
Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển,
học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về mặt thể chất, bé nhỏ hơn so với
các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, tiến
bộ chậm.

-2-


Một số phụ huynh trong lớp chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của
con em mình, chưa tạo điều kiện tốt cho con em mình học bài, làm bài như thiếu
sách, thiếu vở, thiếu đồ dùng học tập... Nên việc phối hợp giáo dục học sinh giữa
gia đình và nhà trường còn gặp không ít khó khăn.
Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn
phải tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất
nhiều thời gian đầu tư.
Đèn chiếu, máy vi tính trang bị trong phòng học chưa có, mỗi lần dạy phải
kết nối mất nhiều thời gian.
5.1.2 Thuận lợi :
Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục hiện nay, đội ngũ
giáo viên đã và đang ra sức tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao dần trình
độ nghiệp vụ cũng như tay nghề.
Ban Giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến học sinh lớp 1, các em được
học ở môi trường khang trang sạch sẽ, ngồi học bàn ghế chuẩn đối với lứa tuổi
của các em.
Các em được cha mẹ trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập theo yêu cầu.

Phòng thư viện cung cấp đủ đồ dùng: như bộ đồ dùng để học Tập viết dành
cho học sinh, bộ đồ dùng để dạy Tập viết có kích cỡ lớn hơn dành cho giáo viên.
Hệ thống máy tính, máy chiếu có kết nối mạng mà nhà trường trang bị cho
các tổ chuyên môn tương đối đầy đủ, phục vụ có hiệu quả cao cho việc dạy và
học tập môn Tập viết, đặc biệt là việc phục vụ hiệu quả cho các tiết học có ứng
dụng công nghệ thông tin vào trong việc rèn chữ viết cho học sinh.
Trong những năm học gần đây, các em học sinh lớp 1 của trường tôi được
học 2 buổi/ngày nên giáo viên có nhiều thời gian để quan tâm, giáo dục các em.
Những thuận lợi trên là đòn bẩy thúc đẩy chất lượng giáo dục nói chung và
chất lượng chữ viết nói riêng của học sinh lớp 1 trong trường.
5.1.3 Sự cần thiết của đề tài:
Tập viết là một trong những nội dung có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học,
nhất là đối với lớp 1. Nó góp phần rèn luyện một trong 4 kĩ năng hàng đầu của
việc học Tiếng Việt trong nhà trường.
Tập viết không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn
học khác mà còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho HS những phẩm
chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỉ luật và óc thẩm mĩ.
Chữ viết là một công cụ để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để
ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hoá, khoa học và đời sống. Do vậy ở
trường Tiểu học việc dạy học sinh viết chữ và làm chủ được công cụ chữ viết để
phục vụ cho học tập, giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng
Việt. Đặc biệt là học sinh lớp 1 việc học chữ viết lúc bắt đầu đến trường là vô
cùng quan trọng.
Nếu viết chữ đúng mẫu, tốc độ viết nhanh thì HS có điều kiện ghi chép bài
tốt nhờ vậy kết quả sẽ cao hơn. Viết xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới
chất lượng học tập.

-3-



Từ trước đến nay, trường tôi đã đặc biệt quan tâm đến chất lượng chữ viết
của học sinh. Vì vậy vấn đề rèn chữ viết đẹp cho HS luôn được đề cập và
mang tính cấp bách đối với các thầy cô trực tiếp giảng dạy.
Hơn nữa, từ tháng 10 năm 2014 bắt đầu áp dụng thông tư 30/2014/TTBGDĐT yêu cầu các trường áp dụng hình thức đánh giá không cho điểm đối với
học sinh Tiểu học. Khi thực hiện thông tư này, các giáo viên trong tổ 1 đều rất
lúng túng, đặc biệt là đối với môn Tập viết: Không cho điểm thì đánh giá như thế
nào, nhận xét bài viết của học sinh ra sao, sửa lỗi như thế nào là phù hợp, làm thế
nào để không chấm điểm vẫn có thể thúc đẩy học sinh cố gắng rèn luyện chữ viết
của mình, ...
Căn cứ vào tình hình thực tế giảng dạy ở lớp và những khó khăn gặp phải
trong khi dạy tiết Tập viết. Tôi quyết định nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra một số
giải pháp: Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 thông qua tiết Tập viết.
5.2 Phạm vi áp dụng của giải pháp hữu ích
Giải pháp hữu ích này được áp dụng cho học sinh lớp 1A1 do tôi chủ
nhiệm, ngoài ra giải pháp hữu ích này còn đươc nhân rộng để áp dụng cho toàn
bộ học sinh trong khối 1 của trường tôi.
5.3 Thời gian áp dụng:
Trong năm học 2013 – 2014 tôi đã áp dụng giải pháp này vào lớp 1A4 và tôi
nhận thấy có tính khả quan cao. Trong năm học này - năm học 2014 – 2015 nhằm
nâng cao chất lượng giờ Tập viết nói chung và chất lượng chữ viết của học sinh
nói riêng tôi lại mạnh dạn áp dụng giải pháp này trong suốt năm học.
5.4 Giải pháp thực hiện:
5.4.1 Tính mới của giải pháp hữu ích:
Việc đề ra những biện pháp mới của giải pháp hữu ích này dựa trên quan
điểm kế thừa, phát huy cải tiến những biện pháp đã có và đề xuất thêm những
biện pháp mới, những biện pháp này khắc phục những hạn chế của học sinh, góp
phần nâng cao ý thức của học sinh, phối hợp việc giáo dục ở cả nhà trường và gia
đình. Giải pháp này tôi nghiên cứu lỗi chữ viết, nguyên nhân dẫn đến chữ viết
chưa đẹp, nghiên cứu tìm ra những biện pháp thực hiện trong việc rèn chữ cho
học sinh lớp 1 nhằm khắc phục tình trạng chữ viết chưa đúng và chưa đẹp của học

sinh trong phân môn tập viết. Cụ thể như sau:
5.4.1.1 Chuẩn bị cho một tiết tập viết:
Để một giờ tập viết thành công trước tiên phải có sự chuẩn bị chu đáo về
cơ sở vật chất. Kiểm tra những điều kiện về cơ sở vật chất:
- Ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế của học sinh: Đây là những yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến việc viết chữ và sức khoẻ của học sinh. Hiện nay
trường ta đã đảm bảo các yêu cầu cơ bản về ánh sáng theo tiêu chuẩn học đường
có bảng chống loá, bàn ghế đúng kích cỡ, đúng tiêu chuẩn đối với học sinh lớp 1.
- Đồ dùng của học sinh: Chuẩn bị loại bút thích hợp, đến cách chọn bảng
con và phấn viết cũng phải được lưu tâm đến. Giáo viên (GV) cần hướng dẫn phụ
huynh tìm mua bút, bảng, phấn có chất lượng tốt. Thực tế dạy viết hiện nay cho
thấy sử dụng bảng con trong việc rèn chữ cho học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 1
vẫn là tối ưu nhất. Có nhiều học sinh được bố mẹ mua cho bảng làm bằng chất
liệu mêca màu trắng, dùng viết dạ viết bảng. Dùng loại bảng và bút này có nhiều
-4-


hạn chế: bảng trơn, học sinh không chủ động, mực ra đậm nhạt không đều, khi
xoá dễ gây bẩn, mất vệ sinh. Hơn nữa, do bút to quá cỡ tay cầm bút của học sinh
khiến các em khó điều khiển ngòi bút khi viết chữ. Cho nên trong buổi họp phụ
huynh đầu năm, giáo viên chủ nhiệm phải đưa ra những loại bút, bảng, phấn để
phụ huynh tham khảo rồi đi đến thống nhất trong toàn lớp tránh tình trạng bảng
của em này thì ô li to của em kia thì ô li nhỏ sẽ gây khó khăn khi dạy Tập viết.
Chuẩn bị bút chì hơi nhọn, đúng tầm cũng có tác dụng rất lớn (nếu bút chì nhọn
và cứng quá nét sẽ mảnh, đôi khi còn chọc thủng cả giấy hoặc nếu nét chì quá to
và mềm thì nét sẽ to quá cỡ, học sinh khó viết được chuẩn các nét).
Để có kết quả chữ viết đẹp ta cần lưu ý sử dụng bút như sau:
- Bút không quá dài hoặc quá ngắn, khoảng 13cm là vừa phải.
- Bút không to hoặc nhỏ quá, nhất là chỗ tay cầm bút, đường kính khoảng
7mm là vừa

