Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Bản án số 2 luật thương mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.7 KB, 4 trang )

Bản án số: 64/2006/KDTM-ST Ngày: 17/8/2006
V/v: Tranh chấp hợp đồng đại lý
Ngày 17 tháng 8 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử
sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 98/KDTM ngày 26 tháng 7 năm 2006 về Tranh chấp
hợp đồng đại lý theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/KDTM/QĐXX-ST ngày 26
tháng 07 năm 2006 giữa các đương sự:
Nguyên đơn:Công ty TNHH thực phẩm nước giải khát A&B
Trụ sở: Xã Thuận Gia - Thuận An - Tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:
Ông Sung Che Heng - Tổng giám đốc đại diện, đã uỷ quyền cho chị Lê Tố
Anh đại diện, theo giấy uỷ quyền số 09 ngày 10.8.2005 (có mặt tại Toà)
Bị đơn: Chị Trần Thị Hương - sinh 1972
Trú quán: tổ 13 phường Minh Khai, thị xã Hà Giang, tỉnh Hà Giang (có mặt tại
Toà)
Nhận thấy
Công ty TNHH thực phẩm nước giải khát A&B (sau đây gọi tắt là Công ty
A&B) do ông Sung Che Heng làm tổng giám đốc có ký hợp đồng kinh tế số 005/2005
ngày 1.2.2005 với chị Trần Thị Hương là hộ có đăng ký kinh doanh, để đại lý, bán sản
phẩm cho Công ty A&B tại thị xã Hà Giang, với số lượng hàng gồm các sản phẩn là
nước tinh lọc 3000 thùng trong một tháng tính theo thời điểm từ 1.2.2005 đến
30.4.2005. Còn từ 1.5.2005 đến 31.1.2006 mỗi tháng chị Hương phải tiêu thụ 2400
thùng 1 tháng. Đối với mặt hàng sữa chua Yoyo 300 thùng/1 tháng nước tăng lực
Buffalo 500 thùng/1 tháng.
Giá cả theo báo giá hàng tháng do công ty kèm theo chương trình khuyến mại là
có triết khấu cho đại lý.
Sau khi ký hợp đồng chị Trần Thị Hương đã thực hiện được 5 tháng, còn tháng
5/2005 chị nghỉ sinh con nên chị có công văn gửi ông Tổng giám đốc xin được nghỉ.
Ngày 1.6.2005 công ty có Công văn số 024 gửi cho chị Hương yêu cầu, chị thực hiện
hết tháng 6.2005 và thực hiện tháng 5.2006 nhưng chị Hương chỉ thực hiện hết tháng
6.2005 còn tháng 5.2006 chị không thực hiện. Nên ngày 27.4.2006 Công ty A&B đã
có đơn khởi kiện tại Tòa án thành phố Hà Nội yêu cầu chị Hương phải bồi thường cho


Công ty là 212.520.000 đồng vì không thực hiện tiếp hợp đồng.


