Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN MÔN TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.96 KB, 22 trang )

I.PHẦN NỘI DUNG
I.1 Lý do chọn đề tài :
Đối với bậc tiểu học môn tiếng Việt chiếm một vị trí rất quan trọng trong chương trình
giáo dục phổ thông hiện nay, nó hình thành cho học sinh 4 kĩ năng nghe - nói – đọc - viết.
Thông qua dạy học tiếng Việt rèn cho các em những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và hiểu
biết sơ giản về xã hội, con người, văn hoá của đất nước Việt Năm. Từ vốn kiến thức tiếng
Việt đã học được ở lớp 1, học sinh lên lớp 2 được củng cố và phát triển thêm vốn ngôn ngữ
tiếng Việt làm công cụ để vận dụng trong học tập các môn học khác và giao tiếp với cộng
đồng.
Đặc biệt, phân môn Tập làm văn góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn
luyện tư duy lô-gích, tư duy trừu tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành
nhân cách cho học sinh. Học các tiết Tập làm văn, các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp
của con người, thiên nhiên qua các đoạn văn. HS lại có dịp hướng tới cái chân, cái thiện, cái
mĩ được định hướng trong các đề bài ... Qua đó, làm cho các em có tình cảm yêu mến, gần
gũi, gắn bó với thiên nhiên, con người giúp cho tâm hồn các em thêm phong phú. Đó là
những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp cho trẻ .
Chính vì vậy, các bài Tập làm văn của các em HS lớp 2 là sản phẩm của sự vận dụng tổng
hợp quá trình học tập. Một đoạn văn hay đạt các yêu cầu về nội dung và giàu cảm xúc.
Trải qua nhiều năm công tác từ các thực tiễn bản thân cũng có một vài kinh nghiệm về
dạy môn tiếng Việt nói chung và đặc biệt môn Tập làm văn nói riêng. Với mong muốn góp
một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn. Bản thân tôi xin trình
bày một số kinh nghiệm mà mình đã tích lũy được thông qua đề tài :“Một số kinh nghiệm
giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn”.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài :
* Mục tiêu :
Môn Tiếng việt lớp 2 nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có vai trò hết sức
quan trọng là rèn cho học sinh 4 kĩ năng nghe - nói – đọc - viết. Nhưng đối với học sinh lớp
2 phân môn này rất mới mẽ cho nên khi thực hành viết một đoạn văn ngắn dựa vào câu hỏi
gợi ý đã cho sẳn các em còn gặp rất nhiều khó khăn, không biết nói, viết như thế nào để
liên kết thành một đoạn văn ngắn đạt yêu cầu, sinh động. Vì vậy, làm thế nào để dạy cho
học sinh biểt liên kết các câu để thành đoạn văn ngắn đạt yêu cầu, biết dùng từ ngữ phù hợp


là một yêu cầu quan trọng đối với học sinh lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của
môn tiếng Việt nói siêng và chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung, làm nền móng
vững chắc cho các em học tiếp lên các lớp trên. Vì thế, đã lôi cuốn tôi chọn đề tài nghiên
cứu này.
* Nhiệm vụ:

1


Nghiên cứu một số cơ sở lí luận và thực tiễn, các tài liệu có liên quan đến quá trình dạy
và học, phương pháp, hình thức dạy học phân môn Tập làm văn lớp 2 nhằm nâng cao hiệu
quả dạy học phân môn Tập làm văn lớp 2. Giúp học sinh lĩnh hội được những tri thức và rèn
luyện cho các em các kĩ năng liên kết các câu hỏi gợi ý thành một đoạn văn ngắn đạt kết
quả tốt nhằm nâng cao chất lượng học tập môn tiếng Việt nói siêng và chất lượng dạy và
học của nhà trường nói chung.
I.3.Đối tượng nghiên cứu:
- Nội dung, phương pháp và kỹ năng dạy học phân môn tập làm văn lớp 2.
- Đối tượng học sinh khối lớp 2 Trường Tiểu học Nguyễn Văn Bé, huyện Krông Năng-tỉnh
Đắk Lắk.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Tìm hiểu nội dung phân môn tập làm văn lớp 2
- Nghiên cứu thực trạng chất lượng học tập phân môn Tập làm văn lớp 2D2 trường Tiểu học
Nguyễn Văn Bé.
- Nghiên cứu những biện pháp cụ thể, tối ưu trong giảng dạy phân môn Tập làm văn nhằm
nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn.
- Những kinh nghiệm dạy học của đồng nghiệp và bản thân trong quá trình giảng dạy phân
môn Tập làm văn.
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp khảo sát tài liệu, đồ dùng có kiên quan để phục vụ cho phân môn cho phân
môn Tập làm văn và từng tiết dạy.

- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp điều tra viết.
- Phương pháp vấn đáp gợi mở.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm giáo dục.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.

II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận:
Môn tiếng Việt nói chung và môn Tập làm văn là một phân môn có tầm quan trọng đặc
biệt ở Tiểu học nhất đối với học sinh lớp 2 là lớp giai đoạn đầu của giai đoạn thứ nhất ở bậc
Tiểu học chuẩn bị hành trang tri thức quan trọng để các em học tiếp lên lớp 3, 4, 5 và các
lớp trên. Việc dạy môn tiếng Việt nói chung và môn Tập làm văn nói riêng ở tiểu học đang
hướng tới mục tiêu chung của giáo dục. Mỗi phân môn, mỗi tiết học của môn tiếng Việt đều
hướng đến mục đích phát triển kĩ năng nghe - nói – đọc - viết cho học sinh mà phân môn
Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng của bộ môn tiếng Việt (phân môn
thực hành tổng hợp). Bỡi nó vận dụng tất cả những hiểu biết về nhận thức, kĩ năng của phân

2


môn đòi hỏi học sinh phát huy cao độ trí tuệ và cảm xúc để thực hiện các yêu cầu bài học.
Đặc biệt giúp trẻ sản sinh ra những đoạn văn bản có cảm xúc chân thật khi nói và viết
II.2. Thực trạng:
Ngay từ đầu năm học 2015 - 2016, tôi đã xác định rõ làm thế nào để phân môn Tập làm
văn thực sự là phân môn lôi cuốn các em, các em học tốt phân môn tập làm văn là điều kiện
để giúp các em học tốt các môn học liên quan. Do vậy, ngay từ đầu năm học tôi đã có kế
hoạch dự giờ, thăm lớp, điều tra và trao đổi trực tiếp với số học sinh lớp 2, với giáo viên chủ
nhiệm năm học trước và các giáo viên đã dạy nhiều năm lớp 2 ở trường tôi theo nội dung
chương trình của phân môn Tập làm văn. Bằng vốn hiểu biết và những kiến thức mà các em

đã được học ở lớp 1, và thực trạng học sinh lớp 2D2 tôi đang chủ nhiệm và nhận thấy các
em đã thể hiện rất rõ các kỹ nói, viết thông qua các nội dung và số liệu ở bảng thống kê kết
quả thực trạng sau:
BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG
Tổng số học sinh điều tra : 33 HS

Nội dung điều tra
Kết quả
năng
Đạt Chưa
đạt
Biết nhận sét bài làm cua bạn
13
20
Bổ sung và sửa chửa bài làm của bạn
12
21
Dựa theo tranh có tên: Chiếc bút của cô giáo
18
16
Biết kể ngắn theo câu hỏi

15

18

Biết Biết kể về người thân, về gia đình của em

14


19

16

17

15

18

15
16

18
17

Biết kể ngắn về anh chị em. Kể ngăn về con vật.
Dựa theo câu hỏi viết được đoạn văn nói về cô,
thầy giáo cũ lớp 1 của em.
Biết viết một bức thư ngắn(giống bưu thiếp)
Viết thăm hỏi ông bà.
Biết cách viết kể, người thân và gia đình.
Biết kể ngắn về anh chị em.

