Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Khắc phục, giảm thiểu tác động tiêu cực nuôi trồng thủy sản đến ô nhiễm môi trường nước tại tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.36 KB, 47 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
KHOA THỦY SẢN

DỰ ÁN
Khắc phục, giảm thiểu tác động tiêu cực nuôi trồng
thủy sản đến ô nhiễm môi trường nước
tại tỉnh Quảng Bình

Sinh viên thực hiện: Trương Văn Tỉnh
Giáo viên hướng dẫn: T.S Ngô Hữu Toàn
Lớp: CĐTS 47

Huế, 3/2016


CHƯƠNG 1: TÓM TẮT VỀ DỰ ÁN
Giới thiệu về tỉnh Quảng Bình và thực trạng nuôi trồng thủy sản tại tỉnh
Đánh giá hiện trạng môi trường khu vực dự án.
Đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực có thể có do hoạt động khai
thác và chế biến thủy sản ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên và sự phát triển
kinh tế xã hội trong khu vực.
Đưa ra các phương án giảm thiểu các tác động tiêu cực có thể có ảnh
hưởng đến môi trường nước và đánh giá các phương án để lựa chọn.

Lập kế hoạch quản lý và bảo vệ môi trường, quan trắc môi trường
trong quá trình thực hiện dự án. Giám sát, đào tạo và quản lý nhân lực, sử
dụng thiết bị. Lập kế hoạch chi phí quan trắc, giải pháp giảm thiểu và ký
quỹ môi trường

2




CHƯƠNG 2. MÔ TẢ TÓM TẮT DỰ ÁN
2.1. TÊN DỰ ÁN

- Khắc phục, giảm thiểu tác động tiêu cực nuôi trồng thủy sản đến ô nhiễm môi
trường nước tại tỉnh Quảng Bình.
2.2. TÍNH CẤP THIẾT CUẢ ĐỀ TÀI
Dọc theo bờ biển, hàng vạn người dân sinh sống với nghề chính là khai
thác và chế biến thủy sản. Nhiều làng biển ở Quảng Bình đang đối mặt với tình
trạng ô nhiễm môi trường do rác và nước thải từ các cơ sở chế biến thủy sản gây
nên.
Quảng Bình có năm cửa sông, trong đó ở hai cửa sông chính có cảng cá Nhật Lệ
và cảng cá sông Gianh. Mỗi ngày, hằng trăm lượt tàu, thuyền ra vào cảng cá đã
thải ra sông, biển hàng nghìn tấn chất thải sinh hoạt, nhiên liệu, cặn dầu, nước
rửa tàu lẫn chất thải rắn và các chất tẩy rửa. Các chủ tàu thường đổ tất cả cặn bã,
tạp chất ra biển sau khi làm vệ sinh trên tàu.
Không chỉ ô nhiễm vùng cửa sông, nhiều bãi tắm cũng đang đối mặt với nạn ô
nhiễm môi trường do việc xả rác thiếu ý thức của một số du khách và người dân
địa phương. Ngay dọc bãi biển Nhật Lệ, TP Ðồng Hới, hàng quán tạm bợ với
hàng nghìn thực khách vào mỗi buổi chiều đã chiếm dụng vỉa hè của tuyến
đường đi dạo ven biển. Các hộ kinh doanh sau khi dọn dẹp vệ sinh không tập kết
rác vào nơi quy định mà chôn lấp ngay tại bãi biển hoặc đổ thẳng xuống biển.
Nhất là các điểm kinh doanh này không có nhà vệ sinh cho nên khi thực khách
có nhu cầu buộc phải xả ra dọc theo tuyến kè biển làm mất vệ sinh và mỹ quan
nơi đây.
Do môi trường ô nhiễm nặng, thời gian qua dịch sốt xuất huyết xảy ra ở nhiều
xã vùng biển như Nhân Trạch, Hải Trạch. Sau vài ngày tập trung làm sạch môi
trường, dịch bệnh tạm lắng, tình trạng ô nhiễm quay trở lại do thói quen sinh
hoạt thiếu ý thức của người dân. Dọc bờ biển, chung quanh các khu dân cư lại

3


tràn ngập rác thải. Trong khi việc xử lý rác để hạn chế ô nhiễm môi trường của
chính quyền các địa phương chưa được quan tâm. Trước thực trạng nói trên, các
ngành chức năng tỉnh Quảng Bình cần có các biện pháp chấn chỉnh để bảo vệ
môi trường, tạo lập thói quen và nâng cao ý thức người dân trong việc giữ gìn
môi trường. Bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống của chính người dân.
Vì những thực trạng trên mà chúng tôi quyết định xây dựng dự án: " Khắc
phục, giảm thiểu tác động tiêu cực nuôi trồng thủy sản đến ô nhiễm môi
trường nước tại tỉnh Quảng Bình " với mong muốn góp phần bảo vệ cuộc
sống cho người dân nơi đây.

4


2.3. MỤC ĐÍCH DỰ ÁN
- Góp phần cải thiện môi trường nước của người dân sống trong khu vực.
- Bảo vệ tài nguyên khoáng sản, khai thác khoáng sản một cách hợp lý
- Góp phần bảo vệ môi trường, tăng chất lượng nuôi trồng thủy sản.
2.4. MỤC TIÊU DỰ ÁN
- Giải quyết vấn đề môi trường nước hiện tại của người dân
- Góp phần bảo vệ sức khỏe, môi trường sống của người dân nơi đây

CHƯƠNG 3. ĐIỀU KIỆN MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ
XÃ HỘI KHU VỰC THỰC HIỆN DỰ ÁN
3.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA DỰ ÁN
Tỉnh Quảng Bình nằm ở Bắc Trung Bộ, Việt Nam, với diện tích tự nhiên 8.065
km2, dân số năm 2014 có 868.174 người.
Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn chép: tỉnh

Quảng Bình: “ Theo thiên văn thuộc về khu vực sao Dực sao Chẩn, về tinh
thứ sau sao Thuần Vĩ. Theo sự suy trắc năm Minh Mệnh thứ 18, cực cao 17
độ, 17 phân, 58 giây, lệch về phía tây 53 phân”.
Ứng vào tọa độ địa lý ngày nay, tỉnh Quảng Bình có điểm cực Bắc thuộc huyện
Tuyên Hoá ở tọa độ 18 độ 05’ vĩ độ Bắc và 105 độ 52’ kinh độ Đông; điểm cực
Nam thuộc huyện Lệ Thuỷ ở tọa độ 17 độ 05’ vĩ độ Bắc và 106 độ 45’ kinh độ
Đông, điểm cực Đông thuộc huyện Lệ Thuỷ ở tọa độ 106 độ 59’37" kinh độ
Đông và 17 độ 10’ vĩ độ Bắc; điểm cực Tây thuộc huyện Minh Hoá ở tọa độ 105
độ 36’55" kinh độ Đông và 17 độ 52’ vĩ độ Bắc.
Quảng Bình là tỉnh nằm ven biển Bắc Trung Bộ từ Đèo Ngang vào đến Vĩnh
Linh (Quảng Trị), gắn liền với dải Trường Sơn Bắc ở phía tây và Biển Đông ở
phía đông, có chiều ngang hẹp, nơi eo thắt của dải đất miền Trung, có diện tích
tự nhiên trên đất liền là 8.037,6 km2.
Vùng đặc quyền lãnh hải Quảng Bình có diện tích 20.000km2, với 5 hòn đảo lớn
nhỏ: Hòn La, Hòn Gió, Hòn Cọ, Hòn Nồm và Hòn Chùa.
Địa giới Quảng Bình, phía Bắc giáp hai huyện Kỳ Anh và Hương Khê của tỉnh
Hà Tĩnh với dải Hoành Sơn làm ranh giới tự nhiên, phía Đông vượt Đèo Ngang
ở độ cao 253m, phía Tây qua thung lũng Rào Nậy( Sông Gianh), dài khoảng
5


