Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
MỤC LỤC
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
1
A. Lời nói đầu:
1. Lý do chọn đề tài
2. Tài liệu tham khảo
B. Nội dung
I. Khái quát về tiền đề ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.
1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
II. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của I.kant.
2.1. Thời kỳ tiền phê phán và những tư tưởng triết học khoa học tự nhiên.
2.2. Thời kỳ phê phán và những quan điểm triết học cơ bản.
2.2.1. Bước ngoặt trong quan điểm triết học và thế giới quan.
2.2.2. Bản chất, nhiệm vụ, chức năng của triết học
III. Nội dung cơ bản của triết học cantơ
3.1. Triết học nhận thức:
3.1.1. Thuyết hai thế giới và quan niệm về nhận thức.
3.1.1.1. Thuyết hai thế giới:
3.1.1.2. Quan niệm về nhận thức.Kinh nghiệm và tiên nghiệm.
3.1.2 Học thuyết về tri thức
3.1.3 Trực giác cảm tính. Khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong
toán học.
3.1.4 Giác tính phân tích (hay phân tích tiên nghiệm). Khả năng nhận thức
của khoa học tự nhiên lý thuyết.
3.1.5. Lý tính (hay biện chứng tiên nghiệm). Về khả năng của siêu hình học.
Trang
2
2
3
4
4
4
7
9
10
12
12
13
14
14
17
17
19
21
22
23
24
24
29
31
3.2 Triết học thực tiễn.
3.2.1 Đạo đức học của Cantơ.
3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền.
3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người
C. Kết luận.
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
A. LỜI NÓI ĐẦU
Vào thời mình, F.Engen đã từng nói: “ Một dân tộc đứng vững trên đỉnh cao
của khoa học thì không thể có tư duy lý luận”, nhưng tu duy lý luận ấy “ cần phải
được hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào
khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước ” vì “ triết học là sự tổng kết
lịch sử tư duy ” (Hêghen). Mặt khác vì lịch sử phát triển của tư duy được tổng kết
trong lịch sử triết học, nên chính lịch sử triết học là cơ sở để hình thành phép biện
chứng.
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư
tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của
thời kỳ triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học
hiện đại triết học cổ điển Đức vì vậy, trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành
chủ nghĩa Mác – nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp) Triết học Cantơ khởi xướng một phong trào lưu
triết học mới – triết học duy tâm phê phán tiên nghiệm để tiếp đó, Phíchtơ Seu –
ing tiếp tục tìm tòi mở rộng, đến Hêghen nó phát triển thành một hệ thống triết
học duy tâm biện chứng và Phoiơ bắc đã kết thúc triết học cổ điển Đức với chủ
nghĩa duy vật nhân bản của mình. Triết học Cantơ là một hiện tượng hết sức phức
tạp. Cantơ là người đầu tiên có ý đồ và đã được thực hiện ý đồ tổng kết toàn bộ tri
thức Triết học trong lịch sử tư tưởng loài người. Trên tinh thần phê phán, Cantơ đã
phê phán các hệ thống triết học trước đó, gạn lọc kế thừa và phát triển những yếu
tố mà ông cho là đúng giá trị, từ đó xây dựng một hệ thống triết học riêng theo
một mẫu mực mới – Triết học vạn năng.
1. Lý do chọn đề tài:
Imanuen Cantơ (Imanuel Kant) là một trong những nhà triết học vĩ đại của
lịch sử tư duy phương Tây trước Mác. Triết học Cantơ “là nền tảng và điểm xuất
phát của triết học Đức hiện đại, những hạn chế trong triết học của ông không làm
lu mờ công lao đó của triết học triết học Cantơ”
Triết học Cantơ có vị trí quan trọng trong triết học cổ điển Đức. Cantơ có vị
trí quan trọng trong triết học trong triết học cổ điển Đức. Triết học Cantơ đi vào
rất nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh, nêu lên những lý tưởng mới lạ, trừu tượng và
hết sức khó hiểu. Chính vì vậy cho đến nay dù đã nhiều công trình nghiên cứu về
Cantơ, song không phải những công trình đó đã đi sâu cặn kẽ vào hết các ý tưởng
của Cantơ không phải ai cũng hiểu nó một cách hoàn toàn giống nhau.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
2
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Tìm hiểu về triết học của Cantơ em muốn đi sâu nghiên cứu một cách khái
quát về hệ thống triết học của Cantơ, nghiên cứu về triết học thực tiễn, triết học
nhận thức về cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Do quá trình làm bài còn nhiều thiếu sót, cũng như kiến thức và tài liệu
chưa được đầy đủ em mong được sự góp ý và chỉnh sửa và bổ sung của Thầy để
bài viết được thực sự hoàn chỉnh hơn.
.
B.
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC CỔ
ĐIỂN ĐỨC.
1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.
Vào cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã
hội mới, khẳng định phương thức sản xuất TBCN, đưa giai cấp tư sản lên địa vị
thống trị.Các cuộc cách mạng xã hội thế kỷ XVII - XVIII mở đường cho sự phát
triển các tư tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 -
1794).
Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người trong
nhận thức thế giới, cùng với cách mạng tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo thế
giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của cách mạng công
nghiệp.
Hai cuộc cách mạng tiêu biểu đó ảnh hưởng rộng lớn đến phong trào giải
phóng ở các nước châu Âu chống chủ nghĩa phong kiến, phát triển hệ tư tưởng tư
sản - hệ tư tưởng mới và tiến bộ trong lịch sử. Các nhà tư tưởng tư sản đòi hỏi
phải trả lại cho con người những cái mà hệ tư tưởng phong kiến đang phủ nhận.
Quyền tự do, bình đẳng, quyền sở hữu riêng của mỗi cá nhân và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Hệ tư tưởng tư sản tuyên bố: con người là thực thể tối cao, con người
phải vươn tới trí tuệ và tự do, phải thực hiện tiến bộ xã hội và hạnh phúc cho con
người.
Tuy nhiên về mặt chính trị, chủ nghĩa phong kiến chưa bị tiêu vong hoàn
toàn. Ở những nước mà kinh tế TBCN chưa thể thực hiện việc cải tạo cách mạng
tư sản, lực lượng phong kiến vẫn nắm chính quyền và không chịu phân quyền cho
giai cấp còn non yếu. Sự phục hồi chế độ quân chủ nửa phong kiến Buốcbông ở
Pháp, Hội nghị viên ở Áo thống nhất các lực lượng quân chủ - phong kiến toàn
châu Âu. Chứng tỏ lực lượng phong kiến vẫn đang còn mạnh và đang chuẩn bị
phản công lại giai cấp tư sản.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
3
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Giai cấp tư sản cảm nhận được khả năng thất bại của mình không chỉ từ sự
phản công của thế lực phong kiến mà cả từ phía quần chúng bị áp bức, những
người mà sự khẳng định của CNTB cang làm cho đời sống của họ tồi tệ hơn. Ngay
từ những cuộc cách mạng tư sản trước đó trong “đẳng cấp thứ ba” này xuất hiện
những mâu thuẫn và giờ đây chúng trở thành mâu thuẫn đối kháng.
Tình hình đó dẫn đến trong hệ tư tưởng tư sản khuynh hướng thoả hiệp với
các lực lượng phong kiến lại tăng lên, các thể chế phong kiến đến lượt mình lại
thích nghi với trật tự tư sản và trong phạm vi đáng kể được tưu sản hoá. Những
mâu thuẫn và thoả hiệp có biểu hiện rõ nhất ở nước Đức, nơi mà có sự phát triển
của CNTB bị cản trở bởi điều kiện kinh tế và chính trị của nó.
Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách mạng tư sản và bước ngoặt công
nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh nhất, và ở Pháp nhờ kết quả của
cách mạng tư sản Pháp 1789, giai cấp tư sản đã tiêu diệt chủ nghĩa phong kiến,
tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa thì ở nước Đức hãy còn là một nước
nửa phong kiến bị phân hoá cả về kinh tế lẫn chính trị. Những tàn tích của chế độ
nông nô, chế độ phường hội, chúa đất, sự tồn tại của nhiều quốc gia nhỏ bé phụ
thuộc lẫn nhau với các thể chế chính trị phản động , không chỉ kìm hãm sự phát
triển mà còn làm tăng thêm mức độ lạc hậu của nước Đức so với các nước đã phát
triển quan hệ TBCN.
F. Enghen nhận xét rằng: đó là “thời kỳ nhục nhã về mặt chính trị và xã
hội” “Mọi thứ đều nát bét lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn
tới một tia hy vọng chuyển biến tốt lên vì dân tộc, thậm chí không còn đủ sức vứt
bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi”.
Nhưng đồng thời Enghen cũng viết rằng “thời kỳ nhục nhã” đó lại mang
một nét đặc biệt rất đáng tự hào: Đó là thời kỳ vĩ đại trong lịch sử văn hoá, nghệ
thuật và triết học Đức, mỗi tác phẩm xuất chúng của thời đại đó đều thấm đượm
tinh thần phê phán, phản kháng, chống lại chế độ xã hội đương thời. Tinh thần đó
tràn đầy trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, triết học của: G.G.Heeđe (1744 -
1803), G.F.Lêxinh (1729 - 1791), G.F.Sinlơ (1759 - 1805), I.F.G.Phichtơ (1762 -
1814), S.V.Selling (1775 - 1854), G.V.F.Hêghen (1730 - 1831), Lútvích Phoiơbắc
(1804 - 1872) các đại biểu lỗi lạc của triết học cổ điển Đức.
ở Đức cũng như ở Pháp, cách mạng đã chuẩn bị tư tưởng cho cách mạng tư
sản. Nhưng khác với các nhà tư tưởng Pháp, các nhà triết học Đức không đồng
thời là các nhà hoạt động cách mạng. Không như P.H.Hônbach (1723 - 1789),
R.Điđirô và các nhà hoạt động khác ở thời kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức là
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
4
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
những nhà duy tâm. Điều đó được phản ánh trong sự bất lực tiến hành một cuộc
cách mạng chống lại trật tự phong kiến, và cuối cùng thể hiện ở sự thoả hiệp của
họ. Các học thuyết triết học duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức không thể
làm tiền đề cho sự cải tạo tư sản nước Đức, theo mong muốn mà tuyên ngôn của
họ đã nêu, tự do, trí tuệ, hạnh phúc và quyền con người.
Mác gọi triết học Cantơ là học thuyết Đức của cách mạng tư sản Pháp. Định
nghĩa đó cũng hoàn toàn đúng với triết học Phíchtơ, Sêling, Hêghen.
Học thuyết của các nhà triết học Đức về sự phát triển đã gián tiếp hoặc trực
tiếp chống lại các lực lượng phong kiến phản động. V.I.Lênin viết: “lòng tin của
Hêghen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và nguyên lý cơ
bản của triết học. Hêghen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một quá trình liên
tiếp biến hoá và phát triển , ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện trạng, cuộc đấu
tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều ác tung hoành cũng bắt rễ từ quy
luật phổ biến là sự phát triển không ngừng”.
Song các học thuyết đó không biến thành cách mạng được, nó duy tâm và
yếu hèn. Tính chất duy tâm và tinh thần yếu hèn đó đã dẫn đến những hạn chế
trong triết học cổ điển Đức.
Hạn chế của nnó là ở chỗ, các nhà triết học Đức hiểu sự phát triển như một
quá trình tinh thần, một quá trình tự thức tỉnh và sự phát triển của lý tính. Cách
hiểu đó đã xóa nhoà bản chất vật chất của sự cải tạo xã hội hiện thực và về lý
thuyết nó biện hộ cho sự thoả hiệp chính trị với các thế lực phong kiến của giai
cấp tư sản.
Vấn đề dặt ra là tại sao các nhà duy tâm tư sản yếu hèn trong điều kiện kinh
tế - xã hội thấp kém của nước Đức lại làm nên những thành tựu vĩ đại trong triết
học.
Lịch sử tư tưởng chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng tiến bộ có thể
nảy sinh trong lòng một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn nếu biết tiếp thu
thành tựu mọi mặt của các nước tiến bộ khác.
ở Pháp vào thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn ở Anh, song lại
hình thành chủ nghĩa duy vật: Hônbach, R.Điđro Chính vì chủ nghĩa duy vật
Pháp dựa trên những thành tựu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII. ở Đức
tình hình cũng tương tự. Triết học cổ điển Đức dựa trên những thành tựu triết học
của các nước phát triển châu Âu, nó tiếp thu được tư tưởng giải phóng tư tưởng
cách mạng của các nhà duy vật cách mạng Pháp.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
5
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Những tiền đề cho sự phát triển thế giới quan biện chứng đối với lịch sử
nhân loại và sự khái quát lý thuyết phép biện chứng của các nhà duy tâm Đức là:
bước ngoặt kinh tế - xã hội có tính chất thời đại của Anh, bước ngoặt tư tưởng xã
hội có tính lịch sử thế giới của cách mạng tư sản Pháp, sự kế thừa truyền thống
triết học biện chứng Đức và đặc biệt là những thành tựu của khoa học tự nhiên.
Những bậc tiền bối của triết học cổ điển Đức là nhà triết học - toán học
Pháp R.Điđro, nhà vật lý học Anh I.Niutơn, C.Vônphơ Các học thuyết của họ
chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc.
Khoa học tự nhiên lúc này với những phát minh xuất sắc đã vạch rõ tính
biện chứng của quá trình tự nhiên, thúc đẩy việc xây dựng phép biện chứng.
Những thành tựu đó phản ánh vào trong tư tưởng, trong những học thuyết
của các nhà triết học cổ điển Đức và là những tiền đề cho những tư tưởng biện
chứng thiên tài của họ. Những thành tựu đó chứng tỏ khoa học tự nhiên đã chín
muồi cho sự tổng kết biện chứng, nó cần xây dựng một phương pháp tư duy và
khảo sát mới - phương pháp biện chứng để có thể phản ánh đầy đủ những quy luật
tự nhiên khách quan. Nếu ở thế kỷ XVII những nhà khoa học bắt đầu từ Bêcơn,
Galilê, xây dựng một cách tự phát phương pháp siêu hình cho nhận thức khoa học
thì ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà triết học Đức đã bắt đầu xây dựng
phương pháp biện chứng cho khoa học. Nhưng sự thực hiển nhiên đó trong triết
học cổ điển Đức chưa tiến hành triệt để, nó vẫn là triết học đầy mâu thuẫn trên cơ
sở chủ nghĩa duy tâm xa lạ với tinh thần duy vật càng xa lạ với biện chứng duy vật
khoa học.
1.2.
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
Thành tựu và cống hiến.
Tuy có những hạn chế trong lĩnh vực chính trị - xã hội nhưng thành tựu của
triết học cổ điển Đức thật là vĩ đại.
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến
trình lịch sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Khắc
phục triết học truyền thống phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt động
như là vấn đề nền tảng, xuất phát điểm của một vấn đề triết học.
