Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Nghiên cứu, tìm hiểu về honeyd để thiết lập hệ thống honeypots

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 43 trang )

MỤC LỤC
Chương I: Tổng quan ........................................................................................................2
1.1

Giới thiệu : .............................................................................................................2

1.2

Honeypots : ............................................................................................................3

Chương II : Honeypots .....................................................................................................5
2.1

Các loại hình Honeypots : ......................................................................................5

2.1.1

BackOfficer Friendly (BOF) : .........................................................................5

2.1.2

Specter : ...........................................................................................................5

2.1.3

Honeyd : ..........................................................................................................5

2.1.4

Honeynet : .......................................................................................................6


2.2

Triển khai Honeypots : ..........................................................................................8

2.2.1

Lôi kéo người tấn công : .................................................................................9

2.2.2

Xác định mục tiêu : .........................................................................................9

2.3

Vị trí đặt hệ thống Honeypots : ............................................................................10

2.3.1

Đặt ở vùng ngoài : .........................................................................................10

2.3.2

Đặt ở vùng trong : .........................................................................................10

2.3.3

Đặt ở vùng DMZ : .........................................................................................11

Chương III : Triển khai Honeypots ...............................................................................12
3.1


Các bước thiết lập Honeypots : ............................................................................14

3.2

Thiết lập một Router trong mạng :.......................................................................16

3.3

Thiết lập mạng 2 Router : ....................................................................................18

3.4

Thiết lập độ trễ , thất thoát và băng thông : .........................................................19

3.5

Tích hợp các máy vật lý vào topology mạng : .....................................................20

3.6

Thiết lập nhiều Router đầu vào : ..........................................................................21

3.7

Đường hầm GRE để thiết lập mạng phân tán : ....................................................23

Chương IV : Mô phỏng hệ thống Honeypots ................................................................26
4.1


Tổng hợp cấu hình Honeypots : ...........................................................................26

4.2

Cấu hình hệ thống Honeypots :............................................................................29

KẾT LUẬN ......................................................................................................................42


Chương I: Tổng quan
1.1

Giới thiệu :

Trong những năm gần đây, các cuộc xâm nhập mạng gia tăng đáng kể, do sự
phổ dụng của các công cụ tấn công được tự động hoặc được lập kịch bản. Điều này đã
thúc đẩy sự quan tâm đến các hệ thống Honeypots, hệ thống này có thể được dùng để
“bẫy” và giải mã các phương pháp tấn công.
Các chuyên gia bảo mật cho biết: các kẻ tấn công hiện đều đang rất ngán ngẩm khi
phải tấn công vào một hệ thống Linux dạng trung bình. Chi phí cho một cuộc đột nhập
thành công vào một hệ thống sử dụng Linux cao hơn nhiều so với chi phí bỏ ra để đột
nhập vào hệ thống sử dụng Windows.
Dự án mang tên Honeypots được tạo ra với mục đích giả lập các hệ thống mạng
Linux bình thường để câu nhử các cuộc tấn công nhằm nghiên cứu độ an toàn của các hệ
thống máy chủ Linux. Các kết quả nghiên cứu do Honeypots đưa ra cho biết: khoảng thời
gian tồn tại an toàn của các hệ thống máy chủ chạy Linux đã gia tăng đột ngột trong 2 năm
gần đây.
Honeypots đã chỉ ra rằng: Trong giai đoạn hiện nay, một hệ thống máy chủ Linux
chưa được cài đầy đủ các bản sửa lỗi vẫn có thể “chịu đựng” an toàn trung bình là 3 tháng
trước các cuộc tấn công, khi so sánh với giai đoạn 2001-2002 chỉ là 72 giờ. Một số hệ thống

máy chủ của dự án đã an toàn trong suốt 9 tháng trời trước mọi cuộc tấn công.
Dự án Honeypots được thiết kế để nhằm mục đích nghiên cứu, dò tìm và thu hút
mọi cuộc tấn công bất kỳ của Internet vào các hệ thống máy chủ Linux, Windows. Từ xưa
đến nay mọi cuộc tấn công trên Internet dường như chưa bao giờ giảm. Các nhà nghiên
cứu của dự án đã chỉ ra rằng: hầu hết mọi cuộc tấn công trên đời đều nhằm vào các hệ
thống sử dụng Windows, đơn giản chỉ vì mức độ phổ biến quá mức của hệ điều hành này
và độ bảo mật “ngon ăn” đến mức mà mọi kẻ tấn công đều không thể cưỡng lại được.
Lance Spitzner, chủ tịch của dự án Honeynet, cho biết: “Tấn công vào một người
dùng bất kỳ tỏ ra dễ dàng hơn nhiều so với tấn công vào một hệ thống máy tính của ngân
hàng. Ngân hàng được bảo vệ rất tốt nhưng người dùng thì không. Chừng nào không còn
đủ người dùng để tấn công thì hãy tấn công ngân hàng”.
Dự án này không đưa ra các nghiên cứu so sánh với Windows, nhưng Spitzner đã
chỉ ra rằng các cơ quan chuyên về bảo mật như Symantec hoặc Internet Storm Center (ISC)
đã công nhận rằng có rất nhiều cuộc tấn công vào các hệ thống Honeynet Windows. Một dự
án khác của ISC đã đo lường thời gian tồn tại của các hệ thống Windows trước các cuộc
tấn công và cho ra nhiều kết quả khá thú vị như sau:
Thời gian tồn tại trung bình trước các cuộc tấn công của một số hệ thống chạy


Windows trong các thử nghiệm của ISC đã giảm nhanh từ 55 phút trong giai đoạn mùa
thu 2003 xuống chỉ còn 20 phút vào dịp cuối năm 2004. Thảm hại nhất là vào giai đoạn
mùa xuân 2004, một hệ thống Windows chỉ “kịp sống” có 15 phút trước khi bị hạ gục.
Microsoft vớt vát rằng thời gian tồn tại ngắn như thế - ở ngay cả trong Windows XP Service
Pack 2 - là do có quá nhiều người sử dụng.
Dự án Honeynet đã cân nhắc kỹ trước khi phân bố các hệ thống khắp mọi
nơi trên thế giới để thu hút các cuộc tấn công. Các máy tính chuyên câu nhử của Honeynet
được phân bố đều trong các mạng gia đình đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Dự án đã triển khai 12 trạm honeynet ở 8 quốc gia là Mỹ, Ấn Độ, Anh, Pakistan, Hy
Lạp, Bồ Đào Nha, Brazil và Đức. Bao gồm 24 hệ thống Unix và giả lập Unix, 19 hệ thống
Linux hầu hết là Red Hat bao gồm: 1 hệ thống Red Hat 7.2, 5 hệ thống Red Hat 7.3, 1

