Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tìm hiểu về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá theo luật thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.07 KB, 48 trang )

Lời nói đầu
Trong xu hớng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, với chính sách mở cửa và
hội nhập, Việt Nam đang từng bớc hoàn thiện hệ thống pháp luật thơng mại. Năm
1997, Luật thơng mại Việt Nam ra đời đánh dấu một bớc phát triển lớn trong
chặng đờng xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nớc ta, trong đó đáng kể
nhất là các điều khoản điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa giữa thơng nhân
Việt Nam với thơng nhân nớc ngoài, đáp ứng nguyện vọng và mong muốn của các
thơng nhân Việt nam có quan hệ thơng mại Quốc tế.
Ra đời năm 1997, chậm hơn Công ớc viên 17 năm, chắc hẳn các quy định
của Luật thơng mại Việt Nam về hợp đồng mua bán Quốc tế hàng hóa đã có kế
thừa và đúc rút đợc những bài học quan trọng từ thực tiễn thơng mại Việt Nam và
thế giới, nhng những quy định này có đợc phù hợp với thông lệ Quốc tế hay
không, có đáp ứng đợc trọn vẹn nguyện vọng cũng nh mong muốn của các thơng
nhân Việt Nam và thơng nhân nớc ngoài khi ký kết hợp đồng mua bán Quốc tế
hay không thì thực tế sẽ cho thấy một câu trả lời xác đáng nhất. Tuy nhiên, Luật
thơng mại của Việt Nam ra đời là một điều hết sức khích lệ, là một kết quả tất yếu
của đòi hỏi do thay đổi về diện mạo và sắc thái đời sống kinh tế nớc ta.
Phạm vi điều chỉnh của Luật thơng mại Việt Nam rất rộng, nhng trong bài
tiểu luận này, chúng em chỉ muốn đề cập đến vấn đề liên quan đến chế độ trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán Quốc tế hàng hóa cùng với một số kiến nghị
nhỏ với mong muốn Luật thơng mại Việt Nam sẽ phát huy hiệu quả đúng với mục
đích ra đời của nó.
1
phần I
Khái quát chung
về luật Thơng Mại Việt Nam
I. Hoàn cảnh và mục đích ra đời
1. Hoàn cảnh ra đời của Luật thơng mại Việt Nam.
Ngày 10/05/1997, một văn bản luật nhằm điều chỉnh các hành vi thơng mại
của thơng nhân Việt Nam và thơng nhân nớc ngoài hoạt động tại Việt Nam đã ra
đời sau khi đợc nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX kì họp thứ 11


thông qua. Đó là Luật thơng mại Việt Nam 1997 cùng với các hệ thống văn bản
pháp luật khác, kể từ ngày 01/01/1998, Luật thơng mại Việt Nam chính thức có
hiệu lực và là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh một số vấn đề cơ bản liên quan
đến hợp đồng mua bán ngoại thơng.
Luật thơng mại Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh nớc ta chuyển từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trờng theo định h-
ớng xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi từ nền kinh tế sản xuất nông nghiệp sang sản
xuất công nghiệp với nhiều đặc thù của một quốc gia có truyền thống nho giáo lâu
đời. Sự phát triển kinh tế trong nớc làm nảy sinh nhiều loại hình kinh doanh, trao
đổi mua bán, hoạt động đầu t mới. Cùng với nó là quá trình quốc tế hóa đời sống
kinh tế. Các nớc ngày càng tham gia sâu rộng hơn vào thơng mại thế giới đã dẫn
đến xu hớng quốc tế hóa pháp luật hay là việc xích lại gần nhau giữa pháp luật các
nớc hoặc việc nhất thể hóa pháp luật một số nớc.
Kể từ năm 1986, sau khi thực hiện chính sách đổi mới, Quốc hội đã liên tiếp
thông qua nhiều đạo luật quan trọng nh Luật đầu t nớc ngoài (1987), Luật công ty
(1990), Luật khuyến khích đầu t trong nớc (1994) ... nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cơ
bản cho các hoạt động thơng mại và góp phần không nhỏ vào sự tăng trởng kinh tế
Việt Nam. Song, có thể thấy ở nớc ta lúc bấy giờ cũng cha có một môi trờng pháp
luật điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, nhất là các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
2
Điều này gây trở ngại lớn trong quan hệ mua bán hợp tác đầu t giữa các nớc với
Việt Nam.
Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế nớc ta đã chuyển sang giai
đoạn mới: giai đọan công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nớc với nhiều thử thách
của thị trờng và xu thế hội nhập quốc tế vai trò của pháp luật ngày càng quan
trọng, hệ thống pháp luật Việt Nam cần đợc đổi mới mạnh mẽ. Tính chất của nền
kinh tế thị trờng mở trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới đòi hỏi điều
chỉnh pháp luật về hoạt động ngoại thơng phải đợc tiến hành trên cơ sở các đạo
luật có sự thống nhất đồng bộ, vừa có hiệu lực pháp lý cao vừa ổn định chứ không
thể chỉ dựa trên sự điều chỉnh của các văn bản dới luật cha đồng bộ và thờng

xuyên thay đổi.
Chính vì vậy, sự ra đời của Luật thơng mại Việt Nam 1997 là kết quả tất yếu
của đòi hỏi do thay đổi về diện mạo và sắc thái đời sống kinh tế nớc ta. Mặt khác,
khi tham gia vào thơng trờng quốc tế, các chủ thể của Việt Nam thờng gặp bất lợi
khi buôn bán hợp tác đầu t với các chủ thể nớc ngoài, nơi mà hầu hết đã có một
khuôn khổ pháp lý vững chắc cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì vậy, để đảm bảo
cho các chủ thể kinh tế nớc mình trong quan hệ thơng mại Quốc tế cũng nh nhằm
tạo một môi trờng pháp lý lành mạnh hoàn thiện Luật thơng mại Việt Nam 1997
chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1998 là cơ sở pháp lí góp phần mở rộng giao
lu thơng mại với các nớc trên thế giới.
2. Mục đích ra đời của Luật thơng mại Việt Nam
Luật thơng mại Việt Nam 1997 là cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng
xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp
tác xã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân; phát triển thị trờng hàng hóa và dịch vụ
thơng mại trên các vùng của cả nớc, mở rộng giao lu thơng mại với nớc ngoài, góp
phần đẩy mạnh sản xuất cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của
ngời sản xuất, ngời tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thơng nhân, góp phần tích cực
nhằm đẩy nền kinh tế tăng trởng nhanh và bền vứng theo hớng công nghiệp hóa -
hiện đại hóa , vì mục tiêu dân giàu nớc mạnh xã hội công bằng văn minh. Lời nói
đầu của Luật thơng mại Việt Nam cũng chính là lời giải thích về mục đích ra đời của
bộ luật này.
Luật thơng mại Việt Nam ra đời với 3 mục tiêu cơ bản sau:
Thơng mại là hoạt động quan trọng có ảnh hởng lớn và trực trếp đến hoạt
động sản xuất và lao động, trong khi nhiều chính sách cơ bản của đảng và nhà nớc
3
về lĩnh vực này cha đợc thể chế hóa bằng pháp luật, nh mục tiêu của thơng mại;
chính sách đối với các doanh nghiệp thơng mại thuộc các thành phần kịnh tế khác
nhau; chính sách đối với các mặt hàng, các dịch vụ quan trọng.... Do đó, việc luật
hóa các quan điểm này là mục tiêu hàng đầu của việc ban hành luật Luật thơng