Kế tục tư tưởng triết học cổ đại (Xôcrat cho triết học là sự tự ý thức của con
người về chính bản thân mình) và phục hưng (coi con người là trung tâm). Cantơ
lần đầu tiên hiểu con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt
động của mình, khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận. Hêghen phát triển
thêm tư tưởng này và coi bản thân lịch sử phươn thức tồn tại của con người, mỗi
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
6
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
cá nhân hoàn tàon làm chủ vận mệnh của mình. Ông khẳng định: con người là sản
phẩm của một thời đại lịch sử nhất là định vì vậy nó mang bản chất xã hội.
Trước những thành tựu khổng lồ của kinh tế - xã hội, khoa học - văn hoá.
Các nhà triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen đều đề cao sức mạnh trí tuệ và
khả năng hoạt động cảu con người. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh sức mạnh của con
người họ đã rơi vào cực đoan, họ đã thần thánh hoá con người, coi con người là
chúa tể tự nhiên, bản thân giới tự nhiên nhiều chỗ cũng được họ luận giải như kết
quả hoạt động của con người.
Tuy vậy phải thấy một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển
Đức là nó khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực
con người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả
của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân
loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con người - tự nhiên như một quá trình phát
triển biện chứng.
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên
các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgic biện chứng,
học thuyết về các quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả cá tìm tòi
của họ đó là phép biện chứng.
Với cách nhìn tổng quát và phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ
điển Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt
được. Tiếp thu tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVIII trong việc phát triển tư duy
lý luận và hệ thống hoá toàn bộ tri thức loài người, Cantơ và Hêghen có ý đồ xây
dựng một hệ thống triết học vạn năng làm nền tảng cho thế giới quan của con
người, khôi phục lại các quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học.
Phải nói rằng: triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong
lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh
cao của thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây, đồng thời nó ảnh hưởng to lớn đến
triết học hiện đại.
Mặt hạn chế:
Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức
thể hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng - khoa học về tư tưởng với tính bảo thủ
về lập trường chính trị - xã hội hầu hết các nhà triết học thời kỳ này đều xây dựng
được hệ thống triết học chứa đựng những tư tưởng khoa học lớn có tính vạch thời
đại, đặc biệt là triết học Cantơ và Hêghen. Nhưng họ lại không dám tiến hành,
thực hiện những cuộc cải cách, bảo vệ chính thể Nhà nước Phổ phong kiến.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
7
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Chủ nghĩa duy tâm thần bí, phía trước và bên cạnh các nhà triết học cổ điển
Đức là một dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư tưởng duy vật của các nhà triết
học khai sáng. Song các nhà triết học cổ điển Đức thấy rằng: từ quan điểm duy
vật, người ta không thể giải thích được thế giới. Bản chất của thế giới theo họ là
tinh thần, do vậy chỉ có thể giải quyết được những vấn đề cảu thế giới bằng tinh
thần. Họ đã từ thế giới tinh thần xây dựng nên những hệ thống triết học duy tâm,
thần bí.
Triết học trừu tượng tách rời hiện thực, triết học cổ điển Đức đưa ra được
những tư tưởng tiến bộ, chống chế độ xã hội cũ nhưng đó chỉ là những tư tưởng,
nó không đi vào chính trị xã hội và hoạt động cách mạng mà chỉ là những hệ
thống triết lý trừu tượng ở bên trên.
Nếu các nhà tư tưởng pháp tiến hành cách mạng trong thực tiễn, công khai
chống lại Nhà nước và giáo hội thì các nhà triết học cổ điển Đức chỉ suy nghĩ về
nó trong tư tưởng, không giám công khai chống lại thực tại đó. Họ là các giáo sư
chính thức trong các trường Đại học của vương quốc Phổ, do sợ hãi hiện thực cách
mạng, thoả hiệp với giai cấp tư sản, tư tưởng cách mạng của họ đã phải phủ ngoài
triết học cảu mình một lớp vỏ thần bí duy tâm tự biện, nặng nề, xa rời hiện thực.
II. VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA IMANUEN CANTO.
I.kant là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức. Ông sinh ngày 22 - 04 -
1724 và lớn lên trong một gia đình trung lưu gốc Scốtlen tại Kenítbec, một thành
phố cổ vùng Đông - Bắc nước Phổ trước đây. Mùa thu năm 1740 ông vào học
khoa triết học trường đại học Kenítbec. Ở đây ông được trang bị không chỉ triết
học mà cả khoa học tự nhiên. Ngay từ những năm trong trường đại học ông đã rất
quan tâm và có năng khiếu về các môn toán học và vật lý học và cơ học, vũ trụ
học
Năm 1770, ông trở thành giáo sư và là Giám đốc trường Đại học
Kennitbéc. Năm 1775, ông nhận học viện Tiến sỹ triết học với luận văn: “Lịch sử
tự nhiên và lý thuyết về thiên hà”.
Cantơ không hề ra khỏi thành phố quê hương quá 60 dặm và suốt đời độc
thân. ông mất ngày 12 tháng 4 năm 1804.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
8
Ở trường đại học Kenitbéc, Cantơ giảng một loạt các môn học: Siêu hình
học (triết học) và lôgíc học, toán học và cơ học, vật lý học và địa chất học, nhân
loại học và lịch sử tự nhiên đại cương. Ông còn giảng cả vũ trụ học, địa vật lý,
nhân chủng học. Cũng ở đây, Cantơ đã tập trung toàn bộ sức lực và thời gian để
thực hiện nhiệm vụ mà cả cuộc đời ông đã dặt ra cho mình là xây dựng một hệ
thống triết học mới. Nhiều công trình khao học tự nhiên và triết học của ông đã ra
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
đời, nâng ông lên vị trí một trong những học giả uyên bác nhất thời đó. Những học
thuyết của ông thống trị tư tưởng khao học và triết học tư sản TK XIX. Ông đã để
lại cho nhân loại một trong những hệ thống triết học độc đáo và sâu sắc nhất.
Quá trình phát triển triết học của Cantơ diễn ra qua hai thời kỳ.
Thời kỳ 1: Từ năm 1770 trở về trước.
Thời kỳ 2: Từ năm 1770 đến cuối đời.
Bởi nhiệm vụ triết học trong thời kỳ 2 do Cantơ đặt ra là phê phán (các hệ
thống triết học trước đó) nên thời kỳ này được gọi là thời kỳ phê phán. Còn thời
kỳ 1, tư tưởng phê phán chưa rõ ràng nên được gọi là thời kỳ tiền phê phán.
2.1.
Thời kỳ tiền phê phán và những tư tưởng triết học khoa học tự nhiên.
Thời kỳ 1, Cantơ đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực mà ông đang giảng dạy và
nghiên cứu trong trường Đại học nhưng chủ yếu tập trung vào triết học tự nhiên.
Nghiên cứu những vấn đề trong lĩnh vực triết học tự nhiên. Cantơ xuất phát từ
niềm tin cho rằng: Triết học với tư cách là một khoa học lý thuyết tự biện có thể lý
giải được mà không cần đến kinh nghiệm.Thời kỳ này, với những thành công
trong khoa học ông là người lạc quan, tin tưởng vào khả năng nhận thức thế giới
của con người. Trong thời kỳ này Cantơ viết một khối lượng lớn các công trình về
triết học, khoa học tự nhiên. Đặc điểm rõ rệt trong các công trình này là những tư
tưởng triết học và khoa học tự nhiên gắn bó chặt chẽ với nhau. Ở nhiều ngành
khoa học tự nhiên, nơi mà Cantơ bỏ công nghiên cứu, ông đều đề xuất được
những ý tưởng có giá trị.
