Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU PHƢƠNG

§¸NH GI¸ CHøNG Cø
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU PHƢƠNG

§¸NH GI¸ CHøNG Cø
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN VĂN LUYỆN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Người cam đoan

Nguyễn Thị Thu Phƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG
CỨ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...................................... 7
1.1.
Lý luận về chứng cứ ........................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm chứng cứ ............................................................................. 7
1.1.2. Thuộc tính của chứng cứ ...................................................................... 9
1.1.3. Quá trình chứng minh vụ án hình sự .................................................. 11
1.1.4. Chứng cứ và những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự ......... 15
1.2.
Lý luận về đánh giá chứng cứ ......................................................... 17
1.2.1. Khái niệm đánh giá chứng cứ ............................................................ 17
1.2.2. Các nguyên tắc trong hoạt động đánh giá chứng cứ .......................... 19

1.2.3. Phương pháp đánh giá chứng cứ ........................................................ 22
1.2.4. Nội dung đánh giá chứng cứ .............................................................. 24
1.2.5. Mối quan hệ giữa đánh giá chứng cứ với thu thập, kiểm tra, sử
dụng chứng cứ và vai trò của đánh giá chứng cứ............................... 31
1.2.6. Chủ thể đánh giá chứng cứ ................................................................. 33
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 34
Chƣơng 2: CHẾ ĐỊNH ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................................... 36
2.1.

Chế định đánh giá chứng cứ trƣớc khi ban hành Bộ luật tố
tụng hình sự 2003 .............................................................................. 36


2.1.1.
2.1.2.
2.2.

Chế định đánh giá chứng cứ trước khi ban hành Bộ luật tố tụng
hình sự 1988........................................................................................ 36
Chế định đánh giá chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự 1988 ......... 42
Chế định đánh giá chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003....... 44

2.3.

Thực tiễn hoạt động đánh giá chứng cứ trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự .......................................................................... 46
2.3.1. Thực tiễn đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra ....................... 46

2.3.2. Thực tiễn đánh giá chứng cứ trong giai đoạn truy tố ......................... 47
2.3.3. Thực tiễn đánh giá chứng cứ trong giai đoạn xét xử ......................... 48
2.4.
Nhận xét, đánh giá ............................................................................ 49
2.4.1. Những thành tích đạt được ................................................................. 49
2.4.2. Những hạn chế, thiếu sót .................................................................... 51
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót........................................ 66
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 69
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ
CHỨNG CỨ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
HÌNH SỰ ........................................................................................... 70
3.1.

Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
đánh giá chứng cứ ............................................................................ 70
3.1.1. Những yêu cầu về cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật tố
tụng hình sự ........................................................................................ 70
3.1.2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về đánh giá chứng cứ
trong pháp luật tố tụng hình sự .......................................................... 72
3.2.

Giải pháp nâng cao chất lƣợng hoạt động đánh giá chứng
cứ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự ........................... 74
3.2.1. Giáo dục cho cán bộ tiến hành tố tụng hình sự nhận thức đúng
vai trò to lớn của đánh giá chứng cứ và nắm vững nội dung,
phương pháp nghiên cứu, đánh giá chứng cứ .................................... 74
3.2.2. Đào tạo, tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng trong phát hiện, thu
thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong vụ án hình sự ......................... 75



3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra nghiệp vụ, kiểm tra liên ngành
trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ...................... 76
3.2.4. Tăng cường phối hợp giữa CQĐT, VKS, Tòa án trong đánh giá
chứng cứ nói riêng và trong giải quyết vụ án hình sự nói chung ....... 77
3.2.5. Đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật phục vụ công
tác thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ có hiệu quả ........... 78
3.2.6. Thực hiện nguyên tắc tranh tụng, đổi mới hoạt động xét xử vụ án ......... 78
3.2.7. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng và sự
giám sát của quần chúng nhân dân đối với hoạt động đánh giá
chứng cứ trong vụ án hình sự ............................................................. 79
3.2.8. Củng cố, tăng cường đội ngũ luật sư, người bào chữa tham gia
quá trình tố tụng hình sự .................................................................... 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... 84
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 86


