Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Kinh nghiệm trong việc quản lý và giáo dục học sinh cá biệt trường Trung học cơ sở Nguyễn Văn Tiệp có hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.87 KB, 16 trang )

PHÒNG GDĐT TÂN HỒNG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM

TRƯỜNG THCS NGUYỄN VĂN TIỆP

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM 2013 -2014
Tên SKKN: Kinh nghiệm trong việc quản lý và giáo dục học sinh cá biệt trường Trung học cơ sở
Nguyễn Văn Tiệp có hiệu quả.
Tác giả: Văng Công Sâu
Chức vụ, đơn vị, môn: Giáo viên Mĩ thuật, Tổ trưởng Tổ Nhạc – Họa – Thể dục, Trường Trung
học cơ sở Nguyễn Văn Tiệp
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Thực trạng và nguyên nhân:
1.Thực trạng:
Thực tế cho thấy tình hình đạo đức học sinh hiện nay bị xuống cấp đến mức báo động và càng
diễn biến phức tạp hơn, xuất hiện nhiều đối tượng với những hành vi táo tợn hơn như những trường
hợp nhóm học sinh (HS) nữ đánh bạn lột cả quần áo ngoài đường; trường hợp thầy bị HS đánh, hâm
dọa chém; cô giáo bị HS sỉ nhục, xúc phạm nhân phẩm; v.v..Đây là những HS khó giáo dục hay nói
cách khác là những học sinh cá biệt (HSCB). Lúc đầu những em này thường có thái độ và hành vi
không phù hợp với giá trị, nội quy, truyền thống nhà trường, không làm tròn bổn phận và nhiệm vụ
của người học sinh, thiếu văn hóa, vô đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi người, những em này
rất khó dạy, thậm chí hư hỏng, rơi và con đường nghiện ngập ma túy và các tệ nạn xã hội.v..v. Tuy
nhiên trong số những HSCB đôi khi có những em tiềm tàng và cá tính, không có biểu hiện rõ, khó
phát hiện nhiều khi GVCN cũng lầm tưởng nên chưa có được phương pháp giáo dục thích hợp.
Những năm trước lớp tôi chủ nhiệm cũng rơi vào tình trạng có nhiều học sinh cá biệt, cụ thể
năm học 2012- 2013:
Năm học


Lớp

TS

2011-2012 8A3
2012-2013 6A6

35
34

Số lượng HS ngoan
Số lượng
Tỉ lệ (%)
27
77,1
22
64,7

Số lượng HS chưa ngoan (cá biệt)
Số lượng
Tỉ lệ (%)
8
22,9
12
35,3

2.Nguyên nhân:
a. Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi - nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em:
1



- Đối tượng HS trung học cơ sở ( THCS) là những con người đang trong quá trình phát triển:
hiếu động, thích khám phá, biến đổi hằng ngày. Các em đang ở tuổi “dậy thì”, “tuổi khủng hoảng”,
“tuổi khó bảo” do hệ tim mạch, hệ xương, hệ thần kinh hoạt động mạnh, tuyến nội tiết có sự phát
triển nhanh, mạnh nhưng không cân đối làm cho các em gặp khó khăn trong học tâp và đời sống
như: lóng ngóng, vụng về hay chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi, dễ bị ức chế hoặc dễ bị khích động.
Tôi cho rằng tuổi của các em là tuổi "Ăn chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ còn non nớt, nhận thức
chưa sâu nhưng lại muốn khẳng định mình chính vì thế các em có những hành vi thiếu chuẩn xác,
không phù hợp với các chuẩn mực của xã hội là điều không thể tránh khỏi.
- Những HS cá biệt ta thường gặp phần lớn là những em có năng lực học tập yếu kém, điều
đó cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi nhận thức của các em chưa sâu thì làm sao có định hướng cho việc
học tập tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu kiến thức của các em cũng dẫn đến sự lười biếng,
chán nản, muốn phá phách, nhất là đối với HS nam. Xét ở một khía cạnh khác thì cũng có thể các
em vì tự ái về sự chê trách của thầy cô và bè bạn, các em muốn chứng minh cho mọi người thấy
rằng mình học không tốt nhưng mình có thể nổi trội hơn về mặt khác, hoặc các em muốn thầy cô
chú ý mình hơn chẳng hạn, chính vì thế mà các em có những hành động vượt ra khỏi những quy
định chung.
b. Do ảnh hưởng từ sự giáo dục của gia đình :
- Thời gian HS học tập, sinh hoạt ở nhà trường không nhiều, nhưng các hoạt động đều có sự
quản lí, hướng dẫn của GVCN, GVBM, cán bộ lớp, nhà trường, đó là điều kiện để các em học tập
tốt và rèn luyện nhân cách. Nhưng phần lớn thời gian các em sinh hoạt ở gia đình : tự học, lao động,
vui chơi.v..v. Đối với những HS thực sự tự giác trong học tập và được sự quản lí giáo dục của gia
đình thì hầu hết các em đều có thời khóa biểu học tập ở nhà, ý thức được việc học tập ở nhà là thời
gian giúp các em ghi nhớ lại bài cũ, luyện tập và nghiên cứu bài mới, chuẩn bị cho ngày học hôm
sau, đồng thời tham gia giúp đỡ công việc gia đình. Còn ngược lại, đối với những HS chưa ý thức
được việc học tập và gia đình không quan tâm, không tạo điều kiện cho các em học tập thì việc học
tập của các em bị ảnh hưởng, chất lượng học tập giảm sút, thua kém bạn bè dẫn đến chán học, bỏ
học .
Như vậy, HSCB phát sinh từ những ảnh hưởng không tốt của môi trường giáo dục gia đình,
đó là :

* Gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn :
Từ những khó khăn về đời sống kinh tế, cha mẹ phải lao động vất vả, không có thời gian
quan tâm đến việc học tập của con em, giao cho ông bà hoặc chị em chăm sóc lẫn nhau, thiếu sự
quản lí chặt chẽ của người lớn nên dể dàng nảy sinh những tư tưởng không lành mạnh, từ đó ham
chơi mà trốn học. Hoặc có nhiều gia đình buộc con cái phải lao động làm cho các em không có thời
2


gian học tập ở nhà như soạn bài, học bài cũ, do đó khi đến lớp việc tiếp thu bài mới rất khó khăn,
không làm được bài kiểm tra, lo lắng sợ sệt khi thầy cô giáo kiểm tra bài cũ .v.v. từ đó thua sút bạn
bè và phát sinh tâm lí chán học dẫn đến bỏ giờ trốn học, bỏ học .
* Gia đình chỉ lo làm ăn, không quan tâm đến việc học của con cái :
Thực tế, có nhiều gia đình tuy không khó khăn về kinh tế nhưng có tham vọng làm giàu, bỏ
mặc, không quan tâm đến việc học tập của con cái kể cả những thói hư tật xấu của con cha mẹ cũng
không cần biết đến để răn dạy và dần dần dẫn đến việc các em trốn học, bỏ học là điều tất yếu.
* Gia đình có cha mẹ bất hòa, không hạnh phúc :
Lứa tuổi các em rất nhạy cảm, những cuộc cải vã của cha mẹ, sự to tiếng quát nạt, bạo lực
của người cha làm cho các em dần dần bị ảnh hưởng, từ đó nẩy sinh những việc làm không lành
mạnh, thích đánh nhau để giải tỏa tâm lý, bị ức chế, bỏ nhà đi chơi không thiết tha đến việc học và
lực học giảm sút dẫn đến chán học, bỏ học. Ngoài ra, gặp hoàn cảnh gia đình có người cha nát rượu
hoặc người mẹ cờ bạc cũng ảnh hưởng rất lớn đến HS làm các em trở thành HSCB .
c. Do ảnh hưởng của sự phát triển xã hội theo cơ chế thị trường :
Xã hội phát triển là điêù đáng mừng, nhưng khi phát triển theo cơ chế thị trường nó kéo theo
một số hoạt động không lành mạnh khác như dịch vụ giải trí, phim ảnh ảnh bạo lực, tình cảm lứa
đôi quá trớn và do sự quản lí chưa chặt chẽ của nhà nước, các dịch vụ bida, internet, karaokê .v.v..
được tổ chức gần trường học, lôi cuốn, hấp dẫn các em vào các trò chơi vô bổ. Đồng thời các kênh
truyền hình chiếu một số bộ phim với những hình ảnh bạo lực, tình cảm, bi lụy quá mức làm cho
các em dễ dàng bắt chước và lao vào các trò chơi đó dẫn đến bỏ giờ trốn học và những vi phạm
khác.
d. Do yếu tố sinh học:

- Một số em sinh ra đã có vấn đề về thần kinh, não bộ kém phát triển thích gây gỗ, hung hăng,
đánh nhau.v.v. và cũng có thể do cha mẹ yếu về thể chất, tinh thần dẫn đến các em bị ảnh hưởng.
Từ việc nghiên cứu các dạng HS cá biệt và những nguyên nhân dẫn đến thực trạng ấy, tôi tìm
ra những phương pháp khả thi để từng bước cảm hoá giáo dục các em. Sau đây là một vài kinh
nghiệm của bản thân trong việc giáo dục HSCB mà tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp qua đề tài
này:
II. Biện pháp, giải pháp quản lý và giáo dục học sinh cá biệt:
1. Một số kinh nghiệm trong công tác quản lý học sinh cá biệt:
a. Sắp xếp chổ ngồi:
Một công việc rất quan trọng mà GVCN phải thực hiện ngay từ đầu năm học là phải xem
trước học bạ của từng HS trong năm học trước để nắm được học lực, hạnh kiểm của từng em. Khi
sắp chỗ ngồi nên chia đều những HS có học lực khá, giỏi ngồi xen lẫn với những HS có học lực
3