134km; phía Nam giáp các huyện Vĩnh Linh, Hướng Hoá của tỉnh Quảng Trị,
dài khoảng 95 km.
Đường ranh giới phía Tây cũng là biên giới quốc gia với nước Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào dài 201,87 km. Đây là dãy Trường Sơn Bắc, đoạn núi này
còn có tên là dãy Giăng Màn với đỉnh Phou- Copi cao 2017m ở thượng nguồn
sông Gianh, đèo Mụ Dạ cao 418 m nằm trên đường 12, có cửa khẩu Cha Lo sát
biên giới Việt Lào. Phía Đông là bờ biển từ Mũi Độc dưới chân Đèo Ngang đến
Mũi Lạy (huyện Lệ Thuỷ) dài khoảng 116,04 km.
Phần đất liền, tính từ đông sang tây, nơi rộng nhất là 87 km (từ điểm cao 1090

thuộc xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa đến thôn Hải Đông, xã Quảng Đông, huyện
Quảng Trạch); nơi hẹp nhất là 40,3km (từ cao điểm 1002 thuộc huyện Bố Trạch
trên biên giới Việt Lào đến cửa biển Nhật Lệ, thành phố Đồng Hới).
Quảng Bình là vùng đất nối hai đầu đất nước, nơi giao thoa của những điều kiện
tự nhiên, văn hóa, xã hội của hai đầu Bắc- Nam. Quảng Bình có vị trí chiến lược
quan trọng trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong lịch sử,
đây là nơi mở đầu cho công cuộc mở cõi về phương Nam mà dân tộc ta đã theo
đuổi suốt gần 7 thế kỷ. Lịch sử khai thiết vùng đất Quảng Bình là lịch sử đấu
tranh với thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại và phát triển; là lịch sử của các cuộc
đấu tranh xã hội và chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ quyền và
vùng lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
3.2. ĐIỀU KIỆN MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
3.2.1. Đặc điểm địa hình
- Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. 85% Tổng
diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh thái cơ
bản: Vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển.
3.2.3. Đặc điểm thủy văn
- Tỉnh Quảng Bình có địa hình thấp dần từ tây sang đông. Phía tây là dãy

Trường Sơn hùng vĩ được nâng cao qua các thời kỳ vận động tạo sơn, có nhiều
đỉnh núi cao trên 1000m. Càng về phía đông, địa hình thấp dần, do hẹp chiều
ngang nên độ dốc tương đối lớn. Vùng đồi mở rộng với nhiều nhánh núi tiến ra
sát biển làm thu hẹp một phần đáng kể vùng đồng bằng duyên hải.
Địa hình Quảng Bình chia làm 4 vùng địa lý tự nhiên:

6


- Vùng núi nằm ở phía tây có diện tích khoảng 522.624ha chiếm 65% diện tích
tự nhiên, thấp dần từ tây sang đông và từ bắc vào nam. Địa hình vùng núi có độ

cao dao động từ 250m-1500m, trong đó phần lớn có độ cao 500m- 600m, đỉnh
cao nhất là Phou- Copi (2.017m), một số ngọn có độ cao trên 1.000m như
Cotarun (1.624m), Ba rền (1.137m), U Bò (1.009m).... Nói về những ngọn núi
Quảng Bình, sách Ô Châu cận lục của Tiến sĩ Dương Văn An đời nhà Mạc viết:
Núi Hoành sơn: Núi ở Châu Bố Chính gần xã Sơn Tiêu (thuộc huyện Quảng
Trạch ngày nay). Núi này chạy dài từ núi Tổ, thế như rồng cuốn hổ ngồi, trùng
trùng điệp điệp kéo mãi ra tận biển. Vách đứng cao vạn nhận nom giống như
bức trường thành, án ngữ cả một vùng phương Nam.
Núi Lỗi Lôi ở Châu Bố Chính gần cửa biển Di Luân ( thuộc huyện Quảng Trạch
ngày nay). Núi này cùng với vịnh Chùa tả hữu đối nhau, có khe nước rất ngọt.
Thuyền bè qua lại thường đậu lại nơi này. Leo lên cao phóng tầm mắt nhìn bốn
phía chỉ thấy trời nước hoà hợp một màu, tưởng như ngọn núi thần mọc trên
biển vậy.
Núi Đâu Mâu ở huyện Khang Lộc, gần xã Viễn Tuy (Quảng Ninh ngày nay),
đỉnh núi vươn rất cao và nhọn hoắt như hình mũ Đâu Mâu. Tục truyền trên núi
có giếng, trong giếng có giống cá lạ. Trên núi có dòng sông lớn, có loài cua
ngon sinh sống ở đây.
Núi Thần Đinh ở xứ Thạch Giang huyện Khang Lộc (Rào Đá, huyện Quảng
Ninh ngày nay). Núi này có tên Bất Nghĩa, bởi vì các ngọn núi ở đây đều chạy
theo cùng một hướng Đoài (hướng Tây), riêng ngọn núi này chạy theo hướng
ngược lại, nên gọi như vậy.
Núi Mã Yên ở đầu nguồn huyện Lệ Thuỷ. Thế núi cao lớn, dáng hình uốn lượn,
chỗ đứt đoạn chỗ liên tục, chỗ đổ xuống chỗ ngóc lên, trông như hình cái yên
ngựa, có chỗ như ký mã thong dong, có chỗ như tuấn mã hăm hở. Tinh thần
phong phú, khí tượng dồi dào.
Núi Liên Sơn ở địa phận huyện Lệ Thuỷ, trong núi có hẻm đèo, có con đường
lớn chạy dọc theo, xen với rừng cây um tùm, phong cảnh kỳ thú. Dòng nước
trong chảy vòng róc rách như tiếng ngọc, giọt đổ xuống tính tang nghe tựa tiếng
đàn. Xuân sang đượm màu xanh ngắt, oanh hót véo von; hè về rợp bóng râm, ve
kêu ra rả. Trăng thu vằng vặc, ngàn cây nhuốm rực màu son; ngày đông tuyết

dày, muôn cành phủ toàn sắc trắng…
Đặc điểm nổi bật của vùng núi Quảng Bình là sự phân bố rộng rãi địa hình caxtơ
với những dãy núi đá vôi đồ sộ ở Khe Ngang và Kẻ Bàng liên kết với dãy Hin
Nậm Nô (Khâm Muộn-Lào) tạo nên một vùng núi đá vôi rộng lớn ở Đông Nam
7


Á. Sự kiến tạo của hệ thống núi đá vôi đã tạo nên hệ thống sông ngầm với
những hang động dài và đẹp, đặc biệt là hệ thống hang động Phong Nha- Kẻ
Bàng. Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, nơi có cấu tạo địa tầng, địa chất, địa
mạo ghi dấu sự kiến tạo của lịch sử vỏ trái đất, được UNESCO công nhận là di
sản thiên nhiên Thế giới năm 2003.
Vùng núi Quảng bình là nơi lưu giữ nhiều nguồn gen động thực vật quý hiếm
tạo nên sự phong phú về đa dạng sinh học của rừng nhiệt đới. Sản vật của núi
rừng Quảng Bình đã được người xưa biết đến. Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý
Đôn năm 1776 viết:
Châu Bắc Bố Chính sản xuất nhân sâm, mật ong, sáp ong, sừng tê, ngà voi, sừng
bò tót, diêm tiêu, giáng hương, trầm hương, tốc hương, song, mây, gỗ lim, gỗ
hoa hèo, gỗ hoa nu, gỗ kiền kiền. Đầu nguồn châu Bắc Bố Chính có gỗ ngật,
cũng gọi là gỗ dầu, sắc trắng mà chất mềm mịn, để lâu thì vàng dần. Uốn cong
không gãy, có thể làm cánh nỏ được. Châu Bắc Bố Chính có cao mật dâu. Nhân
sâm sản xuất ở xã Phù Lưu, Tiên Lễ...Rừng núi hai chỗ nguồn Trạm và nguồn
Cộc thuộc huyện Khang Lộc có nhiều gỗ tốt; gỗ táu đen bền như sắt...gỗ kiền
kiền thớ gỗ nhỏ mịn, cứng bền lâu hỏng, chôn sâu dưới đất mấy thước trăm năm
không hư…
Vùng gò đồi có diện tích 161.775 ha chiếm khoảng 20% diện tích tự nhiên, có
độ cao trung bình từ 50- 250m, độ dốc trung bình 3-8 độ, phân bố hầu hết các
huyện trong tỉnh. Vùng gò đồi chạy dọc theo các thung lũng sông suối là vùng
chuyển tiếp giữa các vùng núi thấp với dải đồng bằng ven biển. Được cấu tạo
bởi đá trầm tích lục nguyên, chịu tác động mạnh bởi quá trình bóc mòn, rửa trôi,