- Phần ngòi bút và lưỡi gà cắm vào cổ bút phải vừa khít không quá rộng
hoặc quá chật. Phần ngòi bút không được mềm quá dễ bị hỏng.
- Các bộ phận khác của bút phải đảm bảo cho việc hút mực, giữ mực và ra
mực đều.
- Toàn bộ trọng lượng cây bút không được quá nặng hoặc quá nhẹ (khoảng 8
đến 10g/1 cây bút là vừa).
- Ngòi bút không quá trơn để điều khiển được bút theo ý người viết, không
quá sắc để khi viết không bị gai, tránh việc rách giấy và nhoè mực.
Lưu ý: Khi sử dụng bút viết xong cần đóng nắp lại ngay để tránh khô mực ở
đầu ngòi hoặc có thể rơi, va chạm vào vật cứng sẽ bị cong, gãy ngòi. Khi di
chuyển, vận động bút nên để tư thế thẳng đứng hướng ngòi bút lên trên để tránh
việc mực tràn ra nắp bút gây bẩn tay và vở.
- Kẻ bảng lớp theo đơn vị dòng ly, chuẩn bị theo vở tập viết của học sinh
- Ngay từ những ngày đầu, giáo viên phải cho học sinh nắm chắc các đường
kẻ ngang, dọc các đường ly, dòng ly, cách chia ô thành những điểm chuẩn để viết.
5.4.1.2 Hướng dẫn tư thế viết:
- Đây là bước không kém phần quan trọng trong một giờ Tập viết mà không
ít giáo viên đã bỏ qua hoặc hướng dẫn chưa đến nơi đến chốn dẫn đến tình trạng
các em ngồi viết chưa đúng tư thế (nghiêng bên phải, bên trái) cách để vở, để tay,
cách cầm bút chưa khoa học, chưa hợp lý dẫn đến việc học sinh dễ mỏi, dễ chán
nản nên viết chữ cẩu thả, tuỳ tiện, chữ xấu, vở quăn mép, nhăn nheo,...Vì vậy cần
phải hướng dẫn tư thế ngồi viết đúng quy cách cho học sinh như sau:
- Ngồi ngay ngắn, thẳng cột sống, vai ngang bằng, tránh tỳ ngực vào bàn dễ
mắc bệnh tim phổi
- Chân gập thành vuông góc
- Đầu cúi hơi nghiêng
- Mắt cách vở khoảng 25-30cm
- Tay trái giữ chặt mép vở, tay phải cầm bút bằng 3 đầu ngón tay, ngón trỏ
để cách đầu bút 1 cm (khoảng 1 đốt ngón tay) vở nên để hơi chếch về bên trái từ
-5-



15-20 độ so với mép bàn, cầm bút xuôi theo chiều ngòi, bút nghiêng so với mặt
giấy khoảng 45 độ, khi viết đưa bút từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, không
ấn mạnh ngòi bút xuống giấy.
Hiện nay nhiều giáo viên không chú ý hướng dẫn và rèn cho học sinh cách
cầm bút, để vở nên rất nhiều em cầm bút và tư thế ngồi sai lệch rất đáng lo ngại.
Vì vậy việc chỉnh sửa tư thế viết cho học sinh phải được đề cập đến thường
xuyên trong từng giờ Tập viết.
5.4.1.3 GV phải phối hợp các phương pháp dạy học để tiết học có hiệu
quả:
- Chữ mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết, là điều kiện đầu
tiên để các em viết đúng. Chữ viết mẫu phải đúng quy định, rõ ràng sạch đẹp.
Chữ mẫu phải phóng to giúp HS quan sát, tạo điều kiện cho HS phân tích hình
dáng, độ cao, độ rộng, các nét cơ bản. GV đưa mẫu chữ phóng to và dùng thước
chỉ cho HS dễ quan sát từng nét.
Chữ viết mẫu của GV trên bảng chính là nội dung dạy học, là phương pháp
trực quan, là mẫu mực cho HS noi theo. Do vậy chữ GV viết trên bảng phải đúng,
đẹp.
- Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở đầu của tiết học, GV dẫn dắt HS
tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng 1 hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi các nét, cấu
tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến việc so sánh các nét giống nhau giữa
con chữ đã học với con chữ đã phân tích.
- Muốn HS viết đúng, viết đẹp, HS chỉ có một con đường là luyện tập. GV
hướng dẫn HS luyện tập thực hành từ thấp đến cao để HS dễ dàng tiếp thu. Lúc
đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết
đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kĩ năng viết chữ phải được
tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn Tập viết cũng như ở các
phân môn Tiếng Việt khác. Khi HS luyện tập viết chữ GV cần luôn luôn chú ý
uốn nắn để các em cầm bút đúng quy định. Bài viết đẹp phải đi kèm với tư thế

ngồi đúng, rèn cho HS viết đẹp mà quên đi việc uốn nắn cách ngồi viết là một
thiếu sót lớn của GV.
- Muốn viết nhanh phải nắm được kĩ thuật viết liền mạch và kĩ thuật sử
dụng nét bút phải nối liền liên tục không bị đứt quãng giữa các nét trong một chữ.
Thông thường viết một nét chữ, nét bút liền mạch từ đầu đến cuối sau đó nhấc bút
viết dấu phụ, vị trí dấu thanh đặt bút trên hoặc dưới âm chính.
5.4.1.4 Lựa chọn các hình thức luyện tập trong quá trình rèn chữ viết cho
HS
+ Luyện viết bảng con
+ Luyện viết trong vở tập viết
+ Luyện viết phải thường xuyên trong các môn học khác
- Muốn hoạt động viết đúng và đẹp không phải ngày một, ngày hai mà làm
được ngay, nó đòi hỏi phải có một quá trình rèn luyện lâu dài. Trước hết phải có
sự dạy dỗ công phu của các thầy cô giáo theo một phương pháp khoa học, kinh
nghiệm đã được đúc kết cùng với sự kèm cặp thường xuyên, sâu sát của các bậc
phụ huynh, sự nỗ lực kiên trì của mỗi học sinh.
5.4.1.5 Hướng dẫn viết:
-6-


- Công việc chuẩn bị của giáo viên dù có kỹ lưỡng đến đâu mà thiếu bước
hướng dẫn viết thì tiết dạy đó không bao giờ thành công. Phần hướng dẫn viết về
cơ bản bao giờ cũng có hệ thống câu hỏi như sau:
- Con chữ (b) gồm mấy nét? Là những nét nào?
+ Nhận xét độ cao, độ rộng của con chữ
+ Chữ bé được viết bằng mấy con chữ
- Nhận xét độ cao của các con chữ? Vị trí dấu thanh?
Tuy nhiên từng bài mà giáo viên phải có hệ thống câu hỏi hợp lý với nội
dung của từng bài viết.
Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp học

sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng chữ cái. Do vậy, giáo viên
phải viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ vừa giảng giải, phân tích cho học sinh.
Khi viết mẫu, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh nhìn thấy tay của giáo viên
viết từng nét chữ.
Khi viết, giáo viên vừa kết hợp giảng giải, phân tích: đưa bút như thế nào?
Thứ tự các nét viết ra sao? Giáo viên cũng cần chú ý phân tích cả cách viết dấu
phụ và dấu thanh.
Người giáo viên phải coi trọng việc trình bày trên bảng là trang viết mẫu
mực của mình cho học sinh noi theo. Do vậy việc khổ công rèn luyện viết đúng,
viết đẹp, viết rõ ràng và ngay ngắn là tiêu chí mọi GV đều phải đặt ra và thực hiện
bằng được trong từng giờ học, trong từng cách trình bày bảng sao cho khoa học,
đẹp mắt.
Ngoài yêu cầu về viết đúng, viết đẹp tôi còn luôn chú ý tạo sự thống nhất
trong cách trình bày bảng ở từng phân môn và thể hiện bài dạy. Từ đó quy định
cách trình bày bài viết trong vở của học sinh để tạo ra sự thống nhất, chuẩn mực
từ các chi tiết nhỏ nhất (gạch chân, kẻ hết bài, kẻ hết buổi, cách ghi phân môn,
cách trình bày bài thơ lục bát, thơ tự do và bài văn xuôi...) Hay khi chấm bài tôi
rất chú ý đến việc chữa lỗi kĩ cho học sinh kết hợp với lời phê chính xác, mang
tính khích lệ, chỉ bảo, luôn chứa đựng tình cảm, động viên học sinh để học sinh tự
tin vào bản thân khi viết bài và nhận ra những tồn tại cần khắc phục.
Công việc cuối cùng là giáo viên dùng thước nhỏ, hoặc que chỉ để đồ từng
nét chữ đã viết mẫu trên bảng từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc của từng chữ
thật chậm để học sinh quan sát quy trình viết của từng con chữ rồi thực hành
luyện viết vào bảng con và vào vở.
5.4.1.6 Nhận xét, đánh giá bài viết của học sinh:
Quá trình luyện chữ đẹp cho học sinh thực chất là quá trình sửa lỗi sai cho
các em vì vậy giáo viên cần biết chính xác lỗi sai, nguyên nhân và cách khắc phục
các lỗi sai đó thì việc luyện chữ cho các em mới đạt kết quả cao. Do đó việc nhận
xét, đánh giá bài viết của học sinh là hết sức quan trọng nên giáo viên cần chỉ ra
cho các em biết mình sai lỗi gì, nguyên nhân sai là do đâu và khắc phục như thế

