HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XUẤT BẢN
********
TIỂU LUẬN
Đề tài: Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại,
cuộc đời và cái chết của triết gia Socrate
1
I.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hy Lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại thời cổ đại, là
thời kì phát triển rực rỡ của xã hội loài người... Nền triết học Hy Lạp cổ đại là
khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng của triết học
phương tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng của triết học nhân
loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương tây sau này. Triết học
thời kì này được đánh giá là rất phát triển, với những cái tên hết sức nổi tiếng:
Acsimet, Talet, Hêraclit, Đêmocrit, Platôn, Arixtốt, Xôcrat. Đánh giá vai trò
của Hy Lạp cổ đại, Ăng Ghen đã viết: “Không có cái cơ sở do Hy Lạp và La
Mã xây nên thì không thể có Châu Âu hiện đại… những hình thức huy hoàng
của nó đã dẹp tan những bóng ma của thời kì Trung cổ, ở nước Ý đã xuất hiện
một thời kì phồn vinh chưa từng có về nghệ thuật…”
Nền triết học trung cổ là khoảng lặng của những phách nhạc thời gian trải qua
hàng ngàn năm, rồi mới được thăng hoa lên những nốt thăng cung bậc là thời
kỳ phục hưng. Đây là giai đoạn quan trọng bừng dậy sau dấu lặng mà khoảng
trắng dài như “đêm trường trung cổ”. Từ những dư âm của những nốt nhạc
thăng trầm đó mà ta có cả nền triết học cận và hiện đại như nay. Trong bản
nhạc giao hưởng đầy tính bác học của triết học phương tây, mà khúc dạo đầu
lại rực rỡ thanh sắc huy hoàng đó là những trường phái triết học Hy Lạp cổ
đại, nó bức ra khỏi những nốt nhạc trời đầy màu sắc thần linh để khơi lên
bằng chính đôi tay của người phàm tục. Những đôi tay vàng ấy được phản
ánh qua những triết gia dệt nên những trang bất hủ bởi thời gian, một trong
những đôi tay đẹp hơn tất cả đôi tay thời bấy giờ là Socrate, triết lý của ông
đã mỹ miều và cái chết của ông như là linh hồn của bản giao hưởng bức ra
khỏi phím đàn hòa quyện, biến tấu vào không gian bất tận. Ta muốn tìm hiểu
nét nổi bậc của khúc dạo đầu đầy quyến rũ đó không gì khác hơn là hãy
nghiên cứu khái quát về Các Trường Phái Triết Học Hy Lạp cổ đại – Chủ
nghĩa Duy vật trong triết học Hi Lạp cổ đại; cuộc đời và cái chết của triết gia
Socrate.
2
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong giai đoạn triết học Hy lạp cổ
đại. Với phương pháp nghiên cứu là phương pháp lịch sử và đối chiếu. Bài
nghiên cứu quy mô như một bài thu hoạch nên các vấn đề được đề cập mang
tính khái quát.
3
II. NỘI DUNG
1- Hoàn cảnh ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
1.1
Về tự nhiên
Hy Lạp cổ đại là quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa. Bao gồm miền
Nam bán đảo Ban Căng, miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở
miền Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực. Bắc , Nam và Trung bộ.
Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có
thành phố lớn như Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng
bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía
Đông của bán đảo Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho
ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Êgiê là nơi trung chuyển cho
việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng
ven biển Tiểu Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương
Đông.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh
chóng phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá
trị văn hoá. Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con
người có dịp bay bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Xứng đáng là
chiếc nôi của nền văn minh châu Âu và của cả nhân loại. Sự hình thành triết
học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc
kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong
thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên).
Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch
pháp…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước phương
Đông. Vì vậy, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là những người đã
nhiều lần đến phương Đông và nhiều vùng đất khác.
