ĐÀI PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH QUẢNG NINH
VỚI VẤN ĐỀ TUYÊN TRUYỀN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
(Khảo sát các chương trình Truyền hình từ tháng 6/2013 đến tháng
6/2014)
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn “Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh
với vấn đề tuyên truyền phát triển kinh tế biển trên địa bàn tỉnh”, tôi xin
được bày tỏ lòng biết ơn Tiến sĩ Phạm Tất Thắng, Phó Tổng biên tập Thường
trực Tạp chí Cộng Sản, người đã nhiệt tình truyền dạy kinh nghiệm, định
hướng và chỉ bảo cho tôi.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, các cô giáo là giảng viên Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, đặc biệt là những thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy
tôi trong quá trình theo học. Các thầy, cô giáo đã truyền đạt tri thức, kinh
nghiệm, và hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Đài Phát thanh - Truyền hình
Quảng Ninh, lãnh đạo một số địa phương, sở, ngành của tỉnh Quảng Ninh đã
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Luận văn “Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh với việc tuyên
truyền phát triển kinh tế biển trên địa bàn tỉnh” là sản phẩm nghiên cứu khoa
học đầu tiên của tôi. Mặc dù đã cố gắng, song do trình độ và điều kiện nghiên
cứu còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Tôi chân thành mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp quý báo
để luận văn này có thể hoàn chỉnh hơn và đó cũng là kinh nghiệm quý báu để
tôi có thể triển khai những công trình nghiên cứu sau này. Xin chân thành
cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
MỤC LỤC
Xin chân thành cảm ơn!................................................................................140
Phụ lục 3........................................................................................................141
KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN CÔNG CHÚNG......................................141
- Phóng sự ngắn: Cô Tô - Đêm đầu tiên sử dụng điện lưới quốc gia, phát sóng
ngày 15/10/2013............................................................................................156
- Chương trình Phát thanh: Thêm một mùa “vàng trắng” ở Cô Tô, phát sóng
ngày 12/04/2014............................................................................................156
DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ
Xin chân thành cảm ơn!................................................................................140
Phụ lục 3........................................................................................................141
KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN CÔNG CHÚNG......................................141
- Phóng sự ngắn: Cô Tô - Đêm đầu tiên sử dụng điện lưới quốc gia, phát sóng
ngày 15/10/2013............................................................................................156
- Chương trình Phát thanh: Thêm một mùa “vàng trắng” ở Cô Tô, phát sóng
ngày 12/04/2014............................................................................................156
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDP
: Tổng sản phẩm quốc nội
UNESSCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
DOC
: Tuyên bố của các bên về ứng xử trên Biển Đông
COC
: Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông
UBND
: Ủy ban Nhân dân
NXB
: Nhà xuất bản
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam có một vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km 2,
gấp 3 lần diện tích đất liền; có bờ biển dài 3.260 km. Từ bao đời nay, biển
luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt
Nam. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển có vai trò, vị trí rất
quan trọng, gắn bó mật thiết và ảnh hưởng to lớn đến phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của nước ta. Sau gần 30
năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, tiềm lực kinh tế biển của đất nước ta đã không ngừng lớn mạnh, phát
triển với tốc độ khá nhanh và đã có những đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế - xã hội của đất nước.
Bước vào thế kỷ XXI, giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang
hướng mạnh về biển để tăng cường tiềm lực kinh tế của mình. Đây là hướng
đi đúng đắn, bởi lẽ biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng phát triển kinh
tế to lớn. Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về
đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tinh thần cơ bản của Nghị quyết là tiếp tục nhấn mạnh chủ trương xây dựng
Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển, phát triển kinh tế - xã hội vùng
biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo
của đất nước.
Để tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI, Hội nghị
lần thứ 4 ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã thông qua Nghị quyết
số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”,
trong đó nhấn mạnh "Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương”.
Nghị quyết đề ra mục tiêu, đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển; làm
giàu từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển gắn với cơ cấu phong
2
phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm
nhìn dài hạn. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn
đề xã hội, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về Chiến lược biển là bước tiến lớn,
đột phá về lĩnh vực này. Để thực hiện thắng lợi Chiến lược biển, cần nâng cao
nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quảng Ninh nằm ở phía đông Bắc Bộ, phía Tây giáp tỉnh Lạng Sơn và
tỉnh Bắc Giang, phía đông giáp Vịnh Bắc Bộ, phía Tây Nam giáp tỉnh Hải
Dương và thành phố Hải Phòng, phía Bắc giáp thành phố Phòng Thành và
huyện Đông Hưng của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Quảng Ninh là tỉnh công
nghiệp, du lịch, dịch vụ, có vị trí địa lý quan trọng trong phát triển kinh tế
cũng như quốc phòng, an ninh của cả nước.