biến chất nên địa hình vùng gò đồi có dạng mền mại, thường là những dãy đồi
thấp, dạng hành lang và những quả đồi đứng độc lập.
Vùng đồng bằng ven biển có độ cao từ 15m trở xuống với khoảng 88.561 ha
chiếm 11% diện tích tự nhiên. Đây là các đồng bằng có nguồn gốc mài mòn, bồi
tụ, phân bổ chủ yếu ở các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thuỷ
và Thành phố Đồng Hới. Đây là vùng trồng cây lương thực nhất là lúa và là mơi
tập
trung
đông
dân

của
tỉnh.
Vùng cồn cát ven biển chạy dọc theo đường bờ biển từ chân Đèo Ngang (Quảng
Trạch) đến Mũi Lạy (Lệ Thuỷ) có chiều dài 126 km. Diện tích vùng cát khoảng
32.140 ha chiếm 4% diện tích tự nhiên. Dải cồn cát này có độ cao từ 2-3m đến
30-40m, nơi rộng nhất đến 7km, có độ dốc lớn, chịu tác động mạnh bởi quá trình
hoạt động của gió và nước dẫn đến hiện tượng cát bay, cát lấp vùng đồng bằng
ven biển.

8


Bờ biển Quảng Bình chủ yếu là kiểu bờ biển mài mòn, bồi tụ xen kẻ với nhau.
Ngoài khơi có 5 đảo nhỏ: Hòn La, Hòn Gió, Hòn Nấm, Hòn Cọ, Hòn Chùa. Bờ
biển và vùng biển Quảng Bình có nhiều loại hải sản quý.
Cấu tạo địa hình với những sản vật phong phú là điều kiện cho sự sinh tồn của
những cư dân Quảng Bình ngay trong buổi bình minh của lịch sử.
Sông ngòi: Quảng Bình có mạng lưới sông ngòi khá phong phú, mật độ đạt
khoảng 0,6-1,85km/ km2 nhưng phân bố khồng đều, ở miền núi là 1km/1km2, ở

ven biển chỉ đạt 0,4- 0,5km/km2. Có 5 lưu vực sông chính đều đổ ra biển đông,
từ Bắc vào Nam có: sông Ròn, sông Gianh, sông Bố Trạch, sông Dinh và sông
Kiến Giang- Nhật Lệ. Tổng số có 85 sông lớn nhỏ, gồm 30 sông phụ lưu cấp I;
24 sông phụ lưu cấp II; 9 sông phụ lưu cấp III và nhiều con suối khác.
- Sông Ròn có chiều dài 30 km, diện tích lưu vực nước là 261km2 có cửa biển
Ròn xưa gọi là cửa biển Di Luân.
Sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An chép: " Cửa ở châu Bố Chính. Phía xa
có núi Hoành sơn chắn phía Tây; núi Ngỗi Sơn chắn ở phía Bắc; gần thì thôn
chài ở đông đúc hai ven bờ Bắc Nam. Mắm muối cá ướp ở đây là ngon nhất".
- Sông Gianh, trước đây có tên là Linh Giang, Thọ Linh (chảy qua huyện Thọ
Linh xưa), tên dân gian gọi là Rào Nậy có chiều dài 160 km, diện tích lưu vực
nước là 4680 km2.
Sông Gianh có lưu vực lớn nhất với hơn 30 sông, suối phụ lưu lớn, nhỏ. Sông
Gianh bắt nguồn từ đỉnh núi Phou- Copi ( 2017m) thuộc dãy Giăng Màn
(Trường Sơn) chảy qua Bãi Dinh, Thanh Lạng, Khe Nét, Tuyên Hoá, Ba Đồn và
đổ ra cửa Gianh.
- Sông Bố Trạch còn gọi là sông Lý Hoà, xưa còn có tên là sông Bố Chính (chảy
qua địa phận châu Bố Chính), tên dân gian gọi là Rào Cày dài khoảng 22km.
Sông Bố Trạch bắt nguồn từ các ngọn đồi ở phía tây huyện Bố Trạch, cửa sông
nằm giữa làng Lý Hoà và làng Quy Đức (Đức Trạch ngày nay).
- Sông Dinh dài khoảng 37 km bắt nguồn từ núi Ba Rền, chảy qua các ngọn đồi
ở Bố Trạch theo hướng tây nam- đông bắc và đổ ra biển giữa hai làng Lý Nhân
Bắc và Lý Nhân Nam. Cửa sông được đặt tên là Cửa Nón. Sông Dinh vào mùa
hè hầu như khô cạn nhưng đến mùa mưa thì nước dâng đầy, chảy xiết.

9


- Sông Kiến Giang- Long Đại- Nhật Lệ.Sông Kiến Giang (nguồn Đợi) bắt nguồn
từ dãy Trường Sơn chảy theo hướng tây bắc- đông nam qua núi Thần Đinh hợp

long với dòng Long Đại (nguồn Côộc). Đoạn Kiến Giang và Long Đại nhập lại
ở phía bắc làng Cổ Hiền (còn gọi là làng Côộc) chảy ra biển gọi là sông Nhật
Lệ.3.2.4. Đặc điểm khí hậu, khí tượng thủy văn
Khái quát chung về khí hậu Quảng Bình
Quảng Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, luôn bị tác
động bởi khí hậu của phía Bắc, phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt.
Mùa mưa từ tháng IX đến tháng III năm sau. Lượng mưa trung bình từ
1.600 - 2.800 mm/năm, thời gian mưa tập trung vào các tháng IX, X, XI.
Mùa khô từ tháng IV đến tháng VIII với nhiệt độ trung bình 24 - 25 0C, ba
tháng có nhiệt độ cao nhất là các tháng VI, VII, VIII. Nhiệt độ tối cao nhất
tuyệt đối lên đến 41,6 0C (trạm Tuyên Hóa, V/1992), 40,6 0C (trạm Ba Đồn,
VII/1998), 40,70C (trạm Đồng Hới, IV/1980); nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối
là 5,00C (trạm Tuyên Hóa, XII/1999), 7,6 0C (trạm Ba Đồn, XII/1975) và
7,80C (trạm Đồng Hới, XII/1975).
Nhiệt độ trung bình năm của Quảng Bình tăng dần từ Bắc vào Nam, từ
Tây sang Đông. Cân bằng bức xạ đạt 70 - 80 kcal/cm 2. Số giờ nắng bình
quân năm khoảng 1.700 - 2.000 giờ.
Đặc điểm khí hậu tỉnh Quảng Bình 50 năm qua được trình bày cụ thể
trong các chương tiếp theo.
Chế độ mưa