nào? ...
- Một số lỗi sai học sinh thường mắc
+ Thiếu nét

+ Mẫu chữ

+ Thừa nét

+ Cỡ chữ
-7-


+ Sai nét

+ Chính tả

+ Khoảng cách

+ Trình bày

+ Sai dấu

+ Tốc độ viết chậm

- Phân tích nguyên nhân và cách khắc phục
+ Thiếu nét: Do thói quen của học sinh chưa viết hết nét chữ đã dừng lại,
cần nhắc nhở thường xuyên để tạo thói quen viết hết nét và dừng bút đúng điểm,
đúng quy định. Cho học sinh thêm nét cho đủ nét ở ngay những chữ học sinh vừa
viết thiếu nét, đồng thời xem lại những bài viết trước chữ nào thiếu nét thì thêm
vào cho đủ và cho tập viết lại ngay bài vừa sửa.

+ Thừa nét: Lỗi này do học sinh viết sai quy trình, điểm đặt bút ban đầu, nét
đầu học sinh viết không đúng, dừng vượt quá điểm quy định. Cách khắc phục là
hướng dẫn lại quy trình viết chữ cái. Chú ý nếu học sinh sai chữ nào chỉ hướng
dẫn lại quy trình chữ đó bao giờ viết đúng, đẹp mới thôi.
+ Sai nét: Lỗi này thường là do học sinh cầm bút sai, các ngón tay quá gần
ngòi bút hoặc tay cầm bút bị cong, khi viết biên độ giao động của ngòi bút ngắn,
đầu ngòi bút di chuyển không linh hoạt làm cho nét chữ bị cong vẹo gây sai nét.
Cách khắc phục là nhắc học sinh cầm bút cho đúng. Khi viết ngón tay cử động
linh hoạt phối hợp với cử động của cổ tay và cánh tay.
+ Khoảng cách: Lỗi này thường mắc với những học sinh viết hay nhấc bút,
không viết liền mạch, đưa tay không đều. Cần giúp học sinh kĩ thuật viết liền
mạch, đưa đều tay. Quy định về khoảng cách chữ là 1 ô đơn vị chữ, khoảng cách
giữa các con chữ thay đổi theo từng nét chữ khoảng từ 1/2 đến 3/4 ô đơn vị. Viết
liền mạch xong chữ mới đánh dấu chữ và dấu thanh.
VD: viết chữ : trắng - hướng dẫn viết: trang - liền mạch, xong mới đánh
dấu t, ă, và dấu sắc - trắng.
+ Dấu chữ, dấu thanh: Học sinh thường mắc lỗi đánh dấu quá to, quá cao
không đúng vị trí. Để khắc phục lỗi này cần quy định lại cách đánh dấu chữ và
dấu thanh nhỏ bằng 1/2 đơn vị chữ. Dấu thanh đánh vào âm chính của vần và
không vượt quá đơn vị thứ hai. Nếu chữ có dấu mũ thì các dấu thanh nằm bên
phải dấu mũ.
- Thực hiện theo thông tư 30/2014/TT-BGDĐT, GV tuyệt đối không chấm
điểm cho học sinh nữa, thay vào đó, GV nhận xét trực tiếp bằng lời hay phê vào
vở của các em, chỉ cho HS thấy ưu điểm và hạn chế trong bài viết của mình.
Ngoài ra GV nên giới thiệu đến từng học sinh những trang vở viết chuẩn mực của
học sinh trong lớp hoặc học sinh những năm trước để học sinh và phụ huynh cùng
nêu cao quyết tâm rèn chữ cho bằng bạn.
- Với những bài viết chưa đẹp, viết ẩu thì ngoài việc kèm thêm ở lớp GV
nên trực tiếp gặp gỡ phụ huynh của em đó trao đổi và cùng đem ra hướng giải
quyết hay thống nhất cách dạy giúp học sinh tiến bộ hơn. Từ đó bồi dưỡng cho

học sinh lòng say mê, tinh thần quyết tâm rèn chữ viết, bồi dưỡng cho học sinh
một số đức tính và thái độ cần thiết trong việc rèn luyện chữ viết như lòng say
mê, ý trí quyết tâm, tính cẩn thận, chính xác, có óc thẩm mỹ, lòng tự trọng, tạo
-8-


được hứng thú cho học sinh hăng say tập viết và có ý thức viết đúng và đẹp. Vì
nếu ở lớp 1 đã viết sai, viết xấu thì lên các lớp trên khó viết đúng, viết đẹp được.
Thỉnh thoảng GV giới thiệu cho HS những gương rèn chữ của những bậc tiền bối
như thầy Cao Bá Quát, hay của một số thầy cô hay HS nào đó. Cho học sinh xem
vở rèn chữ của thầy, của những học sinh tiêu biểu từ những năm trước. Qua
những mẩu truyện, qua thực tế được nhìn những trang vở trước và sau khi rèn chữ
của thầy, các bạn, các em có thêm tin tưởng và thêm quyết tâm say mê rèn luyện
chữ viết.
5.4.1.7 Tổ chức tốt phong trào thi viết chữ đẹp:
- Để khí thế rèn chữ viết sôi nổi GV thường xuyên động viên khuyến khích,
khích lệ học sinh bằng cách thưởng ngay 1 quyển vở hay 1 cây bút cho những em
có bài viết đúng và đẹp. Hình thức khích lệ này đã tạo cho học sinh một ý thức
quyết tâm rèn luyện chữ viết trong từng giờ Tập viết để được thưởng.
- Hàng tuần GV nên tổng kết, tuyên dương những học sinh đạt nhiều bài
viết đúng, viết đẹp
- Mỗi tháng một lần đánh giá, xếp loại vở sạch chữ đẹp cho học sinh sau đó
tổ chức một giờ thi viết chữ đẹp trong lớp để chọn ra bài viết đẹp nhất, chuẩn
mực và có phần thưởng xứng đáng cho học sinh đạt giải, nếu có thể thì phôtô bài
viết đẹp gửi cho từng học sinh và phụ huynh tham khảo học tập. Và lấy bài viết
đó dự thi trong khối.
- Mặt khác phải tiếp tục duy trì và đẩy mạnh phong trào thi “Vở sạch chữ
đẹp” ở tất cả các môn. Kết hợp với cha mẹ học sinh và tổ chức tốt các phong trào
thi đua.
Đặc điểm của học sinh Tiểu học là nhanh quên vì vậy việc rèn luyện viết

chữ đúng, đẹp cần được làm thường xuyên và liên tục ở mọi nơi mọi lúc, ngoài sự
dạy dỗ của thầy cô ở lớp việc cha mẹ giúp đỡ con rèn chữ ở nhà là một việc quan
trọng vì vậy ngay buổi học đầu tiên của năm học tôi đã trao đổi rất kĩ tầm quan
trọng của việc rèn chữ cho học sinh và phổ biến cách dạy các cháu ở nhà cho
thống nhất với giáo viên ở lớp.
Một mặt nữa tôi luôn chú ý bồi dưỡng lòng say mê và quyết tâm rèn chữ
viết cho học sinh thông qua các phong trào thi đua theo tuần, theo chủ điểm và
kết hợp với hội cha mẹ học sinh khen thưởng kịp thời.
5.4.2 Khả năng áp dụng:
Giải pháp hữu ích này được áp dụng trong tất cả các tiết Tập viết trong
chương trình Tiếng Việt lớp 1 ở trường tôi và có thể áp dụng được cho đối tượng
học sinh lớp 1 ở một số trường trong khu vực.
5.4.3 Kết quả thực hiện:
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, kết quả giữ vở và rèn viết
chữ đẹp của tập thể lớp 1A1 đã đạt được những kết quả cao như sau:
- Học sinh rất chăm chỉ, có ý thức trong việc rèn chữ viết và trình bày vở
sạch đẹp, chữ viết của các em có tiến bộ hơn hẳn so với đầu năm học.
- Đa số các em nắm được cấu tạo chữ, mẫu chữ và kĩ thuật viết chữ.
- Học sinh viết chữ thành thạo, đẹp, chữ viết đúng quy định, chữ đứng nét
đều.
-9-