Biết cách viết kể ngăn về con vật.
13
20
Qua kết quả khao sát thực trạng, bản thân nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
a. Thuận lợi và khó khăn:
+ Thuận lợi:

- Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, thường xuyên nắm bắt tình hình học
sinh, kịp thời giúp đỡ giáo viên dạy học theo hướng đổi mới nhằm nâng cao chất lượng dạy

3


học nói chung và dạy học phân môn Tập làm văn nói riêng. Học sinh ngoan, có ý thức trong
học tập.
- Giáo viên có năng lực, nhiệt tình, ham học hỏi, nhiều năm giảng dạy nên đã rút được một
số kinh nghiệm dạy học cho bản thân.
+ Khó khăn:
- Là một xã thuần nông, mới được tách ra năm 2003, dân số khoảng 10.000 người, điều
kiện kinh tế của nhân dân trên địa bàn xã còn gặp nhiều khó khăn. Địa bàn xã rộng, trải dài
khắp 16 thôn buôn, đường giao thông đi lại khó khăn, nhất là mùa mưa.
- Giá cả các mặt hàng leo thang, kinh tế bất ổn nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư
học hành cho con em. Từ đó làm cho công tác dạy và học gặp rất nhiều khó khăn.
- Một số giáo viên lớn tuổi nên việc tiếp cận, áp dụng đổi mới còn chậm. Đời sống kinh tế
của giáo viên còn khó khăn, ảnh hưởng tới việc tập trung trong công tác.
- Chất lượng học sinh không đồng đều. Khả năng tiếp thu bài của các em còn nhiều hạn chế
b. Một số thành công và hạn chế :
* Thành công:
+ Đối với giáo viên:
- Nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa. Trong quá trình dạy học biết nghiên cứu
nội dung bài dạy, xác định mục tiêu dựa theo chuẩn kiến thức kĩ năng phù hợp với đối
tượng học sinh.
- Giáo viên lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học
sinh. Truyền đạt đầy đủ nội dung, kiến thức. Thường xuyên nhận xét bài làm của học sinh.
Nhiệt tình, gần gũi với học sinh.
+ Đối với học sinh:
- Trong tiết học các em tập trung chăm chú lắng nghe giáo viên giảng bài, biết tự giác làm

bài. Ở lứa tuổi học sinh lớp hai, các em rất ham tìm tòi học hỏi. Nội dung chương trình môn
Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng rất phong phú; kênh hình Sách
giáo khoa được trình bày đẹp, hình ảnh rõ ràng phù hợp tâm sinh lí lứa tuổi các em.
Tuy phân môn Tập làm văn lớp 2 rất mới mẻ nhưng các em đọc viết tốt ở lớp 1 đã tạo
nền tảng kiến thức, kĩ năng về câu, đoạn. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập
làm văn lớp 2
* Hạn chế:
+Đối với giáo viên
- Đối với từng bài, từng tiết giáo viên vẫn nghiên cứu chưa kỹ nên không hiểu hết ý đồ
của sách giáo khoa.
- Trong tiết dạy giáo viên chưa biết vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy
học cho phù hợp theo từng dạng bài, từng nội dung kiến thức yêu cầu.

4


- Trong quá trình giảng dạy, do khả năng của từng giáo viên hay do đặc điểm tình hình
của lớp và do quá lạm dụng vào các tài liệu tham khảo, sách giáo khoa.
- Điểm hạn chế lớn nhất của giáo viên là chưa sử dụng hợp lý một số hình thức dạy học,
giáo viên hết sức lúng túng khi vận dụng các hình thức tổ chức dạy học trong các hoạt động
của tiết dạy như: hoạt động của thầy và trò chưa theo hướng tích cực;
- Giáo viên làm việc nhiều chủ yếu là làm mẫu, giảng giải; chưa có sự dẫn dắt, gợi ý để HS
tự tìm tòi kiến thức nội dung cần biết. Việc tổ chức các hình thức chưa hợp lý như có bài tập
cần phải sử dụng hoạt động thảo luận nhóm thì giáo viên lại tổ chức làm việc chung cả lớp,
có bài tập đề bài cần tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân thì giáo viên lại tổ chức trò
chơi học tập (tập trung chủ yếu là đối tượng học sinh khá giỏi). Thời gian bố trí cho từng
hoạt động chưa phù hợp, hệ thống câu hỏi, hình thức thực hành bài tập chưa đảm bảo yêu
cầu và chưa phân loại đối tượng học sinh để bồi dưỡng học sinh khá giỏi và giúp đỡ học
sinh yếu kém trong tiết học.
- Trong việc rèn kĩ năng nói - viết cho học sinh, giáo viên có sự đầu tư nghiên cứu mục

tiêu, nội dung các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao
cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa cao nên hiệu quả các tiết
dạy phân môn Tập làm văn còn thấp.
+ Đối với học sinh
- Vốn từ của các em còn hạn chế. Bên cạnh đó, trong tiết dạy các em còn rụt rè, chưa mạnh
dạn luyện nói trước lớp, các em ít có cơ hội thực hành giao tiếp tiếng Việt
- Do kĩ năng nói của các em còn hạn chế, dùng từ chưa hay, chưa chính xác; kỹ năng làm
văn chưa đúng do xác định sai yêu cầu của bài tập và thể loại bài văn, sử dụng dấu câu
không đúng chỗ trong câu hay đoạn văn.
c. Mặt mạnh- mặt yếu:
+ Mặt mạnh:
- Về giáo viên:
Soạn bài đầy đủ trước khi lên lớp, chuẩn bị các câu từ hướng dẫn gợi ý, nhận xét học
sinh, bổ sung câu trả lời của học sinh .Thường xuyên nghiên cứu nội dung, các tài liệu liên
quan nhằm lựa chọn hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng loại bài và đối tượng học
sinh. Thường xuyên sử dụng các đồ dùng dạy học phù hợp với bài dạy, lưu những bài văn
hay của lớp trước. Thường xuyên dự giờ, đúc rút kinh nghiệm dạy học từ đồng nghiệp.
- Về học sinh: ngoan ngoãn, lắng nghe, tập trung trong học tập. Biết làm theo yêu cầu của
giáo viên.
+ Mặt yếu:
- Về giáo viên:
- Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp, các hình thức dạy học phân môn tập
làm văn. Hướng dẫn học sinh làm bài theo một khuôn mẫu

5


- Đối với từng bài, từng tiết dạy tuy giáo viên đã nghiên cứu kĩ bài soạn trước khi đến lớp,
song vẫn không hiểu được ý đồ của sách giáo khoa. Do đó, trong tiết dạy giáo viên chưa
biết vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp theo từng dạng