Mưa là một trong những yếu tố cơ bản nhất của khí hậu, nó có liên
quan đến mọi hoạt động của xã hội, sự phát triển của nền kinh tế, an ninh,
quốc phòng, sinh thái và môi trường...
Tổng lượng mưa trung bình năm ở Quảng Bình phổ biến từ 1.800 2.600mm, là địa phương có lượng mưa thuộc loại trung bình so với trong
khu vực cũng như trong toàn quốc.
Lượng mưa không những biến đổi theo không gian mà còn thay đổi theo
thời gian một cách rõ rệt. Trong năm, có những thời kỳ ít mưa và thời kỳ mưa
nhiều. Thời kỳ mưa nhiều gắn liền với mùa hoạt động của bão, áp thấp nhiệt
đới, gió mùa Đông Bắc và các hình thế khác kết hợp. Còn thời kỳ ít mưa thì

gắn với hoạt động của gió mùa Tây Nam, áp thấp nóng phía Tây. Mùa mưa
kéo dài trong 3 đến 4 tháng từ tháng VIII, IX đến tháng XI, XII. Tuy vậy,
10


phân bố mưa của từng tháng hoàn toàn khác nhau. Nhìn chung thời kỳ mưa
lớn trên toàn tỉnh Quảng Bình tập trung chủ yếu vào 3 tháng IX, X và XI.
Tổng lượng mưa 3 tháng nói trên chiếm 56 - 65% tổng lượng mưa năm và
tháng X thường là tháng có lượng mưa lớn nhất
Độ ẩm của không khí
Độ ẩm của lớp không khí sát mặt đất được đánh giá qua độ ẩm tuyệt đối
và độ ẩm tương đối. Trong thực tế, độ ẩm tuyệt đối chịu ảnh hưởng sâu sắc
của nhiệt độ và khí áp.
Độ ẩm tuyệt đối trung bình năm của toàn tỉnh Quảng Bình là 25,4 26,2mb. Độ ẩm tuyệt đối lớn nhất trong các tháng mùa hè (tháng V đến tháng
IX) đạt từ 29 đến trên 30mb; trái lại độ ẩm tuyệt đối thấp nhất trong các tháng
chính đông (tháng XII đến tháng II năm sau) đạt 19 - 20mb. Chênh lệch độ
ẩm tuyệt đối giữa các vùng trong tỉnh không rõ rệt.
Độ ẩm tương đối của không khí biến đổi theo thời gian rõ rệt hơn không
gian, độ ẩm tương đối vừa biến đổi theo tuần hoàn ngày, tuần hoàn năm và
biến đổi từ năm này sang năm khác. Biến trình ngày của độ ẩm có xu hướng
ngược lại với nhiệt độ. Ban đêm thường ẩm, ẩm nhất vào sáng sớm, tương đối
khô vào trưa chiều. Biến trình năm của độ ẩm tương đối vừa chịu ảnh hưởng
của nền nhiệt độ vừa chịu tác động của mùa mưa.
Biến trình ẩm của khu vực Trung Trung Bộ nói chung và Quảng Bình
nói riêng ngược lại với Bắc Bộ về thời kỳ khô và ẩm.
Ở Bắc Bộ, mùa khô hanh trùng với thời kỳ hoạt động của không khí lạnh
cực đới mùa đông, mùa mưa ẩm trùng với thời kỳ hoạt động của gió mùa Tây
Nam hoạt động trong mùa hè.
Ở Quảng Bình, mùa khô trùng với thời kỳ hoạt động của gió mùa Tây
Nam trong mùa hè, mùa mưa ẩm trùng với thời kỳ hoạt động của gió mùa

Đông Bắc trong mùa đông.
Bốc hơi
Bốc hơi là một trong những nguyên nhân làm hao hụt lượng nước, vì vậy
nó được xem là một thành phần quan trọng của cán cân cân bằng nước.
Ở Quảng Bình, lượng bốc hơi trung bình hàng năm ở vùng đồng bằng
ven biển từ 960 - 1.200mm, vùng núi thấp hơn từ 800 - 1.000mm. Bốc hơi có
xu hướng giảm dần theo hướng Đông - Tây, tương tự với xu hướng nhiệt độ.
11


Tổng lượng bốc hơi trong các tháng mùa hè lớn hơn mùa đông. Tổng
lượng bốc hơi trong mùa hè từ tính từ tháng V đến tháng VIII (4 tháng) là 543
- 667mm, chiếm khoảng 55 - 60% lượng bốc hơi năm. Các tháng còn lại (8
tháng) có tổng lượng bốc hơi từ 411 - 544mm, chiếm khoảng 40 - 45% tổng
lượng bốc hơi năm. Trong mùa đông lượng bốc hơi thấp và tương đối đồng
đều, lượng bốc hơi biến đổi theo địa hình từ đồng bằng lên miền núi rõ rệt
hơn trong các tháng mùa hè
3.3. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
3.3.1. Dân số
Dân số Quảng Bình năm 2014 có 868.174 người. Phần lớn cư dân địa
phương là người Kinh. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và BruVân Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân
Kiều, Mày, Arem, v.v... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hoá và
Minh Hoá và một số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thuỷ. Dân cư phân
bố không đều, 80,47% sống ở vùng nông thôn và 19,53% sống ở thành thị
- 3.2.2. Kinh tế
- Tài nguyên đất: Tài nguyên đất được chia thành hai hệ chính: Đất phù sa ở

vùng đồng bằng và hệ pheralit ở vùng đồi và núi với 15 loại và các nhóm chính
như sau: nhóm đất cát, đất phù sa và nhóm đất đỏ vàng. Trong đó nhóm đất đỏ
vàng chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, chủ yếu ở địa hình đồi núi phía Tây, đất

cát chiếm 5,9% và đất phù sa chiếm 2,8% diện tích.
Tài nguyên động, thực vật: Quảng Bình nằm trong khu vực đa dạng sinh học
Bắc Trường Sơn - nơi có khu hệ thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều
nguồn gen quý hiếm. Đặc trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng
Karst Phong Nha - Kẻ Bàng.
Về động vật có: 493 loài, 67 loài thú, 48 loài bò sát, 297 loài chim, 61 loài cá...
có nhiều loài quý hiếm như Voọc Hà Tĩnh, Gấu, Hổ, Sao La, Mang Lớn, Gà Lôi
lam đuôi trắng, Gà Lôi lam mào đen, Trĩ...
Về đa dạng thực vật: Với diện tích rừng 486.688 ha, trong đó rừng tự nhiên
447.837 ha, rừng trồng 38.851ha, trong đó có 17.397 ha rừng thông, diện tích
không có rừng 146.386 ha. Thực vật ở Quảng Bình đa dạng về giống loài: có
138 họ, 401 chi, 640 loài khác nhau. Rừng Quảng Bình có nhiều loại gỗ quý như
lim, gụ, mun, huỵnh, thông và nhiều loại mây tre, lâm sản quý khác. Quảng
Bình là một trong những tỉnh có trữ lượng gỗ cao trong toàn quốc. Hiện nay trữ
lượng gỗ là 31triệu m3.
12


Tài nguyên biển và ven biển: Quảng Bình có bờ biển dài 116,04 km với 5 cửa
sông, trong đó có hai cửa sông lớn, có cảng Nhật Lệ, cảng Gianh, cảng Hòn La,
Vịnh Hòn La có diện tích mặt nước 4 km 2, có độ sâu trên 15 mét và xung quanh
có các đảo che chắn: Hòn La, Hòn Cọ, Hòn Chùa có thể cho phép tàu 3-5 vạn
tấn vào cảng mà không cần nạo vét. Trên đất liền có diện tích khá rộng (trên 400
ha) thuận lợi cho việc xây dựng khu công nghiệp gắn với cảng biển nước sâu.
Bờ biển có nhiều thắng cảnh đẹp, cùng với thềm lục địa rộng gấp 2,6 lần diện
tích đất liền tạo cho Quảng Bình có một ngư trường rộng lớn với trữ lượng
khoảng 10 vạn tấn và phong phú về loài (1650 loài), trong đó có những loại quý
hiếm như tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang, san hô. Phía Bắc Quảng Bình
có bãi san hô trắng với diện tích hàng chục ha, đó là nguồn nguyên liệu quý cho
sản xuất hàng mỹ nghệ và tạo ra vùng sinh thái của hệ san hô. Điều đó cho phép