- Học sinh còn biết tự mình thể hiện bài viết sáng tạo như bài viết chữ
nghiêng, có nét thanh, nét đậm.
- 96% học sinh biết giữ vở sạch sẽ.
Kết quả rèn chữ cụ thể như sau:
KẾT QUẢ XẾP LOẠI VỞ SẠCH - CHỮ ĐẸP THÁNG 10/2014
TSHS
Loại A

Loại B
Loại C
35
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
9
26
11
31
15
43
KẾT QUẢ XẾP LOẠI VỞ SẠCH - CHỮ ĐẸP THÁNG 12/2014
TSHS
Loại A
Loại B
Loại C
35
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
15
43
11

31
9
26
KẾT QUẢ XẾP LOẠI VỞ SẠCH - CHỮ ĐẸP THÁNG 1/2015
TSHS
Loại A
Loại B
Loại C
35
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
15
43
15
43
5
14
Ngoài ra, qua các kì thi viết chữ đẹp cấp trường, cấp huyện học sinh lớp
tôi cũng gặt hái được nhiều thành tích. Cụ thể như sau:
STT
1

Họ và tên học sinh
Lê Thị Diễm Quỳnh

Đạt giải

Giải nhất cấp trường, giải
khuyến khích cấp huyện
2
Vũ Thị Huyền Trang
Giải nhì cấp trường
3
Trương Thị Kiều Oanh
Giải ba cấp trường
Không những các em chỉ hoạt động tốt trong phong trào rèn chữ viết,
bên cạnh đó các em đã thực hiện tốt được nề nếp, đẩy mạnh được chất lượng học
tập của mình trong tất cả các môn học.
6. Bài học kinh nghiệm – Đề xuất, kiến nghị:
6.1 Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình tích lũy, nghiên cứu, áp dụng một số giải pháp về việc “Rèn
chữ viết cho học sinh lớp 1 thông qua tiết Tập viết” tôi nhận thấy rằng việc rèn
luyện viết chữ đẹp đóng một vai trò quan trọng trong việc học tập của học sinh,
rèn luyện chữ viết đẹp là một nhiệm vụ không thể thiếu với lớp học đầu cấp.
Cùng với tập đọc, luyện viết chữ giúp học sinh rèn luyện một trong bốn kĩ năng
của môn Tiếng Việt. Rèn chữ viết giúp học sinh được rèn luyện một số phẩm chất
như tính kiên trì, cẩn thận, khả năng thẩm mỹ….Viết chữ đẹp là nguyện vọng, là
mong muốn của mỗi giáo viên, của mỗi phụ huynh học sinh. Vậy có thể thấy rằng
chữ đẹp là một nét văn hóa truyền thống, thể hiện sự tài hoa của người cầm bút, là
món ăn tinh thần không kém phần quan trọng trong cuộc sống của con người xưa
và nay.
-10-


Trong quá trình dạy môn Tõp viờt và hớng dẫn học sinh viết đúng, viết đẹp
tôi nhận thấy: Tập viết là bộ môn thực hành phải có sự luyện tập thờng xuyên
hằng ngày. Tuy nhiên lứa tuổi các em còn nhỏ, rất ngại viết nhiều vì khi viết các

em phải tập trung chú ý cao độ dễ gây mệt và cơ tay các em còn yếu nên nhanh bị
mỏi chữ xấu chán viết, ngại viết. Giáo viên trong quá trình dạy khụng nờn
cho học sinh viết quá nhiều bài v nờn thực hiện một số biện pháp nh tôi đã nêu ở
trên. Đặc biệt can động viên khen thởng kịp thời những học sinh viết bài có tiến
bộ.
Trong khi tập viết, học sinh đợc hoạt động cá nhân nhiều s phát huy tính
tích cực chủ động tự giác của các em để hoàn thành bài học. Phơng tiện hoạt động
đúng mức sẽ góp phần lớn trong việc hình thành nhân cách cho các em, rèn cho
trẻ những phẩm chất đạo đức nh: tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và thẩm mỹ để
sau này lớn lên các em sẽ trở thành những con ngời có ích cho xã hội. Trong nhà
trờng việc dạy học sinh viết đúng, viết đẹp cần đợc coi trọng từ lớp 1 và cả các lớp
trên. Đó là một yêu cầu không thờ xem nhe của giáo dục phổ thông.
Tôi thiết nghĩ, để giúp các em học sinh viết sạch đẹp thì nhà trờng và gia
đình cần chuẩn bị tốt những điều kiện ban đầu về cơ sở vật chất giúp các em có đợc sự thoải mái khi viết. Đồng thời ngời giáo viên cần phải kết hợp và sử dụng các
phơng pháp một cách linh hoạt, có sự sáng tạo trong giảng dạy. Và một điều kiện
không thể thiếu với mi ngời giáo viên đó là sự kiên trì, tính cẩn thận và luôn luôn
yêu nghề mến trẻ.
6.2 ờ xuõt kiờn nghi:
Viết đợc chữ Tiếng Việt không khó, nhng viết đợc chữ sạch đẹp thì không
phải học sinh nào cũng làm đợc, tôi suy nghĩ việc này có kết quả cao hơn nếu đợc
quan tâm thêm. Vì vậy tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau:
6.2.1 ụi vi nha trng:
- Thng xuyờn t chc cỏc bui chuyờn ỏnh giỏ v rỳt kinh nghim
nõng cao cht lng v sch ch p ca trng, ca tng khi lp.
- Duy trỡ cỏc phong tro thi ua Gi v sch- vit ch p. Hi thi vit
ch p cp trng.
- Trng by cỏc bi vit p, tp v sch cho hc sinh ton trng tham
kho.
- a tiờu chun Gi v sch- vit ch p vo ỏnh giỏ thi ua ca thy
v trũ.

- Nh trng to iu kin v thit b dy hc: nh chun b bng dnh cho
gi hc Tp Vit cú k ụ ỳng theo quy nh.
- Trang bi đầy đủ hơn đồ dùng trực quan: Chữ mẫu, chữ ghép, chữ theo bộ,
phù hợp với vở học sinh.
- Bên cạnh bộ chữ thực hành Tiếng Việt cõn có bộ chữ vui học tập giúp củng
cố cho học sinh cách viết cấu tạo chữ.
- Gop y, t võn ờ c s san xuõt nghiên cứu để sản xuất các loại vở không
nhoè, giấy sáng màu, vở tập viết có chữ mẫu in chuẩn theo dòng kẻ, bút đều mực,
không nhoè
6.2.2 i vi giỏo viờn:
Cn thy c v trớ, tm quan trng ca phõn mụn Tp Vit cỏc lp. Mi
giỏo viờn phi l tm gng sang cho hc sinh noi theo, t t th ngi vit, cỏch
-11-


cầm bút đến chữ viết bảng, cách trình bày bảng, cách sửa lỗi, nhận xét cho học
sinh.
7. Kết luận:
Qua thời gian áp dụng một số biện pháp “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1
thông qua tiết Tập viết” vào thực tế giảng dạy, tôi thiết nghĩ để giúp học sinh có
được chữ viết đẹp, đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp rèn luyện chữ
phù hợp với điều kiện thực tiễn, trình độ, khả năng tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu
học, phát huy được tính tích cực, tự giác, tự rèn của học sinh và đặc biệt là ý chí
kiên trì “Tay chỉ nở hoa khi ta luyện tập hằng ngày ”. Ngoài giờ học chính thức
giáo viên phải tích cực phụ đạo, làm tốt công tác chủ nhiệm hướng dẫn các em
rèn luyện chữ ở nhà, thường xuyên họp phụ huynh học sinh để trao đổi tình hình
học tập cũng như về chữ viết từng em.
Sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân đã thực hiện tuy mang lại hiệu quả,
song phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp và thời lượng nghiên cứu còn ít, rất mong
được sự đóng góp chân thành của đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo để đề tài được

hoàn thiện hơn.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi rút ra được qua quá
trình giảng dạy. Tuy nhiên do thời gian và năng lực có hạn nên sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ nhiệt tình của
các cấp lãnh đạo, thầy cô và bạn bè đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Di Linh, ngày 3 tháng 2 năm 2015
Người thực hiện
TRẦN THỊ DIÊN

-12-


Qua thời gian áp dụng đề tài “ Một số biện pháp góp phần giúp học sinh
lớp 1 viết chữ đẹp” vào thực tế giảng dạy, tôi thiết nghĩ để giúp học sinh có được
-13-


chữ viết đẹp, đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp rèn luyện chữ phù hợp
với điều kiện thực tiễn, trình độ , khả năng tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu họ, phát
huy được tính tích cực, tự giác, tự rèn của học sinh và đặc biệt là ý chí kiên trì
“Tay chỉ nở hoa khi ta luyện tập hằng ngày ”. Ngoài giờ học chính thức giáo
viên phải tích cực phụ đạo, làm tốt công tác chủ nhiệm hướng dẫn các em rèn
luyện chữ ở nhà, thường xuyên họp phụ huynh học sinh để trao đổi tình hình học
tập cũng như về chữ viết từng em.