trung bình. Nếu thấy trong lớp có những HS bị ghi trong học bạ là hạnh kiểm chưa tốt hoặc HS lưu
ban nên xếp chỗ ngồi cho các em ở những dãy bàn đầu để tiện quan sát, theo dõi. Sau khi xếp chỗ
ngồi xong GVCN lập sơ đồ lớp và dán tại bàn giáo viên để giáo viên bộ môn tiện theo dõi.
*Lưu ý: Nếu trong lớp đã có HSCB thì không nên cho các em ngồi gần nhau. Không nên cho các
em tùy tiện chọn chỗ ngồi, vì những HS ham chơi, hay đùa giỡn thường thích ngồi gần nhau.
b. Bầu ban cán sự lớp (BCS):
Khi GVCN đã nắm được học lực, hạnh kiểm của HS sẽ lựa chọn ra những em có đủ phẩm
chất đạo đức để bầu làm lớp trưởng, các lớp phó và các tổ trưởng, tổ phó. Đây là vấn đề rất cần thiết
để giao trách nhiệm cho BCS lớp thay mặt GVCN điều hành, quản lý lớp. Trong quá trình giao
nhiệm vụ, nếu thấy trong BCS những HS nào không làm tốt sẽ thay bằng HS khác để tiếp tục quản
lý lớp.
Lưu ý: Tránh trường hợp HS không đủ năng lực nhưng GVCN vẫn bắt buộc phải làm lớp
trưởng hoặc lớp phó, từ đó làm ảnh hưởng đến tinh thần học tập của các em và tạo điều kiện cho
những mầm móng HSCB khác xuất hiện. Và cuối học kì phải tổng kết khen thưởng BCS lớp và có
kế hoạch điều động, bổ nhiệm lại một số chức danh nhằm giáo dục ý thức tự quản lớp

c. GVCN xây dựng nội quy lớp:
Ngoài việc GVCN phổ biến cho HS biết về Nội quy nhà trường bắt buộc HS phải thực hiện,
bên cạnh GVCN cùng HS đề ra nội quy riêng cho lớp để các em thực hiện. Có thể ở mỗi lớp GVCN
xây dựng nội quy lớp khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình của lớp.
d. Xây dựng quy ước thi đua giủa các tổ:
GVCN cùng cả lớp đưa ra than điểm thi đua, cuối mỗi tuần có tổng kết báo cáo, có thưởng và
phạt rõ ràng, nghiêm túc, công bằng và công khai.
e. Thiết kế biểu mẫu quản lí – giáo dục:
GVCN phải thực hiện các loại biên bản :
- Biên bản sinh hoạt chủ nhiệm.
- Biên bản HS bỏ học.
- Biên bản HS vi phạm nội quy, tờ cam kết, bảng tự kiệm điểm...
f. Quản lý hồ sơ chủ nhiệm:
- Quản lý cận thận sổ đầu bài vì có những trường hợp GVBM ghi tên các em vào sổ đầu bài
các em sợ GVCN phê bình vậy là thủ tiêu sổ. GVCN phải phân công lớp trưởng ghi chép cẩn thận
và nộp về bộ phận Đội theo quy định.
- Quản lý ghi chép sổ chủ nhiệm rõ ràng, cận thận và đầy đủ các thông tin.

4


- Quản lý, nhận xét HS qua tin nhắn, phiếu liên lạc điện tử thường xuyên, đúng thực tế
nhưng phải mang tính khích lệ các em phấn đấu học tập tốt hơn. Khi phát phiếu liên lạc cho HS yêu
cầu các em phải đưa gia đình xem có ý kiến phản hổi nộp lại cho GVCN đầy đủ.
2. Một số kinh nghiệm trong công tác giáo dục học sinh cá biệt:
- Nhiệm vụ của trường học là “dạy” và “ dỗ”, giáo dục các em HS nên người, kể cả HSCB.
Giáo dục HSCB là một thử thách, bản lĩnh, và thể hiện lòng vị tha của thầy, cô. Cải tạo HS hư thành
con ngoan trò giỏi, công dân tốt, để xã hội bớt đi một người xấu. Một trường học, lớp học, xuất phát
điểm có nhiều HSCB, nhưng hết năm học “gánh nặng” đó đã không còn mà thay bằng những HS
chăm ngoan cho lớp, cho trường, cho gia đình. Nghề dạy học vốn là nghề “sáng tạo trong các nghề