mại.
Nói đến hoạt động thơng mại là nói đến các dạng chủ yếu của nó nh: hoạt
động mua bán hàng hóa, đại diện cho thơng nhân, môi giới thơng mại, ủy thác
mua bán, đại lý mua bán hàng hóa. Các dạng hoạt động thơng mại này cho đến
nay vẫn cha đợc qui định cụ thể đồng bộ đầy đủ. Do đó ít nhiều ảnh hởng đến lu
thông hàng hóa trong nớc và nớc ngoài.
Đảng và nhà nớc ta thực hiện chính sách đa phơng hóa, đa dạng hóa quan hệ
kinh tế đối ngoại. Chúng ta đã triển khai nhiều công việc để hội nhập trong khu vực
và trên thế giới, do đó đòi hỏi phải sớm ban hành những qui định thích hợp có giá trị
pháp lý cao nhằm tạo thuận lợi cho sự giao lu hàng hóa trong nớc với nớc ngoài làm
cho pháp luật thơng mại nớc ta phù hợp với tập quán thơng mại quốc tế, đồng thời tạo
cơ sở pháplý để xử lý các quan hệ kinh tê thơng nhân trong việc đàm phán song ph-
ơng với các nớc, các tổ chức ở khu vực và quốc tế.
II. Vai trò của Luật thơng mại Việt Nam
1. Bảo đảm quản lý nhà nớc đối với hoạt động thơng mại.
Luật thơng mại của bất kỳ quốc gia nào dù trực tiếp hay gián tiếp cũng nhằm
đảm bảo sự điều tiết của nhà nớc đối với các hoạt động thơng mại. Trong Luật th-
ơng mại Việt Nam, sự điều tiết của nhà nớc đối với các hoạt động thơng mại đợc
qui định trong các Điều 6-16, 224-262.
Sự quản lý nhà nớc về thơng mại đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền tiến
hành bao gồm: ban hành các văn bản pháp luật về thơng mại, tổ chức đăng ký kinh
doanh thơng mại; tổ chức thông tin về thị trờng; hớng dẫn tiêu dùng hợp lý; tiết
kiệm...; kí kết hoặc tham gia các Điều ớc Quốc tế về thơng mại; đại diện và quản
lý các hoạt động thơng mại của Việt Nam ở nớc ngoài; hớng dẫn tham gia kiểm
tra việc chấp hành và thực hiện pháp luật thơng mại; xử lý vi phạm pháp luật về th-
ơng mại.
2. Thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân trên lĩnh vực thơng mại.
Nhằm bảo đảm lu thông hàng hóa đợc thuận tiện, Luật thơng mại Việt Nam
qui định các quyền tự do sau đây của thơng nhân trong khuôn khổ pháp luật: th-
4

ơng nhân đủ điều kiện theo qui định của pháp luật có quyền hoạt động thơng mại
trong các lĩnh vực địa bàn mà pháp luật không cấm (Điều 6, Luật thơng mại), có
quyền tự do kinh doanh, tự do chọn bạn hàng (Điều 6, Luật thơng mại), có quyền
tự do lựa chọn hình thức để giao kết hợp đồng (Điều 44, Luật thơng mại), có
quyền tự do xác định nội dung khác ngoài những nội dung chủ yếu của hợp đồng
(Điều 50, Luật thơng mại Việt Nam), có quyền sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp
đồng (Điều 57, Luật thơng mại Việt Nam).
3. Thực hiện quyền bình đẳng trớc pháp luật của thơng nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế trong các hoạt động thơng mại.
Quyền bình đẳng trớc pháp luật của thơng nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
đợc qui định tại Điều 7, Luật thơng mại Việt Nam. Đây là sự cụ thể hóa Điều 22,
Hiến pháp 1992 trong các hoạt đông thơng mại. Bình đẳng ở đây là các chủ thể đ-
ợc đối xử nh nhau trớc cơ quan nhà nớc và trớc pháp luật Việt Nam, nếu có đủ các
đièu kiện có thể so sánh đợc với nhau. Tuy nhiên, theo Điều 10, Luật thơng mại,
thơng nhân là doanh nghiệp nhà nớc có những quyền và nghĩa vụ không giống nh
thơng nhân là công ty, tổ hợp tác hay cá nhân. Trong kinh doanh nói chung cũng
nh trong hoạt động thơng mại nói riêng, quyền bình đẳng thể hiện ở chỗ, các th-
ơng nhân đợc pháp luật đảm bảo cơ hội nh nhau để tham gia cạnh tranh trong hoạt
đông thơng mại. Ví dụ: nếu có những điều kiện dự thầu nh nhau, thơng nhân đều
đợc phép tham gia dự thầu. Nếu có đầy đủ các điều kiện kinh doanh xuất nhập
khẩu, thơng nhân có điều kiện tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp. Các
cơ hội kinh doanh đó có đợc tận dụng hay không, phụ thuộc vào từng vị trí của th-
ơng nhân trên thị trờng. Nh vậy, bình đẳng đợc hiểu là bình dẳng trớc pháp luật.
Tuy nhiên, công bằng tuyệt đối trong kinh doanh là rất khó thực hiện, vì cạnh
tranh trên thị trờng là phát huy các thế mạnh riêng nhằm tiếp cận, mở rộng, giành
giữ thị phần nên việc chèn ép để đẩy lùi đối thủ cạnh tranh là không tránh khỏi.
4. Qui định những điều kiện đối với thơng nhân trong các hoạt động thơng
mại
Để đảm bảo an toàn cho các quan hệ thơng mại trong hoạt động thơng mại,
Luật thơng mại quy định chặt chẽ hơn so với các quy định tơng đơng trong pháp luật