bài, từng nội dung kiến thức yêu cầu. trong quá trình giảng dạy, do khả năng của từng giáo
viên hoặc do đặc điểm từng đối tượng học sinh của lớp mình đang dạy mà đưa ra một số
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học không phù hợp, vì thế mà ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng tiết dạy nói riêng và chất lượng môn học nói chung.
d. Các nguyên nhân và các yếu tố tác động :
*Về học sinh:
- Trong lớp có 33 em đa số đều là con em nông dân, nhiều em là con gia đình có hoàn cảnh
khó khăn, một số phụ huynh không quan tâm đến việc học tập của con cái.
- Do các em không đọc và nghiên cứu kĩ đề bài, vì thế các em không nắm vững yêu cầu các
bài văn cho nên khi làm bài có một số em còn thường nhầm lẫn giữa đề bài này với đề bài
khác.
. Trong tiết học các em ít được luyện nói đặc biệt là đối tượng học sinh học yếu, nhiều em
còn rụt rè, chưa mạnh dạn trình bày ý kiến của mình trước lớp.
- Kỹ năng viết của các em vẫn có nhiều tồn tại như viết chưa thành câu, dùng từ chưa hay,
chưa chính xác; một số bài làm như thầy (cô) hướng dẫn chưa có sự sáng tạo.
- Vốn sống của các em chưa phong phú do các em ít có điều kiện giao tiếp. Hơn nữa lại ở
một vùng điều kiện xã hội chưa phong phú về môi trường tự nhiên và cảnh vật chưa đa
dạng, các em không được tiếp xúc giao lưu, học hỏi mở rộng thêm kiến thức như những học
sinh ở các trường thuộc thị trấn.
*Về giáo viên:
- Giáo viên sợ học sinh không hiểu hay chưa hiểu nên thường nói đi nói lại nhiều lần một
vấn đề nào đó (mà thực ra HS đã hiểu ), cho nên thời gian dành cho việc hình thành kiến
thức mới chiếm khá nhiều (có khi chiếm ¾ thời gian cả tiết học ) không đủ thời gian cho
HS luyện tập thực hành.
- Tranh ảnh, đồ dùng phục vụ cho môn học chưa đầy đủ .
- Một trong những điểm mới trong CT-SGK chương trình Tiếng Việt nói chung và tiếng
Việt 2 nói riêng là quan điểm tích hợp.
- Giáo viên còn hạn chế về cách diễn đạt, liên kết ý, vì thế mà gặp nhiều khó khăn trong
việc hướng dẫn mẫu cho học sinh.
- Trong giảng dạy Tiếng Việt nói chung và dạy phân môn tập làm văn nói riêng, giáo viên

chưa chú trọng rèn kĩ năng nói, viết cho học sinh.
- Hình thức tổ chức để rèn luyện kĩ năng làm bài cho học sinh chưa phong phú .
- Phần nhận xét bài viết của học sinh còn chung chung.

6


- Giáo viên chưa nắm vững nội dung của các tài liệu vùng miền, chuẩn kiến thức kĩ năng,
tài liệu điều chỉnh nội dung của chương trình tiếng Việt 2, đặc điểm đối tượng của lớp mình
đang dạy.
* Đối với phụ huynh học sinh:
-Đa số bố mẹ của các em làm nghề nông nên ít có thời gian để quan tâm đến việc học tập
của con cái, dẫn đến việc chuẩn bị bài và làm bài tập ở nhà của các em không chu đáo, ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình làm bài của các em ở lớp.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:
e.1. Thuận lợi và khó khăn:
+ Thuận lợi:
Tuy mới được thành lập nhưng dân số chủ yếu là người kinh thuộc các tỉnh phía Bắc di cư
tới lập nghiệp, nên việc học hành của con em được phụ huynh quan tâm số một và được sự
quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, thường xuyên nắm bắt tình hình học sinh, kịp thời
giúp đỡ giáo viên dạy học theo hướng đổi mới nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung
và dạy học phân môn Tập làm văn nói riêng. Vì cơ sở vật chất trường học giúp cho giáo
viên có thêm các điều kiện phương tiện triển khai phương pháp của mình.
Đội ngũ nhà giáo trẻ khỏe nhiệt tình, năng động sáng tạo, là điều kiện quan trọng để áp
dụng triển khai những cái mới được hiệu quả.
+ Khó khăn:
Ngoài những phụ huynh quan tâm tới việc học tập của con cái, bên cạnh đó còn không ít
quý bậc phụ huynh mải làm giàu mà khoán việc học hành cho nhà trường, cho giáo viên,
nên ít nhiều cũng ảnh hưởng tới việc phối kết hợp giáo dục, một số gia đình có hoàn cảnh
kó khăn, chất lượng không đồng đều, khả năng tiếp thu bài vủa các em còn hạn chế.

Việc một số giáo viên tuổi đã lớn nên tiếp thu, đón nhận việc đổi mới còn chậm, ảnh
hưởng tới hiệu quả tiết dạy.
e.2. Một số thành công và hạn chế :
* Thành công:
+ Đối với giáo viên:
Trong quá trình dạy học biết nghiên cứu nội dung bài dạy, xác định mục tiêu dựa theo
chuẩn kiến thức kĩ năng phù hợp với đối tượng học sinh. Biết lựa chọn phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Truyền đạt đầy đủ nội dung, kiến
thức. Thường xuyên chữa bài và nhận xét bài làm của học sinh. Nhiệt tình, gần gũi với học
sinh.
+ Đối với học sinh: Trong tiết học các em tập trung chăm chú lắng nghe giáo viên giảng
bài, biết tự giác làm bài .Ở lứa tuổi học sinh lớp hai, các em rất ham tìm tòi học hỏi. Nội
dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng rất phong

7


phú; kênh hình Sách giáo khoa được trình bày đẹp, hình ảnh rõ ràng phù hợp tâm sinh lí lứa
tuổi các em nhằm giúp học sinh hứng thú trong học tập.
Tuy phân môn Tập làm văn lớp 2 rất mới mẻ nhưng các em đọc viết tốt ở lớp 1 đã tạo
nền tảng kiến thức, kĩ năng về câu, đoạn. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập
làm văn lớp 2
* Hạn chế:
+Đối với giáo viên
Đối với từng bài, từng tiết giáo viên vẫn nghiên cứu chưa kỹ nên không hiểu hết ý đồ của
sách giáo khoa, do đó trong tiết dạy giáo viên chưa biết vận dụng linh hoạt các phương pháp
và hình thức dạy học cho phù hợp theo từng dạng bài, từng nội dung kiến thức yêu cầu.
Trong quá trình giảng dạy, do khả năng của từng giáo viên hay do đặc điểm tình hình của
lớp và do quá lạm dụng vào các tài liệu tham khảo, sách giáo viên nên khi giáo viên vận
dụng vào tiết dạy đã có những điểm bất cập trong quá trình diễn ra tiết dạy như đưa ra các

hoạt động dạy học chưa phù hợp, chưa cụ thể ảnh hưởng đến chất lượng tiết dạy.
Điểm hạn chế lớn nhất của giáo viên là chưa sử dụng hợp lý một số hình thức dạy học để
thể hiện rõ tiến trình của một tiết dạy phân môn Tập làm văn; các hình thức này soạn chưa
cụ thể (thể hiện trong bài soạn), giáo viên hết sức lúng túng khi vận dụng các hình thức tổ
chức dạy học trong các hoạt động của tiết dạy như: hoạt động của thầy và trò chưa theo
hướng tích cực; giáo viên làm việc nhiều chủ yếu là làm mẫu, giảng giải; chưa có sự dẫn
dắt, gợi ý để HS tự tìm tòi kiến thức nội dung cần biết. Việc tổ chức các hình thức chưa hợp
lý như có bài tập cần phải sử dụng hoạt động thảo luận nhóm thì giáo viên lại tổ chức làm
việc chung cả lớp, có bài tập đề bài cần tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân thì giáo
viên lại tổ chức trò chơi học tập (tập trung chủ yếu là đối tượng học sinh khá giỏi). Thời
gian bố trí cho từng hoạt động chưa phù hợp, hệ thống câu hỏi, hình thức thực hành bài tập
chưa đảm bảo yêu cầu và chưa phân loại đối tượng học sinh để bồi dưỡng học sinh khá giỏi
và giúp đỡ học sinh yếu kém trong tiết học.
Trong việc rèn kĩ năng nói-viết cho học sinh, giáo viên có sự đầu tư nghiên cứu mục tiêu,
nội dung các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho
phù hợp với từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa cao nên hiệu quả các tiết dạy
phân môn Tập làm văn còn thấp.
+ Đối với học sinh
Vốn từ của các em còn hạn chế. Bên cạnh đó, trong tiết dạy các em còn rụt rè, chưa mạnh
dạn luyện nói trước lớp, các em ít có cơ hội thực hành giao tiếp tiếng Việt.
Do kĩ năng nói của các em còn hạn chế, vì thế dẫn đến kỹ năng viết của các em gặp nhiều
khó khăn như viết chưa thành câu, dùng từ chưa hay, chưa chính xác; kỹ năng làm văn chưa
đúng do xác định sai yêu cầu của bài tập, sử dụng dấu câu không đúng chỗ trong câu hay
đoạn văn.