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếuđó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: “Các nhà
triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại
mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn
4
thấy nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học”.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
1.2 Về chính trị - xã hội – kinh tế
Chế độ chiếm hữu nô lệ Hy Lạp ra đời từ thế kỷ VI tr.CN và suy tàn vào
thế kỷ V. Sự phát triển của nó đã mở rộng sự phân công xã hội, tách lao động
trí óc khỏi lao động chân tay, tạo điều kiện cho tầng lớp trí thức chủ nô
nghiên cứu triết học, khoa học và sáng tạo văn học nghệ thuật. Hơn nữa, qua
cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, nền văn hoá Hy Lạp - La Mã đã kế thừa
được nhiều thành tựu văn hoá của phương Đông.
Về văn học, sớm nhất là Ome (Homère). Về sử học, nổi tiếng nhất là nhà chép
sử Hêrôđốt (Hérodote). Về toán học và thiên văn học, có Talét (Thalès),
Pitago (Pythagore), Ơclít (Euclide). Về vật lý học, có Acsimét (Archimède).
Về y - sinh học, có Híppôcrát (Hippocrate). Về điêu khắc, có đền Páctênôn
(Parthénon) của nhà điêu khắc Phiđiát (Phiđias). Về kiến trúc, có tượng thần
Vệ nữ (Venus) của Praxiten.
Về hội hoạ, có bức Maratông trong chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư v.v. Về
văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất phong
phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh
cuộc sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại
những lực lượng tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ đại.
Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá
nghiêm tại thành bang Athen.
Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học, thiên văn, vật lý…
được các nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện
ra. Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học vô cùng đồ
sộ và sâu sắc.
5
Tất cả những tiền đề kinh tế, xã hội, khoa học, văn học, nghệ thuật nói
trên là những điều kiện cho sự phát triển rực rỡ của triết học cổ Hy Lạp. Như
Ăng Ghen nói, nếu không có chế độ nô lệ, thì cũng không có nhà nước Hy
Lạp, không có khoa học và nghệ thuật Hy Lạp.
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội
phân hóa ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị
phân hóa thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân
thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó,
Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh nhất, nòng cốt cho lịch sử Hy
Lạp cổ đại.
Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có
điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của
Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát
triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen.
Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát
triển nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối.
Chính vì thế Sparte đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện
sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành
cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự
thất bại của thành Athen. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm
trọng về kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh,
nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại
vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, không có ngôn ngữ chung, không
có quyền hạn, không được tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp
lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía Bắc Hy Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn bộ
bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II BC, Hy Lạp một lần nữa bị rơi vào tay của đế
quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy
Lạp chinh phục về văn hóa.
Ăng Ghen đã nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La
Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn
6
bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước phương
Đông trở nên thường xuyên. Chính vì thế tầm nhìn của họ cũng được mở
rộng, những thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp
ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn đều được người
Hy Lạp đón nhận, “Những người Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu
biết gì về Ai Cập”.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng
xán lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ
sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại.
2. Đặc điểm cơ bản của triết học cổ Hy Lạp
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ PTSX thứ nhất đến PTSX thứ hai ở phương
Tây vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan và
là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người, mặc dầu chưa
thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong phú,
muôn hình muôn vẻ… Ăng Ghen nhận xét như sau: “Chính vì trong các hình
thức muôn vẻ của triết học Hi Lạp đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết
tất cả các loại thế giới quan sau này”.
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù
vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở
khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối
duy nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó,
những tư tưởng biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại đã làm thành hình
thức đầu tiên của phép biện chứng.
7
3. Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại
3.1 Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milet - trường phái
Heraclite, trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái
Nguyên tử luận.
3.1.1 Trường phái Milet
Trường phái triết học Milet là trường phái của các nhà triết học đầu tiên
xứ Lonie, một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên
hải Tiểu Á, nằm giữ huyết mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và
là trung tâm kinh tế, văn hóa của thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem
là quê hương của nhiều trường phái triết học của triết gia nổi tiếng.
Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như: Thales, Anaximène và Anaximandes. Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã
đặc nền móng do sự hình thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này
tiếp tục bổ xung và làm phong phú thêm những khái niệm đó như khái niệm
chất, không gian, sự đấu tranh của các mặt đối lập v.v… Một điều đáng quý
nữa là các triết gia đã xuất phát từ thế giới để giải thích thế giới, khẳng định
thế giới xuất phát từ một thời nguyên vật chất duy nhất.