Red Hat 8.0, 8 Red Hat 9.0 và 1 hệ thống Fedora Core. Các hệ thống khác nữa bao
gồm: 1 chạy Suse 7.2, 1 Suse 6.3, 2 Solaris Sparc 8, 2 Solaris Sparc 9 và 1 hệ thống chạy
Free- BSD 4.4.
Dự án Honeynet là một cuộc nghiên cứu phi lợi nhuận do các công ty bảo mật thành
lập nên, bao gồm các công ty tầm cỡ như: Foundstone, Counterpane, Security Focus và
SourceFire.

1.2

Honeypots :

Honeypots là một hệ thống tài nguyên thông tin được xây dựng với mục đích
giả lập đánh lừa những kẻ sử dụng và xâm nhập không hợp pháp, thu hút sự chú ý của
chúng, ngăn không cho chúng tiếp xúc với hệ thống thật.
 Trong lĩnh vực an toàn mạng, một Honeypots là một hệ thống máy tính được
thiết kế đặc biệt để “bắt” tất cả hoạt động và các file được khởi tạo bởi một thủ phạm có
ý định giành quyền truy cập trái phép tới hệ thống.
 Honeypots như một mức bảo vệ firewall hơn là bảo vệ hệ thống mạng. Ví
dụ, nếu một firewall bảo vệ một mạng, thì Honeypots thường được đặt bên ngoài
firewall. Điều này cho phép các thủ phạm trên Internet nhận được quyền truy cập đầy đủ
tới bất kỳ dịch vụ vào của Honeypots. Lưu ý rằng, ý tưởng là ghi lại những hoạt động của
thủ phạm, chứ không phải ngăn chặn chúng khỏi việc giành quyền truy cập tới Honeypots.
 Một Honeypots là một hình nộm được thiết kế để quan sát những cuộc tấn công
của hacker. Một honeynet là một mạng được thiết lập xung quanh những hình nộm để lure
(nhử) và ghi lại những bước tấn công của hacker. Bằng việc nghiên cứu các cuộc tấn công
thật, những người nghiên cứu hy vọng có thể có được những bước tiến mới trong việc
phát triển kế hoạch phòng ngự. Mỗi khi Honeypots có sự tấn công thì người nghiên
cứu có thể học được những kỹ thuật tấn công mới và có thể dùng Honeypots để tìm ra
những rootkit (ẩn nấp và tránh không bị phát hiện, được sử dụng hỗ trợ giấu các đoạn mã
độc), lỗi và các backdoor (cổng sau, được hacker cài vào máy bị tấn công để sau này quay

lại máy đó dễ dàng hơn) trước khi chúng đi vào hệ thống.


 Cần phải xây dựng hệ thống phòng ngự và phải có khả năng giấu và dodge (lẩn
tránh) những cuộc tấn công mà hệ thống không thể đáp trả lại. Đây là một vấn đề rất quan
trọng để nghiên cứu một cách an toàn về những máy tính ở những khoảng cách xa. Thay
thế vào việc đi tìm chúng thì chúng sẽ tự tìm đến.
 Một hệ thống Honeypots bị tấn công khác chỉ ra rằng hành động đầu tiên của
kẻ tấn công đó là thay đổi password root, password admin của hệ thống (điều này làm cho
người quản trị hệ thống hoặc chủ hệ thống không thể đăng nhập vào). Không một kẻ
tấn công nào quan tâm đến việc kiểm tra sự hiện diện của Tripwire (một hệ thống kiểm
tra tính toàn vẹn của hệ thống), đây là hệ thống được mặc định trong Red Hat Linux và
được sử dụng như là một Honeypots.
 Honeypots có sự khác biệt, giữa Honeypots nghiên cứu và Honeypots sản phẩm.
Những Honeypots nghiên cứu dựa trên những thông tin tình báo đạt được về kẻ tấn công
cũng như phương pháp, kỹ thuật của hacker. Trong khi đó, những sản phẩm
Honeypots có mục đích là làm giảm những nguy hiểm cho nguồn lực IT của công ty
và cung cấp những cảnh báo phát hiện cho các cuộc tấn công trên cơ sở hạ tầng mạng,
đồng thời đoán được và làm chệch hướng các cuộc tấn công khỏi hệ thống sản phẩm trong
môi trường giám sát của Honeypots.
 Chúng được miêu tả như những mạng các hệ thống sản phẩm được kết nối tới
Internet (có thể không qua firewall). Hệ thống này là một hệ thống sản phẩm chuẩn với
những ứng dụng thực tế được sử dụng bởi các công ty trên mạng. Trong thực tế, nó hoàn
toàn có khả năng là một bản sao (clone) của hệ thống sản phẩm và được triển khai
thành Honeypots, những thông tin confidential (bí mật) được gỡ bỏ hoặc thay thế bởi
những thông tin tương tự nhưng không mang giá trị thực. Cũng có thể chạy một Honeypots
hoặc một honeynet tại nhà hoặc tại những công ty nhỏ. Trong thực tế, có thể triển khai
một phần mềm đơn giản như là Linux honey, như Niels Provos, là những phần mềm có
thể bắt chước những phản hồi của rất nhiều những dịch vụ đã biết. Trong trường hợp này,
có thể thu thập dữ liệu từ những cuộc tấn công bằng những worm tự động và initial những

bước tiếp theo của một cuộc tấn công bởi con người. Tuy nhiên, illusion (ảo) là giới hạn
và không phải bao giờ cũng đạt được một mức độ cao sau khi những dữ liệu xuyên qua.
Để có thể tiếp cận với những hành động xảy ra trong bóng tối, cần phải có một honeynet:
một thiết bị trực tiếp kết nối tới mạng, cái mà có thể bị probe (dò tìm), bị tấn công. Chỉ cần
vài máy tính, một kết nối tới mạng (thậm chí với một IP động) và một số kiến thức về an
toàn thông tin là sở hữu mạng để admit (nhận, nạp) những hacker từ tất cả mọi nơi trên thế
giới.