dân sự. Ví dụ: Điều 75, Luật thơng mại Việt Nam quy định bên mua có nghĩa vụ
thông báo trong một thời hạn khiếu nại nhất định nếu hàng hóa không đúng theo thỏa
thuận, nếu không thông báo kịp thời bên mua mất quyền khiếu nại.
5
III. Phạm vi điều chỉnh của Luật thơng mại Việt Nam với t
cách là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán giữa
thơng nhân Việt Nam với thơng nhân nớc ngoài.
Ra đời trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nớc cũng nh nền kinh tế thế giới có
nhiều chuyển biến đáng kể, Luật thơng mại Việt Nam 1997 có nhiều điểm tơng
đồng với luật thơng mại của nhiều nớc có nền kinh tế thị trờng. Song do sự non trẻ
của nền kinh tế mà nớc ta đang bớc đầu xây dựng, tính định hớng XHCN và thực
tiễn lập pháp trong gần 30 năm qua đã ảnh hởng không nhỏ đến nội dung nhất là
phạm vi điều chỉnh của Luật thơng mại Việt Nam.
Theo các Điều 17, Điều 4 và Điều 5 thì Luật thơng mại Việt Nam có phạm vi
điều chỉnh hẹp, gồm một số hoạt động sau:
Hợp đồng mua bán giữa thơng nhân Việt Nam và thơng nhân nớc ngoài.
Các dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hóa, lu thông hàng hóa nh: đại
diện cho thơng nhân, môi giới thơng mại, đại lý mua bán hàng hóa, gia công
quảng cáo thơng mại, hội chợ triển lãm thơg mại....
Các hoạt động khác tuy cũng có tính chất kinh doanh nh cho thuê xây dựng
vận tải, ngân hàng, bảo hiểm... song không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này
mà có các văn bản luật khác tơng ứng (Luật xây dựng, Luật hàng không, Luật
hàng hải, Luật các tổ chức tín dụng....)
Ngoài ra, phạm vi điều chỉnh của Luật thơng mại Việt Nam còn hạn hẹp ở
một số các loại hàng hóa. Nếu Công ớc Viên 1980 liệt kê các loại hàng hóa không
là đối tợng điều chỉnh của công ớc viên thì Luật thơng mại Việt Nam lại giới hạn
các hàng hóa là đối tợng điều chỉnh của luật này, chủ yếu là các động sản máy
móc thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất và tiêu dùng. Các bất động sản nh nhà máy
công trình xây dựng, các quyền tài sản nh sở hữu công nghiệp, quyền sử dụng đất,
cổ phiếu, trái phiếu do có những đặc thù riêng nên không thuộc phạm vi điều

chỉnh của Luật thơng mại Việt Nam.
Tóm lại, có thể xem Luật thơng mại Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp
luật do nhà nớc ban hành để xác định địa vị pháp lý cho thơng nhân hoặc điều chỉnh
các hành vi thơng mại nói chung. Vì Luật thơng mại Việt Nam điều chỉnh một số
hành vi thơng mại của thơng nhân Việt Nam và thơng nhân nớc ngoài hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam nên đơng nhiên bộ luật này cũng điều chỉnh hoạt động mua bán
giữa thơng nhân Việt Nam và thơng nhân nớc ngoài. Đây cũng là một mục đích quan
trọng của Luật thơng mại Việt Nam 1997.
6
Phần II
Chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
I. Các yếu tố cấu thành trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng mua bán ngoại thơng.
Không phải bất kỳ lúc nào, khi một bên trong hợp đồng mua bán ngoại thơng
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ những quy định trong hợp đồng đều
phải chịu trách nhiệm bồi thờng và chịu phạt trớc bên kia. Để xác định xem một
trờng hợp vi phạm hợp đồng có thể quy trách nhiệm cho bên vi phạm không, ta
phải căn cứ vào các yếu tố cấu thành trách nhiệm.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn khoa học pháp lý về lỗi trong quan hệ mua
bán, Điều 230, Luật thơng mại: "Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thờng
thiệt hại" quy định bốn yếu tố cấu thành trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua
bán ngoại thơng, bao gồm:
1. Thụ trái có hành vi vi phạm pháp luật
Đây là căn cứ cơ bản để quy trách nhiệm, vì hợp đồng là sự thỏa thuận tự
nguyện có hiệu lực pháp luật, và sau khi đợc xác lập, các nghĩa vụ xuất phát từ
quan hệ hợp đồng mang tính bắt buộc, nếu một bên không thi hành thì bị coi là vi
phạm pháp luật và sẽ bị quy kết trách nhiệm. Trong mua bán quốc tế hàng hóa,
hành vi vi phạm pháp luật có thể là không thực hiện hợp đồng hay thực hiện không
đầy đủ, thi hành không tốt. Việc ngời bán không giao hàng, ngời mua không trả
tiền hàng sẽ bị coi là hành vi không thực hiện hợp đồng, và nh vậy nếu hợp đồng

đợc ký kết theo đúng quy định của pháp luật thì hành vi vi phạm hợp đồng này
cũng là vi phạm pháp luật. Mặt khác, việc ngời bán không thực hiện đầy đủ, thực
hiện không tốt hợp đồng nh giao hàng thiếu, giao hàng chậm, giao hàng không
đúng phẩm chất quy cách đã thỏa thuận ... Và ngời mua thiếu tinh thần thiện chí
trong thực hiện hợp đồng nh chậm mở L/C, không chịu nhận hàng cũng bị coi là vi
phạm hợp đồng. Nh vậy, chỉ khi các chủ thể hợp đồng thực hiện đúng nguyên tắc
chấp hành mua bán ngoại thơng sau:
Nguyên tắc thực hiện tự nguyện thực sự các cam kết.
7
Nguyên tắc thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết.
Nguyên tắc thực hiện trên cơ sở thiện chí hợp tác, hai bên cùng có lợi, đảm
bảo đạo đức trong kinh doanh.
Có thực hiện đúng các nguyên tắc này thì các bên mới đợc coi là không vi
phạm hợp đồng tức là không vi phạm pháp luật và đợc pháp luật bảo vệ quyền lợi
chính đáng.
Luật thơng mại Việt Nam quy định nghĩa vụ chứng minh vi phạm hợp đồng
là của bên bị vi phạm. Ví dụ nh khi ngời bán không giao hàng, ngời mua phải
chứng minh việc ngời bán không giao hàng căn cứ vào các tài liệu văn bản có liên
quan nh hợp đồng mua bán đã đợc ký kết là căn cứ chứng minh ngời bán có nghĩa
vụ phải giao hàng. L/C đã mở chứng minh mình đã thực hiện và sẵn sàng thực hiện
hợp đồng. Các bức điện giục bên bán giao hàng, điện trả lời của ngời bán cam kết
sẽ giao hang... Khi đó, ngời bán nếu muốn bác lại thì phải chứng minh mình
không vi phạm hợp đồng bằng cách xuất trình biên lai chứng từ ...
2. Phải có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.
Trong hợp đồng mua bán với thơng nhân nớc ngoài, việc một bên không
quan tâm và quan tâm không đúng mức tới việc thực hiện nghĩa vụ của mình,
do đó dẫn tới vi phạm nghĩa vụ đó thì bị coi là có lỗi.
ở đây, cụm từ không quan tâm đợc hiểu là hành vi cố ý, không thực hiện
nghĩa vụ, dù biết là sai nhng vẫn không chấp hành quy định của hợp đồng và do đó
bị coi là có lỗi. Còn việc quan tâm không đúng mức tức là hành vi vi phạm do