Là một trong 28 tỉnh, thành phố trong cả nước có biển, đường bờ biển
của tỉnh Quảng Ninh dài 250 km, trong đó có 40.000 ha bãi triều và trên
20.000 ha eo vịnh; có 2.077 hòn đảo, chiếm 2/3 số đảo của cả nước. Tổng
diện tích các đảo là gần 620,000 km 2, chiếm 11,5% diện tích đất tự nhiên toàn
tỉnh. Tỉnh Quảng Ninh có 2 huyện đảo trong tổng số 12 huyện đảo của cả
nước là đảo Cô Tô và đảo Vân Đồn. Vùng nội thủy từ bắc xuống nam có
những đảo chính như đảo Vĩnh Thực, đảo Cái Chiên, đảo Thoi Xanh, đảo Vạn
Vược, đảo Thoi Đây, đảo Sậu Nam, …
Quảng Ninh hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, đặc
biệt là kinh tế biển. Tỉnh có hệ thống cảng biển, cảng nước sâu, có năng lực
bốc xếp cho tàu hàng vạn tấn, tạo nhiều thuận lợi cho ngành vận tải đường
biển giữa nước ta với các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, với việc sở hữu di
sản, kỳ quan thiên nhiên giới Vịnh Hạ Long, ngành du lịch Quảng Ninh đang
3
ngày càng đạt được nhiều thành tựu to lớn. Bên cạnh đó, nguồn lợi thủy hải
sản phong phú, cũng là lợi thể để Quảng Ninh phát triển mạnh mẽ các hoạt
động ngư nghiệp, tạo kế sinh nhai ổn định cho ngư dân toàn tỉnh.
Với những tiềm năng kể trên, Quảng Ninh có vai trò vô cùng quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của vùng,
trong đó có chiến lược phát triển kinh tế ven biển và kinh tế biển. Xác định
được tiềm năng, lợi thế này, những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã dành nhiều
nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế biển.
Đồng hành cùng sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, những
năm qua, Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh đã có những đóng góp
quan trọng trong việc tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế biển trên địa bàn tỉnh. Có thể nói, đây
là mảng đề tài được Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh đặc biệt quan
tâm và dành thời lượng đáng kể để tuyên truyền. Các tin, phóng sự, chuyên
mục, chuyên đề trên sóng phát thanh và truyền hình của Đài phát thanh Truyền hình Quảng Ninh ngày càng tăng về số lượng, phong phú, hấp dẫn về
nội dung và hình thức thể hiện, tập trung tuyên truyền về những thành tựu đạt
được, những mô hình hay, cách làm mới trong phát triển kinh tế biển của
chính quyền, người dân các địa phương.
Thông qua công tác tuyên truyền trên sóng phát thanh, truyền hình của
Đài, tiềm năng phát triển kinh tế biển của nhiều địa phương được khơi dậy
mạnh mẽ; các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biển cũng được xây
dựng, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn của từng địa bàn. Qua
tuyên truyền đã từng bước làm chuyển biến nhận thức của lãnh đạo các cấp,
các ngành và người dân về vị trí, vai trò, tiềm năng của kinh tế biển đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc nâng cao nhận thức về vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của kinh tế biển trong tình hình mới cũng như tuyên truyền
4
về vấn đề này đang bộc lộ những hạn chế cả về nhận thức, tổ chức thực hiện
đến hình thức, phương pháp, lực lượng triển khai. Điều đó ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả tuyên truyền của Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh.
Tuy nhiên, từ trước đến nay, Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh
vẫn chưa tiến hành một cuộc điều tra, khảo sát nào để tìm hiểu nội dung, hình
thức tuyên truyền về lĩnh vực kinh tế biển có đáp ứng được nhu cầu thông tin
của công chúng hay không; hiệu quả, chất lượng tuyên truyền ra sao.
Từ thực trạng trên, việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về
hiệu quả tuyên truyền phát triển kinh tế biển trên Đài Phát thanh - Truyền
hình Quảng Ninh là một việc làm cần thiết để từ đó làm cơ sở cho việc đổi
mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, nhằm nâng cao hơn nữa
chất lượng tuyên truyền của Đài về lĩnh vực quan trọng này.
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề phát triển kinh tế biển và thực
trạng công tác tuyên truyền nội dung này trên Đài Phát thanh - Truyền hình
Quảng Ninh, tác giả lựa chọn vấn đề nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Báo chí
học của mình với đề tài: “Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh với
vấn đề tuyên truyền phát triển kinh tế biển trên địa bàn tỉnh”.
Công trình nghiên cứu không chỉ có ý nghĩa đối với Đài Phát thanh Truyền hình Quảng Ninh mà sẽ là kinh nghiệm đối với hoạt động báo chí một
số địa phương khác có điều kiện tương tự, góp phần đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 4
(khóa X) “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình khảo sát, tìm hiểu tài liệu để nghiên cứu về đề tài, tác
giả nhận thấy, từ trước tới nay, đã có một số công trình nghiên cứu khoa học
như sách, luận văn, tiểu luận, bài báo khoa học, bài viết, tham luận tại các hội
5
nghị ít nhiều có liên quan đến đề tài kinh tế biển được in trên một số sách,
báo, tạp chí, các chương trình hội thảo, như:
- PGS.TS Nguyễn Bá Diến, năm 2006, “Chính sách, pháp luật biển
của Việt Nam và chiến lược phát triển bền vững”, NXB Tư Pháp: Tác giả đã
đề cập một cách hệ thống, toàn diện chính sách pháp luật Việt Nam về biển
trong mối tương quan với yêu cầu của chiến lược phát triển bền vững và hội
nhập quốc tế; đặc biệt là vấn đề xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật
biển trong gian đoạn hiện nay.