Chương II : Honeypots
2.1

Các loại hình Honeypots :

Gồm hai loại chính: Tương tác thấp và tương tác cao

Tương tác thấp (Low Interaction): Mô phỏng giả lập các dịch vụ, ứng
dụng, và hệ điều hành. Mức độ rủi ro thấp, dễ triển khai và bảo dưỡng nhưng bị giới hạn về
dịch vụ.

Tương tác cao (High Interaction): Là các dịch vụ, ứng dụng và hệ điều
hành thực. Mức độ thông tin thu thập được cao. Nhưng rủi ro cao và tốn thời gian để vận
hành và bảo dưỡng.

Low Interaction







BackOfficer Friendly
Specter
Honeyd
Honeynet
High Interation
Hình 2.1: Loại hình Honeypots

2.1.1 BackOfficer Friendly (BOF) :
Một loại hình Honeypots tương tác thấp rất dễ vận hành và cấu hình và có thể hoạt
động trên bất kỳ phiên bản nào của Windows và Unix nhưng chỉ tương tác được với một
số dịch vụ đơn giản như FTP, Telnet, SMTP…

2.1.2 Specter :
Cũng là loại hình Honeypots tương tác thấp nhưng khả năng tương tác tốt hơn
BOF, giả lập trên 14 cổng, có thể cảnh báo và quản lý từ xa. Tuy nhiên giống BOF
thì specter bị giới hạn số dịch vụ và cũng không linh hoạt.

2.1.3 Honeyd :
 Honeyd lắng nghe trên tất cả các cổng TCP và UDP, những dịch vụ mô phỏng
được thiết kế với mục đích ngăn chặn và ghi lại những cuộc tấn công, tương tác với kẻ tấn
công với vai trò một hệ thống nạn nhân.
 Honeyd có thể giả lập cùng một lúc nhiều hệ điều hành khác nhau
 Hiện nay, Honeyd có nhiều phiên bản và có thể mô phỏng được khoảng 473 hệ


điều hành.
 Honeyd là loại hình Honeypots tương tác thấp có nhiều ưu điểm tuy nhiên
Honeyd có nhược điểm là không thể cung cấp một hệ điều hành thật để tương tác với tin
tặc và không có cơ chế cảnh báo khi phát hiện hệ thống bị xâm nhập hay gặp nguy hiểm.


2.1.4 Honeynet :

Hình 2.2: Mô hình honeynet (GenII)


Honeynet là hình thức Honeypots tương tác cao. Khác với các Honeypots,
Honeynet là một hệ thống thật, hoàn toàn giống một mạng làm việc bình thường.
Honeynet cung cấp các hệ thống, ứng dụng, các dịch vụ thật.

Quan trọng nhất khi xây dựng một honeynet chính là honeywall. Honeywall
là gateway ở giữa Honeypots và mạng bên ngoài. Nó hoạt động ở tầng 2 như là Bridged.
Các luồng dữ liệu khi vào và ra từ Honeypots đều phải đi qua honeywall.
Các chức năng của Honeynet
Bất kỳ một hệ thống Honeynet nào cũng phải thực hiện được ba điều kiện: Kiểm
soát dữ liệu, bắt dữ liệu và phân tích chúng.
-

Kiểm soát dữ liệu

Có thể hiểu là mở cánh cửa cho hacker đi vào, cho phép xâm nhập honeynet nhưng
lại đóng cửa ra, ngăn không cho hacker phát tán những đoạn mã độc hại ra mạng làm việc


bên ngoài và Internet.

No Restrictions

Connections Limited


Packet Scrubbed

Hình 2.3: Kiểm soát dữ liệu

Honeynet GenIII sử dụng ba cách kiểm soát dữ liệu.
 Đếm số kết nối từ honeynet ra ngoài: nếu lớn hơn mức cho phép thì sẽ cấm kết
nối.
 Sử dụng Snort-inline: đây là một phần mềm mã nguồn mở phát triển lên từ
Snort làm việc như một hệ thống ngăn chặn xâm nhập (IPS) dựa trên cơ sở dữ liệu về các
hình thức tấn công thu thập được từ trước để ra quyết định.
 Kiểm soát băng thông.
Bắt dữ liệu

Đây là mục đích chính của tất cả các loại hình Honeynet - thu thập nhiều
nhất thông tin về kẻ tấn công theo nhiều mức: các hoạt động của mạng, các hoạt động
ứng dụng, các hoạt động của hệ thống.

Honeynet GenIII sử dụng Sebek để bắt dữ liệu. Đây là một kernel ẩn đặt
tại các máy

Honeypots và server là honeywall gateway.


Hình 2.4: Hoạt động của Sebek

Khi mà kẻ tấn công xâm nhập vào hệ thống và tương tác với một Honeypots. Tất
cả các hoạt động của hacker này đều được bí mật chuyển về sebek server thu thập và xử lý.
-

Phân tích dữ liệu


Phân tích dựa trên giao diện walleye của Honeywall hoặc bằng Ethereal.

2.2

Triển khai Honeypots :

Để triển khai một Honeypots cần có một quá trình xử lý kỹ thuật tốt cùng với
việc thực hiện đúng kế hoạch sẽ giúp triển khai thành công hệ thống.
Danh sách dưới đây đưa ra các bước để thực hiện:
 Xác nhận Honeypots là được cho phép tạo dựng trong môi trường hệ
thống đó.
 Xác định mục tiêu Honeypots. Tại sao lại muốn chạy một Honeypots.
 Dùng nó để nghiên cứu hay là bảo vệ hệ thống tổ chức máy tính.
 Xác định vai trò con người trong việc tạo ra và duy trì một Honeypots. Có
chuyên môn kỹ thuật để triển khai một cách chính xác và duy trì một Honeypots không?
Có phần mềm và phần cứng để triển khai chưa? thời gian hàng ngày sẽ mất để duy trì và
phân tích dữ liệu như thế nào? Tiếp tục thảo luận, nghiên cứu để theo kịp những Honeypots
mới và khai thác một cách hiệu quả.
 Các loại Honeypots sẽ triển khai là nghiên cứu hoặc sản phẩm, thực hay ảo.
 Xác định cài đặt cấu hình thiết bị mạng cần thiết để tạo ra Honeypots. Kế hoạch
và cấu hình một số thành phần hỗ trợ Honeypots và tool (cảnh báo, đăng nhập, giám sát,
quản lý…).
 Thu thập các thiết lập của việc giám sát, đăng nhập và các tool phân tích hợp


pháp.
 Triển khai kế hoạch phục hồi lại. Làm thế nào để phục hồi hệ thống Honeypots
nguyên bản sau khi nó được khai thác sử dụng dẫn tới việc bị hư hại.
 Triển khai Honeypots và các thành phần hỗ trợ nó, kiểm tra việc triển khai,