I.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Để việc nghiên cứu đạt kết quả rốt, tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu , trong đó chủ yếu là các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu lí luận .

Phương pháp điều tra, khảo sát , thu thập số liệu.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lí luận:
Học sinh lớp 1, ngay từ những ngày đầu tiên đi học ở trường Tiểu học còn
nhiều bỡ ngỡ, rụt rè. Việc giúp các em làm quen với chữ viết thật là khó khăn ,
bởi đôi tay cầm bút còn vụng về lóng ngóng. Là giáo viên dạy lớp 1 , tôi luôn trăn
trở suy nghĩ một câu hỏi : Ở lớp 1 có nên tiến hành dạy các em viết đẹp ngay
không ? Qua việc giảng dạy sau mỗi tiết học môn Tập Viết tôi nhận thấy rằng đối
với học sinh lớp 1 nếu cùng một lúc mà đòi hỏi các em vừa viết đúng, viết đẹp
ngay là một điều khó có thể thực hiện được. Do vậy, đối với giáo viên cần có sự
dạy dỗ công phu, nhiệt tình, tập trung xây dựng biện pháp rèn chữ viết cho phù
hợp với lứa tuổi, để để các em tiếp thu được một cách vững chắc, chúng ta cần
được cần được sự kết hợp với gia đình để được sự kèm cặp sát sao của phụ huynh
học sinh. Vậy để việc rèn chữ viết đẹp của từng học sinh, của tập thể lớp 1a5 có
hiệu quả, trước tiên cần xây dựng được nề nếp và kĩ thuật viết chữ đúng đó là cơ
sở để viết chữ đẹp và cũng chính là yếu tố có tính quyết định việc rèn chữ viết
đẹp của các em trong quá trình học tập.
II.2. Thực trạng:
- Là một giáo viên giảng dạy nhiều năm cho thấy.Thực tế chữ viết của
học sinh lớp 1a5 hiện nay,không đồng đều, một số em viết chữ tương đối đẹp, còn
lại các em viết chữ chưa đẹp, viết cẩu thả, chưa biết cách trình bày vở, khoảng
cách chưa đều , chưa đúng ,chưa ý thức được cái đẹp điều đó sẽ ảnh hưởng đến
kết quả học tập của các em.
Tư thế ngồi , cách cầm bút sai đa số các em ngồi cúi mặt với vở , người
cong vẹo , vai thấp , vai cao rất nhiều em cầm bút bằng 4 ngón , có em cầm bút
-14-



bằng 5 ngón có em cầm bút ngả về phía truwowvs, cán bút vuông góc với mặt
vở.
1.1. Khảo sát hoạt động dạy và học tập viết của giáo viên và học sinh
ở trường.
Do vậy đầu năm học, tôi tiến hành khảo sát chất lượng chữ viết và có kết
quả như sau:
BẢNG THỐNG KÊ TỔNG HỢP CHỮ VIẾT CỦA HỌC SINH

Sĩ số học
Vi
Viết
Nhóm chữ viết chưa
m
học sinh
ết đẹp
chưa đẹp
đẹp (đa số )
(Đầu kì 1)
Nhóm khuyết
1
2012
29
24
trên
2 em
-2013
5
Nhóm
nét
cong

9 em
Các lỗi khác
8em
Sau khi quan sát , theo dõi xếp loại học sinh nắm bắt được tình hình đó tôi
đã nghiên cứu và tìm ra được nguyên nhân dẫn đến học sinh chữ xấu chiếm đa
số.
Trong quá trình dạy học tôi nhận thấy đa số học sinh có thái độ học tập
nghiêm túc, có ý thức nghe giảng bài.
1.2. Nguyên nhân dẫn đến chữ viết chưa đẹp của học sinh.
* Về phía giáo viên:
Việc học sinh viết đúng và đẹp hay không phụ thuộc rất nhiều vào người
giáo viên trực tiếp dạy học. Người giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
viết chữ đẹp hay xấu của học sinh. Qua thực tế ta thấy có rất nhiều nguyên nhân
từ phía giáo viên dẫn đến việc học sinh viết chữ chưa đẹp.
-Chữ viết chưa đáp ứng yêu cầu trực quan trong việc giảng dạy, chie thấy 1
số ít giáo viên viết chân phương đẹp mắt.
- Ít chú trọng việc rèn chữ viết cho học sinh, chỉ lưu ý trong giờ tập viết ,
học vần tiết 1, chưa hướng dẫn kĩ càng trong tiết 2.
- Chưa có biện pháp rèn chữ viết cụ thể. Chưa giúp học sinh nắm các nét cơ
bản, cấu tạo con chữ, dòng kẻ, kĩ thuật viết….trong các tiết luyện viết mà chỉ cần
nhấn mạnh về độ cac con chữ.
- Hướng dẫn rèn chữ viết chưa theo đối tượng học sinh. Chưa dạy theo
chuẩn kiến thức và kĩ năng .
- Về đồ dùng dạy học: Bảng viết của giáo viên không có dòng ô li rõ ràng ,
giáo viên còn viết nhắm chừng trên bảng.
* Về phía học sinh:
- Nguyên nhân chủ yếu do học sinh chưa nắm được các nét cơ bản cấu tạo
chữ ghi âm , vần, tiếng, dấu thanh chưa nắm vững quy trình viết chữ cái, quy
trình nối các nét trong chữ cái trong chữ ghi tiếng nên chữ viết mới sai độ cao
- Một số em chưa biết cách cầm bút và ngồi học đúng tư thế.


-15-


-Đa số học sinh không có thói quen rèn chữ viết, không có ý thức trong việc
rèn chữ viết, thậm chí không cần quan tâm đến chữ viết đẹp hay xấu.
- Vẫn còn 1 số học sinh chưa nghiêm túc nghe giảng lúc đầu, các em chưa
cẩn thận khi viết, các em muốn viết nhanh để hoàn thành bài viết nhằm nghi “
thành tích”với giáo viên và các bạn. Một số học sinh đồ dung học tập còn thiếu ,
một số học sinh mắc bệnh về mắt.
- Ngoài ra còn có một số học sinh chưa ý thức được việc giữ gìn sức khỏe,
đồ dùng học tập , bên cạnh còn có 1 số em hay ra mồ hôi tay.
Bên cạnh đó thực tế trường, lớp tôi có những thuận lợi và khó khăn sau:
2.1 Thuận lợi:
* Giáo viên:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn . Tổ
chức bồi dưỡng giáo viên, cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học
hỏi giảng dạy.
- Được sự giúp đỡ của BGH trường; tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng ,
tổ chức những tiết hội giảng đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến
hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạt.
- Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có
nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sang giúp
đỡ đồng nghiệp về chuyên mooncungx như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn
hay xử lí các trường hợp
Học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnh kiểm.
* Học sinh
- Nhà trường được học 2 buổi trên ngày nên có nhiều thời gian để rèn cho
học sinh học tập được nhiều kết quả hơn.
Ở độ 6- 7 tuổi của học sinh lớp 1. Các em đa số còn rất ngoan , dễ vâng lời ,

nghe lời cô giáo , thích học tập và thi đua với các bạn , dễ khích lệ động viên ,
khen thưởng ….
- Có được quan tâm về việc học tập của con em mình của 1 số phụ huynh có
ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường, cho giáo viên , và cùng
với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy dduer sách
vở, ddhtaapj, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến
lớp cũng như học tập ở nhà.
2.2 . Khó khăn:
- Tuy nhiên cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp 1 số
khó khăn sau:
* Giáo viên:
- Tranh ảnh minh họa có sẵn cho Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn phải
tự làm thêm đồ dung dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất nhiều
thời gian đầu tư.
- Đèn chiếu, máy vi tính trang bị trong phòng học chưa có, mỗi lần dạy phải
kết nối mất nhiều thời gian.
* Học sinh:
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều . Bên cạnh những em phát
triển , học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn 1 số em yếu về mặt thể chất, bé nhỏ hơn so
-16-


với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quyên
sau, chậm tiến.
- Đa số phụ huynh trong lớp là dân làm cà phê nên chưa quan tâm đúng mức
đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em
mình học bài, làm bài ở nhà.
- Một số trường hợp học sinh ở xa trên địa bàn trường đóng, cha mẹ các em
khoán trắng việc học hành cho người trông nom và nhà trường nên phần nào cũng
ảnh hưởng đến việc học tập của các em.