vô ý, do sơ suất hoặc có biết trớc đợc hậu quả của hành vi sơ suất đó song do quá
cẩu thả mà không lờng trớc đợc mức độ của hậu quả. Ví dụ nh một hợp đồng mua
bán ngoại thơng theo điều kiện CIF có quy định là ngời bán phải thuê tàu chở
hàng loại tàu trẻ 10 tuổi, quốc tịch tàu Nhật Bản. Song do không tìm đợc loại tàu
theo quy định của hợp đồng, ngời bán tự ý thuê một con tàu mang cờ Italia để chở
hàng mà không thông báo cho ngời mua. Đến cảng nớc ngời mua, tàu bị phong tỏa
do lệnh của chính quyền sở tại nớc ngời mua hạ lệnh đối với tất cả các con tàu
mang quốc tịch ý. Nh vậy, ngời bán dù đã biết trớc hành vi của mình nhng đã
không lờng trớc đợc hậu quả phát sinh và lỗi này bị coi là lỗi sơ suất, do không
quan tâm đúng mức.
Luật thơng mại Việt Nam không quy định ai có lỗi mà lỗi đợc xác định theo
nguyên tắc suy đoán. Khi một bên vi phạm hợp đồng thì bên kia có quyền suy
đoán bên vi phạm có lỗi và vì vậy, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm. Đây là
8
trách nhiệm suy đoán và dù lỗi cố ý hay vô ý cũng không làm tăng giảm trách
nhiệm. Ví dụ nh khi ngời bán giao hàng chậm, ngời mua có quyền suy đoán ngay
là ngời bán có lỗi vì không giao hàng theo đúng thời gian thỏa thuận và nh vậy,
ngời mua có thể quy trách nhiệm cho ngời bán.
Khi bị quy trách nhiệm, bên vi phạm muốn thoát trách nhiệm phải chứng
minh là mình không có lỗi, chừng nào không chứng minh đợc thì đơng nhiên vẫn
bị coi là có lỗi và phải chịu trách nhiệm.
3. Trái chủ bị thiệt hại vật chất, thiệt hại về tài sản hoặc các quyền có giá
trị tài sản.
Đây là yếu tố cần thiết, đặc biệt cho trờng hợp muốn quy trách nhiệm đòi bồi
thờng thiệt hại. Thông thờng, thiệt hại mà trái chủ phải gánh chịu có thể là thiệt
hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Song, Luật thơng mại Việt Nam cũng nh luật các
nớc thờng chỉ thừa nhận những thiệt hại tài sản (thiệt hại về vật chất) mới là yếu tố
để quy trách nhiệm.
* Thiệt hại về tài sản th ờng gồm các loại thiệt hại sau:
- Tổn thất thực tế: Là một loại thiệt hại mang tính chất thực tế, có thể tính

toán đợc một cách cụ thể. Tổn thất thực tế gồm có:
+ giảm tài sản bằng hiện vật: nh khi một bên vi phạm một nghĩa vụ nào đó
làm cho tài sản của bên kia giảm sút (ngời bán giao hàng kém phẩm chất so với
thỏa thuận làm cho bên mua không nhận đợc hàng đúng chất lợng do đó phải bán
hạ giá hoặc phải sử dụng với mục đích khác đi...)
+ các chi phí đã chi ra và chi thêm: các chi phí đã chi ra nh chi phí đàm phán,
ký kết hợp đồng, chi phí mở L/C, chi phí thuê tàu mua bảo hiểm cho hàng hóa nh-
ng ngời bán không giao hàng. Các chi phí chi thêm trong quá trình thực hiện hợp
đồng nh chi phí bồi thờng cho ngời thứ ba do bên bán giao chậm hàng làm cho
bên mua bị phạt giao chậm, chi phí lu kho bãi mà ngời bán phải trả do ngời mua
(theo điều kiện FOB) cha đến lấy hàng, chi phí phạt dỡ chậm mà ngời bán phải trả
cho ngời cho ngời chuyên chở do ngời mua không chịu đến nhận hàng... Tất cả
các khoản bị giảm sút về tài sản và chi phí đã chi và chi thêm này đều có thể quy
ra giá trị vật chất cụ thể và là cơ sở cho việc đòi bồi thờng thiệt hại.
- Các khoản lợi bị bỏ lỡ, các khoản thu đáng lý ra đợc nhận nếu bên kia thực
hiện đúng hợp đồng nhng đã không đợc nhận. Đây chính là những khoản lợi mất
hởng mà khi ký kết hợp đồng, các bên đều mong đợi. Những khoản lợi này dù trên
thực tế nếu không có vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm có nhận đợc hay không
9
không quan trọng mà cứ có vi phạm gây thiệt hại làm mất khoản lợi dự ớc đó, ngời
bị vi phạm vẫn đợc quyền đòi bên vi phạm.
Để đòi bồi thờng thiệt hại thực tế, bên bị vi phạm phải chứng minh đợc là
mình có thiệt hại đó và để thoát trách nhiệm, bên vi phạm phải chứng minh ngợc
lại.
4. Có mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại vật
chất.
Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp
gây ra các thiệt hại, còn thiệt hại thực tế là hậu quả trực tiếp của những hành vi đó.
Ví dụ nh ngời bán giao hàng chậm so với thời gian quy định trong hợp đồng làm
giá hàng giảm so với giá của thời kỳ lẽ ra hàng đợc giao, và do vậy ngời mua bị bỏ

lỡ khoản lợi đáng lẽ đợc hởng. Vậy hành vi giao hàng chậm là nguyên nhân trực
tiếp gây thiệt hại tài sản cho ngời mua (không đợc nhận khoản lãi mà mình có
quyền đợc hởng từ quan hệ hợp đồng). Hay trờng hợp ngời bán đã giao hàng theo
đúng thỏa thuận trong hợp đồng nhng ngời mua không chịu ra nhận hàng tại cảng
đến, làm phát sinh chi phí lu tàu vì hành vi không nhận hàng của ngời mua là
nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả ngời bán phải chi thêm các chi phí lu tàu,
bảo quản hàng hóa.
Nghĩa vụ chứng minh quan hệ nhân quả này thuộc về bên bị vi phạm. Điều
cần chú ý là khi chứng minh phải loại trừ các thiệt hại gián tiếp, thiệt hại không l-
ờng trớc đợc, thiệt hại đoán ớc. Trên thực tế, nghĩa vụ chứng minh thiệt hại trực
tiếp lại rơi vào bên bị vi phạm vì bên bị vi phạm muốn đòi đợc bồi thờng càng
nhiều càng tốt nên thờng liệt kê các thiệt hại ra. Bên vi phạm để không phải bồi th-
ờng tất cả các thiệt hại mà trái chủ đã nêu thì phải chứng minh đợc rằng chỉ một
phần thiệt hại xảy ra là do việc vi phạm nhiệm vụ của mình, thiệt hại tài sản khác
còn lại do một số nguyên nhân khác không phải do lỗi của mình bằng cách đa ra
các văn bản, bằng chứng có liên quan.
II. Các chế tài áp dụng cho việc vi phạm hợp đồng
trong hoạt động mua bán hàng hóa theo Luật th-
ơng mại Việt Nam.
Khi vi phạm hợp đồng trong hoạt động mua bán hàng hóa, bên vi phạm phải
chịu trách nhiệm trớc bên bị vi phạm thông qua các hình thức trách nhiệm gọi là
chế tài. Theo pháp luật thơng mại Việt Nam, các chế tài thơng mại đợc hiểu là
những biện pháp pháp lý mang tính tài sản do bên bị vi phạm lựa chọn để áp dụng
10
đối với bên vi phạm nhằm mục đính ngăn ngừa, trừng trị và giáo dục. Nh vậy, các
chế tài thơng mại đợc áp dụng là để khôi phục về mặt vật chất cho bên bị vi phạm
hoặc là để ngăn ngừa thiệt hại hay có ý nghĩa trừng phạt về mặt vật chất đối với
bên vi phạm hợp đồng. Do đó, các chế tài này đợc các bên áp dụng cho các vi
phạm xuất hiện từ lúc ký kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng.
Tùy thuộc vào các vi phạm và các quy định khác nhau trong hợp đồng mà