đánh giá các công cụ phát hiện xâm nhập, thử nghiệm xem hệ thống Honeypots hoạt động
tốt không.
 Phân tích các kết quả và tìm ra những thiếu sót. Tinh chỉnh các hệ thống
Honeypots dựa trên các bài đã được học và nghiên cứu. Lặp lại các bước cần thiết.

2.2.1 Lôi kéo người tấn công :
Nếu để lộ ra Honeypots theo cách mà những địa chỉ IP và các port được truy xuất
tới từ Internet, thì nó sẽ được truy cập một cách nhanh chóng. Trung bình hàng ngày các
địa chỉ IP công khai trên Internet được thăm dò hàng chục lần. Theo số liệu thống kê từ
nhiều dự án của Honeypots cho thấy rằng có nhiều hơn một trăm lần thăm dò một ngày,
và hầu hết các máy chủ lưu trữ đều xảy ra tấn công trong vòng một tuần. Các worm từ
Internet sẽ quét nhiều lần trong ngày. Nhiều quản trị của Honeypots đã ghi lại thành
công những tổn hại xảy ra chưa đến 20 phút.
Chính vì những nguyên nhân đó một số quản trị viên của Honeypots đã nhanh
chóng và tích cực đăng vùng Honeypots của họ tới danh sách mail và website của hacker.
Những quản trị viên đăng các vị trí Honeypots của họ để khám phá một số tội phạm
nghiêm trọng. Thu thập các thông tin chứng cứ về những hành vi xâm nhập trái phép.
Việc tạo ra Honeypots không bao giờ nên quảng bá sự hiện diện hay mời gọi các hacker
vì nó sẽ đánh bại các mục đích chính của Honeypots.

2.2.2 Xác định mục tiêu :
Để thiết kế hệ thống Honeypots cần xác định các mục tiêu, muốn chọn nơi nào để
đặt Honeypots. Có rất nhiều câu hỏi cần được trả lời trước khi bắt đầu, bao gồm cả những
điều sau đây:





Lý do chính muốn tạo ra hệ thống Honeypots?

Môi trường OS là gì để giả lập Honeypots?
Giả lập những lọai Server hoặc Service gì?
Muốn theo dõi các mối đe dọa từ bên trong, bên ngoài hay cả 2?

Để có câu trả lời cho những câu hỏi này về cơ bản cần xác định là sẽ nghiên cứu
hay tạo ra các sản phẩm Honeypots, và làm như thế nào? cấu hình nó ra sao?.
Sản phẩm Honeypotss nên mô phỏng theo các ứng dụng, dịch vụ, và máy chủ
đã tồn tại. Nếu làm đúng với tương tác cao, nó sẽ gây khó khăn cho tin tặc trong việc
nhận biết và tương tác với Honeypots.


Hình 2.5: Ví dụ về một sản phẩm Honeynet

Ví dụ, giả sử hệ thống mạng bao gồm máy chủ chạy HĐH Windows Server 2003
chạy IIS 6.0, Windows 2000 Server chạy Microsoft SQL Server 2000, Windows NT 4.0
Server, và một Windows 2000 Server chạy IIS 6.0. Sản phẩm honeypots sẽ cố gắng để
mô phỏng giống như những cái máy chủ và các dịch vụ ở trên

2.3

Vị trí đặt hệ thống Honeypots :

Có 3 vùng chính để đặt hệ thống Honeypots:




External Placement (đặt ở vùng ngoài).
Internal Placement (đặt ở vùng trong).
DMZ Placement (đặt ở vùng DMZ)


Mỗi vùng để đặt Honeypots đều có những ưu điểm và nhược điểm tùy theo mục
đích của việc tạo ra Honeypots để làm gì.

2.3.1 Đặt ở vùng ngoài :
Là vùng nằm ngoài Internet với vị trí này thì sẽ không có bức tường lửa nào đứng
trước Honeypots, các Honeypots và mạng lưới honepots sẽ chia sẻ cùng một địa chỉ IP
subnet công cộng.

2.3.2 Đặt ở vùng trong :
Vị trí Honeypots nằm bên trong mạng và bức tường lửa ở giữa ngăn cách nó
với thế giới Internet. Vị trí này là cách tốt nhất để tạo ra một hệ thống cảnh báo sớm
cho biết bất kỳ sự khai thác từ bên ngoài vào và bảo vệ mạng nội bộ, bắt các đe dọa
xảy ra cùng một lúc. Một ví dụ cho thấy khi mà worm Blaster tấn công, nhiều công ty đã


triển khai firewall và cấu hình khóa port 135 ngăn chặn an toàn từ các worm nhưng worm
có thể lén đi qua firewall trên đường links và từ những máy tính laptop, thiết bị di động.
Sau khi đã qua bức tường lửa các worm có thể gây nhiễm các máy tính nội bộ chưa được
vá lỗi hệ điều hành và lỗi bảo mật.

2.3.3 Đặt ở vùng DMZ :
DMZ là một vùng nằm riêng lẻ so với LAN nhằm mục đích đặt những server public
như web server, mail server, ftp server.
Việc đặt một Honeypots trên vùng DMZ thường là lựa chọn tốt nhất của các
công ty, nó có thể được đặt dọc theo các máy server trong vùng DMZ và cung cấp cảnh
báo sớm mối đẹ dọa cho vị trí đó. Một router đặt giữa firewall của DMZ được thêm vào
như là một lớp điều khiển dữ liệu. DMZ có thể có các địa chỉ IP công cộng và riêng tư. Các
vị trí của Honeypots trong DMZ là một vị trí lý tưởng cho việc thiết lập, nhưng hầu hết
các vị trí đặt mô hình đó là phức tạp. Ngoài ra, vì nó nằm trên DMZ, không phải là tốt

nhất cho việc cảnh báo sớm cho một cuộc tấn công làm hư hại mạng nội bộ.
So sánh giữa các vị trí đặt Honeypots.
Vị trí

Vùng ngoài

Ưu điểm
Dễ xây dựng, triển khai
Số lượng thiết bị cần thiết ít.