Căn cứ vào những khó khăn và thuận lợi với mục đích đề tài được đặt ra
cùng với những nguyên nhân nêu trên nên bản thân tôi đưa ra một số giải pháp,
biện pháp và việc làm cụ thể để góp phần giúp học sinh viết chữ đẹp như sau:
II. 3. Hướng giải quyết và biện pháp khắc phục
3.1. Phương hướng chung:
Việc đề ra những biện pháp mới của các nhân dựa trên quan điểm kế thừa ,
phát huy cải tiến những biện pháp đã có và đề xuất thêm những biện pháp mới ,
những biện pháp này khắc phục những hạn chế của giáo viên và học sinh , phối
hợp trong việc viết chữ chưa đẹp đồng thời với việc nâng cao ý thức của giáo viên
và học sinh, phối hợp việc giáo dục ở cả nhà trường và gia đình.
3.2. Những biện pháp cụ thể:
Việc đầu tiên mà giáo viên cần phải làm khi tiếp cận với học sinh để dạy
viết chữ đẹp là khảo sát trình đọ chữ viết của học sinh. Đây là một vấn đề quan
trọng bởi vì trong thực tế chúng ta muốn tiếp cận đối tượng của mình một cách
thuận lợi thì trước hết phải hiểu được đối tượng mà mình muốn tiếp cận . mặc dù
mới vào lớp 1 nhưng cũng có 1 số em đã được học ở mẫu giáo, trong hè, các lớp
luyện chữ….Qua khảo sát này giáo viên phân loại được đối tượng để rèn luyện vì
nếu các em đã biết viết mà viết sai thì rất khó sửa chữa.
Muốn năng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, người giáo viên cần nắm
vững các yêu cầu cơ bản của dạy tập viết ở lớp 2.
+ Kiến thức: Giúp học sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ,
độ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa
các chữ, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh và chữ số.
+ Kỹ năng: Viết đúng quy trình - nét, viết chữ cái và liên kết các chữ cái tạo
thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ.
Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kỹ năng như: tư thế ngồi viết, cách cầm
bút, để vở… bài kiểm tra cuối năm là bài tập chép một đoạn trong bài tập đọc
(không mắc quá 5 lỗi chính tả)
+ Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên cần hiểu rõ ý đồ của vở
tập viết. Cấu trúc mỗi bài gồm phần tập viết chữ cái và từ ứng dụng.

Ở vở tập viết lớp 1 thì cứ sau bài học vần có một bài tập viết thêm để học
sinh rèn luyện cách viết các chữ vừa học.
- Các ký hiệu trong vở tập viết phải được học sinh nắm chắc, như: đường kẻ
ngang, quy định độ cao chữ cái, dấu chấm là điểm đặt bút đầu tiên của chữ, ký
hiệu luyện viết ở nhà.
Ngay từ đầu năm học giáo viên cần quyb định mấu vở (5 ô li),mẫu bảng 6
dòng kẻ, loại bút chì (2B). Tổ chức phân công cho học sinh ngồi theo đôi bạn
-17-


cùng tiến,em viết chữ đẹp, cẩn thận ngồi cạnh em viết chữ chưa đẹp , cẩu thả. Các
em này có thể quan tâm giúp đỡ nhau để cùng nhau tiến bộ hoặc có anhe hưởng
theo chiều hướng tích cực trong học tập.
Thường xuyên kiểm tra đánh giá sửa chữa kịp thời.Việc đánh giá có hệ
thống và thường xuyên giúp giáo viên điều chỉnh chữ viết của học sinh , làm cho
các em thấy mình đã lĩnh hội những điều vừa học đến mức đọ nào , các nét nào,
con chữ nào viết đẹpvà chưa đẹp để phát huy và khắc phục. Giáo viên cần phải
luôn quan taam đến đối tượng viết xấu , viết chưa đẹp, tìm hiểu nguyên nhân ở
các đối tượng này để có biện pháp giúp đỡ kịp thời giúp các em tiến bộ. Giáo
viên tuyệt đối không nóng vội khi rèn chữ viết, cần luyện viết ở mức độ vừa phải,
không nên luyện viết quá nhiều trong thời gian buổi học vì như thế sẽ làm các em
mỏi tay, chữ viết sẽ xấu đi.
Ví dụ : Theo chương trình có 2 tiết tập viết trong cùng 1 buổi, giáo viên cần
chia ra dạy một tiết vào tiết 1 và một tiết vào khoảng tiết 3. Trong quá trình dạy
tập viết cần có những trò chơi thư giãn giúp các em thoải mái, cần “đi tận chỗ,
chỉ tận tay” để kịp thời động viên, khích lệ các em và phát hiện, điều chỉnh kịp
thời những lối sai sót.
Trong giờ dạy Tiếng Việt giáo viên cần luôn luôn sử dụng bộ mẫu chữ cacis
trong bộ chữ Tiếng việt làm đò dung truwch quan cho học sinh quan sát. Phần
viết bảng của giáo viên phải luôn luôn chuẩn mực: cách đặt dấu thanh , khoảng

cách các tiếng trong từ , viết liền nét, cáh trình bày bảng giáo viên luôn cần phải
chú trọng về tính cẩn thận, thẩm mỹ vì điều đó ảnh hưởng rất lớn đến học sinh.
Ngay từ đầu năm học phải rèn cho các em ngồi học đúng tư thế, thoải mái,
tránh gò bó . Hướng dẫn kĩ càng và cho học sinh nắm chắc cầm bút, kĩ thuật rê
bút (Là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược laị với nét chữ vừa viết. Trong
trường hợp này cần viết nhẹ tay, nếu viết nặng tay nét chữ sẽ viết nhòe ra ), lia bút
( Kĩ thuật lia bút là thao tác đứ bút trên không , được dùng khi viết một chữ cái
hay viết nối các chữ cái với nhau để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết , nét bút
vẫn thể hiện liên tục nhưng không chạm vào giấy hoặc bảng) Hướng dẫn học sinh
nắm chắc quy ước , kí hiệu của giáo viên trong việc xác định tọa độ dòng kẻ ô li
để khi dạy học giáo viên sẽ dễ dạy và học sinh dễ tiếp thu . Với bản thân tôi quy
định như sau; Với vở 5 ô li mmooix đơn vị ô li lớn có 6 dòng kẻ, vở tập viết có 5
dòng kẻ. Dòng kẻ dưới cùng là dòng kẻ thứ nhất, các dòng kẻ khác là 2,3,4,5,6
theo thứ tự tiếp theo. Tương tự cũng quy định với đường kẻ dọc như vậy, đường
kẻ thứ nhất là đường kẻ đậm , các đường kẻ dọc tương tự được tính như vậy. Ở
giữa 2 dòng kể ( đường kẻ) là 1 ô li được tính theo chiều cao ( chiều rộng) và đơn
vị gọi là ô li nhỏ. Cách xác định tọa độ phaair dựa vào đường kẻ dọc , dòng kẻ
ngang, các ô li làm định hướng. Đây là trong những điều kiện để dạy chữ viết
thành một quá trình được thực hiện lần lượt bởi các thao tác mà hành vi ngòi bút
đi qua. Qua quy ước này giáo viên phân tích cách viết viết các con chữ, hướng
dẫn các em xác định điểm đặt bút( điểm bắt đầu), xác định điểm kết thúc, độ cao,
rộng của các con chữ
Ví dụ: Hướng dẫn viết nét khuyết trên được hướng dẫn như sau: Điểm đặt
bút( điểm bắt đầu) từ dòng kẻ ngang thứ hai, trước đường kẻ dọc thứ nhất nửa ô
li nhỏ, đưa bút lên dòng kẻ ngang thứ ba( ngay tại vị trí dòng kẻ ngang thứ ba cát
-18-


với đường kẻ dọc thứ nhất ) đi qua rộng 1 ô li lên đến dòng kẻ ngang thứ ba cắt
với đường kẻ dọc thứ nhất và kéo xuống theo đường kẻ dọc thứ nhất đến điểm kết