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt

Cụm từ đầy đủ

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự


CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

VKS

Viện kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tình hình giải quyết các vụ án hình sự của CQĐT hai
cấp thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2014

86


Bảng 2.2: Tình hình giải quyết các vụ án hình sự của VKS hai
cấp thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2014

86

Bảng 2.3: Tình hình giải quyết các vụ án hình sự của Tòa án hai
cấp thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2014

87

Bảng 2.4: Tổng hợp số liệu án hủy của Tòa án nhân dân hai cấp
thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2014

87

Bảng 2.5: Tổng hợp số liệu án trả điều tra bổ sung từ năm 2010
đến năm 2014 trên địa bàn thành phố Hà Nội

87


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài
Chứng cứ luôn được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến
hành tố tụng chỉ có thể ra các quyết định hoặc bản án dựa trên cơ sở các
chứng cứ chứng minh sự việc phạm tội cũng như con người thực hiện tội
phạm và những tình tiết liên quan, làm rõ những vấn đề phải chứng minh
trong vụ án hình sự.
Quá trình chứng minh vụ án hình sự bao gồm nhiều bước như phát

hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ. Trong đó đánh giá
chứng cứ là một trong những bước quan trọng góp phần quyết định sự thành
công của việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Đánh giá chứng cứ bao
gồm: đánh giá riêng lẻ từng chứng cứ và đánh giá tổng hợp chứng cứ. Việc
đánh giá chứng cứ nhằm xác định tính khách quan, tính liên quan, tính pháp
lý của chứng cứ và nhằm đi đến kết luận giá trị chứng minh của chứng cứ.
Giá trị chứng minh của chứng cứ nếu được nhận thức đúng thì sẽ áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đúng, triển khai các hoạt động điều tra phù họp giúp kết
luận định tội danh và quyết định hình phạt đúng, ngược lại nếu nhận thức sai
thì sẽ cho ra những kết luận sai.
Thực tiễn tố tụng hình sự của nước ta thời gian qua cho thấy, các cơ
quan tiến hành tố tụng đã đánh giá đúng đắn chứng cứ góp phần làm rõ nhiều
vụ án hình sự, tạo được lòng tin với quần chúng nhân dân, bảo vệ công lý.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có nhiều vụ án hình sự còn bộc lộ những sai lầm,
thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ dẫn đến việc giải quyết vụ án không
đúng, xét xử còn nhiều oan sai. Bởi vậy, có thể nói việc đánh giá chứng cứ có
ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các vụ án hình sự được chính xác,

1


công minh, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tuy nhiên, việc đánh giá
chứng cứ không phải lúc nào cũng dễ dàng và không phải vụ án hình sự nào
việc đánh giá chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng chính xác,
đúng đắn. Vì vậy làm thế nào để nâng cao hiệu quả công tác đánh giá chứng
cứ luôn là mối quan tâm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết
một vụ án hình sự và pháp luật hình sự cần có những quy định như thế nào để
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho công tác đánh giá chứng cứ trong

các vụ án hình sự là bài toán đang được đặt ra cho các nhà lập pháp và hành
pháp hiện nay.
Xuất phát từ nguyên nhân đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về
đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc
xây dựng pháp luật, là cơ sở lý luận đảm bảo sự nhận thức thống nhất trong
thực thi pháp luật. Đây cũng là luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa
chọn đề tài: “Đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chế định chứng cứ là một lĩnh vực phức tạp, đóng vai trò quan
trọng trong tố tụng hình sự, vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu về
chế định chứng cứ:
- Giáo trình:
+ Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (Nhà xuất bản đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội) của TS.Nguyễn Ngọc Chí.
- Sách chuyên khảo:
+ "Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tái bản năm 2009) của TS. Trần Quang Tiệp;

2


+ "Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự" (Nxb Tư pháp, Hà
Nội, 2006) của TS. Đỗ Văn Đương;
+ "Chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (Nxb Tư pháp, Hà
Nội, 2005) của ThS. Nguyễn Văn Cừ.
- Luận án tiến sĩ:
+ Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong Luật tố
tụng hình sự Việt Nam (Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội) của tác giả
Vương Văn Bép.