Nhược điểm
Điều khiển dữ liệu kém
Rủi ro cao nhất cho các sản phẩm
mạng Honeypots.

Tốt cho việc giám sát nhân
Vùng trong

viên bên trong.

Cài đặt phức tạp hơn nhiều.

Hệ thống cảnh báo sớm để Cần phải quyết định cho phép các port/
bảo vệ backup.

chuyển hướng trực tiếp.
Cài đặt phức tạp.

DMZ


Có thể điều khiển dữ liệu tốt

Hệ thống cảnh báo không được mạnh.
Cần phải quyết định cho phép các port/
chuyển hướng trực tiếp.


Chương III : Triển khai Honeypots
Được phát triển và duy trì bởi Niels Provos, Honeyd là một chương trình nền nhỏ
nhưng có rất nhiều tính năng nổi trội. Honeyd giả lập các máy ảo trong một mạng máy
tính. Nó có thể giả lập một hệ điều hành bất kỳ, cho phép mô phỏng các dịch vụ TCP/IP
khác nhau như HTTP, SMTP, SSH.... Honeyd được sử dụng trong việc xây dựng
Honeynet, thiết lập các Honeypots để dụ hacker đột nhập vào hệ thống.
Một tính năng hữu ích của Honeyd là có khả năng giả lập một topology mạng với
đầy đủ các thông số như các bước mạng, tỉ lệ thất thoát, độ trễ khi truyền và băng thông
chỉ với duy nhất một máy chủ nằm trong mạng. Khả năng này cho phép giả lập các mạng
máy tính phức tạp để thí nghiệm, nó cũng đóng giả một mạng máy tính đối với hacker bên
ngoài mạng, bẫy hacker vào mạng Honeypots.
Một số tính năng Honeyd cung cấp để thiết lập mạng Honeypots:







Giả lập các topology mạng phức tạp.
Cấu hình các thông số của mạng như độ trễ, tỉ lệ thất thoát và băng thông.
Hỗ trợ nhiều router đầu vào để phục vụ nhiều mạng.
Tích hợp các máy vật lý vào topology mạng.

Định tuyến bất đối xứng.
Đường hầm GRE để thiết lập các mạng phân tán.

Phần này sẽ hướng dẫn cách tạo các topology mạng, sử dụng Honeyd và các cấu
hình mẫu. Cung cấp cú pháp cấu hình lệnh và cách dùng các tập tin cấu hình. Tập trung
vào từng bước để xây dựng một mạng máy tính và xem xét kỹ các tập tin cấu hình.
Khung chương trình Honeyd thiết lập Honeypots:
CREATE <template name>
#ANNOTATE ""
SET <template name> ETHERNET "<Ethernet name>"
SET <template name> PERSONALITY “
SET DEFAULT <template name> TCP ACTION <action>
SET DEFAULT <template name> UDP ACTION <action>
SET DEFAULT <template name> ICMP ACTION <action>
ADD <template name> PORT <number> <action>
ADD <template name> PORT <number> "<script engine to call> <script file>"
SET <template name> UPTIME <seconds>
SET <template name> DROPRATE IN <%>
SET <template name> UID <number> GID <number>

BIND <IP address(es)> <template name>


Giải thích cho đoạn chương trình trên:







Create: Tạo ra template
#annotate: chú thích tên hệ điều hành
Chỉ ra Ethernet đặt cho template phục vụ việc kết nối ra bên ngoài.
Gán hệ điều hành cho template đã tạo ở trên.
Cài đặt các action cho protocol TCP, UDP, ICMP trong đó action có 3 loại:
o
Open – Mở toàn bộ số cổng có trên một protocol.
o
Block – Tất cả các packets của protocol được chỉ định là dropped, khi
được chỉ định honeypots sẽ không respond packet cho protocol, port.
o
Reset – Cho biết tất cả các port là đóng. Nếu 1 TCP port là đóng thì honeypot
ảo respond với 1 TCP RST tới 1 packet SYN cho port này. Nếu là UDP port đóng
thì honeypot ảo replies với 1 một thông báo ICMP port-unreachable.
 Thêm port kèm theo protocol cùng với action
 Thêm script chạy các dịch vụ trên các port.
 Thiết lập các biến system:
 UPTIME thời gian hệ thống chạy bao lâu tính bằng giây.
 DROPRATE IN tỷ lệ (%) rớt được chỉ định của packets gửi từ Honeyd để mô
phỏng một mạng bận rộn.
 UID and GID định danh duy nhất và định danh trên toàn cầu của các máy tính
ảo (number).
Sau đây sẽ xây dựng một mạng vật lý bao gồm 4 máy tính để bàn cộng với một hệ
thống được dùng làm máy chủ Honeyd. Mạng ảo mà giả lập sẽ được đặt trên máy chủ
Honeyd. Honeyd làm việc trên nền Unix, rồi được chuyển sang Windows bởi Michael
Davis. Trong ví dụ này, sẽ dùng một máy Windows Server 2003 để làm máy chủ Honeyd.
Mạng vật lý sử dụng dải địa chỉ 10.0.0.0/24, và máy chủ Honeyd được gán cho địa chỉ
IP 10.0.0.1 như hình 3.1.