8


e.3. Mặt mạnh - mặt yếu:
+ Mặt mạnh:

- Về giáo viên:
Để tránh được lúng túng khi dạy các tiết tập làm văn, tôi luôn nghiên cứu, soạn bài đầy
đủ trước khi lên lớp, chuẩn bị các câu từ hướng dẫn gợi ý, nhận xét học sinh, bổ sung câu
trả lời của học sinh. Thường xuyên nghiên cứu nội dung, các tài liệu liên quan nhằm lựa
chọn hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng loại bài và đối tượng học sinh. Dự đoán
được những tình huống xảy ra khi dạy phân môn này và tìm cách giải quyết một cách linh
hoạt và hợp lí. Thường xuyên sử dụng các đồ dùng dạy học phù hợp với bài dạy, lưu những
đoạn văn hay của lớp trước. Thường xuyên dự giờ, đúc rút kinh nghiệm dạy học từ đồng
nghiệp.
GV có tác phong chững chạc, nhẹ nhàng, gần gũi với học sinh, luôn quan tâm đến mọi đối
tượng học sinh
- Về học sinh: ngoan ngoãn, lắng nghe, tập trung trong học tập. Biết làm theo yêu cầu của
giáo viên.
+ Mặt yếu:
- Về giáo viên:
Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp, các hình thức dạy học phân môn tập
làm văn. Hướng dẫn học sinh làm bài theo một khuôn mẫu, vì thế dẫn đến học sinh làm bài
thường giống nhau về ý tưởng và nội dung.
Đối với từng bài, từng tiết dạy tuy giáo viên đã nghiên cứu kĩ bài soạn trước khi đến lớp,
song vẫn không hiểu được ý đồ của sách giáo khoa. Do đó, trong tiết dạy giáo viên chưa
biết vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp theo từng dạng
bài, từng nội dung kiến thức yêu cầu. trong quá trình giảng dạy, do khả năng của từng giáo
viên hoặc do đặc điểm từng đối tượng học sinh của lớp mình đang dạy mà đưa ra một số
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học không phù hợp, vì thế mà ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng tiết dạy nói riêng và chất lượng môn học nói chung.
Điểm yếu lớn nhất của giáo viên là chưa biết phối hợp các phương pháp truyền thống và
phương pháp mới trong quá trình dạy học.
e.4. Các nguyên nhân và các yếu tố tác động:
*Về học sinh :
Đa số đều là con em nông dân, nhiều em là con gia đình có hoàn cảnh khó khăn, một số

phụ huynh không quan tâm đến việc học tập của con cái.
Do các em không đọc kĩ đề bài, vì thế các em không nắm vững yêu cầu các thể loại văn,
cho nên khi làm bài có một số em còn thường nhầm lẫn giữa thể loại văn này với thể loại
văn khác, giữa đề bài này với đề bài khác. Nội dung bài làm không đúng với yêu cầu của đề
bài.

9


Trong tiết học các em ít được luyện nói đặc biệt là đối tượng học sinh học yếu, nhiều em
còn rụt rè, chưa mạnh dạn trình bày ý kiến của mình trước lớp. Vì thế, các em ít có cơ hội
thực hành giao tiếp tiếng Việt, mở rộng thêm vốn từ tiếng Việt cho bản thân.
Kỹ năng viết của các em vẫn có nhiều tồn tại như viết chưa thành câu, dùng từ chưa hay,
chưa chính xác; kỹ năng làm văn chưa đúng do xác định sai yêu cầu của bài tập và thể loại
bài văn hoặc do khả năng vận dụng kiến thức đã học vào làm bài còn hạn chế, sử dụng dấu
câu không đúng chỗ trong câu hay đoạn văn, một số em làm bài theo khuôn mẫu mà giáo
viên đã hướng dẫn, không có sự sáng tạo.
Vốn sống của các em chưa phong phú do các em ít có điều kiện giao tiếp. Hơn nữa lại ở
một vùng điều kiện xã hội chưa phong phú về môi trường tự nhiên và cảnh vật chưa đa
dạng, các em không được tiếp xúc giao lưu, học hỏi mở rộng thêm kiến thức như những học
sinh ở các trường thuộc thị trấn. Bởi vậy, ngôn ngữ nói và viết của các em còn hạn chế cho
nên các em không mạnh dạn tự tin vào bản thân mình khi đứng trước lớp trình bày một vấn
đề .
*Về giáo viên:
GV sợ học sinh không hiểu hay chưa hiểu nên thường nói đi nói lại nhiều lần một vấn đề
nào đó (mà thực ra HS đã hiểu ), cho nên thời gian dành cho việc hình thành kiến thức mới
chiếm khá nhiều không đủ thời gian cho HS luyện tập thực hành.
Tranh ảnh, đồ dùng phục vụ cho môn học Tập làm văn chưa đầy đủ.
Một trong những điểm mới trong CT-SGK chương trình Tiếng Việt nói chung và tiếng
Việt 2 nói riêng là quan điểm tích hợp.

Giáo viên còn hạn chế về cách diễn đạt, liên kết câu, vì thế mà gặp nhiều khó khăn trong
việc hướng dẫn mẫu cho học sinh.
Trong giảng dạy Tiếng Việt nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng, giáo viên
chưa chú trọng rèn kĩ năng nói, viết cho học sinh.
Hình thức tổ chức để rèn luyện kĩ năng làm bài cho học sinh chưa phong phú .
Phần nhận xét bài viết của học sinh còn chung chung .
Giáo viên chưa nắm vững tài liệu vùng miền, chuẩn kiến thức kĩ năng, tài liệu điều chỉnh
nội dung của chương trình tiếng Việt 2, đặc điểm đối tượng của lớp mình đang dạy. Chính
vì thế, việc lập kế hoạch cho bài dạy, vận dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
chưa phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình và đối với từng dạng bài tập.
* Đối với phụ huynh học sinh:
Đa số bố mẹ của các em làm nghề nông nên ít có thời gian để quan tâm đến việc học tập
của con cái, dẫn đến việc chuẩn bị bài và làm bài tập ở nhà của các em không chu đáo, ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình làm bài của các em ở lớp .
II.3. Các giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.

10


- Ngay từ đầu năm, bản thân tôi xác định rõ làm thế nào để nâng cao chất lượng môn tiếng
Việt nói chung và chất lượng môn Tập làm văn nói riêng.
- Lựa chọn những giải pháp tối ưu giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn viết
đoạn văn ngắn.
- Từ những thực trạng nêu trên, bằng những kinh nghiệm vốn có của bản thân và tham
khảo ý kiến kinh nghiệm của của đồng nghiệp, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số biện
pháp, giải pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn như sau:
b. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp:
+ Đối với giáo viên:
- Đê tránh sự lúng túng trong diễn đạt, tôi luôn nghiên cứu nội dung bài giảng, chuẩn bị câu