3.1.2 Trường phái Héraclite
Do nhà ẩn dật Héraclite sáng lập. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia
đình quý tộc chủ nô ở thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết
học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất phát từ thời cổ Hy Lạp.
Ông coi bản nguyên của thế giới là lửa. Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay
một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó “đã” và “đang” sẽ mãi mãi là
ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy
theo cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính mình. Ông xem thế
giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong một dòng
8
sông”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài hòa
vừa xung đột”.
Như vậy, Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề
cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học
Héraclite vào kho tàng tư tưởng của nhân loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa
đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”.
3.1.3 Trường phái đa nguyên
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy
vật Empedocles và Anaxagoras cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sự khai
minh của các trường phái như Milet - trường phái Héraclite xây dựng quan
niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Empedocles thừa
nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và không khí.
Anaxagorax cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt
giống”. Anaxagorax xem “ mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái”.
Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn
hạn chế. Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận.
Nhưng thuyết này vẫn còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính.
3.1.4 Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể
hiện trong trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III (TCN). Leucippe là
người sáng lập và Démocrite là người kế thừa và phát triển.
Leucippe cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ những nguyên tử. Đó là
những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn về số lượng
và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được. Tư
tưởng của ông không được hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông đã để lại qua
những trang viết của các học trò ông tổng hợp. Đêmôcrít là học trò của
Leucippe đã kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một phương
9
diện mới. Theo ông vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên
tử và chân không. Hai thực thể này là căn nguyên của các sự vật hiện tượng.
3.2 Chủ nghĩa duy tâm
Giai đoạn Hy Lap cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong
trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Elee và đạt được
đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan của Platon, tức thế giới ý
niệm.
3.2.1 Trường phái Pitago
Pytagore (Pythagore, 571 – 497 TCN) là nhà triết học, toán học uyên bác.
Sinh ra và lớn lên ở vùng Tiểu Á. Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng
“con số” là bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Một vật tương
ứng với một con số nhất định, con số có trước vạn vật. Và tư tưởng Pitago
cũng thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh hồn. Ông cũng bàn đến các mặt
đối lập vốn có của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu
hạn và vô hạn, chẵn và lẻ, đơn và đa, phải và trái, nam và nữ, động và tĩnh,
thẳng và công, sáng và tối, tốt và xấu, tứ giác và đa diện. Mười cặp đối lập
này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học, vật lý, sinh học và đạo đức. Đó là
những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội. Chính trường phái Pitago đã
đặt nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
3.2.2 Trường phái Êlê
Trường phái Êlê do Xê nô phan thành lập theo chủ nghĩa duy vật, nhưng
sau đó Pac mơ nít phát triển theo chủ nghĩa duy tâm và được De nông nhiệt
thành bảo vệ và phát huy.
Xê nô phan là bạn của Thales nên chịu ảnh hưởng của nhà triết học này.
Ông cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất. Đất là cơ sở
của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài. Parménide
(500 – 449 BC) xuất thân trong một gia đình trí thức giàu có ở Êlê. Ông cho
rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong
thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và nhận
10
thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn mới
trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
De nông là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Êlê. Ông đưa ra những
Aporic nghĩa là tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng,
ông chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính
phức tạp, đa dạng và vận động của thế giới là không thực.
3.2.3 Trường phái duy tâm khách quan
Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền
dân chủ Athen và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận.
Được xây dựng bởi Socrate và Platon.
Socrate khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên cứu về giới tự
nhiên, ông dành phần lớn nghiên cứu về con gười, đạo đức. “Con người hãy
nhận thức về chính mình”. Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức. Platôn
xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Athen. Ông trở thành kiệt xuất
nhất thời cổ đại Hy Lạp bởi quan niệm triết học duy tâm khách quan. Ông xây
dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là “thuyết ý niệm”,
với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu
sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.