sáng tạo” và nói theo cách nói của thầy thuốc: thầy phải “chẩn” đúng bệnh, dùng loại thuốc “đặc
trị” phù hợp mới cứu được con “bệnh” cá biệt. Công lao của thầy, cô rất lớn. Vinh quang của nghề
dạy học là ở chỗ đó. Xã hội đánh giá nghề dạy học là “nghề cao quý trong các nghề cao quý” nghề “
trồng người” cũng vì lẽ đó.
- “Học sinh cá biệt” là những nhân tố ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của lớp, của trường và cũng
ảnh hưởng đến việc học tập và rèn luyện của lớp. Điều này thì chúng ta rất dễ nhận thấy nh ưng
sâu xa hơn nếu một HSCB không được giáo dục tốt thì sẽ có thêm một mảnh đời éo le, một gia đình
bất hạnh, một địa bàn bất ổn, xã hội sẽ có thêm một công dân không tốt. Và lẽ dĩ nhiên một nhà
trường tồn tại nhiều HSCB thì sẽ không phát triển.
- Nhiều năm làm công tác chủ nhiệm tôi nhận thấy GVCN với bao trách nhiệm nặng nề: làm
chiếc cầu nối giữa nhà trường và HS, gia đình HS; giữa GVBM và các em. GVCN không chỉ là
người thầy mà trong những tình huống khác còn là người cha, người mẹ, người bạn, là chỗ dựa tinh
thần của HS, phải luôn tận tâm với học trò, phải có chuyên môn cao, yêu nghề , phải có “cái tâm” và
“cái tài”.“Tâm” của người GVCN là xem các em như con cháu, không ngại tốn thời gian công sức
cho lớp mình phụ trách mà còn là tâm huyết tha thiết yêu nghề, tập trung cho từng hành động nhỏ
nhất của mình từ lời ăn tiếng nói, ăn mặc, hành động, chăm chút cho từng tiết giảng, từng cử chỉ của
mình. “Tài” là tùy theo đặc điểm tình hình lớp mà có những biện pháp để quản lý giáo dục HSCB
thích hợp.
- Một việc làm rát quan trọng của GVCN nữa là đầu năm khi nhận lớp phải phân loại HSCB ví
dụ:
+ Đối tượng 1: Gây gổ đánh nhau, kết bè thành băng nhóm, hút thuốc, thậm chí là nhậu nhẹt
kể cả HS nữ.
+ Đối tượng 2: Cúp tiết, mê game, nghỉ học không phép nhiều ngày dẫn đến học tập sa sút có
nguy cơ nghỉ học luôn.
5


+ Đối tượng 3: Thường xuyên không đồng phục, quậy phá, thiếu nghiêm túc trong học tập: nói
chuyện, gây mất trật tự trong lớp học.
+ Đối tượng 4: Ươn ngạnh, học đòi, không nghe lời thầy cô giáo, ý thức tổ chức kỷ luật kém .

+ Đối tượng 5: Không có biểu hiện rõ rêt, quậy ngầm.
Với các kinh nghiệm trên, tôi xin đề xuất một số biện pháp giáo dục HSCB như sau:
a/ Biện pháp giáo dục bằng tâm lý - tìm hiểu đặc điểm nhân cách học sinh :
Sau khi đã phân loại được HSCB, biết em đó thuộc loại cá biệt nào thì người thầy phải tìm hiểu
nguyên nhân nào đã làm cho HS của mình trở thành HSCB như vậy?
Như chúng ta đã biết, bản chất của con người vốn là tốt như Khổng Tử từng nói: “Nhân chi sơ
tính bản thiện”. Và khi sinh thời Bác cũng đã từng viết:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Bản chất con người - HS là lương thiện, nhưng do những yếu tố khác nhau như điều kiện
giáo dục làm ảnh hưởng đến đời sống, tâm lý của HS nên các em có những biểu hiện khác nhau như
thế. Theo quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác- Lê nin: "Bản chất con người là sự tổng hoà các
mối quan hệ xã hội". Như vậy, những hiện tượng HSCB được nêu trên đây không phải là một hiện
tượng ngẫu nhiên hoặc tình cờ mà có, tất cả đều có những nguyên nhân nhất định. Vậy ai, cái gì đã
làm cho HS của mình trở thành HSCB như vậy? Đây là một câu hỏi không hề đơn giản. GVCN
phải điều tra tỉ mỉ, nhiều lần để tìm ra nguyên nhân sâu xa bên trong và có biện pháp hữu hiệu nhất
để giáo dục cụ thể là phải nắm bắt được thông tin cá nhân của từng HS: cho các em viết lý lịch HS,
số điện thoại liên lạc, chú ý những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, như cha mẹ li hôn, cha mẹ đi làm
ăn xa phải sống với ông bà, hoặc anh chị em đùm bọc nhau hay gia đình thuộc diện hộ nghèo, hộ
đặc biệt khó khăn về kinh tế phải vất vả đi làm thuê và buộc con cái phải lao động thêm kiếm sống,
hoặc cha mẹ thường xuyên cải vã nhau, đánh đập con cái.v.v..Kế đến là những HSCB như con nhà
giàu nhưng không quan tâm đến việc học của các em làm cho các em dễ chán nản trước khó khăn
trong việc học tập, chuyện không vui từ phía gia đình hay bạn bè, trường lớp. Cho nên, từ những
thông tin tìm hiểu được GVCN nên gần gũi, trò chuyện thân mật với các em nhiều hơn để tạo cho
các em sự thân thiết, đồng cảm qua đó có thể hiểu các em hơn và kip thời ngăn chặn những suy nghĩ
nông cạn, sai lầm, những hành vi không hay, hướng các em vào điều tốt đẹp, lạc quan hơn . Việc
giáo dục HSCB có thể mỗi người có một cách khác nhau, theo tôi việc giáo dục HSCB hoàn toàn
không phải là ảo tưởng, không phải là không thể nhưng đó là việc làm cực kì khó khăn đòi hỏi sự
kiên trì, sự tâm huyết với nghề “trồng người”.
Hầu hết HSCB không ý thức được nhiệm vụ học tập của mình, không ý thức được vai trò của