từ cần sử dụng khi lên lớp.
- Để tránh giáo viên làm việc nhiều, nói nhiều trong khi dạy tôi chuẩn bị chu đáo bài dạy
trước khi lên lớp: Nghiên cứu bài dạy, xác định đúng mục tiêu bài dạy, lựa chọn các hình
thức tổ chức phù hợp với phân môn, bài dạy và đối tượng học sinh lớp mình, dự đoán các
tình huống có thể xảy ra trong tiết học để chủ động xử lí được tình huống một cách nhanh
nhạy, khéo léo và có hiệu quả.
- Luôn coi trọng ý kiến phát biểu của học sinh. Vận dụng hợp lí các hình thức khen ngợi,
nêu gương kịp thời nhằm khuyến khích HS mạnh dạn, chủ động, sáng tạo trong học tập.
- Thường xuyên nhật xét chữa bài hàng ngày, nêu lên những ưu, khuyết điểm và hướng dẫn
học sinh sửa chữa kịp thời những thiếu sót, những chỗ sai trong bài làm của mình.
Điều đặc biệt chú trọng đối với tôi đó là nắm vững nội dung chương trình phân môn Tập
làm văn lớp 2 để biết được các phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học phù hợp với
đối tượng học sinh lớp mình heo hướng tích hợp, đồng tâm. Vận dụng tích hợp kiến thức
giữa các phân môn Tiếng Việt để từ đó trang bị vốn kiến thức cơ bản cần thiết cho mỗi tiết
dạy. Khi dạy phân môn Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu có nội dung phù hợp
với tiết Tập làm văn sắp học, tôi dặn dò hướng dẫn học sinh quan sát tìm hiểu kĩ đối tượng
cần nối đến và ghi chép cụ thể các hoạt động ấy vào vở hoặc sổ tay; với những sự việc hoặc
hoạt động các em không được chứng kiến hoặc tham gia. Khuyến khích các em quan sát
qua tranh ảnh, sách báo, kênh truyền hình…hoặc hỏi những người thân hay trao đổi với bạn
bè. Khi được trang bị những kiến thức như thế, học sinh sẽ có ý tưởng độc lập, từ đó các em
có thể trình bày được đoạn văn hay, chân thực, sinh động, sáng tạo.
- Thực hiện tốt việc áp dụng giảng dạy theo vùng miền và chuẩn kiến thức kĩ năng, điều
chỉnh nội dung chương trình theo sự hướng dẫn của BGD-ĐT và sự chỉ đạo của chuyên
môn nhà trường.
- Nội dung dạy học Tập làm văn lớp 2, tiếp tục rèn luyện cho học sinh 4 kĩ năng nghe - nói
– đọc – viết nhằm phục vụ cho việc học tập và giao tiếp. Nhưng đối với lớp 2D2 của tôi nhủ
nhiệm, về cơ bản cả 4 kĩ năng trên đều cần coi trọng như nhau. Tuy nhiên, mức độ và yêu

11



cầu cụ thể có thể điều chỉnh để phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh. Về phương
pháp dạy học, chú ý hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu đề bài bằng các câu hỏi gợi ý đã
có sẳn và lời giải thích; đặc biệt chú ý hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập bằng những
gợi ý cụ thể; chú trọng phương pháp làm mẫu để học sinh dễ dàng thực hiện, có thể điều
chỉnh tiến trình tiết dạy, tập trung thời gian nhiều hơn cho một số bài tập như trả lời câu hỏi
theo gợi ý, viết đoạn văn theo yêu cầu của đề bài.
- Chú trọng rèn cho học sinh dùng từ chính xác, biết liên kết các câu tự nhiên, ngắn gọn.
- Vì vốn từ ngữ các em còn hạn chế, để giúp hoc sin biết cácg dùng từ một cách chính xác,
phù hợp, khi dạy tôi luôn xác định rõ mục tiêu bài dạy và cung cấp cho các em vốn từ ngữ
phù hợp với yêu cầu của đề bài.
Khi dạy dạng bài Kể về cô giáo cũ lớp 1 của em dựa vào câu hỏi gợi ý, tôi cung cấp và
giúp học sinh hiểu nghĩa của những từ ngữ có liên quan tên tuổi, tình cảm của cô đối với
học sinh, kỉ niệm em nhớ nhất khi còn học với cô và tình cảm của em đối với cô.VD : Cô
giáo đó tên là gì? (Hương, Thu, Phượng, Hồng…) Tình cảm của cô đối với em như thế
nào? ( thương yêu, giúp đỡ, ân cần chăm sóc, tận tình chỉ bảo…Tình cảm của em dành cho
cô lớp 1 đó ra sao? ( yêu quý, quý trọng, quý mến …)
Ngoài ra, để hạn chế việc học sinh dùng từ chưa chính xác, sử dụng từ ngữ chưa phù hợp
khi trả lời câu hỏi, chưa hay, chưa thông dụng … Ví dụ: ‘Cô giáo em rát chuyên cần trong
giảng dạy”, “Cô em thường mang đồ xanh”…khi phất hiện sai sót về cách dùng từ, tôi giúp
các em sửa chữa bằng cách lựa chọn từ ngữ thay thế cho phù hợp.
Bên cạnh việc giúp học sinh sử dụng từ ngữ chính xác, tôi luôn chú trọng nhiều đến việc
hướng dẫn học sinh viết câu như thế nào cho hay, đầy đủ ý. Khi các em nói, viết chưa thành
câu, chưa đầy đủ ý, tôi hướng dẫn các em sửa chữa bổ sung ý vào cho đúng bằng cách gợi ý
cho những em khác nhận xét và bổ sung. Đối với những câu dài dòng nhưng diễn đạt ý
không rõ ràng, mạch lạc, cho học sinh sửa sai lược bỏ những ý, từ ngữ trùng lặp. Luôn luôn
động viên, khuyến khích học sinh tự sửa câu văn chưa đúng, chưa đủ ý của mình bằng
những câu văn khi được bạn nhận xét và bổ sung.
Trong các tiết dạy, khi hướng dẫn học sinh làm bài, tôi thường định hướng cho học sinh
dựa vào hệ thống câu hỏi đã có sẵn để liên kết các câu phù hợp với yêu cầu của đề bài và

phù hợp với đối tượng học sinh mình đang dạy. Đối với các câu gợi ý có một số câu dài
hoặc ngắn gọn mà học sinh còn lúng túng không diễn đạt được thành ý trọn vẹn, đoạn văn
rập khuôn theo khuôn mẫu, thiếu sáng tạo. Tôi chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ và thêm vào
một số câu gợi ý mà trong sách không có, để giúp các em có những ý tưởng phong phú hơn,
sáng tạo hơn. Ngoài ra, việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ còn giúp nhiều học sinh được
rèn kĩ năng nói, giúp các em thêm mạnh dạn, tự tin và giáo viên dễ dàng sửa chữa sai sót
cho học sinh. Ví dụ:

12


Kể về người thân, tôi luôn nhắc học sinh đọc kĩ đề bài, những câu hỏi chỉ là gợi ý, đề bài
yêu cầu là kể chứ không phải trả lời câu hỏi, sau đó xác định đối tượng để kể, tôi có thể gợi
ý thêm những nét đặc trưng về tuổi tác công việc của người đó?...
Như vậy, qua hệ thống câu hỏi, giúp học sinh bày toả được thái độ tình cảm, ý kiến nhận
xét đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Bên cạnh đó tôithường lấy ý kiến
nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để giúp các em rút ra được có câu trả lời đúng
và hay. Từ đó, giúp học sinh mở rộng vốn từ, rèn kĩ năng diễn đạt đúng ngữ pháp, mạch lạc,
lôgíc, câu văn có hình ảnh, có cảm xúc. Trên cơ sở đó, nếu phần luyện nói của các em trôi
chảy, sinh động, giàu cảm xúc sẽ giúp các em viết thành đoạn văn đúng yêu cầu, hay và
sinh động hơn.
Để viết được đoạn văn đạt yêu cầu, bên cạnh việc hướng dẫn học sinh cách dùng từ, đặt
câu đó chính là hướng dẫn tìm ý, đây là một bước vô cùng quan trọng đối với học sinh khi
viết đoạn văn kể chuyện, …
Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên đa số nội dung bài văn của học sinh lớp 2 chưa phong
phú, sáng tạo vì vốn từ các em còn nghèo, chưa hiểu hết nghĩa các từ mình sử dụng. Vì thế,
các em thường trình bày hạn hẹp trong khuôn khổ nhất định, diễn đạt chưa trọn ven ý. Để
nói - viết hoàn chỉnh về một nội dung với những ý tuởng trong sáng giàu hình ảnh và ngây
thơ, chân thật. Để thực hiện được điều đó, tôi hướng dẫn học sinh liên tưởng về đặc điểm,
hoạt động của người, các sự vật…Từ đó giúp các em dễ dàng tìm ý và diễn đạt câu, đoạn,