các chế tài khác nhau đợc áp dụng. Luật thơng mại Việt Nam giành hẳn mục 1 ch-
ơng IV để quy định các chế tài áp dụng cho việc vi phạm hợp đồng trong hoạt
động mua bán hàng hóa.
Theo điều 222, Luật thơng mại Việt Nam, có bốn loại chế tài trong thơng
mại. Đó là:
Buộc thực hiện đúng hợp đồng;
Phạt vi phạm;
Bồi thờng thiệt hại;
Hủy hợp đồng.
1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Điều 223, Khoản 1 Luật thơng mại quy định: Buộc thực hiện đúng hợp đồng
là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng
hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng đợc thực hiện và bên vi phạm phải chịu
phí tổn phát sinh. Nh vậy, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng buộc bên vị phải
thực hiện đúng hợp đồng cho dù để thực hiện đợc, bên vi phạm phải áp dụng biện
pháp nào hay phải chịu phí tổn nh thế nào.
Vậy những trờng hợp nào có thể áp dụng đợc chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng. Theo Điều 223, Khoản 2, chế tài này đợc áp dụng trong các trờng hợp:
giao hàng thiếu; giao hàng kém chất lợng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp
đồng. Trong trờng hợp giao hàng thiếu, chế tài này quy định rằng bên vi phạm
phải giao đủ hàng theo đúng nh đã thỏa thuận trong hợp đồng, tức là phải giao
đúng về số lợng, chất lợng, chủng loại, xuất xứ, mẫu mã... Đối với việc giao hàng
kém chất lợng, cung cấp dịch vụ không đúng hợp đồng, bên vi phạm phải tìm cách
loại trừ các khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ. Trong trờng hợp này,
Luật thơng mại còn quy định thêm rằng bên vi phạm có thể có thể giao hàng khác
để thay thế hàng kém chất lợng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng, tuy
nhiên không đợc dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, dịch vụ khác để thay thế,
nếu không đợc sự chấp thuận của bên có quyền lợi bị vi phạm.
11
Trên thực tế, khi một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, để bảo vệ quyền lợi

cho mình, bên bị vi phạm không phải lúc nào cũng cứng nhắc đòi bên kia thực
hiện đúng nghĩa vụ nh giao hàng thêm (nếu giao hàng thiếu), hay tìm biện pháp
khắc phục khuyết tật của hàng hóa hoặc thay thế bằng hàng hóa khác (nếu giao
hàng kém chất lợng), nhất là trong trờng hợp bên vi phạm gặp nhiều khó khăn và
chi phí để làm đợc nh vậy và thậm chí bên bị vi phạm cũng có thể bị thiệt hại hơn.
Trong trờng hợp này, tức là khi bên vi phạm không thực hiện theo các quy
định nói trên, tại Điều 223, Khoản 3 và 4 của Luật thơng mại cũng thể hiện sự linh
hoạt khi quy định cụ thể rằng: Bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền mua hàng có
quyền mua hàng hay nhận cung ứng dich vụ của ngời khác để thay thế theo đúng
loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng. Khi đó, bên vi phạm phải bù chênh
lệch nếu có. Đây cũng là giải pháp mà Công ớc Viên 1980 đa ra khi bên bán
không giao hàng hoặc giao hàng thiếu. Ví dụ khi bên vi phạm giao hàng thiếu, bên
bị vi phạm không nhất thiết phải chờ bên vi phạm giao hàng đủ mà có thể mua
ngay hàng khác cùng chủng loại của ngời cung cấp khác để không mất thời cơ
kinh doanh của mình. Tất nhiên, để đảm bảo cho quyền lợi của bên bị vi phạm,
bên vi phạm phải có trách nhiệm đền bù chi phí phát sinh.
Nếu bên có quyền lợi bị vi phạm tự sửa chữa khuyết tật, thiếu sót của hàng
hóa, dịch vụ thì bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Rõ ràng là giải
pháp này vừa giúp các bên tiếp tục quan hệ hợp đồng, vừa hạn chế các thiệt hại.
Theo quy định này, bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Nói cách
khác, nếu bên bị vi phạm viện cớ sửa chữa khuyết tật của hàng hóa để đòi bên kia
các chi phí không liên quan đến việc sửa chữa khuyết tật đó hoặc đòi các chi phí
vô lý quá cao so với thực tế thì bên vi phạm sẽ không phải trả các chi phí đó.
Khi bên vi phạm đã thực hiện đúng các quy định nói trên, tức là giao đủ hàng
đối với trờng hợp giao hàng thiếu và sửa chữa khuyết tật, thiếu sót của hàng hóa
nếu giao hàng kém phẩm chất thì bên có quyền lợi bị vi phạm phải nhận hàng,
nhận dịch vụ và thanh toán tiền hàng, phí dịch vụ. (Điều 223, Khoản 5)
Để cho bên vi phạm có thể thực hiện đợc các nghĩa vụ nói trên, Luật thơng
mại còn cho phép bên có quyền lợi bị vi phạm phải gia hạn một thời gian hợp lý.
(Điều 224). Song việc gia hạn này không có nghĩa là thay đổi điều khoản về thời

hạn giao hàng. Thời hạn giao hàng nếu có sự thay đổi là do hai bên thỏa thuận,
còn việc gia hạn chỉ là quyết định đơn phơng của bên bị vi phạm nhằm bảo vệ lợi
ích của mình. Nếu hết thời hạn ấn định mà bên vi phạm vẫn không thực hiện chế
tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm đợc áp dụng các chế tài khác để
bảo vệ lợi ích chính đáng của mình (Khoản 2, Điều 225). Tuy nhiên, Khoản 1,
12
Điều 225 của Luật thơng mại lại quy định rõ rằng: Trong trờng hợp không có
thoả thuận khác thì trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng,
bên có quyền lợi bị vi phạm không đợc áp dụng các chế tài phạt vi phạm, bồi th-
ờng thiệt hại, hủy hợp đồng.
Nh vậy, buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài nhẹ nhất trong các chế tài
và là tiền đề để thực hiện các chế tài khác.
2. Phạt vi phạm
Đây là một chế tài rất hay đợc sử dụng trong việc giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hợp đồng kinh tế. Theo Điều 226, Luật thơng mại: Phạt vi phạm
là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt
nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật
quy định. Từ định nghĩa trên có thể thấy, phạt vi phạm chỉ đợc áp dụng khi trong
hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định sẽ áp dụng loại chế tài này cho
những vi phạm nhất định và không phụ thuộc vào bên bị vi phạm có thiệt hại hay
không.
Để có thể đòi đợc tiền phạt, các bên phải dựa trên những căn cứ sau: một bên
đã không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng (Điều 227,
Luật thơng mại). Không thực hiện hợp đồng có thể là không giao hàng, không
nhận hàng, không thanh toán tiền hàng... Còn thực hiện không đúng hợp đồng có
thể là chậm giao hàng, giao hàng thiếu, giao hàng sai quy cách chủng loại, giao
hàng kém phẩm chất...ở đây, Luật thơng mại không quy định rằng, khi áp dụng
chế tài phạt vi phạm, bên có quyền lợi bị vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh
thiệt hại và mức độ thiệt hại. Nếu bên bị vi phạm chứng minh đợc là bên kia vi
phạm và vi phạm đó thuộc diện áp dụng chế tài phạt vi phạm theo hợp đồng hoặc