Hình 3.1 : Honeyd host



3.1

Các bước thiết lập Honeypots :

Đầu tiên xem qua cách thức thiết lập 2 mạng Honeypots trên máy chủ Honeyd.
Xây dựng 2 Honeypots sử dụng hệ điều hành Windows trên địa chỉ IP 10.0.0.51 và
10.0.0.52. Đường sọc màu xanh trong hình 2 chứa các Honeypots mà máy chủ Honeyd
tạo ra.
Trước khi cấu hình và chạy Honeyd, cần phải chắc rằng máy chủ Honeyd trả lời
các gói tin yêu cầu ARP (Address resolution packet - gói tin phân giải địa chỉ) cho các IP
của các Honeypots làm chủ.
Trước khi khởi động Honeyd, cần cung cấp cho Honeyd một tập tin cấu hình (trong
trường hợp này là tập tin lab1.config) chứa các thông tin giả lập 2 máy có hệ điều hành
Windows. Tập tin cấu hình sẽ có nội dung tương đối dễ hiểu như sau:
#Windows computers
#annotate "Microsoft Windows 2003 Server SP2"
create window
set window ethernet "vmware"
set window personality "Microsoft Windows 2003 Server SP2"
set window default icmp action reset
set window default tcp action block
set window default udp action reset
add window tcp port 80 "perl scripts\iisemulator-0.95\iisemul8.pl"
add window tcp port 139 open
add window udp port 138 open
add window udp port 137 open add window udp port 135 open
bind 10.0.0.51 window
bind 10.0.0.52 window

Các cấu hình trên tạo một mẫu tên là window và gắn 2 địa chỉ IP cho Honeypots
với mẫu đó. Mẫu trên yêu cầu Honeyd đóng giả hệ điều hành “Microsoft Windows
2003 Server SP1” khi một máy khách cố gắng xác minh Honeypots với nmap hoặc
Xprobe. Mở 5 port trên Honeypots: 80/tcp, 139/tcp, 137/udp, 138/udp và 135/udp.
Khi một máy kết nối tới cổng 80 của Honeypots, Honeypots sẽ thực thi “perl
scripts\iisemulator-0.95\iisemul8.pl” để giả lập IIS. Đối với các cổng được đóng,
Honeypots sẽ trả lời yêu cầu bằng một thông điệp RST trong trường hợp giao thức
TCP hoặc một thông điệp ICMP Port Unreachable trong trường hợp giao thức UDP. Với
tập tin cấu hình này, có thể chạy Honeyd từ cấu hình lệnh:
C:\winhoneyd\WinHoneyd_1.5c.exe -d -i 2 -f C:\winhoneyd\lab1.config 10.0.0.51 10.0.0.52

Tùy chọn –d là biến lựa chọn tốt nhất cho việc thực thi Honeyd tùy chọn này


hoạt động kín đáo trong nền sau, -i <interface> là tùy chọn chỉ ra interface mà
honeyd lắng nghe và kết nối với mạng, -f <filename> thực thi file cấu hình. Để biết
được tất cả network interfaces dùng tùy chọn –N.

Từ thời điểm này, Honeyd bắt đầu lắng nghe và trả lời các gói tin đối với 2 hệ
thống ảo mà nó tạo ra tại địa chỉ 10.0.0.51 và 10.0.0.52. Máy chủ Honeyd vẫn có thể được
truy cập từ bên ngoài, nên cần phải bảo vệ địa chỉ IP của máy chủ Honeyd bằng tường lửa
cụ thể là phần mềm "Kerio WinRoute Firewall”.


Hình 3.2: Thiết lập 2 Honeypots

3.2

Thiết lập một Router trong mạng :


Hình 3.3 : Router trong mạng Honeypots


Giả lập một mạng đơn giản với Honeyd sử dụng không gian địa chỉ 10.0.1.0/24
chứa 2 Honeypots được tách khỏi mạng LAN bởi một router Cisco (R1) như hình 3.3.
Để giả lập mạng này, đầu tiên là tạo một router Cisco ở địa chỉ 10.0.0.100:
#Cisco router create router
set router ethernet "vmware"
set router personality "Cisco 7200 router running IOS 12.1(14)E6"
set router default icmp action reset
set router default tcp action reset
set router default udp action reset
add router tcp port 23 "perl scripts\router-telnet.pl"
Cú pháp "route entry" được dùng để chỉ định cổng vào mạng ảo từ mạng LAN, ở đây là
Router R1: route entry 10.0.0.100 network 10.0.0.0/24
Cấu hình trên thông báo cho Honeyd biết rằng 10.0.0.100 là cổng vào mạng
ảo 10.0.0.0/24 và cũng là địa chỉ của router. Như vậy là có thể có nhiều router đầu vào,
mỗi router phục vụ cho một phạm vi mạng khác nhau.
Mạng 10.0.1.0/24 có thể được truy cập thông qua router R1. Để chỉ định mạng nào
có thể được kết nối trực tiếp và không cần các bước mạng từ xa, cách dùng lệnh "route
link" như sau: route 10.0.0.100 link 10.0.1.0/24
Địa chỉ IP đầu tiên được chỉ định ra ở trên là IP của router. Địa chỉ mạng được chỉ
định sau từ khoá "link" cho biết mạng nào có thể được truy cập trực tiếp. Nhiều lệnh
link có thể được dùng để gắn nhiều subnet trực tiếp đến một router. Router sẽ sử dụng
mẫu route mà đã thiết lập bằng lệnh : bind 10.0.0.100 route
Hai Honeypots sử dụng mẫu winxp thiết lập ở trên sẽ được gắn với các địa
chỉ IP 10.0.1.51 và 10.0.1.52 :
create winxp
set winxp ethernet "vmware"
set winxp personality "Microsoft Windows XP"

set winxp default icmp action reset
set winxp default tcp action block
set winxp default udp action open add winxp tcp port 23 open
add winxp tcp port 80 open bind 10.0.1.51 winxp
bind 10.0.1.52 winxp
Đến đây, việc cấu hình mạng đơn giản đã hoàn tất. Chạy lệnh trên máy Honeyd
và cung cấp cho nó tập tin cấu hình để mạng giả lập hoạt động.