- Các bài bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý:
+"Một số vấn đề lý luận về phương pháp thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ trong vụ án hình sự" (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2007)
của TS. Trần Quang Tiệp;
+ "Về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự" (Tạp chí Kiểm
sát, số 9, 10/2008) của TS. Trần Quang Tiệp;
+ "Về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại Điều 64 BLTTHS năm
2003" (Tạp chí Nghề luật, số 2/2006) của TS. Trịnh Tiến Việt v.v...
Các công trình này đã đề cập đến các góc độ khác nhau về lý luận của
chế định chứng cứ, nhấn mạnh đến khái niệm chứng cứ, nguồn chứng cứ,
vai trò của chứng cứ trong quá trình chứng minh và việc hoàn thiện chế định
chứng cứ trong BLTTHS. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về chế định đánh giá chứng cứ. Điều này một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài: “Đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận vừa
có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm

3


rõ những vấn đề mang tính chất lý luận và thực tiễn về đánh giá chứng cứ từ
đó chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế đó.
Trên cơ sở đó đề ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả của hoạt động đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm sáng tỏ các khái niệm, đặc điểm chung về chứng cứ.

- Làm sáng tỏ về mặt lý luận chế định đánh giá chứng cứ.
- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề đánh giá
chứng cứ
- Làm rõ những hạn chế, bất cập của chế định đánh giá chứng cứ theo
pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật về đánh giá chứng cứ.
- Thực tiễn hoạt động đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết
các vụ án hình sự.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong thực tiễn, khi giải quyết một vụ án hình sự, hoạt động đánh giá
chứng cứ gồm nhiều đối tượng tham gia, ngoài cơ quan tiến hành tố tụng còn
có luật sư, người bào chữa thậm chí là các phương tiện thông tin đại chúng,
quần chúng nhân dân. Tuy nhiên trong phạm vi Luận văn này, tác giả chỉ
nghiên cứu hoạt động đánh giá chứng cứ của cơ quan tiến hành tố tụng đối
với mọi loại tội phạm trong các vụ án hình sự, thực tiễn trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong khoảng thời gian 5 năm từ 2009 – 2014.
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

4


nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng,
chống tội phạm; việc nghiên cứu đề tài luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh,
diễn giải, suy diễn logic và phương pháp xã hội học, phương pháp khoa học
luật tố tụng hình sự, điều tra hình sự để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.

5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học về chứng cứ, đánh giá chứng cứ, từ
đó xây dựng khái niệm đánh giá chứng cứ.
- Nghiên cứu làm rõ ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc nghiên cứu
về vấn đề đánh giá chứng cứ
- Nghiên cứu làm rõ những hạn chế, bất cập của chế định đánh giá
chứng cứ theo pháp luật tố tụng hình sự hiện hành từ đó đưa ra các kiến nghị
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về đánh giá chứng cứ.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận văn đã đưa
ra những nhận xét hoạt động đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết
các vụ án hình sự.
Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về đánh giá chứng cứ
trong tố tụng hình sự Việt Nam, các kiến nghị hoàn thiện pháp luật để các cơ
quan pháp luật có thể tham khảo xây dựng BLTTHS sửa đổi, đưa ra các giải
pháp giúp các cơ quan tố tụng: CQĐT, VKS, Tòa án có thể tham khảo để
nâng cao hiệu quả công tác giải quyết vụ án hình sự. Luận văn có thể làm tài
liệu giảng dạy, nghiên cứu trong các cơ sở đào tạo luật.