bài văn rõ ràng, mạch lạc, đúng yêu cầu.
Với một tiết dạy Tập làm văn học sinh có thể quên một số hình ảnh, sự việc… mà các em đã
quan sát hoặc được nghe kể hay được tìm hiểu qua thực tế, tôi thường gợi cho các em nhớ
lại bằng những câu hỏi gợi ý liên quan đến yêu cầu bài tập, phù hợp thực tế và trình độ từng
học sinh lớp mình để các em dễ dàng tìm ý diễn đạt chính xác hơn.
Để giúp học sinh viết được một đoạn văn đạt yêu cầu, khi các em trình bày miệng bài làm
của mình, tôi thường tập trung chú ý lắng nghe, ghi nhận những ý tưởng hay, ý có sáng tạo
của học sinh để khen ngợi, đồng thời phát hiện những sai sót để giúp học sinh sửa chữa kịp
thời. Đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể , rõ ràng để học sinh làm cơ sở lắng nghe, nhận xét
khi bạn trình bày bài làm của mình; phát hiện những từ, ý, câu hay của bạn để học hỏi và
những hạn chế của bạn để góp ý, sửa sai, rút kinh nghiệm cho bài làm sau được tốt hơn.
Do trình độ tiếp thu bài các đối tượng học sinh trong lớp không đồng đều nên các em chưa
hiểu nghĩa của từ, câu liên kết trong đoạn văn viết. Vì vậy, tôi thường hướng dẫn các em
bằng những gợi ý đơn giản, dễ hiểu, có thể cho học sinh khá giỏi làm mẫu để giúp các em
trình bày tốt hơn đoạn văn viết của mình.
Trong việc hướng dẫn học sinh sửa chữa bài viết, tôi thường đưa ra các tiêu chí đánh giá
cụ thể, giúp học sinh phát hiện những đoạn văn hay, ý tưởng phong phú sáng tạo, đồng thời

13


phát hiện ra được những hạn chế, lỗi mà các em còn mắc phải trong bài viết. Từ đó, giúp
các em tự suy nghĩ để sửa chữa, rút kinh nghiệm trong bài viết sau.
+ Đối với học sinh:
- Ngay từ đầu nắm học, tôi quan tâm động viên đến tập thể lớp, đặc biệt đối với những em
học yếu phân môn Tập làm văn. Tìm hiếu nguyên nhân mà học sinh còn hạn chế về kiến
thức, kĩ năng, có biện pháp uốn nắn, giúp đưc kịp thời. Đối với những học sinh này, kiên trì
giúp đỡ, không nóng vội mà mong đạt kết quả trong một thời gian ngắn.
- Đối với một số học sinh tiếp thu bài còn yếu do bị hỏng kiến thức cơ bản, tôi thường
kiểm tra kiến thức mà các em còn hạn chế là do nguyên nhân nàolà cơ bảnđể có biện pháp

phù đạo hợp đối với từng đối tượng. Tôi không yêu cầu các em phải làm kịp bài với các
bạn hoặc phải làm hết các bài mà cô giao. Kiên trì, động viên giúp đỡ các tiết học để "lấp lỗ
hổng" kiến thức cho các em. Dạy phù đạo cho các em vào một số buổi không học cả ngày.
- Thường xuyên nhắc nhỡ, động viên học sinh thực tốt học bài và chuẩn bị bài trước khi
lên lớp.
- Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của từng học sinh qua giáo viên chủ nhiệm lớp trước, trực
tiếp trao đổi với phụ huynh.
- Luôn khuyến khích học sinh tập diễn đạt ý nghĩ của mình, dùng hình thức khen là chính,
thường xuyên gọi những em hay rụt rè, nhút nhát, động viên kịp thời khi các em có tiến bộ.
- Trong các bài tập luyện nói, tôi thường hướng dẫn học sinhcách dùng từ diễn đạtý và và
dành nhiều thời gian hơn cho việc trình bày đoạn văn và nêu nhận xét lẫn nhau, hướng dẫn
học sinh sửa bài một cách rõ ràng, tỉ mỉ.
- Trong những lúc nhận xét bài của các em, tôi luôn trân trọng sản phẩm của các em, nhất
là đối với học sinh chưa hoàn thành tôi cũng tìm ra được ưu điểm nhỏ để khen, khích lệ tinh
thần học tập của các em, từ đó khuyến khích các em biết nâng niu, chân trọng bài viết của
mình mà cố gắng phấn đấu vươn lên.
Muốn cho đoạn văn đạt kết quả tốt, tôi muôn nhắc nhở học sinh một số yêu cầu trước
khi làm như sau:
- Đọc kĩ đề bài.
- Xác định rõ yêu cầu đề bài.
- Mạnh dạn kể ra ý nghĩ, tình cảm của mình tránh sao chép rập khuôn, cứng nhắc.
- Phải tìm tòi, sử dụn từ ngữ, hình ảnh chi tiết và tìm cách nói chính xác, sinh động hấp.
- Chú nghe bạn trình bày để nhận xé, rút kinh nghiệm cho bản thân.
+ Đối với phụ huynh học sinh:
- Ngay từ đầu năm, tôi tìm hiểu ngay chất lượng học tập của các em học sinh trong lớp.
Ghi chép kết quả này vào một cuỗn sổ nhỏ. Trong buổi họp phụ huynh đầu năm, ngoài việc
tuyên truyền để phụ huynh nhận thức rõ về mức độ kiến thức và cũng khéo léo thông báo
chất lượng học tập đầu năm của học sinh.

14



Qua những câu chuyện chân thành khi tiếp xúc với phụ huynh, trong cuộc họp tranh thủ
lấy dự ủng hộ của phụ huynh từ đó yêu cầu phụ huynh quan tâm đến việc học tập ở nhà của
con em mình hơn.
- Phối hợp với phụ huynh (đặc biệt là phụ huynh của những em yếu), chủ động bố trí thời
gian đến thăm phụ huynh học sinh hoặc trao đổi với phụ huynh thông qua phiếu liên lạc của
học sinh, tạo mối quan hệ thân mật giữa giáo viên và phụ huynh, đồng thời tuyên truyền để
phụ huynh thực hiện tốt cuộc vận động "Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành
tích trong giáo dục" để phụ huynh phối kết hợp với nhà trường và giáo viên, quan tâm hơn
đến con em mình nhằm nâng cao chất lượng học tập.
Song song với việc thực hiện một số biện pháp trên đối với giáo viên, học sinh và phụ
huynh đó là sự hỗ trợ của các lực lượng giáo dục trong nhà trường (Ban giám hiệu nhà
trường, Đoàn, Đội ,...)
+ Với ban giám hiệu nhà trường :
-Bản thân tôi tranh thủ sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ và đồng tình ủng hộ quan điểm và
hướng thực hiện các biện pháp khắc phục hạn chế đã nêu trên nhằm nâng cao chất lượng
dạy học phân môn Tập làm văn.
-Đề xuất với lãnh đạo nhà trường tạo mọi điều kiện ưu tiên cho việc dạy và học về cơ sở
vật chất đối với học sinh dân tộc. Hỗ trợ cho giáo viên làm đồ dùng dạy học có hiệu quả và
có giá trị sử dụng lâu dài.
-Đề xuất với chuyên môn nhà trường tăng cường dự giờ, tổ chức các buổi hội thảo, chuyên
đề, bồi dưỡng cho giáo viên về phương pháp soạn giảng, tổ chức các hoạt động trên lớp,
kiểm tra chấm chữa bài, kiểm tra định kì chất lượng học sinh,...
+Đối với Đoàn, Đội:
Phối hợp với tổng phụ trách đội để tuyên truyền, giáo dục và động viên học sinh tích cực
tham gia hoạt động phong trào dành cho lứa tuổi Tiểu học như: thi "Sân chơi trí tuệ ", thi kể
chuyện, thi tìm hiểu, sưu tầm các câu nói hay, các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ nhằm giúp
các em có cơ hội được giao lưu với các bạn, tạo sự mạnh dạn, tự tin và giúp các em mở rộng
được vốn từ ngữ tiếng Việt của mình. ...