3.3 Chủ nghĩa nhị nguyên
Triết học Aristote :
Aristote (384 – 322 TCN). Ông sinh ra tại miền Bắc Hy Lạp, là học trò
xuất sắc của Platon. Nhưng đặc biệt ông phê phán học thuyết “ý niệm” của
Platon. Vì ý niệm nó thuộc về thế giới bên kia không có lợi cho người. Theo
Platon, ông cho rằng thuộc tính quan trọng của thế giới là “vận động”. Triết
học của Platon còn thể hiện ở quan điểm về thế giới tự nhiên. Tự nhiên là toàn
bộ của sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Thông
qua vận động mà giới tự nhiên được thể hiện ra. Vận động không tách rời vật
thể tự nhiên. Vận động của thế giới tự nhiên có nhiều hình thức, sự tăng và
giảm, sự ra đời và tiêu diệt, sự thay đổi trong không gian, sự thay đổi về chất
… Tuy nhiên, triết học của ông còn hạn chế, dao động giữa chủ nghĩa duy vật
11
và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông đã mở ra một chân trời mới cho khoa học
Phương Tây phát triển.
4. Triết gia Socrate
4.1 Tiểu sử của Socrate
Socrate xuất thân trong một gia đình khá giả ở Athen. Cha làm nghề điêu
khắc, mẹ là nữ hộ sinh. Ông hướng về chính thể chủ nô quý tộc chống lại chủ
nô dân chủ. Ông bị chủ nô dân chủ kết án tử hình về tội “coi thường luật
pháp, chống lại chế độ bầu cử dân chủ”. Đối với ông chỉ có văn nói sống
động, và văn viết đã bị khô cứng. Vì vậy cuộc đời ông không để lại một tác
phẩm nào. Chỉ biết được ông qua đệ tử của ông.
4.2 Quan điểm triết học của Socrate
Triết học của ông khác với các nhà triết học trước đó. Các nhà triết học
trước nghiên cứu về giới tự nhiên. Nhưng ông dành phần lớn vào việc nghiên
cứu về con người, về đạo đức, về nhân sinh quan. Triết học không gì khác
hơn là sự nhận thức của con người về chính mình, “con người hãy nhận thức
chính mình”. Bắt đầu từ ông, đề tài con người trở thành một trong những chủ
đề trong tâm của triết học phương Tây. Vì vậy, quan điểm triết học của ông
bàn đến vấn đề con người trong đời sống xã hội mà trước hết là hành vi đạo
đức.
Xuất phát từ “đạo đức học duy lý”, ông cho rằng, “Hiểu biết là cơ sở của
điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, và chỉ có cái thiện phổ biến mới
là cơ sở của đạo đức, mới là cơ sở của đức hạnh. Ai tuân theo cái thiện phổ
biến thì người đó mới có đạo đức. Và muốn theo cái thiện phổ biến thì phải
hiểu được nó, muốn hiểu được nó phải thông qua các cuộc tranh luận, tọa
đàm, luận chiến tìm ra chân lý theo cách thức mà về sau được gọi là
“phương pháp Socrates”. Trở nên thấp kém hơn bản thân mìnhkhông phải là
cái gì khác hơn ngoài sự ngu dốt, trở nên cao cả hơn bản thân mình không
phải cái gì khác ngoài sự thông thái”.
Phương pháp triết học của ông gồm bốn bước : Một là “mỉa mai”, tức là
nêu ra những câu hỏi mẹo, mang tính châm biếm, mỉa mai nhằm làm cho đối
12
phương sa vào mâu thuẫn. Hai là “đỡ đẻ tinh thần”, giúp cho đối phương thấy
được con đường để tự mình khám phá ra chân lý. Ba là “qui nạp”, tức là xuất
phát từ cái riêng lẻ khái quát thành những cái phổ biến, từ những hành vi đạo
đức riêng lẻ tìm ra cái thiện phổ biến của mọi hành vi đạo đức. Và phương
pháp cuối cùng là “định nghĩa”, là chỉ ra hành vi thế nào đạo đức, quan hệ thế
nào là đúng mực. Phương pháp này đối với ông chỉ có những người có tri
thức như giai cấp quý tộc và các triết gia mới là những người có đạo đức. Bốn
bước này quan hệ chặt chẽ với nhau trên bước đường tìm kiếm tri thức chân
thật, bản chất giúp con người sống đúng với tư cách và phận sự, của nó trong
đời sống xã hội.