việc học tập đối với cuộc đời của mình, vì vậy các em không có thói quen tự giác. Việc đi học với
6


các em chỉ là để vừa lòng cha mẹ, thầy cô, để được găp bạn, để không phải làm việc nhà.v.v.. Các
em chỉ học cho có học chứ không biết học để làm gì, học có tác dụng như thế nào đến cuộc sống
của mình sau này. Vì vậy người GVCN phải chỉ ra cho các em thấy tác dụng của việc học bằng
những ví dụ cụ thể những tấm gương rất gần gũi với các em về sự thành công và thất bại trong cuộc
sống do sự học mang lại.
Theo tôi người GVCN phải tránh cái nhìn lý tưởng hoá về lớp học, về HS của mình. Lớp nào,
trường nào cũng có HSCB chỉ khác là biểu hiện của cái “cá biệt” đó như thế nào mà thôi và số lượng nhiều hay ít. Có em “cá biệt” về đạo đức, có em “cá biệt” về học tập, có em đặc biệt “cá
biệt”.v.v. Vì vậy, người GVCN phải thật sự nhẫn nại, tỉ mỉ, yêu HS và rất cần một ph ương pháp
đúng đắn. Hãy coi HSCB như một “thử thách” cần phải vượt qua, đừng coi đó như một tai nạn,
một nỗi đau hay sự đen đủi khi được giao chủ nhiệm vào lớp có nhiều HSCB.
b. Biện pháp kiểm soát/làm chủ cảm xúc của bản thân:
Thường, GV khó kiểm soát vói cảm xúc của mình nên có những lời nói và hành vi gây tổn
thương HS. Theo tôi không nên gọi các em là HSCB, đặc biệt trước lớp, trước mặt người khác. Các
em chỉ là những “HS chưa ngoan”, những “HS có hoàn cảnh đặc biệt” vì từ cá biệt ở đây tức là
khác biệt, vậy vô hình chung chúng ta đã cố tách HS đó ra khỏi lớp, cô lập các em trước lớp. Nhiệm
vụ của chúng ta là giáo dục các em HS “chưa ngoan” này trở thành HS ngoan. Tôi xin trích dẫn một
câu danh ngôn: “Nếu bạn nhìn ai đó với ánh mắt yêu thương, bạn sẽ không nhìn thấy những nét
xấu xa mà bạn sẽ chỉ nhìn thấy toàn những nét đẹp mà thôi”. Đa số các em HSCB rất cần một điểm
tựa tinh thần tin cậy để có thể được sẻ chia tâm sự, để được bộc bạch những khó khăn những nỗi
niềm riêng tư thầm kín. Đừng nên thẳng tay trừng trị các em mà hãy nhìn các em bằng sự bao dung
của người cha, sự nhân từ của người mẹ, sự gần gũi, cảm thông của người anh người chị, sự thân
thiết của người bạn mà chúng ta hãy nhẹ nhàng phân tích những ưu khuyết điểm, những đúng sai
trong nhận thức và hành động của các em, cố gắng giúp các em tự nhận ra sai lầm của mình mà
không phải mang mặc cảm nặng nề về lỗi lầm đó. Hãy tạo cho các em sự thiện chí để các em biết
sửa chữa và không tái phạm. HSCB dù cho có khó giáo dục đến đâu đi chăng nữa thì bên trong các
em vẫn luôn tiềm ẩn những nhân tố, những phẩm chất tích cực nếu có phương pháp đúng chúng ta

vẫn khơi gợi để làm thức tỉnh các em khôi phục lại niềm tin cho các em và để các em thấy rằng
mình không hề kém cỏi, không phải là “đồ bỏ đi”, để các em có thể vứt bỏ được sự tự ti, mặc cảm
mà tự giác, chủ động hòa nhập với các bạn. Hãy tìm ra điểm mạnh của các em để có cơ hội, chúng
ta có thể “ khích tướng” cho HS phát huy. Một điều rất quan trọng nữa là thầy cô hãy nhìn nhận vấn
đề theo chiều hướng tích cực, đừng nghiêm trọng hoá vấn đề. Hãy tạo cho các em một lối thoát, một
cơ hội để sửa chữa, xin đừng “mổ một con gà bằng một cái búa”. Hãy tin tưởng chờ đợi sự chuyển
7