do pháp luật quy định thì hoàn toàn có thể yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt.
Về mức phạt vi phạm, Điều 228, Luật thơng mại Việt Nam quy định: Mức
phạt đối với một vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhng không quá tám phần trăm giá
trị phần nghĩa vụ bị vi phạm. Nh vậy, Luật thơng mại cho phép các bên trả bằng
một số tiền cụ thể hoặc theo tỷ lệ phần trăm đối với việc vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng nhng lại không quá tám phần trăm giá trị của phần hợp đồng bị vi phạm.
Điều khoản này cho thấy Luật thơng mại Việt Nam coi chế tài phạt vi phạm nh
một biện pháp trừng trị về mặt vật chất đối với bên vi phạm, nhng chỉ giới hạn ở
mức tối đa tám phần trăm giá trị phần hợp đồng vi phạm là nhằm tránh các bên sẽ
lạm dụng điều khoản này.
13
Quan điểm của các nớc về chế tài phạt đều cho rằng phạt là tiền bồi thờng ớc
tính (tính trớc). Nh vậy, điều quan trọng là các bên phải có sự thỏa thuận, dự kiến
trớc về mứcphạt trong hợp đồng mua bán. Tuy nhiên, các nớc lại có quy định khác
nhau về mối quan hệ giữa thiệt hại và số tiền phạt. Luật Anh-Mỹ cho rằng, trong
trờng hợp trái chủ không có thiệt hại thực tế thì mức phạt do hai bên hoàn toàn
quyết định. Nếu trái chủ có thiệt hại thực tế thì tiền phạt phải thấp hơn thiệt hại
thực tế. (Đây là quy phạm bắt buộc, nếu cao hơn thì chế tài này không có giá trị.)
Luật Pháp thì quy định rằng, trong trờng hợp trái chủ không có thiệt hại thực tế thì
mức phạt do hai bên thỏa thuận. Còn khi có thiệt hại thực tế, theo nguyên tắc, tiền
phạt phải thấp hơn thiệt hại thực tế. Nhng trên thực tế, các cơ quan t pháp vẫn thừa
nhận trờng hợp mà tiền phạt cao hơn thiệt hại thực tế (quy phạm tùy ý). Riêng luật
Đức lại cho rằng, đã phạt là trừng phạt, do đó, khi trái chủ có thiệt hại thực tế thì
tiền phạt luôn cao hơn thiệt hại thực tế. Các nớc XHCN, trong đó có Việt Nam thì
thừa nhận tiền phạt là tiền bồi thờng tính trớc. Nếu trái chủ có thiệt hại thực tế cao
hơn so với tiền phạt đã thỏa thuận thì cho phép trái chủ đợc quyền lựa chọn hoặc
là đòi tiền phạt, hoặc là đòi tiền bồi thờng thiệt hại.
Sau đây là một dẫn chứng cụ thể về việc áp dụng chế tài phạt trong giải quyết
tranh chấp hợp đồng ở Việt Nam trong thời gian vừa qua:

Ngày 22/12/1994, Công ty Singapore IRP đã ký hợp đồng mua 36 tấn cà phê
của công ty xuất nhập khẩu biên giới Thanh Hóa (Protimex) theo đơn giá 2170
USD/ tấn, tổng trị giá hợp đồng là 78.120 USD. Thời hạn giao hàng quy định trong
hợp đồng không muộn quá ngày 20/1/1995, thanh toán bằng th tín dụng không
hủy ngang. L/C phải đợc mở trớc ngày 5/1/1995. Bên nào vi phạm nghĩa vụ sẽ bị
phạt 12% trị giá hợp đồng. Tiến hành thực hiện hợp đồng, công ty IRP đã mở L/C
với số tiền là 78.120 USD ngày 5/1/1995, tức là đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán
theo phơng thức th tín dụng chứng từ song chậm hơn một ngày so với thời hạn của
hợp đồng. Thế nhng Protimex vào ngày 18/1/1995 đã gửi công văn cho IRP trả lời
là không thể giao hàng vì cà phê lên giá và đang gặp khó khăn về vốn, do đó, đề
nghị tăng giá hàng và lùi thời hạn giao hàng từ 20/1/1995 đến ngày 15/2/1995 nh-
ng IRP không chấp nhận và khởi kiện đòi tiền phạt vi phạm hợp đồng. Căn cứ theo
Luật thơng mại Việt Nam, lỗi ở đây thuộc về Protimex, mặc dù công ty IRP đã mở
L/C chậm một ngày, song khi nhận đợc thông báo L/C đã mở, Protimex không hề
có một hành vi phản đối hay yêu cầu gì, điều này chứng tỏ Protimex đã chấp nhận
việc thực hiện nghĩa vụ của bên Singapore. Hơn nữa, theo sự trình bày của
Protimex là họ không đủ khả năng thực hiện hợp đồng, nhng lại không có bất kỳ
một hành vi nào nhằm thông báo cho IRP trớc ngày 20/1/1995 để cùng thơng lợng
giải quyết, ngăn chặn thiệt hại. Do đó, xét theo Luật thơng mại Việt Nam thì
14
Protimex buộc phải nộp tiền phạt cho công IRP của Singapore. Tuy nhiên, mức
phạt quy định trong hợp đồng lại vợt quá giới hạn tối đa cho phép của Luật thơng
mại Việt Nam là 8%. Do đó, nếu chiều theo Luật thơng mại thì cơ quan xét xử
chắc chắn sẽ điều chỉnh mức % phạt mà hai bên đã thỏa thuận với nhau sao cho
phù hợp.
Nh vậy, có thể thấy các điều khoản phạt trong hợp đồng thờng đợc áp dụng
và phát huy tốt tác dụng nhằm ngăn ngừa, giáo dục bên mua nâng cao ý thức chấp
hành tốt nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, do chỉ giới hạn ở một số vi phạm nhất
định và ở mức phạt tối đa là 8%, chế tài này theo Luật thơng mại Việt Nam đã ít
nhiều bị giảm tác dụng.