- Báo cáo nghiên cứu khoa học: “Một số giải pháp phát triển kinh tế
dải ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh đến năm 2015” của tác giả Hoàng Phan Hải
Yến đăng trên Tạp chí Khoa học, số 4B, năm 2008 của Trường Đại học Vinh
đề cập: Xu thế tiến ra biển của các nước trên thế giới và khu vực đang phát
triển mạnh mẽ, đặt ra thách thức to lớn và cấp bách cho việc phát triển kinh tế
biển và ven biển của nước ta. Với vai trò là cầu nối giữa hai miền Bắc - Nam
tổ quốc, dải ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh cần phải có định hướng phát triển
tổng thể, dài hạn, đồng thời nghiên cứu, xây dựng các mô hình phát triển cụ
thể, phù hợp với từng tiểu vùng để tạo ra một vùng phát triển năng động nhất
và thực sự trở thành đầu tàu lôi kéo kinh tế của cả ba tỉnh Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Tĩnh cùng phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
- Tác giả Ngô Doãn Vịnh, Hà Nội (năm 2004) với đề tài: Cơ sở khoa
học cho việc phát triển kinh tế - xã hội ven biển Việt Nam, đề xuất các mô
hình phát triển cho một số khu vực trọng điểm đã cho rằng: Đặt kinh tế biển
trong tổng thể nền kinh tế cả nước, phát triển theo hướng mở cửa, hướng
mạnh về xuất khẩu, gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội và củng cố an
ninh, quốc phòng. Đề tài này cũng đề xuất các tuyến kinh tế ven biển như:
tuyến Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng - Đồ Sơn; tuyến Huế - Đà Nẵng Dung Quất; tuyến Vũng Tàu - Cần Giờ - TP. Hồ Chí Minh.
6
- Ngô Lực Tải, (năm 2012), Kinh tế biển Việt Nam trên đường phát
triển và hội nhập, Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh: Các bài
viết trong cuốn “Kinh Tế Biển Việt Nam trên đường phát triển và hội
nhập” đã tập trung phân tích những vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế biển và
cảng biển Việt Nam dưới góc nhìn bao quát cả về không gian và thời gian;
trong mối tương quan với lĩnh vực giao thông thủy, bộ với tình trạng biến đổi
khí hậu và nước biển dâng đã, đang và sẽ tác động lớn đến nước ta. Mỗi bài
viết đều thể hiện rõ tình cảm nung nấu của tác giả đối với vận mệnh đất nước,
là những đề xuất cụ thể nhằm khơi dậy tiềm năng biển của Việt Nam, sớm
đưa nước ta trở thành quốc gia “mạnh về biển, làm giàu từ biển”.
- Nhiều tác giả, (năm 2012), Tài liệu tham khảo phục vụ công tác tập
huấn tuyên truyền về biển, đảo, NXB Thông tin và Truyền thông: Tài liệu do
PGS.TS Nguyễn Bá Diến và ThS. Nguyễn Trường Giang chủ biên, gồm 11
chuyên đề về biển Đông với các nội dung về biển Đông như các điều kiện tự
nhiên, vai trò đối với Việt Nam; tình hình biển Đông và những tranh chấp
hiện nay giữa các nước; các cơ sở pháp lý và lịch sử chứng minh chủ quyền
của Việt Nam đối với khu vực biển này; các chủ trương, chính sách của nhà
nước ta để giải quyết tranh chấp; Luật và các điều ước quốc tế trong việc quản
lý và bảo vệ tài nguyên biển…
Ngoài ra, có nhiều công trình khác cũng đề cập đến nhiều vấn đề liên
quan đến kinh tế biển như: Viện Chiến lược và Phát triển, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư (năm 2006), “Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm
2020”; TS. Nguyễn Ngọc Tuấn - Viện Phát triển bền vững vùng Trung Bộ,
“Phát triển bền vững các khu kinh tế ven biển vùng Bắc Trung Bộ” ; Phòng
Tổng hợp, Văn phòng Bộ Tư pháp, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp
ngày 24/05/2010, “Một số vấn đề cơ bản của Chiến lược biển Việt Nam
7
đến năm 2020”; Website Đảng Cộng sản Việt Nam, “Chiến lược phát triển
kinh tế biển”.