phát triển nền kinh tế tổng hợp vùng ven biển.
Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: Với 5 cửa sông, Quảng Bình có vùng mặt nước
có khả năng nuôi trồng thuỷ sản khá lớn. Tổng diện tích 15.000 ha. Độ mặn ở
vùng mặt nước từ cửa sông vào sâu khoảng 10-15km giao động từ 8-30%o và độ
pH từ 6,5- 8 rất thuận lợi cho nuôi tôm cua xuất khẩu. Chế độ bán nhật triều
vùng ven biển thuận lợi cho việc cấp thoát nước cho các ao nuôi tôm cua.
Tài nguyên nước: Quảng Bình có hệ thống sông suối khá lớn với mật độ 0,8 1,1 km/km2. Có năm sông chính là sông Roòn, sông Gianh, sông Lý Hoà, sông
Dinh và sông Nhật Lệ. Có khoảng 160 hồ tự nhiên và nhân tạo với dung tích
ước tính 243,3 triệu m3.
Tài nguyên khoáng sản: Quảng Bình có nhiều loại khoáng sản như vàng, sắt,
titan, pyrit, chì, kẽm... và một số khoáng sản phi kim loại như cao lanh, cát thạch
anh, đá vôi, đá mable, đá granit... Trong đó, đá vôi và cao lanh có trữ lượng lớn,
đủ điều kiện để phát triển công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng với quy mô
lớn. Có suối nước khoáng nóng 105oC. Trữ lượng vàng tại Quảng Bình có khả
năng để phát triển công nghiệp khai thác và chế tác vàng.
3.3.3 Lao động
- Dân số Quảng Bình năm 2014 có 868.174 người. Phần lớn cư dân địa
phương là người Kinh. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và BruVân Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân
Kiều, Mày, Arem, v.v... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hoá và
Minh Hoá và một số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thuỷ. Dân cư phân
bố không đều, 80,47% sống ở vùng nông thôn và 19,53% sống ở thành thị
3.3.4. Xã hội
Dãi đất Quảng Bình như một bức tranh hoành tráng, có rừng, có biển với nhiều
cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Lý Hoà, cửa
13


biển Nhật Lệ, phá Hạc Hải, Cổng Trời… và Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng được công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới.
Quảng Bình là vùng đất văn vật, có di chỉ văn hoá Bàu Tró, các di chỉ thuộc nền

văn hoá Hoà Bình và Đông Sơn, nhiều di tích lịch sử như: Quảng Bình Quan,
Luỹ Thầy, Rào Sen, Thành Nhà Ngo, thành quách của thời Trịnh - Nguyễn,
nhiều địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc
như Cự Nẫm, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời, Xuân Sơn, Long Đại, đường Hồ
Chí Minh v.v... Trong quá trình lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hoá nổi
tiếng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác như “Bát danh hương”:
“Sơn- Hà- Cảnh - Thổ- Văn- Võ- Cổ - Kim”. Nhiều danh nhân tiền bối học
rộng, đỗ cao và nổi tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hoă - xã
hội như Dương Văn An, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế
Viêm, Võ Nguyên Giáp...

CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC NUÔI TRỒNG
THỦY SẢN ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG
4.1 Ảnh hưởng của môi trường đến nuôi trồng thủy sản ven biển
Nhiều hệ sinh thái đất ngập mặn vùng biển, đảo đang bị phá hủy do phát
triển kinh tế, dẫn đến mất nơi cư trú, sinh dưỡng, sinh sản... của nhiều loại động
vật thủy sinh. Nguồn giống tự nhiên đang bị suy giảm nghiêm trọng, nhiều loài
thủy
sản

nguy

tuyệt
chủng.
Môi trường nước ở vùng mặn hóa ven biển hàm lượng sắt (phèn hóa) trong
nước do quá trình phèn hóa mạnh mẽ, N-NH3, Coliforms... gây ảnh hưởng đến
nuôi
trồng
thủy
sản.

Nuôi trồng thủy sản phải gánh chịu các rủi ro từ những hoạt động bất khả kháng
bên ngoài như bão lũ, từ các nguồn gây ô nhiễm của các ngành sản xuất khác:
chất thải từ nông nghiệp (thuốc trừ sâu, diệt cỏ); chất thải công nghiệp (hóa chất,
kim loại nặng); giao thông, du lịch, khai thác dầu khí…
Ngoài ra, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết bất thường cũng gây ra
tác động bất lợi đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản. Do vậy, vấn đề đặt ra cho
các cấp chính quyền và người dân là phải quản lý môi trường nuôi trồng thủy
sản, để hạn chế các tác động bất lợi đối với thủy sản nuôi. Trong xu hướng phát
triển nuôi thâm canh, đặc biệt là nuôi công nghiệp thì cần nâng cao vai trò quản

môi
trường.
Ảnh hưởng của việc nuôi trồng thủy sản ven biển đến môi trường
14


Quá trình chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản đang diễn ra
với quy mô lớn ở vùng mặn hóa ven biển làm gia tăng xâm nhập mặn ở các
vùng ven biển. Tác động làm suy giảm rừng ngập mặn ven biển, ảnh hưởng đến
các hệ sinh thái rừng ngập mặn. Nuôi cá lồng bè trên sông, nuôi thâm canh thủy
sản vùng ngọt hóa đã gây nên các tác động đến chất lượng môi trường nước ở
đây.
Chất thải trong nuôi trồng thủy sản là bùn thải chứa phân của các loài thủy
sản tôm cá, các nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư của
các loại vật tư sử dụng trong nuôi trồng như: hóa chất, vôi và các loại khoáng
chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn
Fe, Fe3+, Al3+, SO42-, các thành phần chứa H2S, NH3,... là sản phẩm của quá
trình phân hủy yếm khí ngập nước tạo thành, nguồn bùn phù sa lắng đọng trong
các ao nuôi trồng thủy sản thải ra hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao
nuôi. Đặc biệt, với các mô hình nuôi kỹ thuật cao, mật độ nuôi lớn như nuôi

thâm canh, nuôi công nghiệp... thì nguồn thải càng lớn và tác động gây ô nhiễm
môi
trường
càng
cao.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ có 17% trọng lượng khô của thức
ăn cung cấp cho ao nuôi được chuyển thành sinh khối, phần còn lại được thải ra
môi trường dưới dạng phân và chất hữu cơ dư thừa thối rữa vào môi trường. Đối
với các ao nuôi công nghiệp chất thải trong ao có thể chứa đến trên 45%
Nitrogen và 22% là các chất hữu cơ khác. Các loại chất thải chứa Nitơ và
Phốtpho ở hàm lượng cao gây nên hiện tượng phú dưỡng môi trường nước phát
sinh tảo độc trong môi trường nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, nguồn chất thải này
lan truyền rất nhanh đối với hệ thống nuôi cá bè trên sông, nuôi cá trong các
đầm trũng ngập nước... cùng với lượng phù sa lan truyền có thể gây ô nhiễm
môi trường và dịch bệnh thủy sản phát sinh trong môi trường nước.
Đối với nuôi tôm vùng ven biển Nam bộ nơi có hàm lượng phù sa trong
nước biển lấy vào ao nuôi rất lớn từ 200-888mg/L, lượng chất rắn này lắng
xuống ao nuôi tôm tạo thành lớp bùn hàng năm rất dày. Vấn đề quản lý bùn thải
nuôi tôm là hết sức bức xúc cần phải được quản lý để xử lý triệt để ở khu vực
nuôi trồng thủy sản nước mặn vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Nuôi trồng thủy sản ở nước ta đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức trong
việc thực hiện quản lý môi trường. Những khó khăn chính là về thể chế chính
sách, cơ chế phối hợp giữa các ngành, trình độ và khả năng quản lý của cán bộ,
trình độ khoa học kỹ thuật, ý thức bảo vệ môi trường và khả năng áp dụng công
15


nghệ của người nuôi. Những khó khăn này không tác động đến hiệu quả của
việc quản lý môi trường một cách riêng lẻ mà chúng tương tác với nhau.
Tài nguyên nước vùng biển do rất nhiều ngành sử dụng và quản lý. Mỗi