Trong vật lý học, khi phát triển các tư tưởng về sự vận động, về lực hấp dẫn
của các nhà toán học, vật lý học và cơ học, Cantơ đã luận giải sâu hơn lý thuyết về
sự vận động và đứng im.
Trong sinh học, Cantơ đã đề xuất tư tưởng phân loại động vật theo nguồn
gốc riêng của từng loại, cơ sở của sự phân loại là dựa vào các nhóm gen của
chúng.
Trong nhân loại hoc, Cantơ đề xuất tư tưởng về lịch sử tự nhiên của loài
người. ở đây ông lý giải sự hình thành và sự phát triển của loài người qua các giai
đoạn mông muội, văn minh và hiện đại.
Khác với Niutơn, Cantơ đã thử ứng dụng các nguyên tắc của khoa học tự
nhiên hiện đại vào việc giải thích không chỉ kết cấu của hệ thống Mặt trời cho giai
đoạn hiện tại, mà còn giải thích sự nảy sinh của hệ thống đó.
2.2.
Thời kỳ phê phán và những quan điểm triết học cơ bản.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
9
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Nếu ở thời kỳ tiền phê phán, Cantơ nghiên cứu triết học khoa học tự nhiên
thì sang thời kỳ phê phán ông chú ý những vấn đề xã hội con người, nếu trước đây
ông thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới thì bây giờ ông lại cho
rằng con người không nhận thức được thế giới, trước đây ông là người đề cao trí
tuệ thì nay ông lại đề cao tín ngưỡng.
Về nhận thức luận,Cantơ luôn luôn bác lại những nhà duy vật kinh nghiệm
chủ nghĩa, những nhà cho rằng trí tuệ của chúng ta có được là nhờ kinh nghiệm,
nhờ kinh nghiệm mà ta nhận thức đuợc thế giới.Ngược lại,Cantơ cho rằng, trí tuệ
là một cơ quan năng động có sẵn khả năng hiểu biết -trí tuệ tiên nghiệm, chúng ta
nhận thức thế giới có hiệu quả chính là bằng trí tuệ tiên nghiệm đó
Từ năm 1770 về sau, Cantơ đã đặt ra nhiệm vụ cho bản thân mình là phải
xây dựng một hệ thống triết học theo quan điểm duy tâm phê phán tiên nghiệm,Hệ
thống triết học đó được Cantơ trình bày chủ yếu trong bộ ba tác phẩm :
Phê phán lý tính thuần tuý (1781)
Phê phán lý tính thực tiễn (1788)
Phê phán năng lực phán đoán (1790)
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC CANTƠ
3.1. Triết học lý luận:
Triết học lý luận của Cantơ đề cập đến những vấn đề nhận thức luận và
logíc học với mục đích xây dựng một nền tảngthế giới quan mới cho con
người,xác định giới hạn và đối tượng của tri thức con người,hay theo cách đặt vấn
đè của cantơ là giải đáp vấn đề tôi có thể biết được cái gì?
Triết học nhận thức chủ yếu là xây dựng lý thuyết tiên nghiệm; tri thức và
khả năng (giới hạn) của các loại tri thức.
3.1.1.
Thuyết hai thế giới và quan niệm về nhận thức.
Tiền đề cho bộ ba tác phẩm “triết học phê phán ” của Cantơ là thuyết hai
thế giới : Thế giới vật tự nó (Ding and Sich) và thế giới hiện tượng (fonomen).
3.1.1.1.
Thuyết hai thế giới:
Cơ sở tư tưởng của sự hình thành quan niệm “vật tư do”.
a) Vấn đề quan hệ giữa tư tưởng và hiện thực vẫn luôn là vấn đề phức tạp,
nó như một câu hỏi treo trước nhà triết học.Trong khi các nhà khoa học và triết
học chưa có ý kiến thống nhất,khoa học và thần họpc đối lập nhau trong việc giải
quyết vấn đề đó thì Cantơ nghiêng về phía cho rằng hiện thực và tư tưởng là hai
lĩnh vực khác nhau, không liên quan đến nhau.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
10
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
b) “Do hạn chế về khoa học, Engen nhận định sự hiểu biết của loài người về
thế giới cho đến nay vẫn còn quá vụn vặt, mơ hồ,đến nới đằng sau mỗi sự vật tự
nhiên ấy,người ta vẫn có thể cho rằng có một “vật” tự do bí ẩn đặc biệt nữa”.Chưa
vượt qua tầm nhìn đương đại,Cantơ cũng quan niệm như vậy.Cantơ coi “cái vật tự
do bí ẩn đặc biệt” ở đằng sau mỗi sự vật đó là “cái cân nguyên”, “cái tồn tại thực
sự”, là “bản chất” của vật chất,-bản chất cua thế giới.
c) Dựa vào Thuyết động lưc học Cantơ cho rằng chính cái vật tự do bí ẩn ở
đằng sau sự vật chính là cái tao ra “lực vận động” như là một nguyên nhân đầu
tiên của vật chất,của vận động-cái tinh thần của tinh thần,-cái đó,tự nó,tồn tại. Và
cantơ đi đến kếtl luận: rõ ràng là có vật tự do.
Cantơ viết: “tôi gọi vật tự nó là khái niệm đang nghi ngờ nhưng nó tồn tại
khách quan và không thể nhận thức được bằng mọi cách.Khái niêm vật tự nó
nghĩa vật cần phải được nhận thức không phải như đói tượng cảm tính mà như vật
tồn tại tự nó”.
Thế giới vật tự nó.
Vật tự nó theo quan niệm cua Cantơ có thể hiểu theo ba nghĩa sau:
1. Là vật khách quan, tự nó tồn tại, ở bên ngoài con người, con người không
biết gì về nó.
2. Vật tự nó là căn nguyên của thế giới, là cái tồn tại thức sự, là bản chất của
thế giới, tinh thần của tinh thần.
3. Vật tự nó còn ám chỉ những những chuẩn mực, những lý tưởng của mọi
sự hoàn thiện tuyệt đối mà con người không thể đạt tới được, nhưng nó là những
điều mà con người hằng mong ước: Tự do, linh hồn bất tử, Thượng Đế. Đây là
lĩnh vực thuộc đối tượng của tín ngưỡng, của niềm tin.
Thế giới hiện tượng
Thế giới hiện thực trong lĩnh vực muôn màu muôn vẻ của nó như đất nước,
sông núi, cỏ cây,…và những quy luật dẫn dắt mọi quá trình của thế giới đó,…theo
Cantơ, là những cái đang tộn tại dưới dạng hình thức (hiện tượng) của thể giới vật
tự nó. Thế giới đó biểu hiện ra như chúng ta thấy là do “tác động”thế giới vật tự
nó đến khả năng cảm giác tiên nghiệm của chúng ta, gây nên những biểu tượng,
những biểu tượng đó qua kinh nghiệm của chủ thể nhận thức mà xây dựng nên
những hình dạng như chúng đang tồn tại trong hiện thực. Cantơ viết rằng, “giác
tính, bằng khả năng tổng hợp của mình, thông qua các khái niệm hay các phạm trù
mà sáng tạo ra giới tự nhiên với các hiện tượng đa dạng, phong phú như nó đang
tồn tại. Mọi hiện tượng của giới tự nhiên phải chịu sự chi phối của các phạm trù lý
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
11
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
tính”. Nói cách khác, thế giới hiện tượng này chính là thế giới bề ngoài của thế
giới vật tự nó, là phần biểu hiện “ vật chất” của thế giới tinh thần.