Sự đóng góp của ông thay đổi từ nguyên lý vũ trụ sang nguyên lý nhân
minh đã làm nên một bước chuyển mới trong nền triết học. Cho nên, triết học
Hy Lạp mới lấy ông làm tiêu chí để phân kỳ, nó là thẩm định những giá trị
của tư tưởng Socrates đối với sự phát triển trong lịch sử.
Ông là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại, ông không để
lại cho đời một tác phẩm nào, vì ông chỉ thường xuyên đàm luận mà không
viết. Ngày nay chúng ta sở dĩ biết được được về Socrates là do các học trò của
ông và những tư tưởng khác .
Năm 399 trước Công nguyên ông bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống
chế độ dân chủ, chủ trương thay tôn giáo đương thời bằng một tôn giáo mới
làm giảm hiệu lực của nước nha, là hư hỏng thanh niên. Ông đã từ chối việc
cứu ông ra nước ngoài và đã uống thuốc độc tự tử trong tù.
4.3. Tư tưởng triết học của Socrate
Socrates khác với các nhà triết học khác, ông không hướng về nghiên cứu
tự nhiên. Ông dành phần lớn công sức nghiên cứu triết học về nhân bản, về
con người và về Đạo Đức, ông đã nói với các học trò rằng không nên đặt vấn
đề nghiên cứu tự nhiên, vì giới tự nhiên đã được thần thánh an bài cả rồi, nếu
cố công phá khám phá giới tự nhiên là xúc phạm đến thần thánh, thần thánh ở
khắp mọi nơi, có sức mạnh kỳ diệu, sáng tạo ra thế giới, có thể nhìn thấy tất
cả, nhưng không thích con người phát hiện ra mình.
13
Do vậy Socrates cho rằng triết học không có gì khác hơn là sự nhận thức
của con người về chính bản thân mình “ con người hãy nhận thức chính
mình”, từ đây con người trở thành một trong những chủ đề trọng tâm nghiên
cứu về triết học. Socrates tìm cách khám phá ra các chân lý chung cho con
người trong các cuộc đàm thoại, theo ông để có cuộc đàm thoại được, những
người tham gia cuộc đàm thoại phải có “ngôn ngữ chung” nhất định, ngôn
ngữ đó mang tính khách quan, nhờ đó con người mới khám phá ra chân lý
một cách đích thực mà ai cũng phải thừa nhận. Theo ông ý thức của con
người trong cuộc đàm thoại, ngoài yếu tố chủ quan, còn có một nội dung
khách quan, có tri thức phổ biến mang tính tổng quát. Đó là những tri thức
chung mà mỗi con người chúng ta có được bằng nỗ lực của mình. Socrates
cho rằng tri thức chung đó là chân lý khách quan thu được trong các cuộc
đàm thoại mà ai cũng phải thừa nhận. Nên ý kiến chủ quan của mỗi người
không phải là tiêu chuẩn của chân lý. Theo ông khám phá ra chân lý đích thực
về bản chất sự vật tức là phải hiểu nó có khái niệm. Nếu không có khái niem
xem như không có tri thức. Một vấn đề được lý luận rõ ràng, có lô gíc dễ
thuyết phục.
4.4. Nhận thức luận của Socrate
Nhận thức luận của ông chủ yếu là thể hiện qua đạo đức của con người.
Đạo đức học của ông mang tính chất duy lý, ông thừa nhận Đạo Đức và Tri
Thức thống nhất là một “ Mỗi điều thiện đó là tri thức và mỗi điều ác đó là sự
dốt nát”, mỗi hành vi vô đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát của chúng ta.
Ông cho rằng cai thiện phổ biến là cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức
hạnh, muốn tuân thủ theo cái thiện thì phải nắm bắt được nó, hiểu nó, để phát
hiện được cái phổ biến, phải có phương pháp tìm ra chân lý thông qua các
cuộc tranh luận. Theo Socrates có 4 phương pháp:
Một là “mĩa mai” đây là một thủ pháp phản biện rằng cách nêu lên những
câu hỏi sao cho người đối thoại tự thấy mâu thuẫn với ý kiến của mình, từ
đó mới thừa nhận sai lầm trong ý kiến đưa ra, thấy được sự thiếu xót ngu dốt
của mình.