ngành, mỗi cấp có những chính sách quản lý khác nhau, sự phối hợp giữa các
ngành trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên nước. Mặt khác, các hoạt động
kinh tế - xã hội thường độc lập với các hoạt động bảo vệ môi trường, do vậy các
dự án thường chỉ nhằm phục vụ mục tiêu trước mắt mà chưa tính đến tính bền
vững của các hoạt động phát triển vùng biển. Trong nuôi trồng thủy sản ven
biển, vấn đề quy hoạch là một trong những hoạt động có ảnh hưởng đến quản lý
môi trường. Trong những năm qua, nhiều dự án nuôi trồng thủy sản vùng ven
biển đã được triển khai rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên, một số vùng đã có
quy hoạch nuôi trồng thủy sản, nhưng do thiếu vốn nên dự án quy hoạch chậm
triển khai, dẫn đến phát triển tự phát.
4.4 CÁC TÁC ĐỘNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
4.4.1 BẢN CHẤT CỦA CÁC TÁC ĐỘNG
Các tác động nghiêm trọng đến sinh thái có thể xảy ra do không kiểm soát
được quá trình thải nước thải mỏ hay nước thải đi kèm với quặng thải hay chất
thải rắn ra môi trường tiếp nhận.
Hệ sinh thái sẽ bị tác động nếu nước trong đập bị cạn và quặng thải bị ô xi
hóa, nếu nước nhiều hơn dự báo sẽ dẫn đến khả năng không khống chế được
nước xả. Sự ô nhiễm vượt các tiêu chuẩn cho phép có thể gây ra những thay đổi
mạnh mẽ hệ sinh thái dưới nước và trên cạn.
Các tác động sinh học tiềm tàng từ việc triển khai dự án có thể nhóm thành
bốn (4) vấn đề chính
• Ảnh hưởng của độc tố cấp tính từ thải mỏ;
• Ảnh hưởng của độc tố thường xuyên từ thải mỏ;
• Tổn thất môi trường sống và đa dạng sinh học; và
• Sức khỏe và an toàn cộng đồng.

16


4.4.2 ĐỘC TỐ

Nếu nước bị nhiễm bẩn vô tình chảy từ khu dự án vào thuỷ vực hạ nguồn
thì có khả năng ảnh hưởng độc tố cấp tính và lâu dài đến sinh vật, bao gồm cả
con người. Mặt nước hở của các đầm chứa thải dung dịch xử lý (như đập chứa
thải) có thể thu hút các loại chim, động vật hoang dã và có thể cả các động vật
nuôi; sựcó mặt của kim loại và xyanua trong đập chứa thải có thể là nguyên
nhân tiềm tàng dẫn đến tử vong của động vật hoang dã và vật nuôi. Tác động bổ
sung gây độc hàng ngày đến cơ thể có thể xảy ra do tăng lượng chất ô nhiễm
(như bụi, khí thoát ra và nước thải) thải ra môi trường.
Trong môi trường tự nhiên, một số chất gây ô nhiễm như arsen, cadmi,
xyanua, chì và thủy ngân có nồng độ tự nhiên tăng cao, và cũng có thể được
tăng cao do các hoạt động khai thác mỏ trước đây gây nên. Nồng độ của các
nguyên tố này tăng lên cũng gây tác động đến các sinh vật thủy sinh. Vì vậy, các
sinh vật thủy sinh bao gồm cả cá cũng có thể có những sự thay đổi để thích nghi
với những chất ô nhiễm tự nhiên. Các loại kim loại gây độc hại chủ yếu là thủy
ngân, acsen và chì. Các chất hóa học này có thể được tích lũy sinh học, do đó có
khả năng gây nguy hiểm cho sức khỏe con người nếu như sự tích lũy này tập
trung ở các cây lương thực và động vật.
Khai thác vàng sẽ phải xử lý đá quặng chứa nhiều nguyên tố gây ô nhiễm
môi trường (như những nguyên tố đã liệt kê ở trên). Tuy nhiên, do có sự kiểm
soát và không xả thải bừa bãi ra môi trường như hoạt động khai thác vàng trái
phép, nên rất ít khả năng xảy ra tác động đáng kể.
4.4.3 MẤT MÁT NƠI CƯ TRÚ VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC
Sẽ xảy ra mất nơi cư trú của động vật hoang dã trong khu vực do phát triển
mỏ, gồm khu nhà máy, các bãi đổ đá thải và khu chứa thải.
Có thể sẽ có sự di cư của động vật hoang dã ra khỏi khu dự án do tiếng ồn từ
các hoạt động mỏ gây ra. Nếu các tác động này xảy đến với những loài cư trú bao
quanh khu vực mỏ hay các khu vực mà nơi cư trú của chúng bị phá vỡ thì tác động
của nó sẽ là rất nghiêm trọng. Hiện vẫn chưa đánh giá được hết mức độ tác động
của các hoạt động khai thác khoáng sản và khai thác rừng bừa bãi trước đây.
Những loài có nguy cơ cao bị mất nơi cư trú, nếu chúng sinh sống gần khu

vực mỏ, có thể sẽ không thể tìm được nơi cư trú mới hay không thể sống sót
được trong môi trường đã bị thay đổi. Tuy nhiên hầu như không có loài động vật
17


quý hiếm hay đang gặp nguy hiểm nào xuất hiện trong khu vực mỏ.
Ở gần khu vực mỏ, sự mất đi nơi cư trú sẽ là lâu dài, suốt giai đoạn xây
dựng và khai thác mỏ, rồi sẽ trở lại ở dạng đã thay đổi sau khi môi trường được
phục hồi. Có thể mất 5 đến 20 năm sau khi đóng cửa mỏ để thiết lập một hệ sinh
thái mới trên đất đã cải tạo.
4.5 TÁC ĐỘNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG KINH TẾ - XÃ HỘI
4.5.1 TÁC ĐỘNG ĐẾN SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG
Xảy ra các rủi ro cho sức khoẻ con người trước mắt cũng như lâu dài trong
khu vực dự án và gây hại cho sản xuất nông nghiệp ở khu vực hạ lưu, nếu các
dung dịch ô nhiễm bất ngờ thoát ra từ khu dự án hoặc qua đường nước ngầm,
nhiễm bẩn nước mặt hay thoát ra không khí.
Một trong những tác động đáng kể đến sức khỏe của con người có thể liên
quan đến hoạt động của các các phương tiện giao thông của mỏ và sự gia tăng
áp lực chung lên các khu vực có mật độ dân cư dày như thôn 5 và thôn 6. Tuy
nhiên đường nhựa 2 làn xe hiện đang được xây dựng ở khu Bồng Miêu sẽ làm
giảm được áp lực này. Sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng mỏ, dự kiến hoạt
động giao thông phục vụ mỏ đi từ Bồng Miêu đến Tam Lãnh sẽ khoảng 10
lượt/ngày.
4.5.2 TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ - XÃ HỘI
4.5.2.1 Khái quát
Mỏ Hố Gần có những tác động xã hội tích cực và tiêu cực đến khu vực:
Những tác động tích cực của dự án:
• Góp phần phát triển một ngành công nghiệp thăm dò và khai thác vàng
hiện đại.
• Kích thích phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ mới.