5


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về đánh giá chứng cứ trong
Luật tố tụng hình sự.
Chương 2. Chế định đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt

Nam và thực tiễn áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự.
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao chất
lượng hoạt động đánh giá chứng cứ trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Lý luận về chứng cứ
1.1.1. Khái niệm chứng cứ
Để giải quyết vụ án hình sự, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố
tụng CQĐT, VKS và Tòa án khi giải quyết vụ án hình sự cần xác minh những
sự việc có liên quan đến tội phạm đang được tiến hành xem xét, trong đó cần
phải khẳng định được tội phạm đã xảy ra, xác định được người cụ thể đã thực
hiện tội phạm và họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện, tất cả các
sự kiện và tình tiết của vụ án phải phù hợp với hiện thực khách quan. Để làm
được điều đó, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có thể dựa vào chứng cứ. Hay nói
cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan tiến hành tố tụng
sử dụng để chứng minh trong tố tụng hình sự.
Hiện nay trong khoa học Luật tố tụng hình sự Việt Nam có một số quan
điểm khác nhau về chứng cứ:
Theo TS. Đỗ Văn Đương thì:
Chứng cứ là những thông tin xác thực về những gì có thật
liên quan đến hành vi phạm tội, được thu thập theo trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định mà những người và cơ quan tiến hành
tố tụng dùng làm căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ

án [7, tr.44].
Giáo trình Luật tố tụng hình sự, trường Cao đẳng Kiểm sát cho rằng:
Chứng cứ là những sự vật, hiện tượng, những dấu vết được
CQĐT, VKS, Tòa án thu thập được trong quá trình điều tra, xét xử
theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, để chứng minh

7


có hay không có hành vi nguy hiểm cho xã hội, lỗi của người thực
hiện hành vi ấy và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết đúng
đắn vụ án [16, tr.56].
TS. Trần Quang Tiệp cho rằng:
Chứng cứ là những thông tin có thật, được thu thập theo trình
tự, thủ tục do BLTTHS quy định mà CQĐT, VKS, Tòa án dùng làm
căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực
hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho
việc giải quyết đúng đắn vụ án [24, tr.32].
Tác giả không hoàn toàn đồng ý với quan điểm thứ nhất và quan điểm
thứ hai bởi lẽ: quan điểm thứ nhất mặc dù hợp lý nhưng lại chưa nêu ra chủ
thể - các cơ quan tiến hành thực hiện; quan điểm thứ hai lại quá chi tiết
nhưng thiếu giai đoạn truy tố của cơ quan Viện kiểm sát thực hiện việc thu
thập chứng cứ. Còn quan điểm thứ ba về cơ bản là hợp lý nhất vì nó bao quát
cả các cơ quan tiến hành có trách nhiệm thực hiện việc thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ gắn liền với Luật tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời chỉ
rõ những thuộc tính về nội dung và các đặc điểm về hình thức của chứng cứ
để làm cơ sở cho việc chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Trên nền tảng của học thuyết duy vật biện chứng và kinh nghiệm trong
quá trình đấu tranh chống tội phạm, tại khoản 1 Điều 64 BLTTHS năm 2003
đưa ra định nghĩa lập pháp của khái niệm chứng cứ như sau:

Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự,
thủ tục do Bộ luật này quy định mà CQĐT, VKS và Tòa án dùng
làm ăn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội, người
thực hiện hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội
cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án [12; tr.55].

8


Định nghĩa này về chứng cứ mang tính khái quát cao, tuân theo các quy
luật khách quan của quá trình nhận thức, đưa ra những thuộc tính về nội dung
cũng như những đặc điểm về hình thức của chứng cứ làm cơ sở cho việc
chứng minh tội phạm.
1.1.2. Thuộc tính của chứng cứ
Chứng cứ là những sự vật, hiện tượng có thật và thống nhất không thể
tách rời, vì vậy xem xét từng thuộc tính của chứng cứ phải trong mối quan hệ
với các thuộc tính khác và trong mối quan hệ tổng thể.
1.1.2.1. Tính khách quan
Đây là thuộc tính quan trọng hàng đầu của chứng cứ. Chứng cứ là
những gì có thật, có nghĩa rằng chứng cứ là những thông tin có thật từ tài liệu,
vật chứng tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan
của con người và những chứng cứ đó liên quan trực tiếp đến các tình tiết của
vụ án đang được chứng minh. Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố
tụng chỉ phát hiện, thu thập, nghiên cứu chứng cứ chứ không tạo ra chứng cứ
trong quá trình giải quyết vụ án. Tại Điều 66 của BLTTHS, tính khách quan
của chứng cứ còn được gọi là tính xác thực của chứng cứ.
Trong quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS năm 2003 có quy định
một trong các nguồn chứng cứ là lời khai của người tham gia tố tụng. Theo
một số quan điểm cho rằng việc lấy chứng cứ là lời khai của người tham gia