c. Điều kiện thực hiện các biện pháp, giải pháp:
+ Đối với giáo viên
- Người giáo viên là người gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm cao, lương tâm nghề
nghiệp, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độchuyên môn nghiệp vụ.
- Chủ động làm, sưu tầm và sử dụng đồ dùng có sẳn và tự làm có hiệu quả, không chong
chờ vào sự đầu tư, hổ trợ của nhà trường.
- Nghiên cứu kĩ các công văn liên quan đến chuyên môn như : công văn 896, công văn
9832, tài liệu vùng miền, chuẩn kiến thức kĩ năng, tài liệu hướng dẫn điều chỉnh nội dung
chương trình và một số tài liệu liên quan khác liên quan.

15


- Để giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn viết đoạn văn, giáo viên cần xem
xét hệ thống bài tập, cấu trúc tri thức tiếng Việt cần hình thành cho học sinh. Nguyên tắc
phát triển tri thức và vốn từ tiếng Việt là cơ sở định hướng chọn lọc những phương pháp,
phương tiện dạy học thích hợp, một cách có hệ thống và phù hợp với từng tiết dạy. Muốn
thực hiện có kết quả tốt nhất những yêu cầu đã đặt ra ở trên, giáo viên dạy lớp 2 cần nắm
chắc các vấn đề như sau:
- Học sinh là trung tâm của quá trình học tập. Do đó, trong quá trình dạy học Tập làm văn,
học sinh phải thực sự làm chủ quá trình hình thành kỹ năng nói và viết văn bản. Người thầy
chỉ đóng vai trò tổ chức, dẫn dắt để học sinh làm việc. Giáo viên cần tôn trọng ý kiến độc
lập suy nghĩ, sự sáng tạo của học sinh khi luyện nói và luyện viết.
- Mỗi tiết Tập làm văn đều tập trung giúp học sinh thực hành kỹ năng nói, viết văn bản. Do
đó giáo viên cần giảm việc giảng giải dài dòng mà chỉ có một số định hướng gợi ý chung để
HS nắm lại các kỹ năng cần thiết trong quá trình viết, tạo điều kiện tăng thời lượng cho việc
luyện tập kỹ năng nói và viết. Những vấn đề cốt lõi như phần ghi nhớ thì giáo viên dùng hệ
thống câu hỏi dẫn dắt để học sinh tự tìm tòi kiến thức cho bản thân, làm nền tảng soi sáng
cho học sinh trong luyện tập thực hành làm văn.
- Ở chương trình học Tập làm văn lớp 2, HS học chủ yếu viết đoạn văn các thể loại văn Kể

chuyện. Các loại văn này đòi hỏi bài viết phải giàu cảm xúc, tạo nên cái hồn, chất văn của
đoạn văn. Muốn vậy phải luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn
nhiên, một tấm lòng dễ xúc động và hướng tới cái thiện. Mặt khác các bài làm của HS phải
chân thực, có cảm xúc khi phát biểu cảm tưởng. Giáo viên cần uốn nắn những học sinh làm
bài với thái độ không trung thực, khuôn mẫu hoặc bệnh công thức, sáo rỗng; nghiêm cấm
học sinh chép đoạn văn mẫu hay vay mượn lời văn của người khác. (Cho học sinh thấy
được, văn mẫu chỉ định hướng cho các em có quyền được đọc, được tham khảo để chắt lọc
và vận dụng ý, từ để viết).
Ngoài những việc trên cần rèn cho học sinh có thói quen và hứng thú đọc truyện trong giờ
ra chơi, giờ nghỉ; GV lựa chọn những tập truyện mang tính giáo dục và chất văn nhiều cho
các em đọc. Có thể sau một lần đọc cuối tuần cho các em tập luyện tóm tắt truyện hoặc kể
lại một đoạn trong truyện cho các bạn cùng nghe…
+ Đối với học sinh
- Khi nêu ý kiến nhận xét của mình và viết một đoạn văn, học sinh cần phải có sự sáng tạo
trong cách dùng từ, đặt câu, liên kết câu để thành một bài văn miệng hay một bài văn viết.
Các em phải biết nắm vững kiến thức đã học để vận dụng vào việc thực hành luyện nói và
luyện viết văn, tránh rập khuôn, bắt chước những gì đã có sẵn; cần chú ý xác định đúng yêu
cầu của bài tập hay đề bài văn đã yêu cầu, khi học sinh xác định sai yêu cầu hay lạc đề thì
các em trình bày nhận xét hoặc viết bài sẽ không đúng mục đích yêu cầu đề ra. Do đó đòi
hỏi giáo viên luôn luôn chú trọng đến bước hướng dẫn này trong tất cả các tiết dạy.

16


- Khi viết một đoạn văn, học sinh phải nắm chắc những yêu cầu cần thiết sau: xác định đúng
nội dung và yêu cầu trọng tâm của đề bài, biết trả lời thành câu các câu hỏi gợi ý, biết liên
kết các câu thành một đoạn văn, …
- Đối với đối tượng học sinh khá giỏi, học sinh có năng khiếu học văn, các em có khả năng
cảm thụ văn học và biết vận dụng khả năng này và kiến thức văn học vào làm một bài văn
rất tốt. Tuy nhiên, khả năng cảm thụ văn học của các em chỉ mang tính “tự phát”. Vì vậy, để

cho các em có khả năng cảm thụ văn chương, bản thân các em cần có những rung động rất
riêng của mỗi em. Hơn tất cả các môn học khác, học văn học sinh phải có cách nghĩ, cách
cảm nhận riêng, mỗi học sinh phải thực sự là một chủ thể của quá trình cảm thụ, sáng tạo.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp :
Các giải pháp, biện phápđều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ chợ, thúc đẩy lẫn nhau.
Các giải pháp giúp giáo ciên định hướng được những điều cần làm để mang lại hiệu quả
cạo. Còn biện pháp giúp học sinh giúp học sinh có kỹ năng làm văn tốt.
Để giúp các em học tốt phân môn tập làm văn lớp 2, nói, viết được đoạn văn đúng yêu cầu,
trước hết cần phải hướng dẫn học sinh nắm vững các yêu cầu của đề bài, giúp các em biết
cách làm dạng bài đó, biết cách dùng từ, đặt câu thông qua các hệ thống câu hỏi gợi ý và
biết liên kết các câu thành đoạn văn. Trong quá trình dạy học cần chú ý giúp đỡ học sinh
gặp khó khăn khi dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn…Cần tìm hiểu cụ thể, chính xác nguyên
nhân dẫn đến học yếu đối với từng em. Phân loại học sinh yếu do những nguyên nhân chủ
yếu và có kế hoạch giúp đỡ thích hợp đối với từng đối tượng học sinh. Tìm ra cách giải
quyết khó khăn mà học sinh thường mắc phải. Giúp học sinh tìm hiểu kĩ đề, xác định yêu
cầu của đề đề bài. Khuyến khích động viên kịp thời đối với những em có tiến bộ.
e. Kết qủa khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Qua thực tiễn giảng dạy ở trên lớp, nghiên cứu nội dung trương trình và các tài liệu có liên
quan, qua việc trao đổi, học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp, tôi đã rút được một số kinh
nghiệm nêu trên, đã và đang áp dụng đối với lớp mình. Tôi nhận thấy học sinh có tiến bộ
hơn trước. Qua việc vận dụng các biện pháp dạy học như trên, học sinh hứng thú hơn trong
các tiết Tập làm văn, các em không còn rụt rè khi đứng dậy trình bày ý kiến hoặc bài làm
của mình, các em tích cực chủ động tìm tòi, sáng tạo hơn khi nói, viết đoạn văn,…Nhờ vậy
tiết dạy đạt đạt hiệu quả cao hơn, không khí lớp học sôi nổi, học sinh thực sự bộc lộ hết khã
năng của mình. Từ đó tạo cho các emhứng thú trong học tập, tạo thói quen tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo trong học tập.
1.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: Sau
một thời gian thực hiện đề tài. Tôi tiến hành kiểm tra chất lượng học tập của học sinh theo
nội dung trương trình mà các em học sinh lớp 2D2 đã học trong 2 tháng và thống kê được
kết quả cuối học kì I, với đề bài tập làm văn: Em hãy kể về người thân của em. Chất lượng