14
Hai là “ đỡ đẻ “ đây là thủ pháp đi liền với thủ pháp thứ nhất, và được
thực hiện sau khi tiến hành thủ pháp “ mỉa mai”, bởi vì sau khi làm cho đối
phương tranh luận thấy được cái sai của mình thì cần phải giúp đỡ họ tìm ra
lối thoát bằng cách đạt tới tri thức đúng trừ bỏ quan điểm sai.
Ba là “ quy nạp” mục đích của yếu tố này là từ những cái riêng lẻ khái
quát lên thành cái chung, có ý nghĩa phổ biến, nghĩa là từ những hành vi đạo
đức cụ thể, riêng lẻ phải phân tích, so sánh để tìm ra cái thiện phổ biến của
mọi hành vi đạo đức.
Bốn là “xác định “, chủ yếu chỉ ra những hành vi Đạo Đức thuộc loại
nào, chúng có phụ thuộc và quan hệ với nhau như thế nào.
Socrates đưa nhieu ví dụ để chứng minh: nếu không hiểu được cái chung
cái phổ biến, thì người ta không thể nào phân biệt cái chính nghĩa và cái phi
nghĩa, cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu ….
Socrates đã nói rằng; “Ánh sáng nội tại trong con người ví như ánh sáng
mặt trời, có thể toả khắp nơi. Không một thứ nào bên ngoài con người như
tiền tài danh vọng, nhà cao cửa rộng lại tỏa rạng hơn nó.” Chính vì những
quan điểm đó mà Socrates đã trọn đời đi lang thang truyền dạy, và cũng chính
vì nó mà Socrates sẵn lòng hy sinh mạng sống của mình.
4.5 Cái chết của Socrate
Ông là nhà triết học cổ đại Hy Lạp đầu tiên đề cập đến con người, ông
quan niệm “Hãy tìm hiểu chính mình”, đó là chuẩn mực về đạo đức. Nền
tảng đạo đức của ông là Đạo đức học duy lý , nó có ba đặc tính cơ bản: Tri
thức, kết hợp lí luận với thực tiễn, hạnh phúc là làm điều thiện. Chính cái tính
hiền triết đạo đức trong ông như là giá trị của cái thiện tiềm ẩn mà cả đời ông
đã theo đuổi.
Socrate ủng hộ chủ nô quí tộc thời bây giờ, lúc chủ nô dân chủ lật đổ chủ
nô quí tộc cũng là lúc cánh cửa cuộc đời ông khép lại.
Socrate bị chủ nô dân chủ cáo buộc ông là “đầu độc và làm bại hoại đạo
đức của lớp trẻ”. Ông bị kết án tử hình bằng độc dược.
15
Môn đệ của ông đã lo lót cho cai ngục để cướp ngục, đưa ông ra khỏi nhà
tù nhưng ông từ chối điều đó. Có người cho rằng lúc đó ông đã 70 tuổi, đã già
nên không thiết tha gì cuộc sống, ông thấy nó đã quá đủ. Nhưng họ đâu hiểu
rằng bản năng sinh tồn của bất cứ ai trên cõi đời này cũng như nhau, chính
những người già họ lại càng sợ phải chết vì quỉ thời gian của họ không còn
bao lâu nên họ cố mà sống. Ông nói với các môn đệ: “Hãy cứ vui đi, các con
chỉ chôn cái thể phách của thầy”. Ông đã an nhiên đón nhận cái chết không
chút run sợ.
Ở đây chúng ta thấy Socrate sống thật như cuộc đời của ông, trong tâm
ông đã thấu triệt bản chất của cuộc sống, quy luật tất yếu của cuộc đời. “Sống
chết là lối đi về, hiệp tan là trò dâu bể”. Nên ông sẵn sàng đón nhận nó như
là một qui luật tất yếu mà thôi. Cái hay của nhà hiền triết ở chỗ ông đã ngộ
nhập những gì ông đã nói chứ không phải ông nói suông. Vì trên đời này
không ít kẻ cho rằng tự tại trong sống chết nhưng trước lúc chết họ lại hoảng
loạn, lo lắng, thất vọng.