Lý do vật tự nó là không thể nhận thức được.
a) Vào thời đại của Cantơ, nhiều nhà tư tưởng thừa nhận sự tồn tại của
Thượng Đế, song họ không xác định được một cách thống nhất bản chất và vai trò
của Thượng Đế trong thế giới hiện thực. Đó là chổ yếu của cả thần học và triết học
duy tâm nói chung để các nhà vô thầm phủ nhận sự tồn tại của Thượng Đế. Để
cứu vãn tinh thần duy tâm, Cantơ đã coi Thượng Đế không phải cái gì khác mà, đó
là cái tự do, là linh hồn bất tử, là vật tự nó - nghĩa là Thượng Đế cái tự nó tồn tại,
con người không giải thích được và cũng không thể biết được.
b) Cantơ đòi hỏi ở tri thức khoa học và triết học sự hoàn thiện tuyệt đôí: coi
đó là tri thức lý tưởng của con người. Song, cũg như Hium và Lépnhít, một mặt
Camtơ cho rằng, để khoa thực sự ;là khoa học thì nó phải dựa trên tri thức tiến
nghiệm., nghĩa là tri thức mang tính phổ quát và tất yếu (chân lý). Mặt khác, do
chua thoát khỏi quan niệm siêu hình -sự nhìn nhận thế giới một cách tách rời-
Cantơ cho rằng mọi sự vận động trong thế giới bên ngoài chúng ta chỉ là sự tồn tại
dưới dạng đơn giản nhất, ngẫu nhiên.Vậy là ở đây có khả năng mà phải chọn một:
1. Nếu khẳng định,mọi tri thức đều là sự phản ánhcác sự vật của khách quan
thì phải thì phải thừa nhận mọi khoa học đều chỉ dựa trên nhưỡng tri thức đơn
nhất, ngẫu nhiên
2. Nếu đòi hỏi mọi tri thức khoa học đạt đến tính phổ quát và tất yếu thì
phải thừa nhận, nguồn gốc của khoa học( triết học) không phải là sự phản ánh thế
giới khách quan ; tri thức đó chính là kết quả của sự sáng tạo của riêng trí tuệ con
người.
Đứng trước sự lựa chọn trên, Cantơ lập luận: Từ trước tới nay người ta cho
rằng, “mọi tri thức của chúng ta đều phải phù hợp với các sự vật( quan điểm nhận
thức luận duy vật-N.V.H). Tuy nhiên, trên thực tế mọi ý đồ thông qua khái niệm
để xác lập một cái gì đó tiên nghiệm về các sự vật thì đều thất bại. Vì thế, có lẽ,
giải quyết nhiệm vụ cơ bản của triết học sẽ hiệu quả hơn nếu chúng ta xuất phát từ
luận điểm:” Các sự vật phải phù hợp với nhận thức của chúng ta” (nhận thức tiên
nghiệm duy tâm-N.V.H). Điều này sẽ đáp ứng tốt hơn cái việc mà triết học đòi hỏi
là phải có được tri thức tiên nghiệm về vật tự nó”.
Như vậy, với ý đồ xây dựng nền tảng tri thức tiên nghiệm của khoa học(
triết học), cũng như quan niệm cho rằng mọi tri thức của con người không phải là
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
12
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
sự phản ánh thế giới khách quan, Can tơ đi đến khẳng định vật tự nó là không thể
nhận thức được.
3.1.1.2.
Quan niệm về nhận thức.Kinh nghiệm và tiên nghiệm.
Theo Cantơ, con người nhận thức là nhờ kinh nghiệm (“mọi kiến thức đều
bắt đầu từ kinh nghiệm “). Cantơ phân biệt hai loại kinh nghiệm: Kinh nghiệm
thông thườngvà kinh nghiệm khoa học.
Kinh nghiệm thông thườnglà kinh nghiệm được hình thành từ những”sự trải
qua” trong cuộc sốngcũng như trong nhận thức nói chung của cá nhân.
Kinh nghiệm nhận thức khoa học là kinh nghiệm bậc cao: Kinh nghiệm của
tri thức với tư cách là” cơ quan năng động có sẵn khẳ năng nhận thức” –tức là ở
đó đã có sẵn yếu tố tiên nghiệm. Như vậy, đây làkinh nghiệm tiên nghiệm; nó là
công cụđể phát hiện cái tiên nghiệm mới.
Tiên nghiệm có hai mức độ:
a) Cái có trước kinh nghiệm-ap rio ri
b) Cái siêu nghiệm-tứclà tiên nghiệm đích thực, tiên nghiệm bậc cao. Trong
siêu nghiệm có tiên nghiệm và hậu nghiệm vứi tư cách là phán đoán tiên nghiệm.
Đối tượng của triết học không phải là nghiên cứu bản thân kinh nghiệm mà
chủ yếu là nghiên cứu cái tiên nghiệm và hậu nghiệm – siêu nghiệm,( tức nghiên
cứu cái có truớc và có sau kinh nghiệm).
Siêu nghiệm xuất phát từ kinh nghiệm nhưng không phải là kinh nghiệm.
Nó là sự vượt qua kinh nghiệm thông thường, vượt qua những hiện tượng mà con
người nhận biết được bằng các giác quan. Những hình ảnh mà giác quan thu được
chỉ là những kinh nghiệm thông thường, ít có ý nghĩa trong nhận thức, chúng chỉ
có ý sau khi có được yếu tố tiên thiên.
Tiên thiên là cái vốn có của tự nhiên mà thực chất, đó là cái tự do, cái bản
chất của thế giới.ở con người ( vì con người là một bộ phận của tự nhiên) thì tiên
thiên chính là các yếu tố bẩm sinh.
Cái tiên nghiệm, siêu nghiệm, tiên thiên như đã phân tích, do còn là kết quả
của sự chuyển hoá trong chủ thể nhận thức, cho nên nó có tính xã hội.Tuy nhiên
về nguồn gốc, về bản chất, nó thuộc tự nhiên.Bản tính thiện, bản tính sáng tạo, bản
tính vươn tới.Tự do của con người là những cái thuộc tiên thiên, chúng không phải
đợi đến lúc cá nhân có đầy đủ kinh nghiệm mới xuất hiện.Những tư chất ở mỗi cá
nhân, năng khiếu, thiên chức mỗi người, nòi giống đều là những cái thuộc tự
nhiên, chúng được phát huy ngay cả khi cá nhân chưa có nhiều kinh nghiệm.Các
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
13
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
cảm giác, các hoài cảm, các dục vọng,…cũng không cần chờ có kinh nghiệm rồi
mới có.
Nhận thức và khả năng của nhận thức
Con người với tư cách là chủ thể nhận thức có vốn có tri thức tiên nghiệm
nhận thức là việc chủ thể dùng tri thức tiên nghiệm để xem xét sự vật. Nguyên tắc
nhận thức: Không phải là tri thức của chủ thể phải phù hợp với sự vật, mà sự vật
phải phù hợp với tri thức của chủ thể nhận thức.
Nhận thức bắt đầu từ khi các sự vật hiện tượng khách quan tác động các
giác quan của con người, gây nên những cảm giác. từ toàn bộ những cảm giác đó,
thông qua kinh nghiệm mà chủ thể nhận thức xây dựng nên những hình ảnh,
những khái niệm, những phạm trù, những quy luật …Về hiện tượng nói riêng và
về thế giới hiện tượng nói chung.