Liên quan đến vấn đề báo chí tuyên truyền về kinh tế biển và các ngành
liên quan, có một số công trình nghiên cứu khoa học đã nghiên cứu và đề cập
trên những góc độ khác nhau:
- Luận văn thạc sĩ báo chí học của tác giả Bùi Ngọc Toàn - Học viện
Báo chí và Tuyên truyền năm 2013 về đề tài: “Tuyên truyền phát triển kinh tế
biển trên các kênh truyền hình khu vực Bắc Trung Bộ”. Qua việc tổng kết lý
luận và thực tiễn, nghiên cứu này cũng rút ra một số nhận xét, đánh giá nhằm
ứng dụng vào việc xác định hướng đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền
phát triển kinh tế biển một cách hiệu quả nhất, đồng thời, rút ra những bài học
kinh nghiệm để tổ chức hoạt động tuyên truyền và phát huy năng lực sáng tạo
nghề báo ở các Đài Phát thanh và Truyền hình các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả và năng lực tổ chức sản xuất các chương trình phát thanh truyền hình
ở các đài địa phương.
- Cũng trong năm 2013, tác giả Vũ Mạnh Cường - Học viện Báo chí và
Tuyên truyền đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ báo chí học với đề tài:
“Vấn đề tuyên truyền xây dựng nông thôn mới trên báo chí Quảng Ninh”.
Luận văn đã đề cập trực tiếp đến vấn đề tuyên truyền xây dựng nông thôn mới
trên báo chí Quảng Ninh, chỉ ra vấn đề xây dựng nông thôn mới đã được báo
chí Quảng Ninh tuyên truyền như thế nào để từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền về nông thôn mới thời gian
tới cũng như những vấn đề báo chí quan tâm.
- Mới đây, trong luận văn thạc sĩ báo chí học của tác giả Trần Thị Thu
Hiền, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, (năm 2014) có đề tài: “Báo in tuyên
truyền phát triển bền vững ngành thủy sản”. Trên cơ sở đánh giá thực trạng,
8
luận văn đề ra một số giải pháp và những bài học kinh nghiệm trong thông
tin, tuyên truyền phát triển bền vững ngành thủy sản. Luận văn góp phần
khẳng định vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền trong phát triển bền
vững ngành thủy sản, giúp các cơ quan báo chí và cơ quan quản lý báo chí
đánh giá đúng, đầy đủ về việc thực hiện tuyên truyền trong lĩnh vực này.
Thông qua đó đã từng bước đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền theo
hướng phù hợp, thiết thực và hiệu quả hơn; đồng thời khuyến khích tạo ra
những sản phẩm báo chí hay, có giá trị.
Như vậy, có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về kinh tế biển
Việt Nam cũng như việc tuyên truyền về lĩnh vực này. Đa số các công trình
đã đề cập đến một số chính sách của Nhà nước trong vấn đề phát triển kinh tế
biển, chiến lược biển của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Các
công trình khoa học trong lĩnh vực báo chí bàn nhiều đến vấn đề tuyên truyền
phát triển các ngành kinh tế, trong đó có những ngành có mối liên hệ mật thiết
với kinh tế biển. Tuy nhiên, tại Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh,
đến nay, vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu, đánh giá một
cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống về việc tuyên truyền phát triển kinh tế
biển của Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh. Trong khi đó, Quảng
Ninh được biết đến là tỉnh giàu tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển,
đồng thời là địa bàn chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị, an ninh
quốc phòng của đất nước và Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh được
đánh giá là một trong những Đài phát triển mạnh ở khu vực phía Bắc cũng
như trong cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung và khảo sát, đánh giá, phân
tích thực trạng tuyên truyền phát triển kinh tế biển của Đài Phát thanh -
9
Truyền hình Quảng Ninh (khảo sát các chương trình phát thanh và truyền
hình), luận văn đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
công tác tuyên truyền phát triển kinh tế biển trên Đài Phát thanh - Truyền
hình Quảng Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu, học viên xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn của báo chí tuyên truyền
về phát triển kinh tế biển.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng tuyên truyền phát triển kinh tế biển của
Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng
tuyên truyền phát triển kinh tế biển trên Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tuyên truyền phát triển kinh tế biển của các kênh truyền hình và phát
thanh , Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Nội dung tin, phóng sự, chuyên đề, phỏng vấn, tọa đàm về phát triển
kinh tế biển trên Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh (bao gồm cả phát
thanh và truyền hình).
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khảo sát: Các tin, phóng sự, chuyên đề, phỏng vấn, tọa đàm về
phát triển kinh tế biển trong chương trình thời sự, chuyên đề, chuyên mục trên
kênh truyền hình của Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh. Ngoài ra, luận
văn có khảo sát thêm các chương trình phát thanh về đề tài này để so sánh.
10
- Thời gian khảo sát: Từ tháng 6/2013 đến tháng 6/2014.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Công trình được thực hiện dựa vào hệ thống các quan điểm, chủ trương
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về công tác báo chí,
truyền thông, đặc biệt là những định hướng, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về
việc phát huy vai trò, sức mạnh của phát thanh, truyền hình phục vụ các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu này là lý luận báo chí, truyền thông
và lý luận chuyên ngành phát thanh, truyền hình ở Việt Nam; hệ thống quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế biển.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, học viên sẽ vận dụng tổng hợp các phương
pháp sau đây:
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Phương pháp này nhằm phân tích nội dung văn bản: Bao gồm phân tích
về mặt định tính nội dung các báo cáo, tài liệu, giáo trình, các công trình
nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề tuyên truyền kinh tế biển. Từ đó
rút ra những số liệu, kinh nghiệm để học viên triển khai thực hiện luận văn.