• Đóng góp vào ngân sách nhà nước và của tỉnh bằng các loại thuế.
• Tạo công ăn việc làm cho nhân dân trong vùng và các chuyên gia khai
thác của Việt Nam dẫn đến nâng cao mức sông của mọi người
• Tạo cơ hội học hành cho nhân dân trong vùng.
Các tác động tiêu cực có thể có từ dự án bao gồm:
18


• Phải di dời tái định cư những người dân đang sống trong khu vực dự án.
• Tổn thất về thu nhập/ tài nguyên cho dân địa phương do rừng bị xáo trộn
bởi các hoạt động khai thác mỏ
• Áp lực về dân số từ các dòng nhân công nhập cư có thể làm tăng áp lực
về nhà cửa, các dịch vụ công cộng địa phương ở trong vùng dự án.
• Tăng mật độ giao thông và nhu cầu năng lượng cho mỏ có thể gây ra
những tác động kéo dài suốt thời gian mỏ hoạt động.
• Mất nguồn tài nguyên khoáng sản đối với những người khai thác vàng
thủ công/trái phép hiện nay.
• Tổn hại đến tài nguyên nước
• Tác động đến những khu vực có tầm quan trọng về văn hóa đối với
người dân địa phương.
4.5.2.2 Các tác động tích cực đến kinh tế xã hội
Dự án Hố Gần sẽ đóng góp tích cực vào nền kinh tế quốc dân, tăng nguồn
thu ngân sách cho các ngành và tỉnh, khuyến khích đầu tư vào Việt Nam, khắc
phục các tác động môi trường tồn tại trước đó (do khai thác vàng trái phép để
lại), cải thiện dịch vụ xã hội, nâng cao năng lực lâu dài cho ngành quản lý môi
trường.
Việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho dự án sẽ tạo việc làm mới và tăng
trưởng kinh tế trong các ngành phục vụ. Theo ảnh hưởng tăng theo cấp số nhân,
lượng tiền đầu tư vào nền kinh tế khu vực và địa phương thường đi kèm với nhu
cầu lớn hơn về hàng hoá và dịch vụ. Điều đó sẽ tạo ra các cơ hội cho kinh doanh

và việc làm mới. Nhân dân địa phương sẽ được hưởng lợi từ các dịch vụ được
cải thiện và các chương trình quản lý môi trường xã hội.
Cộng đồng địa phương và trong vùng
Các tác động tích cực đến cộng đồng địa phương gồm:
• Kích thích tiêu dùng trong nền kinh tế địa phương sẽ tạo động lực phát
triển kinh tế của khu vực.
• Sáng kiến kinh tế xã hội như cung cấp năng lượng, khắc phục những tác
động tồn tại từ trước, xây dựng tiềm năng và chương trình đào tạo, các chương
trình kinh tế xã hội khác...
19


• Cải thiện cơ sở hạ tầng môi trường bằng việc hỗ trợ chương trình xây
dựng tiềm năng cho các ban ngành trong tỉnh (như các cơ quan chức năng quản
lý môi trường tỉnh).
• Cải thiện đường sá, sức khỏe, giáo dục, đào tạo, điện năng và thông tin
từ việc triển khai các đề án cơ bản.
• Ưu tiên tuyển dụng lao động và dịch vụ cung cấp ở địa phương cho dự
án nếu đáp ứng được yêu cầu. Điều này sẽ tạo ảnh hưởng tích cực đến nền kinh
tế của địa phương.
• Tạo cơ hội học hành ở mức địa phương và quốc gia (như hỗ trợ các điều
kiện trường học/ nguồn vốn, học bổng cho người lao động và gia đình của họ).
• Tài trợ cho các chương trình văn hoá, xã hội (đặc biệt cho nhóm người
yếu thế như phụ nữ, người dân tộc thiểu số, trẻ em).
4.5.2.3 Các tác động tiêu cực có thể có từ dự án
Các tác động do tái định cư
Kết quả khảo sát vào tháng 3/2003 cho thấy không có hộ dân nào đang
sống hợp pháp ở trong khu vực dự kiến xây dựng nhà máy tuyển và đập chứa
thải. Hiện tại chỉ có một vài căn lều của một số người dân làm nương rẫy trong
thung lũng suối Lò. Tuy nhiên, Công ty khai thác vàng Bồng Miêu và Ủy ban

Nhân dân xã Tam Lãnh đã thỏa thuận với nhau rằng các lều này chỉ dựng lên
tạm thời và sẽ phải di dời khi có yêu cầu của Công ty. Do đó sẽ không xảy ra
vấn đề di dời dân, tái định cư.
Ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên rừng
Diện tích khai thác mỏ là rất nhỏ, chiếm 0.84% đất rừng của xã Tam Lãnh.
Sản phẩm rừng có thể hái lượm phân bố khá rộng khắp, và những cây gỗ có giá
trị kinh tế trong khu vực mỏ Hố Gần đã được khai thác tận thu hết. Các khu vực
bị xáo trộn trong quá trình khai thác sẽ được phục hồi lại môi trường bằng việc
trồng rừng trở lại.
Áp lực dân số
Sự phát triển mỏ sẽ kéo theo đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng nhằm xây
dựng công sở, nhà ở cho người lao động, truyền thông và cải tạo đường xá, cầu
cống hiện có. Công nhân xây dựng sẽ ở tại Bồng Miêu và công nhân mỏ sẽ ở tại
khu nhà cho công nhân được xây dựng gần mỏ. Nhân viên mỏ ở và làm việc tại
20


văn phòng mỏ Bồng Miêu hiện nay. Các dịch vụ ăn uống sẽ được mang đến từ
Bồng Miêu và Tam Lãnh và các vùng lân cận. Dự án sẽ tiếp tục dựa vào cộng
đồng địa phương trong suốt tuổi thọ của mỏ.
Dự án sẽ được triển khai thành hai giai đoạn: phát triển mỏ (xây dựng) và
sản xuất. Giai đoạn phát triển và sản xuất dự kiến sẽ kéo dài trong 7 năm dựa
trên trữ lượng khoáng sản đã biết hiện nay.
Trong quá trình xây dựng và sản xuất, một dòng công nhân và kỹ thuật viên
đổ về khu vực sẽ có khả năng gây tác động đối với cộng đồng địa phương.
Những người mới đến sẽ làm tăng áp lực đối với các phương tiện y tế và giáo
dục, nhà ở và cơ sở hạ tầng. Các khu vực xung quanh có thể phải chịu việc gia
tăng dân số do di dân của các bộ phận khai thác, những người công nhân và gia
đình của họ. Các tác động kinh tế xã hội cụ thể bao gồm:
• Bộc lộ mức độ mới và /hoặc cao hơn về các rủi ro an toàn và sức khoẻ.

• Làm tăng tính cạnh tranh đối với các nguồn lực địa phương dẫn đến tình
trạng khó khăn về kinh tế và giá cả tăng.
• Sự căng thẳng xã hội và các vấn đề liên quan đến việc nhập cư của người
công nhân (mại dâm, cờ bạc, nghiện hút).
• Tăng cường khả năng thất thế của người dân tộc thiểu số và nhóm người
ít khả năng cạnh tranh.
Tác động đến giao thông vận tải
Do mật độ giao thông và việc vận chuyển bằng xe tải trong vùng tăng trong
quá trình xây dựng và sản xuất của dự án sẽ ảnh hưởng đến vệ sinh công cộng
như bụi và tiếng ồn. Mật độ giao thông trong khu vực tăng cũng sẽ làm ảnh
hưởng đến sự an toàn và cản trở các hoạt động của nhân dân địa phương. Tuy
vậy, sự phát triển của dự án cũng góp phần cải thiện hệ thống đường xá cũng
như thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội trong khu vực.
Tác động đến năng lượng
Hoạt động của dự án dẫn đến nhu cầu năng lượng của địa phương tăng lên
đáng kể. Dự kiến giai đoạn đầu mỏ sẽ sử dụng nguồn điện từ máy phát điện, sau
đó sẽ kéo một đường điện cao thế từ lưới điện quốc gia và xây dựng một trạm hạ
thế riêng ở gần khu mỏ. Do đó nguồn cung cấp năng lượng địa phương sẽ không
bị ảnh hưởng mà còn có thể tận dụng được các dịch vụ hỗ trợ. Mạng lưới thông
21


tin liên lạc sẽ được cải thiện đáng kể bằng việc lắp đặt thêm các đường cáp
quang hiện đại đến bưu điện xã Tam Lãnh.
Tác động đến nguồn tài nguyên khoáng sản.
Các hoạt động khai thác vàng đang diễn ra hiện nay trong khu vực dự án là
bất hợp pháp. Dự án Hố Gần sẽ là dự án khai thác vàng quy mô công nghiệp đầu
tiên ở địa phương. Dự án sẽ tận thu được nguồn tài nguyên với hiệu quả cao
nhất và tỉ lệ thu hồi đạt tối ưu, bảo vệ được môi trường và đóng đầy đủ các loại
thuế cho nhà nước, không như hoạt động khai thác vàng trái phép trong thời

gian qua.
Tác động đến các công trình văn hóa lịch sử
Trong khu vực dự án, không có khu nào có ý nghĩa văn hóa và lịch sử cụ
thể. Do vậy sẽ không có tác động bất lợi nào mà dự án có thể gây ra cho những
khu vực có ý nghĩa văn hóa và lịch sử ở địa phương cũng như quốc gia. Tuy
nhiên, dự án sẽ làm thay đổi ít nhiều cách sống ở các làng xung quanh, ít nhất là
trong thời gian hoạt động mỏ. Sẽ có những tác động văn hoá đến cư dân, có thể
tiêu cực đối với người này nhưng lại tích cực với số người khác.