Cantơ viết: Nhận thức là do những năng lực nhận thức tạo ra, do hoạt động
sáng tạo của chủ thể tạo ra tri thức, tri thức đó tạo ra thế giới hiện tượng và chính
nó lại trở lại nhận thức cái do chính mình tạo ra đó.
Vậy là thế giới hiện tượng, nói đến cùng, là do kinh nghiệm con người “ xây
dựng” – thế giới nằm trong phạm vi của cái chủ quan do chính tri thức của chủ thể
nhận thức tạo ra. Đến luợt mình con người nhận thức là thế giới hiện tượng này.
Cho nên Cantơ còn gọi triết học của mình là Hiện tượng luận.
Rõ ràng là, giữa thế giới vật tự nó và thế giới hiện tuợng có một hố sâu ngăn
cách mà nhận thức của con người không thể vuợt qua.Trong quá trình nhận thức,
tri thức con người ngày càng phong phú, ngày càng sâu sắc. Nhưng đó chỉ là tri
thức phong phú và sâu sắc về thế giới hiện tượng. Về nguyên tắc nhận thức chỉ là
nhận thức thế giới hiện tượng. Cho nên, tri thức dù có phong phú đến đâu cũng
không thể tiếp cận với thế giới vật tự nó. Trong khi đó, bản chất của sự vật nói
riêng và của thế giới nói chung là ở vật tự nó, ở thế giới vật tự nó. Vậy là, đối với
thế giới thì nhận thức là bất khả tri
Trong luận đề về sự tồn tại của vật tự nó thì Cantơ là nhà duy vật, ở đây tính thứ
nhất không phải là ý thức mà là “ vật tự nó”. Song vật tự nó là bản tính tinh thần,
cho nên ông lại là nhà duy tâm. Khi nghiên cứu các hình thức và giới hạn của
nhận thức, ông cho rằng vật tự nó là siêu nghiệm, không nhận thức được cảm giác
là cơ sở của tri thức, nhưng không một loại tri thức nào, dù cao nhất, có thể tiếp
cận tới vật tự nó, ông là nhà bất khả tri.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
14
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
3.1.2. Học thuyết về tri thức
Học thuyết về tri thức được Cantơ xây dựng trên cơ sở lý thuyết phán đoán.
Theo Cantơ, tri thức bao giờ cũng được thể hiện và sinh ra dưới các hình thức
phán đoán. Phán đoán luôn luôn diễn ra trong một quan hệ nào đó giữa hai khái
niệm đóng vai trò của chủ ngữ và tân ngữ. Có hai loại quan hệ phán đoán phân
tích và phán đoán tổng hợp.
Phán đoán phân tích : Trong một số phán đoán, tân ngữ chưa đưa ra được
một tri thức mới nào về đối tượng so với tri thức đựoc chứa đựng ở chủ ngữ. Thí
dụ: “ Chó là động vật có 4 chân”. Đây là mệnh đề phân tích. Vì theo Cantơ, bản
thân khái niệm “ chó” đã bao hàm đặc tính của một động vật có 4 chân rồi. ở đây,
tân ngữ “4 chân” chỉ có tác dụng làm rõ nghĩa cho chủ ngữ “ chó ’’. Phán đoán
có tính kinh nghiệm và có tính giải thích.
Phán đoán tổng hợp là loại phán đoán mà tân ngữ đã gia tăng cho chủ ngữ
một nội dung mới. Thí dụ : “ mọi vật đều có quảng tính’’. Phán đoán này là kết
quả của sự khái quát tư duy lý luận. Tân ngữ “ quảng tính ’’ là kết quả được khái
quát tổng hợp, rút ra từ thực tế của chủ ngữ “ vật’’. Nó chứng minh rằng mọi vật
đều nằm trong không gian. Phán đoán này đúng đối với mọi thời điểm, nó có tính
tiên nghiệm. Cantơ còn gọi loại phán đoán naỳ là phán đoán này là phán đoán mở
rộng, vì tân ngữ gia tăng cho chủ ngữ một nội dung mới mà trước đó bản thân chủ
ngữ chưa có.
Cantơ quan niệm phán đoán tổng hợp tiên nghiệm là loại phán đoán cao
nhất của sự nhận thức. Và, vì là loại phán đoán cao nhất, cho nên phán đoán tổng
hợp tiên nghiệm có ý nghĩa quyết định trong quá trình nhận thức. Do đó, vấn đề cơ
bản đối với nhiệm vụ Cantơ đặt ra cho triết học lý thuyết của mình như vấn đề cội
nguồn của tri thức, các loại tri thức và khả năng của các loại tri thức được tập
trung vào vấn đề về khả năng của phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong từng loại
tri thức đó. Nghĩa là ông đặt vấn đề phải nghiên cứu xem sự phán đoán tổng hợp
tiên nghiệm cókhả năng đến đâu trong các loại tri thức và trong nhận thức nói
chung.
Cantơ đối lập hai loại tri thức : tri thức hạn chế và tri thức khoa học.Tri
thức hạn chế xuất phát từ kinh nghiệm, nó không chính xác, chưa hoàn thiện. Tri
thức khoa học là tri thức trên kinh nghiệm, có trứơc kinh nghiệm, nó hoàn toàn
chính xác và hoàn thiện. Đó là tri thức trong toán học, trong khoa học tự nhiên lý
thuyết, và trong siêu hình học.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
15
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Trong tri thức khoa học, Cantơ chỉ quan tâm ba lĩnh vực : Toán học, khoa
học tự nhiên lý thuyết và siêu hình học. Vì vậy ông đặt vấn đề nghiên cứu những
phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong một tổng thể ba lĩnh vực thể hiện ba cấp độ
từ thấp đến cao:
a) Phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong toán học có khả năng đến đâu?
b) Phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong khoa học tự nhiên lý thuyết có khả
năng đến đâu?
c) Phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong siêu hình học có khả năng đến đâu?
Nghiên cứu khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong tổng thể tri thức khoa
học và triết học đó, Cantơ gọi là “ nghiên cứu tiên nghiệm ’’, còn học thuyết mà
Cantơ xây dựng nên nhằm giải đáp cho sự nghiên cứu đó, ông gọi là chủ nghĩa
duy tâm tiên nghiệm.Nhiệm vụ của triết học Cantơ là phê phán các triết học cũ,
xây dựng một triết học mới, cho nên triết học của ông là “ Triết học duy tâm tiên
nghiệm phê phán”.
Ba lĩnh vực thể hiện trong ba cấp độ tri thức nói trên,theo Cantơ, là tương
ứng với ba cấp độ hay ba năng lực nhận thức cơ bản của con người là trực giác
cảm tính, giác tính phân tích, và lý tính.
3.1.3 Trực giác cảm tính. Khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm
trong toán học.
Cấp độ đầu tiên của quá trình nhận thức, theo Cantơ, gắn liền với lý thuyết
về không gian và thời gian.
Không phải là sự vật hiện tượng tồn tại một các khách qua trong không gian
và thời gian, khái niệm không gian và thời gian được hình thành nhờ cảm tính chủ
quan xác định khi có sự vật tồn tại và được lĩnh hội.
Như vậy – thời gian xuất hiện là do cảm giác chủ quan. Nhưng cái gây nên
cảm giác chủ quan và chính cảm giác đó lại ở bên ngoài, cho nên không gian và là
cái có trước kinh nghiệm, là điều kiện cho mọi kinh nghiệm có thể xảy ra chúng là
những khái niệm tiên thiên. Không gian là hình thức bên ngoài của kinh nghiệm
cảm tính tiên nghiệm.