* Phương pháp khảo sát, thống kê:
Khảo sát, thống kê các tin, phóng sự, chuyên đề, chuyên mục, phỏng
vấn, tọa đàm trên kênh phát thanh và truyền hình của Đài Phát thanh - Truyền
hình Quảng Ninh liên quan đến tuyên truyền phát triển kinh tế biển.
Phương pháp này nhằm nghiên cứu tần suất xuất hiện, hình thức và nội
dung tuyên truyền của các tin, phóng sự, chuyên đề, chuyên mục, phỏng vấn,
tọa đàm liên quan đến phát triển kinh tế biển. Trên cơ sở kết quả khảo sát,
11
thống kê, tác giả xây dựng nội dung điều tra xã hội học bằng bảng hỏi để phục
vụ công tác nghiên cứu.
* Phương pháp điều tra xã hội học:
Điều tra xã hội học bằng bảng hỏi nhằm khảo sát ý kiến đánh giá của
công chúng đối với các nội dung tuyên truyền phát triển kinh tế biển trên Đài
Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh, đồng thời đánh giá nhận thức của công
chúng về vấn đề này. Tác giả luận văn đã sử dụng 300 bảng hỏi với các đối
tượng khác nhau để thực hiện việc khảo sát ý kiến đánh giá của công chúng.
Cụ thể, những đối tượng đó là lãnh đạo, cán bộ quản lý và người dân 2 địa
phương có biển tại Quảng Ninh là huyện Cô Tô và huyện Vân Đồn; lãnh đạo,
cán bộ quản lý cơ quan báo chí và một số sở, ngành có liên quan đến lĩnh vực
kinh tế biển Quảng Ninh. Kết quả điều tra xã hội học bằng bảng hỏi là cơ sở
để tác giả thực hiện các phỏng vấn sâu về hiệu quả tuyên truyền phát triển
kinh tế biển trên Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh.
* Phương pháp chuyên gia:
Phương pháp này nhằm trao đổi, phỏng vấn với các chuyên gia, nhà
quản lý để lấy ý kiến về quan điểm tuyên truyền phát triển kinh tế biển trên
Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh hiện nay cũng như đánh giá hiệu
quả, tác động và những giải pháp tuyên truyền kinh tế biển.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập một cách cụ thể đến việc tổ
chức các hoạt động tuyên truyền về nội dung phát triển kinh tế biển ở Đài Phát
thanh - Truyền hình Quảng Ninh. Mặc dù đối tượng và phạm vi nghiên cứu chỉ
tập trung vào một lĩnh vực tuyên truyền cụ thể của Đài Phát thanh - Truyền hình
Quảng Ninh, nhưng đây lại là lĩnh vực có tầm quan trọng chiến lược đối với
Quảng Ninh nói riêng và là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước. Hy vọng, những kết quả nghiên cứu của công trình sẽ góp phần làm phong
12
phú thêm hệ thống lý luận báo chí ở nước ta về vấn đề báo chí phát thanh, truyền
hình tham gia các hoạt động tuyên truyền tại địa phương.
Qua việc tổng kết lý luận và thực tiễn, công trình nghiên cứu này cũng
đúc rút một số nhận xét, đánh giá nhằm ứng dụng vào việc xác định hướng
đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền phát triển kinh tế biển một cách hiệu
quả nhất; đồng thời, rút ra những bài học kinh nghiệm để tổ chức hoạt động
tuyên truyền và phát huy năng lực sáng tạo nghề báo ở Đài Phát thanh Truyền hình Quảng Ninh. Từ đó, công trình cũng sẽ đề xuất các giải pháp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực tổ chức sản xuất
các chương trình phát thanh truyền hình ở các đài địa phương.
Công trình cũng sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà nghiên
cứu lý luận báo chí phát thanh, truyền hình và có thể phục vụ cho hoạt động
nghiên cứu khoa học trong các trường Đại học, Cao đẳng đối với những
chuyên ngành có liên quan đến vấn đề này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu vận dụng lý luận báo chí học để giải
quyết một vấn đề của thực tiễn. Kết quả của đề tài sẽ góp phần bổ sung cho lý
luận Báo chí học về vấn đề hoạt động truyền thông phục vụ phát triển kinh tế
- xã hội. Hy vọng công trình này sẽ giúp cho các nhà quản lý, các phóng viên,
biên tập viên, những người làm công tác tuyên truyền ở Quảng Ninh cũng như
các địa phương có biển trong cả nước có thêm một góc nhìn lý luận về hoạt
động tuyên truyền ở địa phương.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về phương diện thực tiễn, luận văn là một tài liệu tham khảo hữu dụng
cho các nhà quản lý báo chí, phóng viên, biên tập viên trong việc khai thác
sức mạnh của phát thanh, truyền hình để thực hiện tốt hơn nghiệp vụ của
13
mình trong hoạt động tuyên truyền phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội tại địa phương.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể ứng dụng vào thực tiễn công tác
tuyên truyền ở Đài Phát thanh và Truyền hình Quảng Ninh cũng như ở một số
cơ quan báo chí của các địa phương ven biển nhằm nâng cao chất lượng nội
dung, hình thức thể hiện của các thể loại báo chí tuyên truyền phát triển kinh
tế biển.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận chung về tuyên truyền phát triển kinh tế biển
Chương 2: Thực trạng tuyên truyền phát triển kinh tế biển trên Đài Phát
thanh - Truyền hình Quảng Ninh
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền
phát triển kinh tế biển trên Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh
14
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TUYÊN TRUYỀN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
1.1. Những vấn đề cơ bản về phát triển kinh tế biển ở Quảng Ninh
1.1.1. Khái niệm phát triển kinh tế biển
* Kinh tế biển
Hiện tại, trên diễn đàn quốc tế, các nước vẫn chưa hoàn toàn thống nhất
chung về khái niệm kinh tế biển. Mỗi quốc gia có biển lại có cách nhìn riêng,
phụ thuộc vào giá trị đóng góp của ngành này đối với nền kinh tế quốc dân.