Có thể nói cái chết của Socrate cũng bình thường như bao người bị tội và
xử hành huyết. Nhưng riêng ông thái độ đón nhận cái chết của ông làm cho
ông trở nên phi thường trong cái tưởng chừng như bình thường đó.
Sự vĩ đại của ông là cái chết đã đến bụng rồi mà ông còn thảng nhiên nhờ
đồ đệ trả hộ con gà. Lúc chết như thế mà ông còn nghĩ về người khác. Chính
trong cuộc sống đời thường của sinh lão bệnh tử, Socrate đã bức phá ra khỏi
cái bình thường đó làm cho ông trở nên phi thường, đáng được người đời ghi
nhận.
5 Vài ưu điểm và hạn chế của triết học Hy Lạp cổ đại
5.1 Ưu điểm:
- Triết học cổ hy lạp như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh
muôn đời của người dân Hy Lạp. Tách ly vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức
hệ của con người.
- Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan.
Nhằm đi đến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu.
16
- Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập.
- Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này.
- Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành.
- Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới
không?
5.2 Hạn chế
- Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.
- Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa.
- Tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu
tố thần linh.
17
III. KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại là tiếng chuông ngân với những thanh
âm trong trẻo tươi tắn, là nhịp cầu vững chắc, nối những bến bờ triết học sau
này. Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại mang đến cho nhân loại
vẫn còn nguyên giá trị đó. Triết học Hy Lạp cổ đại chia làm ba thời kỳ. Thời
ky tiền Socrate, thời kỳ Socrate là thời kỳ cực thịnh, thời kỳ hậu Socrate.
Trong giai đoạn này có rất nhiều triết gia nổi bậc như: Thales, Anaximandre,
Heraclite, Pythagore, Xenophane, Parmenide, Zenon, Anaxagore, Empedocle,
Democrite, Socrate, Platon, Aristote…Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên
gạch đầu tiên xây nên toàn bộ ngôi nhà văn minh của châu Âu ngày nay. Ta
có thể thấy cả bề mặt và bề trái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy
Lạp cổ đại. Điều đó làm cho nó sáng rực rỡ trên vũ đài triết học nhân loại và
trở nên bất hủ. Marx nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”.
Những triết gia đã đóng góp vào kho tàng triết học ấy nổi bậc và ngời sáng là
Socrate, triết gia đã sống và chết không phải cho riêng mình, làm nên cái đẹp
nổi bật của nghệ thuật triết học Hi Lạp cổ đại.
Nếu nền triết học phương tây là bản nhạc giao hưởng vu vươn đầy màu
sắc, âm hưởng tuyệt vời thì triết học cổ Hy Lạp là khúc dạo đầu sâu lắng.
Người nghệ sĩ tài ba đánh lên những nốt nhạc dạo đầu ấy chính là nghệ sĩ
Socracte, làm say mê lòng người với những giai điệu quyến rũ, thơ mộng.
Bản giao hưởng của triết học phương tây có lúc trầm lúc bổng, có lúc lắng
đọng, là những khoảng lặng đến tê lòng người. Khúc dạo đầu của bản giao
hưởng ấy trầm hùng từ Thales rồi bay bổng âm điệu tuyệt vời của Socrate, vu
vươn của Platon, Aristote v.vv..đến khoảng lặng nghẹt thở của thời kỳ trung
cổ, rồi nó lại thăng hoa lên vào thời phục hưng; huy hoàng tráng lệ thời cận
đại và hiện đại của Schopanhaure, Hegel, Karl Marx….
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1Nguyễn Hữu Trọng, Các Vấn Đề Triết Học, Viện ĐH Huế, 1962.
2 Bộ GD – ĐT, Triết Học, nxb, CTQG, 1999.
3 Hà Thiên Sơn, Lịch Sử Triết Học, nxb, Trẻ, 2004.
4 Trần Thái Định, Triết Học Descartes, nxb VH, 2005.
5 Platon. Biện minh cho Socrate, Tuyển tập, t.1. M.1982
6 William S.Sahakan, MabelL, Sahakan, Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy
Châu
biên dịch, Triết Gia Vĩ Đại, nxb Tp. HCM
19
MỤC LỤC
20