đã đạt được như sau:

17


HỌC SINH
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
TS NỮ DT
TS
DT
TS
DT
TS
DT
TS
DT
33 14
3
5
0
12
1
13
1
2
Qua nghiên cứu đề tài và từ thực tiễn vận dụng các phương pháp, giáo viên đã tự tin hơn
trong việc giảng dạy phân môn Tập làm văn, giúp giáo viên yêu thích tìm tòi, nghiên cứu để

tìm ra những giải pháp tốt trong việc tự rèn và rèn cho học sinh có cách diễn đạt về văn nói,
viết trong các tiết dạy, có kỹ năng viết tốt hơn.
Từ những thực trạng, nguyên nhân, giải pháp thực hiện và kết quả đạt được, bản thân
tôi nhận thấy rằng, sau khi áp dụng Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 học tốt phân
môn tập làm văn viết đoạn văn ngắn của tôi đã có kết quả khả quan hơn so với cách làm cũ.
Các em đã biết viết được một bài văn đúng thể loại, yêu cầu của đề bài, biết cách sử dụng từ
ngữ, đặt câu, diễn đạt ý và một số em biết sử dụng biện pháp nhân hóa, so sánh, làm cho
đoạn văn sinh động hơn.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
III.1.KẾT LUẬN:
Để thực hiện tốt mục tiêu “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn
Tập làm văn viết đoạn văn ngắn ” đòi hỏi giáo viên chúng ta phải kiên trì, bền bỉ và pphải
linh hoạt trong quá trình giảng dạymôn học này. Phải biết kết hợpdạy văn thônh qua các
môn học khác, không tácg rời mục tiêu từng môn, phải biết vận dụng linh hoạt các phương
pháp, hình yhức dạy phù hợpvới từng đối tượng học sinhvà dựa hình thức thực tế của học
sinh, của lớp để nâng cao chất lượng tiết dạy; cần phải thực hiện thường xuyên có kế hoạch,
có kế hoạch nhận xét và chữa bài theo từng tuần , từng tháng, xây dựng phong trào thi đua “
Nói lời hay, viết văn tốt” trong từng lớp và toàn trường, tổ chức cuộc thi “ Sân” các trò chơi
dân gian, thi kể chuyện vào những ngày lễ trong khối lớp 2 đẻ học sinh thi đua nhau vươn
lên trong học tập. Tạo cơ hội cho các em học hỏi lẫn nhau, được giao lưu từ đó các em
mạnh dạn, tự tin hứng thủtong học tập.
Qua nghiên cứu đề tài và từ thực tiễn vận dụng các phương pháp, giáo viên tự tin hơn
trong việc giảng dạy phân môn Tập làm văn, giúp giáo viên yêu thích tìm tòi, nghiên cứu để
tìm ra những giải pháp tốt trong việc tự rèn luyện và rèn cho học sinh có cách diễn đạt về
văn nói, viết trong các tiết dạy, có kỹ năng viết tốt hơn.
Từ những thực trạng, nguyên nhân, giải pháp thực hiện và kết quả đạt được ,bản thân tôi
nhận thấy rằng, sau khi áp dụng Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn
tập làm văn viết đoạn văn ngắn của tôi đã có kết quả khả quan hơn so với cách làm cũ. Các
em đã biết viết được một đoạn văn đúng yêu cầu của đề bài, biết cách sử dụng từ ngữ, đặt
câu, diễn đạt ý và một số em biết sử dụng biện pháp nhân hóa, so sánh khi viết đoạn văn

sinh động hơn.

18


Quá trình nghiên cứu của bản thân tôi chắc chắn còn nhiều hạn chế và thiếu sót, mong
các đồng nghiệp và các đồng chí lãnh đạo, chỉ đạo chuyên môn góp ý để tôi ngày càng nâng
cao kinh nghiệm và năng lực công tác. Từ đó, nâng cao chất lượng dạy học ở Trường Tiểu
học Nguyễn Văn Bé nói riêng và chất lượng giáo dục của huyện nhà nói chung .
III.2. Kiến nghị :
* Đối với nhà trường:
. Trang bị thêm một số tranh ảnh phục vụ cho việc dạy phân môn tập làm văn lớp 2, ngoài
các đồ dùng đã có.
* Đối với phòng giáo dục:
Cần chỉ đạo các nhà trường triển khai áp dụng một số đề tài đã được đánh giá cao, để nâng
cao chất lượng học tập của học sinh bằng những giải pháp cụ thể, thực tế, khả thi và kiên
quyết không để các nhà trường cho học sinh chưa đạt được lên lớp.
Khuyến khích động viên công tác chuyên môn của các nhà trường đã mạnh dạn đầu tư áp
dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy học.
Tôi mong rằng mỗi năm phòng GD & ĐT tổ chức hội thảo về sáng kiến kinh nghiệm, tạo
điều kiện cho chúng tôi học hỏi và trau dồi kinh nghiệm với đồng nghiệp, nhằm nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Ea Tân, ngày 23 tháng 11 năm 2015
Người viết SKKN

Đỗ Thị Nụ

.


19


DANH MỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Điều lệ trường tiểu học.

2.

Báo giáo dục(giaoduc.net.vn)

3.

Phương pháp dạy học ngày nay-NXB đại học quốc gia.

4.

Tập san giáo dục tiểu học.

5

Tham khảo từ tài liệu lưu trữ chất lượng môn tiếng việt của học sinh khối 2

của nhà trường năm học trước 2013– 2014.
MỤC LỤC
I

II


II

PHẦN MỞ ĐẦU
I.1 Lý do chọn đề tài
I.2 Mục tiêu, nhiệm vụ
I.3 Đối tượng nghiêm cứu
I.4 Giới hạn, Phạm vi nghiên cứu
I.5 Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG:
II.1 Cơ sở lý luận
II.2 Thực trạng
a. Thuận lợi khó khăn
b. Thành công, hạn chế
c. Mặt mạnh, mặt yếu
d. Các nguyên nhân và các yếu tố tác động
e. Phân tích đánh giá các vấn đề thực trạng
II.3 Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
b. Nội dung thực hiện các giải pháp, biện pháp
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
d. Mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp
e. Kết quả khảo nghiệm
KẾT LUẬN-KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

Trang
1
1
2
2
2

2
3
3
5
4
6
7
10
10
11
15
17
17

I
III.1 KẾT LUẬN
III.2 KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

19
19

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP
1.Hội đồng khoa học cấp trường:

20


…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………
2.Hội đồng khoa học cấp huyện:
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

21


…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………

22



×