biến của các em, không nên nóng vội vì như vậy sẽ càng tạo áp lực lên các em, các em càng bối rối,
càng sa vào đối phó.
c/ Biện pháp giáo dục bằng tập thể - ngăn ngừa và giải quyết những xung đột trong tập thể
lớp:
- Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội. Thường ở lứa tuổi này
các em chưa ý thức được việc nào là quan trọng hơn, chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô
giáo các em thường có biểu hiện bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối tượng
HSCB mặc dù biết việc làm của bạn là sai. Đối với những em có quan hệ gần gũi với HSCB, cũng
có thể các em ngại không dám nói ra sự thật vì sợ sự đe doạ của các bạn. Nhưng phải nói rằng tất cả
những suy nghĩ, những việc làm của các em cá biệt thì chính các em HS cùng lớp, cùng khối là biết
rõ nhất.Về vấn đề này GVCN cần khéo léo trong cách điều tra, có thể là điều tra bằng cách giao
nhiệm vụ theo dõi tìm hiểu cho ban cán sự lớp hoặc một đối tượng HS đáng tin cậy nhất nào đó và
sẽ trao đổi với các em bằng cách bảo mật thông tin. Thường thì những em này sẽ cung cấp cho
chúng ta nguồn tin chính xác nhất. Sau khi nắm được thông tin, phân tích tình hình, GVCN hướng
dẫn cho các em đã đi tìm hiểu và giúp đỡ các HSCB từ đây giữa các em sẽ có một mối quan hệ tốt
đẹp và nhất là tạo cho những em cá biệt có niềm tin với mình. GVCN nên thường xuyên giữ mối
quan hệ với các em này tìm hiểu những khó khăn và giúp các em giải quyết. Và đến lúc thích hợp,
GVCN nên có mặt kịp thời để động viên, giúp đỡ các em, tạo cho các em có niềm tin thuyết phục,
chỗ dựa vững chăc để các em có cơ hợi tiến bộ. Trong biện pháp này cũng có thể dùng cách “lấy
độc trị độc”. Qua các hoạt động của lớp, GVCN nên phân công, giao nhiệm vụ cụ thể cho những
HSCB và cần phải theo dõi kỹ qua từng hoạt động xem các em và đây cũng chính là cơ hội để

HSCB thấy mình vẫn còn có thể sửa đổi được và chắc rằng các em sẽ có sự tiến bộ. Hãy mạnh dạn
biểu dương các em trước tập thể, đừng tiết kiệm lời khen với các em vì một lời động viên khen ngợi
còn có giá trị hơn rất nhiều những bản kiểm điểm. Hãy tôn trọng quyền lựa chọn, sự quyết định của
HS trong phạm vi cho phép, cùng nhau xây dựng nội quy của lớp, các em sẽ tự giác thực hiện vì nội
quy đó do chính các em đưa ra. Và đôi khi chúng ta hãy tôn trọng cả sự “cá biệt” của các em vì mỗi
cá nhân là một nhân cách độc lập cần phải được tôn trọng. Thầy cô hãy cố gắng điềm tĩnh, biết tự
kiềm chế vì HSCB là một sự thử thách rất lớn đối với mỗi giáo viên. Nếu chúng ta quá nóng vội là
công sức mà chúng ta bỏ ra sẽ đổ xuống sông, xuống biển. Không nên quá khắt khe xử lí mạnh tay
bằng những hình thức kỉ luật nặng nề, không nên đe doạ, thành kiến với các em. Đừng nhắc đi nhắc
lại nhiều lần lỗi vi phạm của các em sẽ tạo nên sự xấu hổ dần dần dẫn đến sự chai lì. Song song với
vấn đề trên thì việc tạo mối quan hệ mật thiết với gia đình HS cũng là điều hết sức quan trọng ,
GVCN đừng đợi đến các cuộc họp phụ huynh hay đến lúc các em vi phạm những nội quy trường
lớp, những việc lớn mới mời phụ huynh đến để trao đổi. GVCN có thể thăm hỏi chuyện gia đình,
8


trao đổi cách dạy dỗ con em khi có dịp gặp mặt. Hãy làm cho cuộc họp trở thành buổi trao đổi thân
mật giữa GV và gia đình HS từ đó tạo được mối quan hệ thân thiện hơn, gắng kết hơn lúc ấy
GVCN sẽ được sự tin yêu của phụ huynh và họ sẽ sẵn sàng hổ trợ mọi hoạt động, học tập, sinh hoạt
cho các em có điều kiện để học hành cũng như cung cấp mọi thông tin về các em ở gia đình. Khi HS
có vấn đề về hạnh kiểm, học lực GV cần liên hệ nhanh đến phụ huynh để thống nhất biện pháp giáo
dục, tránh làm tổn thương tâm lý các em, sau đó theo dõi kip thời khen ngợi và động viên các em về
những tiến bộ đạt được dù là nhỏ nhất.
d. Biện pháp phối hợp :
Đối với những HSCB hay bỏ học chơi bời, có biểu hiện vi phạm thì GVCN cần thường
xuyên đến gia đình hoặc liên lạc bằng điện thoại, tin nhắn điện tử (Vietschool), đồng thời phối hợp
với bộ phận quản sinh của trường để nắm bắt những vi phạm của các em. Một điều không thể thiếu
được là phải có kế hoạch và biện pháp giúp cho lớp nâng dần chất lượng học tập và hạnh kiểm ngày
một cao hơn. Trước tiên GV phải làm cho các em thích đi học. Một nhiệm vụ nặng nề như thế nếu
để một mình GVCN làm thì không thể nào đạt hiệu quả được mà nhờ nhiều bộ phận chung tay góp