thúc là dòng kẻ ngang t6huws nhất.
Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh: Nét khuyết trên cao mấy ô li và rộng
mấy ô?( cao 5 ô và rộng 1 ô) Lưu ý: Cần lưu ý ở đây là tất cả các con chữ có nét
móc hoặc nét xiên chiều rộng của nó không tính vào nhằm để học sinh xác định
được chiều rộng ô li một cách dễ dàng.
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mỗi quan hệ về cách viết các chữ, sau
khi học xong các âm(chữ cái) giáo viên cần phải phân nhóm chung để luyện tập
cho học sinh
Nhóm1: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, ê, x. Trọng
tâm rèn luyện là nét cong . Đây là nhóm chữ khó viết đẹp vì rất dễ méo, khó tròn ,
trên to dưới nhỏ.Trong nhóm chữ này cần xác định tọa độ dựa vào đường kẻ,
điểm giữa của lưng nét cong phải đặt cân bawbgf chính giữa đường kẻ( tức là
điểm gặp dòng kẻ ngang thứ hai và cần cho học sinh nắm chắc chiều rộng của các
nét cong là 5 ô li ( tức là 1 ô li rưỡi)
Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc: a,
ă, d, đ, g
Trong nhóm này giáo viên cần luuw ý kế thừa luyện tập từ nhóm 1và luyện
tập nét móc ngược ( Ở nét móc ngược này giáo viên có thể tách thành nét sổ
thẳng và nét hất nếu có học sinh viết chưa thẳng ở nét móc)
Nhóm 3: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, t, u, ư, p, m, n
Trong nhóm này cần luuw ý nét móc nhọn phía trước 1,5 ô li.
Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong phối
hợp với nét móc): l, h, k, b, y, g. Với nhóm chưa cái này nét khuyết trên đều có
chiều rộng 1 ô li và lưu ý điểm gặp nhau ngay tại vị trí dòng kẻ ngang thứ ba cắt
với đường kẻ dọc .
Nhóm 5: Nhóm chữ cái cónét móc phối hợp với nét thắt:r,v,s . Đây là nhóm
chữ khó viết đẹp nhất , đặc biệt là chữ s và r. Giáo viên cần lưu ý 2 con chữ này
có độ cao là 2 ô li rưỡi và sau nét thắt con chữ r là nét xuôi hơi ngang đưa ra c òn
sau nét thắt cong chữ s là nét xuôi xuống đưa vào.
Trong dạy học bản thân tôi thấy về độ cao các con chữ các em rất dễ nắm

bắt nhưng về chiều rộng các em viết chưa đẹp vì thế khi dạy cần về chiều rộng
với ccacs em.
Khi qua phần bài học vần, tiếng, giáo viên cần lưu ý các em cách viết liền
nét .ở nét liền này cần kéo dài khoảng 1,5 ô li, nếu kéo dài quá nét chữ sé gây
phản cảm. Qua đến phần tiếng, từ cần lưu ý khoảng cách giữa các tiếng trong từ
là một vòng tròn khép kín ( hay là 1,5 ô).
* Các phương pháp giảngdạy:
Trong quá trình dạy học bản thân tôi đã áp dụng những phương pháp dạy
học sau:
Phương pháp trực quan:
Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường:
kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân
tích hình dáng, kích thước và cấu tạo theo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác
-19-


nhau của chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh
tương đồng.
Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều
kiện đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn,
chữ phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu hắt, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp
chữ mẫu… Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu là phải đúng mẫu quy định, rõ ràng và
đẹp.
Chữ mẫu có tác dụng:
- Chữ mẫu phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu sẽ giúp học sinh dễ quan
sát, từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng và các nét chữ cơ bản, cấu
tạo chữ cái cần viết trong bài học.
- Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự
các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong 1 chữ nhằm đảm bảo yêu
cầu viết liền mạch, viết nhanh.

- Chữ của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được quan sát như một loại
chữ mẫu, vì thế giáo viên cần ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng.
Ngoài ra, để việc dạy chữ không đơn điệu, giáo viên cần coi trọng việc xử lý
quan hệ giữa âm và chữ, tức là giữa đọc và viết. Do đó trong tiến trình dạy tập
viết, nhất là những âm mà địa phương hay lẫn, giáo viên cần đọc mẫu. Việc viết
đúng củng cố việc đọc đúng và đọc đúng đóng góp vai trò quan trọng để đảm bảo
viết đúng.
Phương pháp đàm thoại gợi mở:
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo
viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi,
từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến
việc so sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ
cái đã phân tích.
Ví dụ: Khi dạy chữ a, giáo viên có thể đặt câu hỏi: chữ A gồm có bao nhiêu
nét? là những nét nào? chữ A cao mấy ô? độ rộng của chữ là bao nhiêu?…
Với những câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng cách trả lời cho các em.
Vai trò của giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo
chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết ở phần sau.
Phương pháp luyện tập:
Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc
hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để học sinh dễ tiếp
thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước các cỡ chữ, sau đó là
viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải
được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở
các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn học khác.
Khi học sinh luyện tập chữ viết, giáo viên cần luôn luôn uốn nắn cách ngồi
viết. Cần lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau:
*Tập viết chữ vào bảng con của học sinh
Hình thức tập viết trên bảng có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết và
bức đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này _ung để kiểm tra

bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. Từ
-20-


đó, giáo viên phát hiện những chỗ sai của học sinh để uốn nắn (sai về kích cỡ,
hình dáng, thứ tự các nét viết).
* Luyện viết trong vở:
Luyện viết trong vở tập viết: Muốn cho học sinh sử dụng có hiệu quả vở
tập viết, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng viết của
từng bài (chữ mẫu, các dấu chỉ khoảng cách giữa các chữ, dấu chỉ vị trí đặt bút,
thứ tự viết nét…) giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài
viết.
Luyện viết trong vở ở ô li: Giáo viên cần viết mẫu cho toàn bộ học sinh
trong vở cho đến khi học hết phần âm ( chữ cái). Sau khi chuyển sang phần học
vần , tiếng, từ giáo viên có thể chọn 1 số em viết chưa đẹp để viết mẫu( nếu lớp
quá đông)
Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch đẹp:
Sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng ở tất cả các môn học là cần
thiết. Có như thế, việc luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ và thường
xuyên. Việc làm này yêu cầu người giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên
môn còn cần có sự kiên trì, cẩn thận và lòng yêu nghề - mến trẻ.
Cần chọn vở luyện viết ở nhà đúng mẫu, rõ ràng( Một số vở dung luyện viết
đẹp như: Em tập viết đúng – viết đẹp của lê ngọc Diệp chủ bên, vở ô li mẫu chữ
của nhà xuất bản đại học sư phạm do tác giả Trần Minh Hương biên soạn hoặc
luyện viết chữ đẹp của tác giả Trần mạnh Hưởng)
* Đổi mới phương pháp dạy học:
Muốn cải tiến quy trình dạy tập viết, điều không thể thiếu được là phải đổi
mới phương pháp dạy học, tiết tập viết càng cần phải tạo điều kiện để học sinh
chủ động tiếp nhận kiến thức (tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện tập và
rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có

thể thực hiện những yêu cầu trên theo quy trình tiết tập viết như sau:
A. Bài cũ: Kiểm tra (hoặc nhận xét bài cũ dùng ở tiết tập viết)
- Kiểm tra học sinh viết bảng con (1 - 2 em viết bảng lớp) chữ cái và từ ứng
dụng ngắn gọn ở bài trước. Giáo viên hướng dẫn chữa bài trên bảng (dùng phấn
màu sửa chữ viết sai hoặc chưa đúng mẫu), sau đó gợi ý để học sinh tự sửa chữ đã
viết trên bảng con và giơ bảng cho giáo viên kiểm tra, uốn nắn thêm (chú ý động
viên kịp thời những học sinh viết đẹp tiến bộ.
B. Bài mới:
1- Giới thiệu bài: - Nêu nội dung và yêu cầu tiết dạy.
2- Hướng dẫn học sinh viết chữ:
- Giáo viên đưa chữ mẫu cho học sinh quan sát.
- Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận biết, so sánh: Chữ gì? Gồm mấy nét?
Nét nào đã học, giống chữ nào đã học, phần nào khác?… (Có thể cho học sinh chỉ
vào chữ mẫu trên bảng)
- Giáo viên hướng dẫn quy trình viết chữ:
+ Sử dụng chữ mẫu để học sinh quan sát.
+ Viết mẫu trên khung chữ thật thong thả cho học sinh theo dõi (ghi nhớ thứ
tự các nét).

-21-


+ Viết mẫu trên dòng kẻ ở bảng lớp (hoặc trên bảng con) để học sinh nắm
vững quy trình viết chữ caí. Giáo viên viết mẫu sau đó dùng que chỉ lại để mô tả
quy trình.
- Học sinh tập viết trên bảng con, giơ bảng để giáo viên kiểm tra uốn nắn,
nhận xét kết quả (chú ý về hình dáng, quy trình).
3- Hướng dẫn học sinh viết ứng dụng:
- Giáo viên giới thiệu nội dung viết ứng dụng và viết nội dung từ ứng dụng;
sau đó gợi ý học sinh hiểu ý nghĩa từ ứng dụng sẽ viết.

- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét về cách viết ứng dụng
(chú ý đến các điểm quan trọng: độ cao các chữ cái, quy trình viết liền mạch - nối
chữ, khoảng cách giữa các chữ cái, đặt dấu ghi thanh…).
- Giáo viên viết mẫu minh họa cách nối chữ (do giáo viên xác định trọng
tâm ở bài dạy), học sinh theo dõi.
- Học sinh tập viết theo trọng tâm nối chữ do giáo viên chọn (chữ ghi tiếng từ có thao tác nối). Giáo viên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn và nhận xét.
4- Học sinh thực hành luyện viết trong giờ tập viết:
- Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung luyện viết trong vở (viết chữ gì? viết
mấy dòng? cần lưu ý về điểm đặt bút ra sao? viết từ ứng dụng mấy dòng? cần lưu
ý về cách nối chữ và đặt dấu thanh, khoảng cách giữa các chữ ra sao?…)
- Học sinh luyện viết trong vở. Giáo viên theo dõi uốn nắn về cả cách viết
và tư thế ngồi viết (chú ý giúp đỡ học sinh yếu kém). 0066
5- Chấm bài tập viết của học sinh:
- Giáo viên chấm bài cho học sinh đã viết xong ở lớp (số còn lại thu về nhà
chấm).
- Nhận xét kết quả chấm bài, khen ngợi những bài đạt kết quả tốt. Nếu bài
học dài, giáo viên có thể chọn dạy một nội dung tiêu biểu và học sinh luyện tập
theo nội dung tương ứng.
C. Củng cố dặn dò:
- Nhắc lại nét trọng tâm vừa học
- Viết vở rèn chữ viết ( mẫu in sẵn)
Qua thời gian áp dụng đề tài “ Một số biện pháp góp phần giúp học sinh
lớp 1 viết chữ đẹp” vào thực tế giảng dạy, tôi thiết nghĩ để giúp học sinh có được
chữ viết đẹp,đòi hỏi yêu cầu cao đối với người giáo viên , phải có phương pháp
rèn luyện chữ phù hợp với điều kiện thực tiễn, trình độ , khả năng tâm lí lữa tuổi
học sinh tiểu học , phát huy được tính tích cực, tự giác, tự rèn của học sinh và đặc
biệt là chú ý chí kiên trì “ Tay chỉ nở hoa khi ta luyện tập hằng ngày ” Ngoài giờ
học chính thức giáo viên phải tích cực phụ đạo , làm tốt công tác chủ nhiệm
hướng dẫn các em rèn luyện chữ ở nhà, thường xuyên họp phụ huynh học sinh để
trao đổi tình hình học tập cũng như về chữ viết từng em.

II. 4. Kết quả đạt được.
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, kết quả giữ vở và rèn viết
chữ đẹp của tập thể lớp 1A5 đã đạt được những kết quả cao như sau:
- Học sinh rất chăm và có ý thức trong việc rèn chữ viết và trình bày vở sạch
đẹp, chữ viết của các em có tiến bộ hơn hẳn so bới đầu năm học.
-22-


- Đa số các em nắm được cấu tạo chữ, mẫu chữ và kĩ thuật viết chũ.
- Học sinh viết chữ thành thạo, đẹp, chữ viết đúng quy định, chữ đứng nét
đều.
- Học sinh còn biết tự mình thể hiện bài viết sang tạo như bài viết chữ
nghiêng, có nét thanh, nét đậm.
- 100% học sinh giữ vở sạch sẽ.
Kết quả Giáo viên rèn chữ cụ thể như sau:
KẾT QUẢ XẾP LOẠI THÁNG 9
Loại A
Loại B

TSH

Loại C

S
29

Tỉ
SL

lệ %


Tỉ
SL

lệ %

31,
9

0%

S
L

Tỉ lệ
%

37,
11

9%

31,0
9

%

KẾT QUẢ XẾP LOẠI THÁNG 10
Loại A
Loại B

Loại C

TSH
S
29

Tỉ
SL

lệ %

Tỉ
SL

lệ %

48,
14

27%

S
L

Tỉ lệ
%

31,
9


0%

20,68
6

%

KẾT QUẢ XẾP LOẠI THÁNG 11
Loại A
Loại B
Loại C

TSH
S
29

Tỉ
SL

lệ %

Tỉ
SL

lệ %

48,
17

27%


S
L

Tỉ lệ
%

24,
7

13%

17,2
5

%

KẾT QUẢ XẾP LOẠI THÁNG 12
Loại A
Loại B
Loại C

TSH
S
29

Tỉ
SL

lệ %


Tỉ
SL

lệ %

65,
19
TSH

51%

S
L

Tỉ lệ
%

20,
6

68%

13,79
4

%

KẾT QUẢ XẾP LOẠI THÁNG 1,2
Loại A

Loại B
Loại C

S
29

Tỉ

Tỉ
-23-

S

Tỉ lệ


SL

lệ %

SL

lệ %

68.
20

9%

L


%

20,
6

68%

10,34
3

%

Ngoài ra , qua các kì thi viết chữ đẹp cấp khối, cấp trường đạt kết quả khá
cao như em
Kiều Thị như Quỳnh, Trần Thị Khánh Ly.
Lớp có nhiều học sinh viết đẹp nhất tổ;
Không những các em chỉ hoạt động tốt trong phong trào rèn chữ viết, bên
cạnh đó các em đã thực hiện tốt được nề nếp, đẩy mạnh được chất lượng học tập
của mình.
KẾT QUẢ XẾP LOẠI HAI MẶT GIÁO DỤC HỌC KÌ I ( Năm 2012 –
2013)
TSHS
29

H
SĐXL
29

Hạnh kiểm

TH
Đủ

Đủ
S

L
2

Học lực ( Học sinh khen

thưởng)
THC
Học sinh
Học sinh tiên
giỏi
tiến
Tỉ lệ
S
T
S
Tỉ
L
ỉ lệ
L
lệ
100
1
8
2


9
%
III. Phần kết luận, kiến nghị:
III.1. Kết luận.
Qua quá trình tích lũy , nghiên cứu, áp dụng 1 số giải pháp và biện pháp về
việc “ Một số biện pháp góp phần rèn chữ viết cho học sinh lớp 1”trường tiểu
học Nguyễn Viết Xuân đã nêu trên , tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện viết chữ
đẹp đóng một vai trò quan trọng trong việc học tập của học sinh , rèn luyện chữ
viết đẹp là một nhiệm vụ không thể thiếu với lớp học đầu cấp. Cùng với tập đọc,
luyện viết chữ giúp học sinh chiếm lĩnh phần chữ viết của Tiếng việt . Rèn chữ
viết học sinh được rèn luyện một số phẩm chất như tính kiên trì, cẩn thận, khả
năng thẩm mỹ….Viết chữ đẹp là nguyện vọng là long mong muốn của mỗi giáo
viên, của mỗi phụ huynh học sinh . Vậy có thể thấy rằng chữ đẹp là một nét văn
hóa truyền thống, thể hiện sự tài hoa của người cầm bút, là món ăn tinh thần
không kém phần quan trọng trong cuộc sống của con người xưa và nay.
III.2. Kiến nghị đề xuất.
* Đối với nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá và rút kinh nghiệm để
nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp của trường của từng khối lớp.
- Duy trì các phong trào thi đua “ Giữ vở sạch- viết chữ đẹp”. Hội thi viết
chữ đẹp cấp trường.
- Trưng bày các bài viết đẹp , tập vở sạch cho học sinh toàn trường tham
khảo.
- Đưa tiêu chuẩn “Giữ vở sạch- viết chữ đẹp” vào đánh giá thi đua của
thầy và trò.
-24-


- Nhà trường tạo điều kiện về thiết bị dạy học: như chuẩn bị bảng dành cho

giờ học Tập Viết có kẻ ô đúng theo quy định.
- Cung cấp mẫu chữ viết Tập Viết đầy đủ trên mỗi giáo viên / lớp.
- Mua sắm 1 số tài liệu về luật pháp để những tiết dạy trống, giờ ra chơi
giáo viên đọc.
* Đối với giáo viên:
- Cần thấy được vị trí, tầm quan trọng của phân môn Tập Viết ở các lớp.
Mỗi giáo viên phải là tấm gương sang cho học sinh noi theo, từ tư thế ngồi viết ,
cách cầm bút đến chữ viết bảng, cách trình bày bảng, cách chấm bài, nhận xét cho
học sinh.
Sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân đã thực hiện tuy mang lại hiệu quả,
song phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp và thời lượng nghiên cứu còn ít, rất mong
được sự đóng góp chân thành của đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo để đề tài được
hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
NhỮNG điểm đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học Tiểu học.
Phương pháp dạy học, chữ viết Tiếng Việt – Giáo trình sư phạm
Rèn luyện kĩ năng viết chữ đẹp – Giáo trình sư phạm.
Mẫu chữ viết theo chương trình giảng dạy ( Chữ viết thường)
Vở tập viết T1+T2 ( Nhà xuất bản giáo dục
Bồi dường thường xuyên chu kì III ( 2003 – 2007) tập II.

-25-


×