Hình thức nhận thức cảm tính theo Cantơ chính là cấp độ phán đoán tổng hợp tiên
nghiệm trong toán học, không gian thời gian là nền tảng cho toán học. Theo
Cantơ, các biểu tuợng không gian là cơ sở của tri thức hình học : Thời gian là
biểu tượng của tri thức số học và đại số.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
16
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
3.1.4 Giác tính phân tích (hay phân tích tiên nghiệm). Khả năng nhận
thức của khoa học tự nhiên lý thuyết.
Trong cấp độ thứ nhất của nhận thức, theo Cantơ, do những sự vật khách
quan tác động đến giác quan của chúng ta mà xuất hiện những cảm giác lộn xộn.
Những cảm giác lộn xộn đó được trực giác cảm tính đưa vào trật tự không gian
thời gian, trở thành các tri giác. Những tri giác đó còn mang tính chủ quan của cá
thể. Để chúng trở thành kinh nghiệm tức trở thành một cái gì đó khách quan hơn
thì nhận thức phải bước lên hình thức cao hơn – giác tính.
Tư duy sử dụng khái niệm phạm trù là tư duy của giác tính phân tích. Đây
là loại hoạt động tư duy khoa học, nó có nhiệm vụ quy tụ các tri giác đa dạng biến
các tri giác cảm tính thành những tri thức khách quan được mọi người thừa nhận
Để làm được điều đó, trước hết giác tính phải xây dựng một hệ thống các
phạm trù.
Cantơ nêu lên 12 phạm trù, chia thành bốn nhóm, mỗi nhóm 3 phạm trù,
Những phạm trù đó là :
Các phạm trù Lượng : thống nhất, đa dạng chỉh thể.
Các phạm trù Chất : hiện thực, phủ định, giới hạn.
Các phạm trù Quan hệ : cố định và tồn tại độc lập. Quan hệ nhân quả và
phụ thuộc, tiếp xúc.
Các phạm trù tình thái: khả năng, tồn tại, tất yếu.
Ở hệ thống phạm trù đó, trong mỗi nhóm và giữa các nhóm phạm trù dù
chưa có sư tương tác biện chứng thực sự, song về hình thức đã có được các tố của
các mối quan hệ, ràng buộc có tính biên chứng. Mỗi nhóm được sắp xếp theo trình
tự : chính đề – phản đề – hợp đề. Giữa 4 khối có mối liên hệ bên ngoài bên trong,
chiều hướng cách thức.
Cantơ cho đây là những phạm trù cơ bản để từ đó triển khai ra những phạm
trù mới, đáp ứng đòi hỏi của khoa học và hoạt động của con người. Bởi vì, Cantơ
viết : “ đối với tôi, điều quan trọng khong phảilà đưa ra một hệ thống đầy đủ các
phạm trù, mà chỉ là sự đầy đủ có tính nguyên lý của hệ thống”.
Nhưng các phạm trù mới chỉ đơn thuần lànhững hình thức của tư tưởng
chưa bao chứa một nội dung nào cả. Vì thế, để có nội dung và trở thành tri thức
các phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm cảm tính. Cantơ coi nhiệm vụ
cơ bản ở đây là dùng phép phán đoán tiên nghiệm các phạm trù, tức vận dụng
chúng vào kinh nghiệm quy tụ các tư liệu cảm tính đa dạng dưới sự thống nhất của
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
17
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
khái niệm, và bằng cách khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy cảm và duy
lý trước đây.
Cantơ kết luận : Không một hình thức cảm tính trực giác nào, không một
phạm trù khoa học nào, thậm chí không một loại tri thức nào dù cao đến đâu, lại
có thể xác định được, với tới được thế giới khách quan. Giới tự nhiên với tư cách
là đối tượng của tri thức phổ biến và tất yếu từ phía các hình thức của tri thức
được xây dựng nên bằng chính tri thức của chúng ta. Chúng ta chỉ nhận thức thế
giới đó. Nhận thức của khoa học tự nhiên lý thuyết cũng chỉ nằm trong khuôn khổ
tri thức đó mà thôi.
3.1.5 Lý tính ( hay biện chứng tiên nghiệm ). Về khả năng của siêu hình học.
Vấn đề cơ bản thứ ba trong triết học phê phán của Cantơ là vấn đề khả năng
phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong siêu hình học, tức là trong triết học tự biện.
Đây cũng chính là vấn đề về năng lực biện chứng tiên nghiệm.
Luật tương phản ( antinomi)
Lý tính con người luôn khao khát vươn tới lĩnh vực vật tự nó để đạt tới tri
thức tuyệt đối. Song quá trình vươn tới tri thức đó luôn luôn nẩy sinh những mâu
thuẫn, những nghịch lý( antinomi).
Cantơ khẳng định có 4 antinomi cơ bản của lý tính. Mỗi antinomi đuợc kết
cấu từ 2 luận đề đối lập : Dĩ nhiên, học thuyết antinomi của Cantơ có nhiều hạn
chế. Ông chỉ thừa nhận mâu thuẫn trong tư tưởng của con người, chưa thấy mâu
thuẫn luôn luôn tồn tại trong thế giới tự nhiên. Các atinomi đó chưa hoàn toàn là
những mâu thuẫn biện chứng, vì giữa các chính đề và phản đề của chúng chưa có
sự thống nhất và chuyển hoá lẫ nhau. Giải quyết mâu thuẫn cũng không phải chỉ
dừng lại ở việc phân tích từng mặt đối lập rồi kết luận đúng sai như ông đã làm.
Trên thực tế, quá trình nẩy sinh và giả quyết mâu thuẫn là động lực thúc đẩy sự
vật phát triển.
Tuy nhiên, học thuyết biện chứng tiên nghiệm bao hàm nhiều tư tưởng tích
cực. Ông thấy antinomi là bản chất của lý tính con nguời chứ không phải những
lỗi lôgic thông thường. Cantơ là người đầu tiên tìm cách bao quat toàn bộ những
nguyên lý tư duy đối lập nhau của thời đại trên quan niệm thống nhất, vạch ra
những vấn đề còn bỏ ngỏ trong các vấn đề về bản chất của tư duy. Hêghen đánh
giá rằng “ việc tìm ra các antinnomi cần đươc xem như một thành tựu rất quan
trọng của nhận thức, bởi bằng việc đó vận động biện chứng của tư duy đựơc đề
cao’’.
3.2 Triết học thực tiễn.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
18
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Nếu triết học lý thuyết nghiên cứu khả năng nhận thức của con người, thì
triết học thực tiễn nghiên cứu các hoạt động thực tiễn của con người nhằm giải
đáp vấn đề “ tôi cần phải làm gì? ’’.
Nếu nhận thức của con người chỉ dừng lại ở giới hạn hiện tượng luận, thừa
nhận vật tự nó là bất khả tri, thì trong hoạt động thực tiễn của mình, con người vẫn
thường xuyên tác động đến các sự vật xung quanh ta, không chỉ nhận thức thế giới
hiện tượng mà còn luôn hướng tới, vươn tới thế giới vật tự nó như là đối tượng
hoạt động của mình.