3.3

Thiết lập mạng 2 Router :

Hình 3.4 : Honeypots với 2 Router
Bây giờ hãy xem xét một trường hợp phức tạp hơn. Trong hình 3.4, thêm vào một
mạng khác ngăn cách với mạng ban đầu bởi router R2 với địa chỉ IP 10.0.1.100. Mạng
mới có địa chỉ trong dải 10.1.0.0/24 và chứa 2 Honeypots ở địa chỉ 10.1.0.51 và 10.1.0.52.
Đầu tiên thêm vào một cổng nối (R2) trong tập tin cấu hình. Bằng cấu hình "route add
net", có thể thêm vào mạng ảo một cổng nối. Áp dụng trong trường hợp này có dạng sau:
route 10.0.0.100 add net 10.1.0.0/24 10.0.1.100
Cấu hình trên cho thấy Honeyd biết rằng 10.0.0.100 là IP của Router R1, được chỉ
định để kết nối tới mạng 10.1.0.0/24 thông qua cổng nối 10.0.1.100 (router R2). Địa
chỉ IP đầu tiên trên cấu hình lệnh là của R1, địa chỉ cuối là của cổng nối mới, và dải địa
chỉ được chỉ định là của mạng được truy cập thông qua cổng nối mới.
Sau khi thêm vào router R2, phải chỉ định địa chỉ IP nào có thể được kết nối
trực tiếp từ R2. Một lần nữa lại dùng lệnh "route link" để làm việc này. Trong mạng
của mình, mạng con 10.1.0.0/24 được truy cập trực tiếp từ R2, nên câu lệnh có dạng sau:
route 10.0.1.100 link 10.1.0.0/24
Tiếp theo thêm vào 2 Honeypots bằng cách gắn địa chỉ IP của chúng với mẫu



Honeypots.
bind 10.1.0.51 window
bind 10.1.0.52 window
Tổng kết lại, có thể chỉ định một đường vào mạng ảo với lệnh "route entry
network". Để chỉ định các mạng có thể được truy cập trực tiếp từ một cổng nối, dùng cấu
hình lệnh "route link". Thêm một cổng nối mới để truy cập vào mạng con bằng cấu
hình "route add net". Đây là 3 cấu hình cơ bản để xây dựng topology mạng lớn với
Honeyd. Bằng cách sử dụng kết hợp các cấu hình này, có thể giả lập các mạng phức
tạp.
Bây giờ, sẽ mở rộng mạng thêm một mức nữa để nghiên cứu thêm các đặc tính
nổi trội khác của Honeyd.

3.4

Thiết lập độ trễ , thất thoát và băng thông :

Thêm vào một mạng thứ 3, bao gồm 2 Honeypots nằm các R2 một hop như hình:

Hình 3.5 : Thiết lập độ trễ, thất thoát và băng thông
Thêm mạng này vào trong tập tin cấu hình:
route 10.0.1.100 add net 10.1.1.0/24 10.1.0.100 latency 50ms loss 0.1 bandwidth 1Mbps
route 10.1.0.100 link 10.1.1.0/24
bind 10.1.1.51 window
bind 10.1.1.52 window
Các cấu hình trên sẽ chỉ định địa chỉ IP 10.1.0.100 làm cổng nối truy cập vào mạng


10.1.1.0/24, và triển khai 2 Honeypots ở địa chỉ 10.1.1.51 và 10.1.1.52. Cấu hình "route
add net" cũng thiết lập các tham số về độ trễ khi truyền, tổn thất và băng thông của kết nối

giữa router R2 và R3.
Trong thực tế, mỗi bước mạng gói tin đi qua sẽ thêm một khoảng thời gian trễ
truyền nhất định. Điều này có thể được giả lập thông qua từ khóa latency - độ trễ trên
mỗi bước mạng có thể được chỉ định ra bằng số mili giây truyền đi. Mạng máy tính
trong thực tế cũng không giống như trong trường hợp lý tưởng khi truyền gói tin - một số
gói tin có thể bị thất thoát. Từ khóa loss được dùng để minh họa hành vi của các liên
kết trong mạng bằng cách chỉ ra tỉ lệ phần trăm (%) thất thoát. Honeyd cũng đưa gói tin
vào hàng đợi nếu một liên kết bị chiếm bởi một gói tin trước đó. Tùy thuộc vào băng thông
phục vụ cho liên kết, giá trị trễ có thể thay đổi. Băng thông của một liên kết được chỉ
định bằng Kpbs, Mbps hoặc Gbps với từ khoá bandwidth.

3.5

Tích hợp các máy vật lý vào topology mạng :

Honeyd cũng hỗ trợ việc tích hợp các topology mạng ảo với các máy chủ vật lý
trên mạng. Giả sử muốn tích hợp vào mạng ảo một máy chủ nằm tại địa chỉ 10.1.1.53.
Máy chủ này được đặt trong mạng LAN chứa máy chủ Honeyd và các máy bàn khác,
nhưng muốn đặt một cách logic sau vài bước nhảy bên trong mạng ảo. Hình 3.6 mô tả cấu
trúc của mạng:
Dùng lệnh "bind" để gắn một máy chủ vật lý bên ngoài vào trong mạng. Cấu hình sẽ
như sau: bind 10.1.1.53 to eth0
Cấu hình trên báo cho Honeyd biết rằng 10.1.1.53 có thể được kết nối thông qua
giao diện eth0; vì 10.1.1.53 nằm trong phần mạng sau router R3 (một cách logic), một
gói tin tới địa chỉ IP sẽ chạy qua R1, R2 và R3 trước khi đến 10.1.1.53. Để thấy điều này,
hãy lần theo đường định tuyến đến 10.1.1.53 từ máy bàn trên mạng LAN:
C:\>tracert 10.1.1.53
Tracing route to 10.1.1.53 over a maximum of 30 hops
1 * * * Request timed out.
2 <10 ms 10 ms 10 ms 10.0.1.100

3 10 ms 20 ms 20 ms 10.1.0.100
4 10 ms 20 ms 20 ms 10.1.1.53
Trace complete


Hình 3.6 : Tích hợp các máy vật lý vào topology mạng
Máy 10.1.1.53 được kết nối thông qua 3 trạm trung gian ảo, mặc dù nó nằm trên
cùng mạng vật lý với các máy khác.

3.6

Thiết lập nhiều Router đầu vào :

route entry 10.0.0.200 network 10.2.0.0/24
route 10.0.0.200 link 10.2.0.0/24
route 10.0.0.200 add net 10.2.1.0/24 10.2.0.100
route 10.2.0.100 link 10.2.1.0/24
bind 10.0.0.200 router
bind 10.2.0.100 router
bind 10.2.0.51 window
bind 10.2.0.52 window
bind 10.2.1.51 window
bind 10.2.1.52 window
Honeyd cũng cho phép thiết lập nhiều đường vào mạng ảo. Ví dụ: hình 3.7
thêm vào một mạng mới được kết nối thông qua router R4 ở 10.0.0.200. Tạo một đầu
vào mới khá đơn giản: dùng lệnh "rounte entry" một lần nữa để định nghĩa router mới.