Có thể khái niệm kinh tế biển theo các cách sau:
Thứ nhất, là toàn bộ hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm:
Kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển); hải sản (đánh bắt và nuôi
trồng hải sản); khai thác dầu khí ngoài khơi; du lịch biển; làm muối; dịch vụ
tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Nhiều tác giả nghiên cứu về biển và đại dương
cho rằng, đây là khái niệm kinh tế biển hiểu theo nghĩa hẹp.
Thứ hai, là nền kinh tế tổng hợp của các ngành công nghiệp do môi
trường biển đem lại, gồm: mặt nước ven bờ; lãnh hải; vùng kinh tế đặc quyền;
đóng và sửa chữa tàu biển; công nghiệp khai thác khoáng sản biển và chế biến
dầu khí; công nghiệp chế biến thủy, hải sản; cung cấp dịch vụ biển; thông tin liên
lạc biển; nghiên cứu khoa học - công nghệ biển; đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
phát triển kinh tế biển; điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển…
Từ những diễn giải trên, tác giả đồng tình với khái niệm: Kinh tế biển
là toàn bộ các hoạt động kinh tế được diễn ra trên biển và ở đất liền nhưng có
liên quan trực tiếp đến hoạt động khai thác các nguồn lợi kinh tế từ biển.
Khái niệm trên cho thấy, đặc trưng kinh tế biển khác với một số ngành
kinh tế khác. Vì kinh tế biển luôn mang những tính chất kinh tế đặc thù, mang
tính chất đa ngành, đa lĩnh vực, bao gồm nhiều ngành, nghề khác nhau, có
quan hệ tác động qua lại, lệ thuộc lẫn nhau.
15
* Phát triển kinh tế biển
Thuật ngữ “Phát triển” được dùng khá phổ biến, gắn với các lĩnh vực,
ngành, nghề nhằm chỉ sự tiến hóa, biến thiên từ thấp vươn lên tới cao hoặc từ
cao vươn lên đến tầm cao hơn nữa của một sự kiện, hiện tượng, vấn đề trong
đời sống xã hội của con người. Ngày nay, theo sự vận động, biến đổi của lịch
sử và của quy luật tự nhiên, thuật ngữ “Phát triển” được dùng chung cho tất
cả các ngành, lĩnh vực, hoạt động khác nhau trong sự vận động, biến đổi từ
con số không đến con số có thể đếm được; từ con số có sự xác định còn nhỏ
đến con số lớn hơn theo hướng cấp số cộng, cấp số nhân.
Từ những cơ sở trên, theo quan điểm của tác giả luận văn, phát triển
kinh tế biển là một quá trình vận động, biến đổi từ nhỏ đến lớn, theo chiều
hướng từ thấp đến cao và từ quy mô lớn rồi lại lớn hơn nữa của các hoạt động
kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế diễn ra trên đất liền nhưng
có liên quan trực tiếp đến hoạt động khai thác các nguồn lợi kinh tế từ biển
trong một chu kỳ hay một giai đoạn nhất định của thực tiễn.
1.1.2. Đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh
tế biển
Với cơ cấu ngành, nghề đa dạng, trong đó có nhiều ngành, nghề then
chốt như khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải, kinh tế biển có vai trò đặc biệt
quan trọng, đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam.
Trong mấy thập kỷ gần đây, Ðảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương,
chính sách, biện pháp quan trọng nhằm quản lý, bảo vệ, khai thác biển.
Có ý nghĩa quan trọng đối với các hoạt động kinh tế biển phải kể đến
Nghị quyết 03-NQ/TW ngày 6/5/1993 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt. Trong đó khẳng định rằng,
phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ
chủ quyền và lợi ích quốc gia. Song song với nhiệm vụ đó là bảo vệ tài
16
nguyên và môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một nước mạnh về
biển vào năm 2020. Sau Nghị quyết này, Thủ tướng Chính phủ đã có các chỉ
thị triển khai thực hiện, như Chỉ thị 399 ngày 5/8/1993 về một số nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt và Chỉ thị 171/TTg năm
1995 triển khai Nghị quyết 03-NQ/TW.
Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 20-CT/TW về Đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa ra
một số quan điểm trong phát triển kinh tế biển. Đó là: Thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá kinh tế biển hướng mạnh vào xuất khẩu, dựa trên những tiến
bộ khoa học, công nghệ làm động lực; vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý, khai
thác tiềm năng biển có hiệu quả, vừa tái tạo tài nguyên biển, bảo vệ môi
trường, đào tạo nhân lực. Quan điểm này được cụ thể hoá bằng các giải pháp,
gồm: Đầu tư thích đáng cho khoa học - công nghệ; tăng cường năng lực điều
tra khảo sát, nghiên cứu khí tượng - thuỷ văn và môi trường; thực trạng tài
nguyên và dự báo xu thế biến động trong những thập kỷ tới. Từ nay đến năm
2000 cần tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học biển; tìm kiếm thăm dò
dầu khí, khoáng sản biển, nguồn lợi hải sản và năng lượng biển; nghiên cứu
và bảo vệ môi trường biển, tiếp tục hiện đại hoá khí tượng- thuỷ văn. Thi
hành Chỉ thị này, một loạt kế hoạch về phát triển kinh tế biển đã được thông
qua như: Chiến lược phát triển thuỷ sản 2010; Chiến lược phát triển du lịch
2010; Chiến lược phát triển giao thông vận tải 2010…
Bước sang thế kỷ XXI, Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) khẳng định
mục tiêu: Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết
hợp với bảo vệ vùng biển; mở rộng nuôi trồng và đánh bắt, chế biến hải sản,
tiến ra biển xa; khai thác và chế biến dầu khí; phát triển công nghiệp đóng tàu
và vận tải biển, du lịch, dịch vụ; phát triển các vùng dân cư trên biển, giữ
vững an ninh vùng biển.
17
Từ những quan điểm, biện pháp nêu trên, cùng với việc tiếp tục nhấn
mạnh chủ trương xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển, phát
triển kinh tế - xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với yêu cầu bảo
vệ đất nước; đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ
tương tác với các vùng và trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Việc thực hiện những chủ trương, chính sách nêu trên đã đạt được một
số thành tựu quan trọng. Ðến nay, kinh tế biển và vùng ven biển đóng góp gần
50% GDP của cả nước (trong đó riêng kinh tế trên biển chiếm hơn 20%
GDP), với quy mô tăng khá nhanh, cơ cấu ngành nghề chuyển dịch theo
hướng phục vụ xuất khẩu đem về một lượng ngoại tệ lớn cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hình thành một số trung tâm phát triển để hướng ra biển...
Tuy nhiên, xét cả về mặt chủ quan và khách quan, thực tế hiện nay cho
thấy, trong việc khai thác lợi thế từ biển còn không ít hạn chế, khó khăn và
yếu kém. Quy mô kinh tế biển và vùng ven biển nước ta vẫn chưa tương xứng
với tiềm năng, giá trị tổng sản phẩm hằng năm còn nhỏ bé, chỉ bằng 1/20 của
Trung Quốc, 1/94 của Nhật Bản, 1/7 của Hàn Quốc và 1/260 kinh tế biển của
thế giới. Những năm qua, do chưa có chiến lược tổng thể nên các ngành, các
địa phương thiếu căn cứ để quy hoạch. Tính đồng bộ của các chủ trương,
chính sách ở tầm vĩ mô, nhận thức về vai trò, vị trí của biển, sự quan tâm phát
triển các lĩnh vực liên quan đến biển của một số cấp ủy đảng, chính quyền các
cấp, các ngành, cả Trung ương và địa phương còn nhiều hạn chế. Cho đến
trước kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XII cũng chưa có cơ quan chuyên trách
giúp Chính phủ quản lý, điều hành chung, dẫn đến những hoạt động đầu tư
manh mún, chưa đồng bộ, hiệu quả thấp, kinh tế biển phát triển chậm, thiếu
bền vững và cơ cấu chưa hợp lý. Thực tế trên đặt ra yêu cầu cấp bách là Đảng
và Nhà nước ta cần nâng các quan điểm chỉ đạo nêu trên lên tầm của một văn
bản chiến lược.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X đã thông
qua Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 (Nghị quyết 09-
18
NQ/TW ngày 9/2/2007), nhằm đáp ứng yêu cầu nêu trên. Theo quan điểm chỉ
đạo được nêu trong phần định hướng Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ
sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển
với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu
quả cao với tầm nhìn dài hạn. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp
khoảng 53 - 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân
vùng biển và ven biển. Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020 đã kế thừa những quan điểm về phát triển kinh tế biển và các lĩnh vực
khác liên quan đến biển đã ban hành trước đó, nhưng phải khẳng định rằng,
đây là Nghị quyết của Trung ương toàn diện đầu tiên về biển, mở ra một
chương mới trong tư duy về biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Trong đó, phần về chiến lược
phát triển kinh tế biển là một trong những nội dung chủ yếu nhất.