tố tụng dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng bởi những yếu tố chủ quan, ý chí của
người khai báo mà không thể phản ánh một cách khách quan hoàn toàn những
thông tin về tội phạm. Chính vì vậy, những thông tin này không đảm bảo
thuộc tính khách quan của chứng cứ. Tuy vậy, về bản chất, việc cung cấp
thông tin là khách quan và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ
quan tiến hành tố tụng, vì vậy các cơ quan này đồng thời cũng phải có trách
nhiệm xác minh, đánh giá để xác định thông tin đó có chính xác hay không,

9


so sánh thông tin này với thông tin thu được từ các nguồn khác. Mọi thông
tin, sự thật thu thập được dù tồn tại trên thực tế nhưng bị xuyên tạc, bóp méo
hay bị làm giả theo ý chí chủ quan thì không còn mang tính khách quan. Và
những tài liệu đó cũng không thể là chứng cứ của vụ án [5, tr.74].
1.1.2.2. Tính liên quan
“Tính liên quan của chứng cứ được thể hiện ở mối liên hệ khách quan
của cá thông tin, tài liệu với các tình tiết của vụ án cần được xác định. Mối
quan hệ này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp” [7, tr.83]. Mối quan hệ trực
tiếp ở đây được hiểu là việc chứng cứ được dùng làm căn cứ để giải quyết
thực chất của vụ án, đó là những căn cứ quan trọng và chủ yếu để xác định
hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi của người phạm tội, các tình tiết có ý
nghĩa quan trọng đối với việc quyết định hình phạt… Mối quan hệ gián tiếp là
trong trường hợp thông tin, tài liệu đó không thể làm căn cứ để giải quyết
thực chất vụ án nhưng lại đóng góp một phần nhất định vào việc chứng minh
tội phạm. Chẳng hạn lời khai của người làm chứng rằng vào thời điểm tội
phạm xảy ra đã chứng kiến sự có mặt của người bị tạm giữ. Như vậy, dù việc
nhìn thấy sự có mặt của người bị tạm giữ không có ý nghĩa trong việc quyết
định liệu rằng người bị tạm giữ có phải là người phạm tội hay không nhưng lại
đóng vai trò quan trọng với CQĐT trong việc lập phương án điều tra làm sáng

tỏ sự việc. Trong hoạt động tố tụng, CQĐT cũng như VKS, Tòa án phải xem
xét về tính liên quan của chứng cứ ở cả hai mối quan hệ này để xác định một
thông tin, đồ vật hay tài liệu có được coi là chứng cứ hay không [7, tr.85].
1.1.2.3. Tính hợp pháp
Đó là sự phù hợp với các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
chứng cứ. Tính hợp pháp của chứng cứ được thể hiện qua quá trình cung cấp,
thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo trình tự của pháp luật quy định.
Nó được thể hiện ở các mặt sau:

10


- Chứng cứ được xác định bằng nguồn nhất định theo quy định của
pháp luật. BLTTHS năm 2003 quy định nguồn chứng cứ bao gồm:
(i) Vật chứng;
(ii) Lời khai của người tham gia tố tụng;
(iii) Kết luận giám định;
(iv) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ
vật khác [12, tr.55]
Các nguồn này phải được lưu giữ bằng nguồn tương ứng xác định.
- Chứng cứ phải được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS
quy định. Tùy thuộc vào tính chất đặc điểm của chứng cứ mà BLTTHS quy
định trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo được tính khách quan
và giá trị chứng minh của chứng cứ.
Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử có không ít các trường hợp cơ
quan tiến hành tố tụng thu giữ, đồ vật, tài liệu không đúng thủ tục rồi sau đó
mới tiến hành hợp pháp hóa các tài liệu đó rồi đưa vào hồ sơ vụ án hoặc thu
thập lời khai bằng cách đe dọa, đánh đập, mớm cung… [5, tr.89]. Điều này
dẫn đến các thông tin thu thập được bị thiếu tính hợp pháp, không có giá trị
chứng minh trong tố tụng hình sự và đôi khi dẫn đến các trường hợp án oan,