Phía chị Trần Thị Hương trình bầy chị có ký hợp đồng đại lý số 005/2005 ngày
1.2.2005 với Công ty A&B như chị Lê Tố Anh đã khai và chị đã thực hiện hợp đồng
được 5 tháng, nhưng do sinh con bị mổ, nên chị phải nghỉ và có gửi đơn đến công ty
A&B xin dừng hợp đồng, ngày 1.6.2005 công ty có công văn số 024 yêu cầu chị thực
hiện tiếp tháng 6.2005 và chỉ tiêu tháng 5/2006 và chị đã thực hiện tháng 6/2005 như
công ty yêu cầu, còn tháng 5.2006 không quy định trong hợp đồng, nên chị không
thực hiện. Mặt khác phía công ty luân chuyển hàng chậm và nợ tiền triết khấu của chị
năm 2004 chưa thanh toán và triết khấu đầu năm 2005 cũng chưa trả cho đại lý đề
nghị công ty phải thanh toán cho chị
Nay công ty yêu cầu chị phải chịu phạt theo hợp đồng vì dừng hợp đồng là
không đúng, vì chị đã thực hiện đúng đề nghị của công ty cho chị dừng hợp đồng nên
chị không tiếp tục.
Ngày 27.6.2005 chị đã gửi tiếp công văn cho Công ty và công ty A&B không có
ý kiến gì nữa. Nay công ty kiện chị vì không thực hiện hợp đồng là không đúng chị
không chấp nhận.
Ngày 10 tháng 7 năm 2006 toà án Hà Nội đã thông báo cho chị Hương phải nộp
bổ sung chứng cứ nhưng chị Hương không nộp. Ngày 26.7.2006 toà án Hà Nội ra
quyết định xét xử ngày 9.8.2006. Nhưng ngày 3 tháng 8 năm 2006 chị Hương có đơn
xin hoãn phiên toà. Ngày 7 .8.2006 nguyên đơn cũng xin hoãn phiên toà. Vì thế Toà
án Hà Nội đã có quyết định hoãn phiên toà đến 17.8.2006.
Xét yêu cầu của hai bên đương sự. Hội đồng xét xử Toà án thành phố Hà Nội .
xét thấy
Công ty TNHH thực phẩm nước giải khát A&B (gọi tắt là Công ty A&B) được
Bộ Kế hoạch đầu tư cấp giấy phép ngày 24.9.1999 theo Quyết định 972A người đại
diện hợp pháp là ông Sung Che Heng (quốc tịch Đài Loan).
Ngày 1.2.2005 Công ty A&B có ký hợp đồng kinh tế số 005/ĐL/2005 với chị
Trần Thị Hương là cá nhân có đăng ký kinh doanh số 575 ngày 4.1.2005 do Uỷ ban

nhân dân thị xã Hà Giang cấp, hai bên thoả thuận chị Hương bán đại lý các mặt hàng
do Công ty A&B sản xuất số lượng trong hợp đồng đã quy định, giá cả theo báo giá
của công ty hàng tháng và kèm theo chương trình khuyến mại cùng triết khấu cho đại
lý. Thời hạn hợp đồng 12 tháng từ 1.2.2005 đến 31.1.2006 hết hạn trong hợp đồng quy
định khi xẩy ra tranh chấp được giải quyết tại toà kinh tế thành phố Hà Nội.
Ngày 27.4.2006 Công ty A&B có đơn khởi kiện và nộp dự phí yêu cầu chị Trần
Thị Hương phải bồi thường cho Công ty A&B số tiền 212.520.000 đồng do dừng
không thực hiện tiếp hợp đồng. Xét đơn khởi kiện của Công ty A&B vẫn còn trong
hạn luật định và hợp lệ và thuộc thẩm quyền của Toà kinh tế Hà Nội giải quyết.


Xét về nội dung vụ kiện thì thấy Công ty A&B cho rằng, chị Hương không tiếp
tục thực hiện hợp đồng số 005/ĐL/2005 2 bên đã ký kết là chị Hương đã vi phạm hợp
đồng, gây thiệt hại cho công ty, nên chị Hương phải bồi thường thiệt hại. Nhưng phía
chị Hương thì cho rằng hợp đồng kinh tế 005/ĐL/2005 chị ký với Công ty A&B chị đã
thực hiện được 5 tháng. Do tháng năm chị sinh con phải mổ nằm viện, nên chị đã có
công văn gửi Công ty A&B cho dừng việc thực hiện tiếp hợp đồng ở lý do trên và
ngày 1.6.2005 tại công văn số 24 Công ty A&B đã chấp nhận, nếu chị thực hiệp tiếp
6/05 và tháng 5/2006 thì công ty không khởi kiện và không có ý kiến gì và chị đã thực
hiện tiếp tháng 6/2005, còn tháng 5/2006 không nằm trong hợp đồng nên chị không
thực hiện, nay công ty kiện chị đòi bồi thường chị không chấp nhận.
Với yêu cầu của các đương sự đã nêu trên Hội đồng xét xử Toà án nhân dân
thành phố Hà Nội xét thấy Công ty A&B có ký hợp đồng kinh tế số 005/ĐL/2005 với
chị Hương là có thật như 2 bên đã xác nhận và phía chị Hương không tiếp tục thực
hiện hợp đồng là có. Căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng 2 bên ký kết thì không
quy định thời hạn khiếu nại, khi xẩy ra tranh chấp. Vì thế phải căn cứ vào điều 318
Luật Thương mại đã quy định và tại khoản 3 điều 318 có nêu thời hạn khiếu nại là 9
tháng kể từ ngày bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng. Như vậy từ
tháng 7.2005 chị Hương không thực hiện nghĩa vụ nhưng bên Công ty A&B cũng
không có công văn nào yêu cầu chị Hương thực hiện tiếp hợp đồng trên, như vậy phía