3. Bồi thờng thiệt hại.
Nếu nh các bên không ấn định mức phạt trong hợp đồng thì khi thụ trái vi
phạm hợp đồng, trái chủ có quyền yêu cầu thụ trái bồi thờng thiệt hại. Bên vi
phạm phải phục hồi quyền lợi cho bên bị vi phạm: bồi thờng thiệt hại, chi phí, mất
mát, tổn thất mà một bên phải gánh chịu do bên kia vi phạm hợp đồng.
Đây là một loại chế tài đợc áp dụng rất phổ biến khi có vi phạm hợp đồng
mua bán gây thiệt hại cho bên vi phạm. Theo Điều 229, Khoản 1 Luật thơng mại:
Bồi thờng thiệt hại là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả
tiền bồi thờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra. Theo Điều 230 của Luật th-
ơng mại, để có thể áp dụng chế tài bồi thờng thiệt hại cần phải có đủ các yếu tố
sau:
Có hành vi vi phạm hợp đồng;
Có thiệt hại vật chất;
Có mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại vật chất;
Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.
Nếu thiếu một trong bốn yếu tố nói trên, chẳng hạn có hành vi vi phạm hợp
đồng mà không phát sinh thiệt hại vật chất hay hành vi vi phạm không trực tiếp
dẫn đến thiệt hại vật chất hoặc lỗi không thuộc bên vi phạm mặc dù có thiệt
hại...thì không thể đòi bên vi phạm bồi thờng thiệt hại. Ngoài ra, đối với yếu tố
lỗi của bên vi phạm, lỗi đợc xác định theo nguyên tắc suy đoán lỗi. Tức là cứ có
vi phạm hợp đồng thì có thể suy đoán bên vi phạm hợp đồng. Muốn thoát trách
nhiệm, bên vi phạm phải chứng minh đợc là mình không có lỗi (Điều 231).
Điều 229, Khoản 1, Luật thơng mại Việt Nam quy định: Số tiền bồi thờng
thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi đáng lẽ đợc hởng mà
15
bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra. Số tiền bồi
thờng thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ đợc hởng.
Theo đó, số tiền bồi thờng thiệt hại sẽ bao gồm hai khoản:
Thứ nhất là bên vi phạm phải bồi thờng giá trị tổn thất thực tế trực tiếp, tức
là chỉ bồi thờng những thiệt hại vật chất trực tiếp và thực tế chứ không phải bồi th-

ờng những thiệt hại tinh thần, gián tiếp, suy đoán. Ví dụ ngời bán xuất khẩu dầu
thô nhng chất lợng kém, do đó ngời mua phải tái chế lại. Sau đó ngời mua tính
toán đợc các thiệt hại nh sau:
1) Tiền công tái chế;
2) Trị giá hao hụt;
3) Giao chậm 30 ngày, gây thiệt hại cho ngời thứ ba mà ngời mua phải có
trách nhiệm bồi thờng;
4) Nhà máy không có dầu sản xuất, công nhân nghỉ việc nhng vẫn phải trả lơng;
5) Công nhân đình công do không có việc nhng vẫn phải trả lơng.
Trong 5 loại thiệt hại trên, bên vi phạm chỉ phải bồi thờng 3 loại thiệt hại đầu
vì đây là những thiệt hại tổn thất thực tế, trực tiếp do chính hành vi vi phạm hợp
đồng của thụ trái trực tiếp gây nên; còn loại thiệt hại sau (nhà máy không có dầu
sản xuất... , công nhân đình công... ) là những thiệt hại gián tiếp vì về nguyên tắc
nhà máy phải luôn có dầu dự trữ cho sản xuất.
Bồi thờng giá trị tổn thất thực tế trực tiếp cũng có nghĩa là không bồi thờng
những thiệt hại xa xôi, đột xuất mà lúc ký kết hợp đồng các bên không lờng trớc
đợc. Chẳng hạn, ngời bán FOB mang hàng ra cảng để giao cho ngời mua, nhng
ngời mua đa tàu đến chậm, ngời bán lu kho hàng hóa, sau khi đó bị bão lụt nên
hàng hóa bị h hỏng. ở đây, chi phí lu kho là thiệt hại, ngời mua phải bồi thờng,
còn thiệt hại hàng hóa do bão lụt là thiệt hại xa xôi, đột xuất mà lúc ký kết hợp
đồng hai bên không lờng trớc đợc nên ngời mua không phải bồi thờng.
Nguyên tắc bồi thờng theo luật của các nớc có sự khác nhau. Đối với các nớc
có nền kinh tế phát triển, luật pháp cho phép đòi bồi thờng thiệt hại về tinh thần
tức là những thiệt hại mà ngời ta khó có thể tính toán đợc một cách vật chất, mang
tính vô hình nhiều hơn, khó tính toán bằng con số thật mà chỉ tính toán đợc một
cách tơng đối (do tòa án quy định). Ví dụ nh bên vi phạm hợp đồng làm cho bên bị
vi phạm mất uy tín kinh doanh nhng khó có thể lợng hóa đợc sự mất uy tín kinh
doanh này sẽ làm cho trái chủ thiệt hại về mặt vật chất là bao nhiêu. Trong khi đó,
đối với các nớc có nền kinh tế đang phát triển mà Việt Nam là một ví dụ, Luật th-
16

ơng mại quy định bên bị vi phạm chỉ đợc đòi bồi thờng thiệt hại vật chất, là tổn
thất thực sự đợc tính toán bằng những con số.
Thứ hai, bên vi phạm phải bồi thờng khoản lợi đáng lẽ đợc hởng mà bên có
quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra. Chẳng hạn, th-
ơng nhân A ký hợp đồng mua gạo của thơng nhân B với ý định cung cấp gạo phục
vụ dịp Tết cổ truyền. Vì vậy, thời hạn giao hàng trong hợp đồng quy định là vào
tháng 12/1998. Nhng B giao hàng chậm (1/1999). Cơ hội bán hàng đối với bên A
không còn nữa. Do đó, sau Tết A mới bán đợc hàng. Mặt khác, giá trên thị trờng
tại thời điểm A bán hàng thực tế và thời điểm bán hàng dự kiến giảm xuống từ
4.900 đồng/kg xuống còn 4.500 đồng/kg. Phần chênh lệch này đợc coi là khoản
lợi mất hởng của A do B vi phạm hợp đồng về thời hạn giao hàng. Tuy nhiên, trên
thực tế trờng hợp này cũng thờng hay gây tranh cãi. Ví dụ, A chậm giao hàng hai
tháng, B tính toán các khoản thiệt hại bao gồm: tiền lơng công nhân hai tháng,
ngừng sản xuất hai tháng, thuế nộp trong hai tháng, tiền khấu hao nhà xởng, các
chi phí khác... Song đây không phải là những khoản lợi đáng lẽ đợc hởng mà chỉ là
những thiệt hại do suy đoán vì nếu A không giao hàng, B phải đi mua hàng với giá
cao hơn, do đó sẽ đợc coi là thiệt hại thực tế.
Mặc dù, lỗi đợc xác định trên cơ sở suy đoán lỗi nhng khi áp dụng loại chế
tài này, bên đòi bồi thờng thiệt hại có nghĩa vụ phải chứng minh tổn thất và mức
độ tổn thất (Điều 231, Luật thơng mại).
Ngoài nghĩa vụ chứng minh tổn thất và mức độ tổn thất, bên đòi bồi thờng
thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả khoản lợi
đáng lẽ đợc hởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên đòi bồi thờng thiệt
hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu
giảm bới tiền bồi thờng thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế đợc.
(Điều 232, Luật thơng mại) Quy định này của Luật thơng mại Việt Nam cũng
giống với quy định của Công ớc Viên 1980 khi áp dụng chế tài này.
Riêng đối với trờng hợp bên vi phạm chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền
hàng hay chậm thanh toán phí dịch vụ và các chi phí khác, Điều 233, Luật thơng
mại Việt Nam quy định bên kia có quyền đòi tiền lại trên số tiền chậm trả đó

theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nớc Việt Nam quy định tại thời điểm
thanh toán tơng ứng với thời gian chậm trả, trừ trờng hợp các bên có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác. Nh vậy, số tiền lãi này cũng giống nh
khoản tiền bồi thờng thiệt hại mà bên vi phạm phải trả cho bên có quyền lợi bị vi
phạm bởi vì trên thực tế, việc chậm trả tiền này có thể làm bên có quyền lợi bị vi
phạm thất thu những khoản lợi hay bỏ lỡ các thơng vụ làm ăn khác.
17
Trong thực tiễn thơng mại, có thể thấy không phải lúc nào chế tài đòi bồi th-
ờng thiệt hại cũng đợc bên vi phạm chấp hành nghiêm chỉnh. Đó là vụ việc tranh
chấp giữa ba công ty của Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Công ty TICO Ltd.
(Nhật Bản) ký hợp đồng mua của công ty Sunkuong Ltd. (Hàn Quốc) số lợng
1.300 tấn phân Urê để bán lại cho công ty xuất khẩu rau quả III thuộc Tổng công
ty rau quả Việt Nam (VEGETEXCO). Hàng đến cảng Hải Phòng ngày 6/9/1996,
VEGETEXCO đã làm tờ khai hải quan tiếp nhận lô hàng và hải quan thành phố
cũng đã làm thủ tục kiển hàng thông qua Tổng cục đo lờng chất lợng (Quatest 3).
Kết quả giám định cho biết độ biuret của lô hàng trên là 1,8% (trong khi hợp đồng
quy định là 1% và độ biuret tối đa mà kỹ thuật cho phép là dới 1,5%). Nh vậy tức
là lô hàng không đảm bảo chất lợng so với hợp đồng. Do đó, VEGETEXCO không
những phải lu giữ lô hàng mà còn bị hải quan xử phạt hành chính vì đã nhập hàng
không đạt tiêu chuẩn, phạt 18 triệu VNĐ và buộc phải tái chế lô hàng trớc khi
phân phối. Hơn nữa, kết quả giám định tiếp tục của Vinacontrol cho thấy, hầu hết
khối lợng của các bao dới mức tiêu chuẩn là 50 kg và không đồng nhất, có bao
chênh tới 9 kg. Nh vậy, lô hàng trên cả về chất lợng và khối lơng đều không đúng
quy định của hợp đồng. Vì vậy, VEGETEXCO đã kiện TICO ra trung tâm trọng
tài quốc tế Việt Nam, đòi bồi thờng tổng giá trị thiệt hại gồm cả lãi suất đọng vốn
do phải giám định, tái chế, bốc dỡ, đóng gói lô hàng là 35.719,48 USD trong thời
gian 30 ngày kể từ ngày 23/10/1997 (là ngày trọng tài ra phán quyết). Ngoài ra,
trọng tài còn tuyên bố TICO phải chịu chi phí trọng tài là 1.259,03 USD. Song đến
nay, VEGETEXCO vẫn cha đợc TICO bồi thờng với lý do phía Hàn Quốc cha bồi
thờng thiệt hại cho TICO.

Từ vụ việc nêu trên, có thể thấy cho dù có áp dụng các hình thức trách nhiệm
khi có vi phạm hợp đồng, song nếu bên vi phạm cố tình không thực hiện dù đó là
phán quyết của trọng tài đi nữa thì bên chịu thiệt nhiều nhất vẫn là những doanh
nghiệp làm ăn lơng thiện.
4. Chế tài hủy hợp đồng.
Hủy hợp đồng là chế tài nặng nhất áp dụng cho việc vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hóa. Chế tài này thờng chỉ đợc áp dụng khi các bên đã sử dụng những
biện pháp khác song không mang lại kết quả. Luật pháp về buôn bán ngoại thơng
của các nớc cha quy định thống nhất nhau trờng hợp vi phạm nào đợc quyền hủy
hợp đồng.
Theo luật mua bán năm 1893 của Anh, một bên có quyền hủy hợp đồng khi
bên kia vi phạm điều khoản chủ yếu của hợp đồng. Điều khoản chủ yếu là những
điều khoản đi vào gốc rễ, đi vào mục đích chính của hợp đồng. Đây là một quy
18
định chung chung, còn cụ thể điều khoản nào là chủ yếu còn phụ thuộc vào cách
xem xét của các bên, và quyết định của Tòa án hoặc trọng tài. Theo thực tiễn t
pháp của Anh, vi phạm điều khoản chủ yếu thờng bao gồm: vi phạm thời hạn giao
hàng, vi phạm phẩm chất bán hàng theo mẫu, vi phạm phẩm chất khi mua bán
hàng theo mục đích sử dụng...
Theo luật của Pháp, nếu một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ hợp đồng thì bên kia có quyền đòi họ thực hiện thực sự hoặc đòi hủy hợp đồng
cùng với việc bồi thờng thiệt hại xảy ra. Nhng không phải bất kỳ trờng hợp vi
phạm hợp đồng nào cũng dẫn đến hủy hợp đồng, mà chỉ hủy hợp đồng khi có sự vi
phạm nghiêm trọng.
Nhìn chung, theo luật của các nớc TBCN, chế tài hủy hợp đồng đợc áp dụng
khi:
Vi phạm thời gian giao hàng;
Giao hàng có phẩm chất quá kém;
Vi phạm phẩm chất hàng khi phẩm chất đợc quy định theo mẫu;
Hàng giao không đáp ứng đợc công dụng thông thờng;

Hàng thuộc loại cá biệt và có mục đích chuyên dụng nhất định nhng hàng
giao không đạt đợc mục đích đó...
Theo Công ớc Viên 1980, việc hủy hợp đồng đợc áp dụng khi không giao
hàng trong thời gian gia hạn thêm, khi không trả tiền hàng trong thời gian đã gia
hạn thêm, khi vi phạm cơ bản hợp đồng.
Đề cập đến chế tài này, Điều 235, Luật thơng mại Việt Nam quy định nh sau:
Bên có quyền lợi bị vi phạm tuyên bố hủy hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia
là điều kiện để hủy hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận. Nh vậy, Luật thơng mại
Việt Nam không quy định cụ thể các điều kiện theo đó các bên có đợc hủy hợp
đồng mà theo Luật thơng mại, để có thể hủy hợp đồng, trớc hết các bên phải thỏa
thuận trong hợp đồng. Điều này có nghĩa là Luật thơng mại chỉ thừa nhận duy nhất
một trờng hợp hủy hợp đồng là khi các bên có thỏa thuận sẵn rằng việc vi phạm đó
sẽ áp dụng chế tài hủy hợp đồng. Việc hủy hợp đồng do hai bên tùy ý thỏa thuận
và luật không quy định các trờng hợp hủy. Do vậy, nếu các bên không có thỏa
thuận gì về trờng hợp vị nào hủy hợp đồng thì theo Luật thơng mại Việt Nam là
không đợc hủy hợp đồng.
19

×