sức như BGH nhà trường, Đoàn, Đội, GVBM, gia đình HS và cả xã hội. Nếu chúng ta không có cái
tâm không có tấm lòng của một người cha, người mẹ lo lắng cho học sinh thật sự sẽ không thể giáo
dục được HSCB dẫu biết có bao nhiêu việc có tên và không tên đòi hỏi GVCN phải ra tay giải
quyết, có biết bao nhiêu trách nhiệm mà người GV phải gánh trên vai dẫu đồng lương còn hạn hẹp
nhưng sự tiến bộ của HS gọi là cá biêt là phần thưởng quý giá nhất mà những GV luôn hết lòng với
HS hạnh phúc đón nhận.
Tóm lại GVCN phải có một số kỹ năng sau: Kỹ năng tìm hiểu đặc điểm nhân cách HS; kỹ năng
xây dựng kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp ( kế hoạch năm, học kì, tháng, tuần); kỹ năng tổ chức
giờ sinh hoạt lớp; kỹ năng tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho HS (dưới góc độ của GVCN); kỹ năng
ngăn ngừa và giải quyết những xung đột trong tập thể lớp; kỹ năng xử lí tình huống giáo dụcKĩ năng kiểm
soát/làm chủ cảm xúc của bản thân.
Lưu ý: Nếu bằng tình không cảm cảm hóa được thì căn cứ theo thông tư 08 của BGD& ĐT
hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh các trường phổ thông mà thực
hiện. Bên cạnh đó, GVCN phải kiên quyết cứng rắn, lời nói phải đi đôi với việc làm, xin đừng hứa

suông, đã nói thì phải kiên quyết thực hiện, biết không thực hiện được thì kiên quyết đừng nói.
Vận dụng linh hoạt phương thức “lạt mềm buộc chặt”, “mềm nắn rắn buông”.
- Cần tiến hành xử lý từng bước đúng quy trình, đúng người, đúng tội và có biên bản lưu ( Có
một số biểu mẫu tham khảo ở phần phụ lục).
III.

Hiệu quả và khả năng áp dụng:

1. Hiệu quả:
9


- Trường THCS Nguyễn Văn Tiệp đã và đang là một địa chỉ tin cậy đối với phụ huynh và HS
trong huyện Tân Hồng – Đồng Tháp bởi tập thể cán bộ GV, nhân viên trong nhà trường không chỉ
cố gắng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dạy và học mà còn

chú trọng đến công tác giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách cho HS, chú trọng chăm sóc đặc biệt
cho những em là HSCB. Thực tế cho thấy những HS trường THCS Nguyễn Văn Tiệp ngày càng có
nhiều HS giỏi thi đạt giải cao ở các cấp, tỉ lệ HS khá giỏi năm 2012-2013 đạt 59,1%, tỉ lệ HS thi
tuyển vào lớp 10 rất cao, số lượng HSCB so với những năm trước giảm đáng kể, xếp loại hạnh kiểm
từ khá- tốt trở lên rất cao tỉ lệ đến 98%, không có HS bị xếp hạnh kiểm loại yếu, không có HS bị kỉ
luật nặng. Đa số các em rất lễ độ, biết tôn trọng thầy cô, quý mến bạn bè xứng đáng trở thành con
ngoan trò giỏi cháu ngoan Bác Hồ.
Qua sự cố gắng nỗ lực của bản thân, nhiều năm qua trong công tác chủ nhiệm tôi luôn vận
dụng linh hoạt các biện pháp trên và cũng đã thu được kết quả rất khả quan :
- Các lớp được tôi chủ nhiệm các em đều tham gia tốt các hoạt động của trường của Liên đội
và luôn được đánh giá cao. Nhiều năm lớp đạt danh hiệu xuất sắc và bản thân tôi được Hội đồng thi
đua nhà trường công nhận là GVCN giỏi.
-Thực tế cho thấy nếu HS ngoan, hiền, hiếu học thì sẽ học giỏi và đã là HS giỏi thì dễ dạy, dễ
giáo dục nên hạnh kiểm các em sẽ tốt hơn và nếu quan tâm giáo dục đúng cách thì kết quả sẽ khả
quan hơn. Cụ thể so sánh số liệu hai lớp tôi chủ nhiệm: lớp 6A6 ở học kì II năm 2012- 2013 khi
chưa ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm với lớp 7A3 ở học kì I năm 2013-2014 khi ứng dụng sáng
kiến kinh nghiệm:
Học lực