Phần còn lại của mạng có thể được xây dựng thông qua việc kết hợp "route add net"
với "route link". Đối với mạng này, có một cấu hình cho điểm vào thứ 2 và mạng đằng

sau nó:

Hình 3.7 : Thiết lập nhiều Router đầu vào


3.7

Đường hầm GRE để thiết lập mạng phân tán :

Hình 3.8 : Đường hầm GRE để thiết lập mạng phân tán
Một tính năng nổi trội khác của Honeyd là khả năng truyền dữ liệu thông qua
đường hầm từ một mạng ảo trong máy chủ Honeyd tới các mạng khác từ xa để thiết lập
một mạng phân tán. Tính năng này được sử dụng để giả lập một mạng phân tán thông qua
máy chủ Honeyd hoặc dùng một máy chủ Honeyd để phục vụ nhiều mạng phân tán. Trong
phần sau, sẽ thiết lập máy chủ Honeyd đóng vai trò như một tập hợp các Honeypots tương
tác, một dạng site tập trung. Các thành phần tham gia có thể kiểm soát một phần của
không gian địa chỉ IP bằng cách định tuyến tới không gian địa chỉ đó thông qua một đường
hầm tới máy chủ Honeyd. Hình 3.8 mô tả hệ thống mạng này :
Để hiểu cách cấu hình đường hầm GRE (Generic Route Encapsulation), sẽ xem
xét một phiên bản đơn giản của mạng đã phát triển. Trong hình 3.8, mạng 10.3.1.0/24
được đặt xuyên qua WAN, có thể là xuyên qua mạng lưới quốc gia. Dùng tính năng đường
hầm GRE của Honeyd, có thể truyền dữ liệu từ router R7 tới router ảo R6 như thể 2
router được kết nối trực tiếp với nhau. Đối với người dùng trên mạng xuyên quốc gia,
điều này có vẻ như mạng giả lập bên trong máy chủ Honeyd chỉ cách một trạm truyền,
khi lưu thông được thực hiện thông qua đường hầm qua liên kết ảo được thiết lập giữa 2
router. Máy chủ Honeyd của ta có thể nhờ đó được sử dụng để phục vụ một mạng ở xa.


Để cấu hình máy chủ Honeyd thiết lập đường hầm GRE như hình 3.8, phải
thêm R6 - router có giao diện bên ngoài là 172.20.254.1 như một router ảo có thể triển

khai đường hầm. R6 là một router vào mới cho phép lưu thông tới mạng 10.3.2.0/24. Khi
nó không cần thiết phải triển khai router cho việc truyền dữ liệu thông qua đường hầm, sẽ
dễ hiểu cấu hình cho router ảo:
route entry 172.20.254.1 network 10.3.2.0/24
Sau đó mô tả mạng 10.3.2.0/24 được kết nối trực tiếp từ router trên với lệnh "route link"
route 172.20.254.1 link 10.3.2.0/24
Để thiết lập đường hầm, dùng cấu trúc "route add net tunnel". Đầu cuối thứ
nhất của đường hầm là địa chỉ IP bên ngoài của Router R6, vd 172.20.254.1. Địa chỉ
IP vật lý của router ở xa 172.30.254.1 sẽ là đầu cuối thứ 2 của đường hầm. Trong tập tin
cấu hình, sẽ chỉ định router ảo và mạng ở xa mà sẽ dùng đường hầm để kết nối, như sau:
route 172.20.254.1 add net 10.3.1.0/24 tunnel 172.20.254.1 172.30.254.1
Chú ý là router R7 xuyên qua WAN phải được cấu hình để làm đầu cuối cho
đường hầm GRE từ router ảo và định tuyến các gói tin đến đích.
Đến đây, mọi lưu thông từ mạng 10.3.1.0/24 tới các Honeypots cung cấp bởi
Honeyd sẽ được thực hiện thông qua đường hầm GRE giữa router R6 và R7. Với chức
năng này, có thể có một mạng phân tán và tạo một topology mạng ảo xuyên qua chúng để
che dấu đi mạng vật lý khỏi các cuộc tấn công từ bên ngoài.
Một số Operating System:
Cisco 1601 router running IOS 12.0(8)
Cisco 1601R router running IOS 12.1(5)
Cisco 2611 router running IOS 12.2(7a)
Cisco 2620 running IOS 12.2(19a)
Cisco 3600 router running IOS 12.2(6c)
Cisco 4000 Series running IOS 12.0(10.3)
Cisco 5200 router running IOS v12.0(15)
Cisco 7200 router running IOS 12.1(14)E6
Cisco 7204 router running IOS 12.1(19)
Cisco 7206 router running IOS Version 12.2(13)T8
Cisco 837 router running IOS 12.3(11)T
Cisco IOS 12.0(21) (On a 2514 router)

Cisco IOS 12.0(3.3)S (perhaps a 7200 router)
Cisco IOS 12.0(5)WC3 - 12.0(16a)
Cisco IOS 12.0(7)T (on a 1700 router)
Cisco IOS 12.1(4) on a 2600 router
Cisco IOS 12.2(8)T5 on a 7507 router


Linux 2.4.20 (Itanium) Linux 2.4.20 (Red Hat)
Linux 2.4.20 (X86, Redhat 7.3)
Linux 2.4.20 - 2.4.22 w/grsecurity.org patch
Linux 2.4.20 x86
Linux 2.4.20-ac2
Linux 2.4.21 (Suse, X86) Linux 2.4.21 (x86)
Linux 2.4.21 (x86, RedHat)
Microsoft Windows Server 2003
Microsoft Windows Server 2003 Enterprise Edition
Microsoft Windows Server 2003 or XP SP2
Microsoft Windows Server 2003 Standard Edition
Microsoft Windows XP Home Edition
Microsoft Windows XP Home Edition (German) SP1
Microsoft Windows XP Home SP1
Microsoft Windows XP Pro
Microsoft Windows XP Pro (German) Microsoft Windows XP Pro (German) SP1


×