Từ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về kinh tế biển, có thể
khẳng định, phát triển kinh tế biển là một trong những chủ trương lớn, nhất
quán của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, điều hành tiến trình phát triển
kinh tế biển hiệu quả và bền vững, có tác động sâu sắc đến phát triển kinh tế
biển thời gian qua cũng như trong thời gian tới.
1.1.3. Kinh tế biển Quảng Ninh
1.1.3.1. Vai trò của phát triển kinh tế biển đối tỉnh Quảng Ninh
* Tiềm năng kinh tế biển Quảng Ninh
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng ví Quảng Ninh như một Việt Nam
thu nhỏ, có đầy đủ biên giới đường bộ, biên giới đường biển; đầy đủ các dạng
địa hình đồng bằng, trung du, đồi núi, vùng biển và hải đảo.
19
Trong số 12.730 km2 diện tích tự nhiên, Quảng Ninh sở hữu gần 620
km2 mặt nước biển, với trên 40.000 ha bãi triều, 20.000 ha eo vịnh và hàng
chục vạn ha vũng nông ven bờ thuộc vịnh Hạ Long. Tỉnh có 10/14 huyện, thị
xã, thành phố tiếp giáp biển, trong đó có 2 huyện đảo là Vân Đồn và Cô Tô.
Tổng diện tích các địa phương ven biển và vùng biển đảo chiếm 72% tổng
diện tích, 72,5% dân số và trên 75% GDP của tỉnh. Bờ biển Quảng Ninh dài
hơn 250 km với hàng chục ngàn ha bãi triều ven biển, có 2.078 đảo, chiếm
2/3 số đảo ven biển Việt Nam (trong đó có 22 đảo có dân sinh sống). Biển
Quảng Ninh nằm trong vùng vịnh Bắc Bộ của nước ta với nguồn lợi hải sản
phong phú, gồm: 400 loài cá, 500 loài động vật biển, 160 loài san hô, 140 loài
rong biển…, thuận lợi cho ngư nghiệp phát triển với các loại hình nuôi trồng,
đánh bắt, chế biến, kinh doanh hải sản.
Quảng Ninh cũng đồng thời sở hữu hệ thống cảng biển, cảng nước sâu
có năng lực bốc xếp cho tàu hàng vạn tấn, tạo nhiều thuận lợi cho ngành vận
20
tải đường biển giữa nước ta với các nước trên thế giới. Trên địa bàn tỉnh có
hiện 5 cảng biển, gồm: Cảng Cái Lân, Cảng Vạn Gia, Cảng Cửa Ông, Cảng
Hòn Nét và Cảng Mũi Chùa. Bằng việc chủ động khai thác tiềm năng, lợi thế
và huy động mọi nguồn lực đầu tư, những năm qua, Quảng Ninh đã từng
bước nâng cấp hệ thống cảng biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong 5 cảng biển thì hiện có 4 cảng biển là Vạn Gia, Mũi Chùa, Cẩm Phả,
Cái Lân đang khai thác với 21 cầu cảng, có tổng chiều dài 3.451 mét, trong đó
14 cầu chuyên dụng cho: Than, xi măng, xăng dầu, khách, đóng tàu còn lại 7
cầu bốc dỡ hàng hoá tổng hợp. Theo đánh giá của các chuyên gia, nhờ có
vùng nước sâu, ít bị bồi lắng, hệ thống cảng biển của Quảng Ninh có những
ưu thế vượt trội so với những địa phương khác.
Tiềm năng kinh tế biển Quảng Ninh còn được thể hiện ở lợi thế sở hữu
nhiều cảnh quan, với những nét độc đáo, riêng biệt, tạo nên thương hiệu du
lịch biển Quảng Ninh. Trước hết phải kể đến Vịnh Hạ Long - Di sản, kỳ quan
thế giới. Đây là vùng biển đảo có diện tích 1.553 km 2, gồm 1.969 đảo, khu
vực di tích được Nhà nước xếp hạng bảo vệ theo Quyết định 313-VH/QĐ,
ngày 28/4/1962 của Bộ Văn hóa với tiêu chuẩn là một danh lam thắng cảnh.
Ngày 17/12/1994, tại Phu Kẹt (Thái Lan), Vịnh Hạ Long được UNESSCO
cấp bằng Di sản thế giới khẳng định giá trị ngoại hạng và giá trị toàn cầu của
một Di sản văn hóa và thiên nhiên cần thiết phải được bảo vệ. Ngày
22/11/2000, Hội đồng di sản thế giới thông qua quyết định công nhận Vịnh
Hạ Long là Di sản thế giới về giá trị địa chất, địa mạo. Ngày 27/4/2012 tại sân
vận động quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội, Chủ tịch New7Wonders chính thức
công bố Vịnh Hạ Long trở thành một trong bảy kỳ quan thiên nhiên mới của
thế giới. Hiện nay, những giá trị tiềm tàng về sinh thái, về khảo cổ và lịch sử,
về văn hóa phi vật thể của Vịnh Hạ Long vẫn đang nghiên cứu, khám phá.