xác định sai tội phạm, người phạm tội.
Tóm lại, tính khách quan, liên quan và tính hợp pháp là các thuộc tính
quan trọng của chứng cứ, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và
cũng độc lập với nhau trong việc thể hiện các khía cạnh của chứng cứ. Khi
xem xét bất cứ vật chứng, tài liệu gì để sử dụng làm chứng cứ cho vụ án thì
cũng cần phải xem xét đầy đủ ba thuộc tính này, nếu thiếu đi bất kỳ thuộc tính
nào thì thông tin được thu thập không phải là chứng cứ.
1.1.3. Quá trình chứng minh vụ án hình sự
Quá trình chứng minh diễn ra theo một trật tự tố tụng nhất định bao
gồm nhiều giai đoạn khác nhau, cụ thể:
11


1.1.3.1. Thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là hoạt động đầu tiên của quá trình chứng minh
trong vụ án hình sự. Hoạt động này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn
bộ quá trình chứng minh. Để tái tạo lại những tình tiết của vụ án đã xảy ra
trước đó đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập được đầy đủ
những thông tin về vụ việc phạm tội đó, bởi vì các thông tin phản ánh về hoạt
động của tội phạm được hình thành, tồn tại là tất yếu khách quan, có tính quy
luật, mang đặc tính phản ánh chân lý khách quan về vụ án. Hoạt động của tội
phạm là một quá trình vật chất nên dù dưới hình thức này hay hình thức khác
cũng đều được phản ánh lại ở môi trường xung quanh dưới dạng những dấu
vết nhất định. Đồng thời, sự thay đổi ở môi trường xung quanh do tội phạm
gây ra tất yếu sẽ hình thành thông tin về tội phạm [4, tr.53]. Chính vì vậy, kết
quả của hoạt động thu thập chứng cứ có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ quá
trình giải quyết vụ án. Số lượng, chất lượng các chứng cứ thu thập được sẽ tạo
điều kiện thuận lợi hoặc ngược lại gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố
tụng chứng minh đối với vụ án. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng thường
quan tâm đặc biệt đến hoạt động này.

Thu thập chứng cứ là việc cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các
phương tiện, biện pháp và phương pháp theo quy định của BLTTHS để xác
định nguồn chứng cứ, tìm ra, thu giữ, bảo quản những chứng cứ nhằm giải
quyết chính xác đối với vụ án [24, tr.26]. Xét về bản chất, hoạt động thu thập
chứng cứ bao gồm tổng hợp các hoạt động, các hành vi phát hiện, ghi nhận,
thu giữ và bảo quản chứng cứ. Ví dụ: Biên bản hỏi cung bị can có được do
ĐTV tiến hành hỏi cung bị can, ghi lại theo đúng quy định của BLTTHS hoặc
kết luận giám định có được từ cơ quan giám định tư pháp tiến hành giám định
do cơ quan điều tra trưng cầu giám định…

12


1.1.3.2. Kiểm tra chứng cứ
Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng, tuy
nhiên không thể thay thế các giai đoạn khác, vì trong thực tiễn việc phát hiện,
thu giữ tài liệu, chứng cứ trong vụ án hình sự là công việc hết sức phức tạp và
khó khăn. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan, khách quan khác nhau,
bởi vì người phạm tội luôn luôn tìm mọi cách che giấu hành vi phạm tội, có
thể tạo hiện trường giả, tạo ra những chứng cứ giả để nhằm đánh lạc hướng
việc điều tra, phát hiện, thu thập chứng cứ. Bởi vậy, trong các vụ án hình sự,
chứng cứ cần và đủ trong việc chứng minh, xác định sự thật của vụ án không
phải lúc nào cũng đầy đủ. Trong một vụ án có thể vừa thiếu lại vừa thừa
chứng cứ, có thể thu thập các loại thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án
có nghĩa là không có giá trị chứng minh, nhưng lại bỏ sót những thông tin, tài
liệu có giá trị chứng minh, có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án [24, tr.37].
Chính vì vậy, mọi chứng cứ đã thu thập được chỉ có thể trở thành cơ sở cho
các quyết định, kết luận của CQĐT, VKS và Tòa án về vụ án hay các tình tiết
cụ thể của nó sau khi được kiểm tra một cách chu đáo và thận trọng.
Kiểm tra chứng cứ là hoạt động của ĐTV, KSV, Thẩm phán và Hội