22


CHƯƠNG 5
DỰ ÁN KHẮC PHỤC, GIẢM THIỂU
CÁC TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA VẤN ĐỀ KHAI THÁC
ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG
5.1 KHÁI QUÁT
Trong suốt giai đoạn lập kế hoạch và phát triển dự án, nhiều phương án
khai thác, chế biến quặng, vị trí xây dựng nhà máy, khử độc xyanua, khu chứa
thải, vị trí cơ sở hạ tầng đều được xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và giảm thiểu ô nhiễm trong quá
trình mỏ hoạt động và sau khi đóng cửa mỏ có ý nghĩa quan trọng và phù hợp
với phương pháp khai thác chế biến tốt nhất theo tiêu chuẩn quốc tế. Các biện
pháp này được thực hiện theo các định hướng sau.
5.2 DỰ ÁN NGĂN NGỪA Ô NHIỄM VÀ SỰ CỐ
5.2.1 VẤN ĐỀ KHAI THÁC
Căn cứ theo bản chất vật lý của thân quặng lộ trên mặt hoặc nằm gần trên
mặt, phương pháp khai thác lộ thiên được lựa chọn để khai thác hiệu quả và an
toàn nguồn tài nguyên khoáng sản. Khai thác lộ thiên sẽ mang lại hiệu quả cao.
Phương pháp này hiện đang được áp dụng ở Việt Nam và là công nghệ đã được

kiểm nghiệm.
5.2.2 VẤN ĐỀ TUYỂN KHOÁNG
Một số các phương án tuyển khoáng khác nhau đã được xem xét trong quá
trình nghiên cứu tiền khả thi và khả thi, bao gồm:
a

Tuyển khoáng bằng phương pháp ngâm chiết xyanua-hấp phụ vàng bằng nhựa
aurix truyền thống.

b

Tuyển trọng lực, tuyển nổi và ngâm chiết sianua tích cực tinh quặng của hai
công đoạn tuyển trọng lực và tuyển nổi.
Phương án kết hợp tuyển trọng lực, tuyển nổi và pháp ngâm chiết xyanua
tích cực được lựa chọn vì đó là phương pháp đơn giản, hiệu quả và có mức thu
hồi vàng cao nhất, phù hợp với các loại quặng của mỏ Hố Gần và các khu mỏ
lân cận. Phương pháp này cũng cho phép chứa và xử lý mọi chất thải mỏ một
cách tốt nhất nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường.
23


Quặng của mỏ Hố Gần sẽ được xử lý theo các công đoạn sau:
1 Nghiền thô
2 Nghiền tinh
3 Tuyển trọng lực
4 Tuyển nổi
5 Xử lý bằng xianua
6 Công đoạn hấp phụ vàng
7 Công đoạn giải hấp
8 Công đoạn điện phân

9 Nung chảy
10 Khử độc

5.2.3 VẤN ĐỀ QUY HOẠCH HỢP LÝ TỔNG MẶT BẰNG CỦA VIỆC
KHAI THÁC
Lập vành đai an toàn
Các công trình xây dựng mỏ và hoạt động khai thác, chế biến cũng như khu
vực chứa thải của mỏ Hố Gần nằm cách thôn 9 và 10 xã Tam Lãnh 1.5km .
Việc bố trí mặt bằng xây dựng và khai thác mỏ như vậy sẽ sẽ tạo được vành đai
an toàn cho dân cư trong vùng.
Lựa chọn vị trí xây dựng các công trình
Các vị trí của nhà máy tuyển luyện, khu chứa thải, đường vận tải nội mỏ và
nhà ở của công nhân đều đã được lựa chọn đảm bảo giảm thiểu việc xáo trộn
mặt bằng của khu vực, bảo đảm an toàn cho dân cư trong vùng và khai thác triệt
để, hiệu quả tài nguyên quặng.
Vị trí moong khai thác
Các moong khai thác sẽ được mở ở những khu có thân quặng công nghiệp.
Đối với mỏ Hố Gần, ranh giới moong khai thác được xác định bởi hàm lượng
biên và các yếu tố kinh tế và hiệu quả khai thác.
Vị trí xây dựng nhà máy:
Việc lựa chọn vị trí xây dựng nhà máy đã tính đến hạn chế tối đa diện tích
bề mặt bị xáo trộn và đồng thời nhà máy phải ở gần khu khai thác . Nhà máy sẽ
24


được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng ở Hố Gần, có độ cao 150m. Vị trí
này cao hơn suối Lò 50m và Sông Vàng là 75m nên khả năng bị lũ lụt hầu như
không thể xảy ra. Nước mưa chảy tràn từ trên sườn núi xuống khu vực này sẽ
được thu vào mương thoát nước và dẫn đi ra ngoài khu vực nhà mày.
Vị trí xây dựng nhà máy khá bằng phẳng. Hệ thực vật và lớp đất mặt tại

đây bị biến đổi nghiêm trọng bởi các hoạt động như khai thác rừng, đốt rừng và
khai thác khoáng sản trái phép trước đây. Vì những lý do đó mà có thể nói rằng
việc xây dựng nhà máy sẽ không tác động lớn đến môi trường đất hoặc hệ sinh
thái ở đây.
Để bảo đảm không xây dựng nhà máy lên trên thân quặng, khu xây dựng
nhà máy đã được thăm dò bằng các công trình giếng vào những năm 1992-1994
và khoan năm 2004. Các lỗ khoan đạt độ sâu trên 20m, vượt qua độ sâu chung
của đới khoáng hóa chung ở mỏ Hố Gần. Kết quả phân tích mẫu giếng cũng như
mẫu lõi khoan không thấy có khoáng hóa vàng ở khu vực này (hàm lượng vàng
trong các mẫu phân tích giao động từ <0,02 ppm đến 0,31 ppm).
Vị trí xây dựng khu chứa thải (TSF)
Khu chứa thải sẽ được xây dựng ở thung lũng suối Lò cách khu nhà máy
500m về phía tây nam.
Đập thải chính (đập số 1) sẽ được xây dựng ở một vị trí thu hẹp của thung
lũng ở cao độ 95m và ba đập khác được xây dựng ở hai suối nhánh của thượng
nguồn suối Lò.
Đập ở nhánh suối phía tây (đập số 2) được sử dụng để chứa nước, khi
nước trong đập đầy, nước sẽ tự động thoát ra mương dẫn nước được xây dựng
chạy bao đập thải chính.
Ở nhánh suối phía đông xây dựng hai đập, một đập (đập số 3) được sử
dụng để chứa thải ngâm chiết có chứa sunphua và xyanua. Đập số 3 có chiều dài
129 m, được xây dựng đến cao độ 108 m, cao trung bình 10m. Quặng thải trong
đập này sẽ được bảo quản trong nước để tránh bị ô xi hóa.
Phía trên đập số 3 là đập số 4, được xây dựng để chắn và chứa nước, khi
đầy nước sẽ tự động thoát ra mương dẫn nước được xây dựng chạy bao đập thải
chính và đập chứa thải ngâm chiết và đổ ra sông Vàng. Vì nhà máy được xây ở
độ cao 150m nên quặng thải từ quy trình tuyển trọng lực sẽ được chuyển ra đập
thải chính theo quán tính trọng lực. Quặng thải của quy trình ngâm chiết chiếm
25



×