Hạnh kiểm

Khá-Giỏi
TB- Yếu
Khá- Tốt
TB- Yếu
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
2012- 2013 10/34em
29,4
24/34em
70,6

23/34em
67,6
11/34em
32,4
2013-2014 13/38em
34,2
25/38em
65,8
35/38em
92,1
3/38em
7,9
Năm nay lớp 7A3 tôi phụ trách phấn đấu đến cuối năm xếp loại hạnh kiểm loại khá tốt 100%
Năm học

vượt chỉ tiêu trường đưa ra là 98% trung bình 2%.
2. Khả năng áp dụng:
- Nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, tôi đã ấp ủ, nghiền ngẫm suy nghĩ cùng với việc học hỏi
những kinh nghiệm của các đồng nghiệp, qua sách, báo, các kênh thông tin tôi rất tâm đắc với đề tài
này. Đây là một đề tài, một sáng kiến kinh nghiệm được đúc kết từ thực tế của trường, của lớp tôi
chủ nhiệm có thể áp dụng rộng rãi trong ngành giáo dục, đặc biệt là các GV làm công tác chủ nhiệm
cấp THCS.
PHỤ LUC
10


(MỘT SỐ BIỂU MẪU)

11



THEO DÕI THI ĐUA CỦA TỔ……TUẦN…….LỚP 7A3
Nội dung

Điểm chuẩn/1lần

Ghi chú

I. VỀ NỘI QUI:
1

Đi trể (sau khi thầy cô vào lớp)

-2

2

Vắng học không phép

-5

3

Vắng học có phép

-1

Cúp tiết kể cả tiết chào cờ (từ 3 tiết trở lên xem như vắng không phép 1 ngày)

-5


5

Không bỏ áo vào quần

-5

6

Không đeo khăn quàng

-5

7

Không mang phù hiệu, bảng tên

-5

8

Nói chuyện trong giờ học bị nhắc nhở

-5

9

Làm việc riêng bị nhắc nhở (chơi cờ, bấm điện thoại,...)

-5


10

Mang dép lê, dép kẹp

-5

11

Tự ý đổi chỗ ngồi

-5

12

Ra khỏi chỗ trong giờ đổi tiết (hết tiết 1,3,4)

-5

13

Mặc áo khoác trong lớp

-5

14

Tóc dài bị nhắc nhở chưa thực hiện

-5


15

Ăn uống sai qui định lớp, trường

-5

16

Không trực nhật khi được phân công

-5

17

Xã rác bừa bải (khi bị phát hiện)

-5

18

Nghỉ học thể dục (không phép)

-5

19

Nghỉ học thể dục (có phép)

-1


20

Không bảo quản tài sản của lớp, của trường

-10

21

Nói tục, chửi bậy

-10

22

Vô lễ với giáo viên, người lớn

-20

23

Đánh nhau
Không nghiêm túc trong giờ học bị GV nhắc nhở

-20
-5

4

24


II. VỀ HỌC TẬP: (cộng 50đ/1 tuần)
1

Trả bài đạt 9, 10đ

5

2

Trả bài đạt 7, 8đ

2

3

Trả bài đạt từ 5 đến 6,5

0

4

Trả bài đạt 4đ

-2

5

Trả bài đạt 0-3đ


-5

6

Không có tài liệu khi học tập

-5

7

Không chép, soạn bài đầy đủ bị Gv nhắc nhở

8
9

Quay cóp khi kiễm tra, thi

10
11

Giơ tay phát biểu được GV gọi
Tích cực trong học tập được GV khen

Lật tài liệu (khi giáo viên phát hiện)

-5
-10
-10
2đ/lần
10


III. VỀ LAO ĐỘNG: (cộng 50đ/ 1tuần)
1

Vắng lao động không phép

-10

2

Vắng lao động có phép

-2

3

Không tích cực trong lao động

-5

12


4

Không mang dụng cụ lao động

-5

5


Lao động không cẩn thận

-5

6

Lao động không nghe theo người hướng dẫn lao động

-5

IV. VỀ PHONG TRÀO (PT): (cộng 50đ/1 tuần)
1

Không tham gia PT khi được phân công

2

Có tham gia PT mà không đạt giải

3
4
5

Tham gia PT đạt giải vòng trường
Tham gia PT đạt giải vòng Huyện
Tham gia PT đạt giải vòng Tỉnh

Giáo vien chủ nhiêm


Văng Công Sâu

-10
5
10
20
40

Lớp trưởng

Đặng Thành Nhân

13


PHÒNG GD&ĐT TÂN HỒNG

TRƯỜNG THCS NGUYỄN VĂN TIỆP

VĂNG CÔNG SÂU

14


KINH NGHIỆM TRONG VIỆC QUẢN LÝ VÀ GIÁO DỤC
HỌC SINH CÁ BIỆT TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
NGUYỄN VĂN TIỆP CÓ HIỆU QUẢ

SAÙNG KIEÁN KINH NGHIEÄM


Tân Hồng, tháng 02 năm 2014

15


16



×