thẩm tiến hành nhằm xác định một cách thận trọng, toàn diện, khách quan
tính chính xác của những thông tin thực tế và tính đáng tin cậy của những
nguồn chứng cứ đã được thu thập để xác lập một cách đúng đắn mọi tình
tiết của vụ án hình sự.
1.1.3.3. Đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ là một giai đoạn phức tạp của quá trình chứng
minh, được các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng tiến
hành liên tục, xuyên suốt trong quá trình chứng minh vụ án hình sự nhằm sử
dụng kết quả đánh giá vào từng giai đoạn khác nhau trong quá trình nhận
thức khách quan.

13


Việc phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ về số lượng, chất lượng có
sự khác nhau dẫn tới việc đánh giá những tài liệu, chứng cứ cũng có sự khác
nhau. Tuy vậy, việc đánh giá tài liệu chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng (giai
đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử) có mối quan hệ với nhau
và có cùng một mục đích. Việc đánh giá ở giai đoạn trước là tiền đề, điều
kiện của giai đoạn sau. Giai đoạn trước cung cấp bổ sung thông tin, chứng
cứ cho giai đoạn sau để dần hoàn thiện nhận thức chân lý khách quan của vụ
án. Đánh giá chứng cứ là quá trình nhận thức logic về chứng cứ và sự phù
hợp của các chứng cứ trong toàn bộ hệ thống chứng cứ. Đánh giá chứng cứ
gồm đánh giá riêng rẽ từng chứng cứ và đánh giá tổ hợp các chứng cứ. Đối
với từng chứng cứ cần đánh giá, làm rõ tính xác thực, tính liên quan, và tính
pháp lý [24, tr.41].
1.1.3.4. Sử dụng chứng cứ
Trong quá trình chứng minh vụ án hình sự, chứng cứ đã thu thập trong
vụ án được sử dụng để phát hiện, thu thập chứng cứ mới. Việc hoàn thiện
nhận thức chân lý khách quan được hình thành dần trong các giai đoạn tố

tụng, qua việc nhận thức chứng cứ của vụ án [15, tr.55]. Việc phát hiện, thu
thập thêm chứng cứ mới là hoạt động được tiến hành liên tục cho đến khi các
cơ quan tiến hành tố tụng có đủ chứng cứ chứng minh sự thật của vụ án.
Trong quá trình chứng minh vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng phải sử dụng chứng cứ để ra các quyết định tố
tụng, Cơ quan điều tra sử dụng chứng cứ khi có đủ chứng cứ xác định một
người đã thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm thì ra quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can, thông qua quá trình chứng minh nếu xác định rõ bị can
và vụ án thì Cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố.
Trong giai đoạn kiểm sát điều tra, quyết định truy tố, duy trì công tố tại phiên

14


tòa, KSV phải dựa trên cơ sở sử dụng đầy đủ đúng đắn các chứng cứ. Tại giai
đoạn xét xử, mọi quyết định, kết luận cuối cùng của Tòa án cũng hoàn toàn
dựa trên cơ sở việc sử dụng chứng cứ.
Quá trình sử dụng chứng cứ là một “dạng hoạt động nhận thức, hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở
xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được
thực hiện” [24, tr.78].
1.1.4. Chứng cứ và những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự
Những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự được Luật tố
tụng hình sự quy định rất chặt chẽ, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải
nghiêm chỉnh chấp hành. Mọi sự vi phạm quy định này đều ảnh hưởng đến
kết quả giải quyết vụ án hình sự. Đây cũng là một bộ phận quan trọng của lý
luận chứng cứ trong tố tụng hình sự. Nếu coi chứng cứ là phương tiện thì
những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự là mục tiêu của quá
trình chứng minh vụ án hình sự.
1.1.4.1. Khái niệm những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự

Các vụ án xảy ra trong thực tế với những tình tiết rất khác nhau. Việc
giải quyết vụ án hình sự làm sáng tỏ những vấn đề cần thiết giúp cho việc
nhận thức đúng đắn sự thật khách quan của vụ án, từ đó mà áp dụng các quy
định của Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự để ra các quyết định giải quyết
một cách có căn cứ và hợp pháp. Mặc dù công tác điều tra, xét xử vụ án hình
sự thường diễn ra rất đa dạng, phức tạp, những nội dung cụ thể cần phải làm
rõ trong từng vụ án, trong từng giai đoạn không giống nhau nhưng trong tất cả
các vụ án hình sự đã xảy ra mà cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết có những
điểm chung nhất định [7, tr.122]. Từ những điểm chung này, các nhà làm luật
xây dựng lên quy phạm pháp luật về những vấn đề cần phải chứng minh trong
vụ án hình sự.

15


Như vậy, những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự là tất
cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ
án, trên cơ sở đó, các cơ quan tố tụng hình sự ra các quyết định phù hợp trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự [4, tr.234].
1.1.4.2. Nội dung của những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự
Do tính chất, mức độ và hoàn cảnh của các tội phạm không giống nhau
nên những vấn đề cần chứng minh ở mỗi vụ án có những phạm vi và yêu cầu
khác nhau. Tuy vậy, mọi tội phạm đều có những đặc điểm, quy luật chung
giống nhau mà quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng đều
phải chứng minh.
Căn cứ vào ý nghĩa của các tình tiết cần phải chứng minh trong vụ án
hình sự đối với việc áp dụng quy định của Luật hình sự và Luật tố tụng hình
sự, ta có thể chia những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự
thành 3 nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất, những vấn đề cần phải chứng minh thuộc về bản chất

của vụ án hình sự, bao gồm:
- Chứng minh về việc có tội phạm xảy ra hay không?
- Chứng minh để xác định ai là người phạm tội?
Nhóm thứ hai, những vấn đề cần phải chứng minh nhằm xác định mức
độ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt, trách nhiệm hình sự. Cơ quan tiến
hành tố tụng có đầy đủ các chứng cứ để xác định:
- Những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng, giảm nhẹ.
- Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
- Những tình tiết được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho
người phạm tội.
- Những tình tiết thuộc về đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo.

16


- Tính chất mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Nhóm thứ ba, những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ
án hình sự như: tung tích nạn nhân trong trường hợp nạn nhân chết, bị bệnh
tâm thần, trẻ nhỏ…; mối quan hệ giữa người làm chứng, người bị hại, bị can,
bị cáo…; mức độ nhận thức về hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện
phạm tội…; yêu cầu của những người tham gia tố tụng như người bị hại,
nguyên đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng cần lựa chọn tất cả những gì là
chứng cứ để chứng minh các vấn đề nêu trên trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Không có quy tắc để xác định cần có bao nhiêu chứng cứ để chứng
minh một tình tiết thuộc đối tượng chứng minh. Bởi bản thân mỗi chứng cứ
có khả năng chứng minh làm sáng tỏ ở những mức độ khác nhau về những
tình tiết của vụ án và tùy thuộc vào tình hình cụ thể của từng vụ án mà cần có
thêm những chứng cứ gì để làm sáng tỏ một tình tiết thuộc vấn đề cần phải

chứng minh trong vụ án hình sự [7, tr.56].
1.2. Lý luận về đánh giá chứng cứ
1.2.1. Khái niệm đánh giá chứng cứ
BLTTHS năm 2003 không có khái niệm đánh giá chứng cứ mà chỉ quy
định: “Mỗi chứng cứ phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực
và liên quan đến vụ án…” [12; tr.56].
Theo từ điển Luật học thì:
Đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự là việc xác định giá
trị chứng minh của chứng cứ từ yêu cầu bảo đảm tính hợp pháp,
tính xác thực và liên quan đến vụ án. Khi điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự, CQĐT, VKS và Tòa án phải đánh giá các chứng cứ của
vụ án đã thu thập được để xác định có hay không có hành vi phạm
tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác

17


×