công ty đã đồng ý đơn đề nghị dừng hợp đồng từ 1/6/2005 và từ bỏ quyền khiếu nại,
đối với quyền lợi của công ty. Căn cứ điều 426 Bộ luật dân sự 2005 thì khi một bên
muốn chấm dứt hợp đồng phải làm bằng văn bản gửi cho bên kia biết trước, nếu
không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Luật còn quy định thời điểm
chấm dứt hợp đồng là từ khi bên kia nhận được thông báo và vụ án này công ty đã
nhận được thông báo của chị Hương xin nghỉ đẻ, nên ngày 1/6/2005 công ty có công
văn số 24 yêu cầu chị Hương thực hiện. Hết tháng 6/2005 và tháng 5/2006 và chị
Hương thực hiện tháng 6/2005 còn tháng 5/2006 không nằm trong hợp đồng nên chị
không thực hiện. Nay công ty buộc chị Hương phải thực hiện chỉ tiêu 5/2006 là không
có căn cứ. Bởi vậy nghĩ nên bác yêu cầu khởi kiện của Công ty A&B.
Đối với chị Hương có lời khai đề nghị Công ty A&B thanh toán nợ cho chị ở
hợp đồng 04/2004 và 2.060.000 đồng trả thừacông ty, cùng tiền triết khấu, đầu năm
2005 chị đã thực hiện, phía công ty không chấp nhận. Hội đồng xét xử thấy rằng ở vụ
kiện này giải quyết tranh chấp hợp đồng 05/2005 không liên quan đến hợp đồng khác,
nên không xem xét được. Riêng tiền triết khấu năm 2005 có quy định ở điểm 3 của
hợp đồng nhưng phía chị Hương không có căn cứ chứng minh, không có đơn phản tố
trước phiên toà hôm nay, chị Hương cũng không yêu cầu nữa nên Toà không xét.
Nguyên đơn phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm.
Căn cứ nhận định trên
Toà án nhân dân thành phố Hà Nội


Quyết định
Căn cứ điều 29, điều 58, 59, 60, 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
Căn cứ điều 388, 426 Bộ luật dân sự 2005.
Căn cứ điều 166, 167, 168, 318 Luật Thương mại sửa đổi năm 2005.
Nghị định 70/CP ngày 12.6.1997 của Chính phủ quy định án phí.
1. Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH thực phẩm nước giải khát A&B uỷ
quyền hợp pháp cho chị Lê Tố Anh đại diện. Yêu cầu chị Trần Thị Hương bồi thường
cho công ty 212.520.000 đồng vì không tiếp tục thực hiện hợp đồng số 005/2005 với

công ty.
2. Bác các yêu cầu khác của các đương sự.
3. Công ty TNHH thực phẩm nước giải khát A&B phải chịu án phí kinh tế sơ
thẩm là 9.360.000 đồng đã nộp tại biên lai số 007721 ngày 27 tháng 4 năm 2006 tại cơ
quan thi hành án dân sự Hà Nội: 4.500.000 đồng còn phải nộp tiếp án phí sơ thẩm là
4.860.000 đồng nữa.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt các đương sự và các đương sự có quyền kháng
cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.



×