Chính điều đó làm cho Cantơ thấy quan hệ giữa triết học lý thuyết và triết
học thực tiễn trở nên hết sức phức tạp. Một mặt, ông muốn xây dựng một hệ thống
triết học thực tiễn thực sự khoa học. Mặt khác, “ thực tiễn’’ theo Cantơ, về cơ bản
độc lập với quá trình nhận thức của con người. Bản thân thực tiễn cũng được
Cantơ hiểu theo hiều nghĩa. Theo nghĩa hẹp, đó là toàn bộ các hoạt động chính trị,
pháp quyền, văn hoá của con người. Mặc dầu thiếu xót của Cantơ trong lĩnh vực
này là ở chỗ, hoạt động thực tiễn sản xuất vật chất hầu như chưa được ông quan
tâm.
3.2.1 Đạo đức học của Cantơ.
Xuất phát từ tư tưởng khẳng định sự độc lập của nhân cách đạo đức với học
thức và giáo dục của Rutxo, Cantơ cho rằng, các nguyên lý đạo đức là độc lập với
mọi lĩnh vực hoạt động khác của con nguời. Nếu trong triết học lý thuyết, cảm
giác là nguồn gốc duy nhất của tri thức, của giác tính với các phạm trù và quy luật
của hiện tượng luận, thì ở đây, lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên
tắc và chuẩn mực đạo đức. Trong lĩnh vực này, “ các nguyên lý cảm tính nói
chung không thích hợp để có thể từ đó người ta xây dựng nên các quy luật đạo đức
’’.
Nguyên lý đạo đức cơ bản của nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức là làm
theo yêu cầu của lý trí, cái mà Cantơ gọi là “ mệnh lệnh tuyệt đối ’’. Mệnh lệnh
tuyệt đối đòi hỏi người ta phải hành động như thế nào đó để những hành vicủa
mình phù hợp với một pháp chế – phổ biến : Mỗi người hãy hành động tới mức tối
đa sao cho điều đó được đưa vào cơ sở pháp chế phổ biến’’.
Theo Cantơ, chỉ có hành động nào của con người phù hợp với mệnh lệnh
tuyệt đối nói trên mới được coi là hành động có đạo đức. Cụ thể,một mệnh lệnh
tuyệt đối đòi hỏi hoạt động của con người phải tuân theo các quy tắc sau:
- Mỗi ngưòi đều có quyền và cần phải hành động theo điều kiện và ý muốn
sao cho ai cũng lam được như thế.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
19
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
- Mỗi người đều có quyền và cần cho phép người khác cũng có được quyền
như thế, đồng thời tạo điều kiện để họ thực hiện được quyền đó.
- Mỗi người điều có quyền và cần phải ngăn chặn những người khác hành
động trái với mệnh lệnh tuyệt đối trong khả năng có thể làm được.
Phạm trù trung tâm của đạo đức học của Cantơ là Tự do. Hai mạt mâu thuẫn
trong con người của đạo đức theo quan niệm của Rútxô được Cantơ giải quyết
bằng cách ông chuyển cái đạo đức trong tình cảm, lương tâm thành mệnh lệnh
của lý trí. Cái lý trí mà ông hiểu là có sức mạnh từ bên ngoài. Thực chât, sự vươn
tới đạo đức của cpn người đối với Cantơ chính là khát vọng vươn tới Tự do – hiểu
theo con người vươn tới các ý niệm phổ quát và tất yếu cũng như theo nghĩa con
người vươn tới lý tưởng cao đẹp của mình.
Ngay từ cuối thời kỳ Tiền phê phán, Cantơ đã hình thành tư tưởng chia lý
tính ra những thành tố khác nhau, tư đó hình thành các bộ phận khác nhau trong
triết học. Bất kỳ một triết học nào theo ông cũng hoặc là triết học lý thuyết hoặc là
triết học thực tiễn. Triết học lý thuyết là ly luận về nhận thức và từ đó tim ra
nguyên tắc nhận thức. Triết học thực tiễn là lý luận về phẩm hạnh và tim ra
nguyên tắc vươn tới phẩm hạnh – sự lựa chọn Tự do. Sự khác nhau giữa hai loại
triết học đó là do ở đối tượng của chúng. Đối tượng của triết học lý thuyết chủ yếu
là thế giới hiện tượng, của triết học thực tiễn là hành vi tự do và phẩm hạnh tự do
– vươn tới vật tự nó.
Tự do như vậy có thể hiểu theo ba cấp độ:
1. là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giới tính hoạt động độc lập đối
với các quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện luận.
2. Là cái tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận, nơi ma
mọi cái điều diễn ra một cách tất yếu.
3. Tự do với tư cách là cái thuộc lĩnh vực vật tự nó. Nếu trong lĩnh vực hiện
tượng luận, tự do chỉ là tương đối thì trong lĩnh vực vật tự nó tự do là tuyệt đối.
Tóm lại, đạo đức học của Cantơ tuy có nhiều điểm duy tâm, không mang vì
tính phi lịch sử phi giai cấp cũng như thiếu cơ sở thực nghiệm nhưng nó chữa
đựng nhiều tang nhân đạo sâu sắc. Đối lập với những quan niệm ích kỷ, thực
dụng, hẹp hòi, nó là sự kết tinh những giá trị đạo đức chugcủa loài người trong
lịch sử, đồng thời thể hiện những khát vọng của giai cấp tư sản ở Đức cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX nhằm giải phóng con người khỏi gông cùm của chế độ
phong kiến, xây dựng một xã hội mới, đem lại tự do và hạnh phúc cho loài người.
3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
20
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Các lĩnh vực lịch sử, xã hội pháp quyền của con người được Cantơ coi lĩnh
vực đạo đức học ứng dụng ; vì theo ông, con người vơi tư cách là chủ thể đạo đức
tích cực được thể hiện trong lĩnh vực đó.
Các quan niệm về lịch sử, xã hôi, pháp quyền của Cantơ, một mặt có ý
nghĩa triết học và xã hội to lớn, mặt khác nó mang tinh hai mặt và mâu thuẫn.
Chịu ảnh hưởng của các nhà cách mạng tư sả pháp, Cantơ cụ thể hoá mệnh
lệnh tuyệt đối trong đạo đức học thành theo yêu cầu chung ở mọi lĩnh vực thực
tiễn: chính tri, xã hôi. Mỗi người hãy hành đông sao cho tự do của bạn phải tồn tại
cùng với tự do của tất cả mọi người.
Quan niệm về lịch sử, xã hội:Lịch sử, theo Cantơ là phương thức tồn tại của
loài người mà cụ thể là của từng cá nhân như một chủ thể. lịch sử chính vì vậy tập
trung cao ở lịch sử xã hội. Một mặt, lịch sử là quá trình mà ở đó, bằng hoạt động
của chính mình, con người ngay càng phát triển bản chấtvà khả năng của mình ;
mặt khác, đây là lĩnh vực để con người thể hiện mục đích và lý tang đạo đức. Cho
nên, tiến trình lịch sử nhân loại là sự tiếp tục cho quá trình phát triển của lịch sử tự
nhiên, nó diễn ra theo hướngngày càng tiến bộ và hoàn thiện, nó gạt bỏ dần những
cản trở và đi ngược lại nó. Cách mạng tư sản pháp là môt bằng chứng điển hình về
điều đó : Nó tiêu diệt ché độ chuyên chế bất công mở đường cho xã hội tiến lên
một bước mới.
Quan niệm về nhà nước, pháp quyền: Theo Cantơ, nhà nước là công cụ liên
kết mọi thành viên của nó vào khuôn khổ pháp luật, nhằm giám sát và bảo đảm sự
tự do và bình đẳng cho mọi công dân. Sự hình thành nhà nước một mặt là do khế
ước mặt khác đó là sự hình thành có tính tất yếu, do yêu cầu xã hội yêu cầu – con
người đòi hỏi. Theo Cantơ nói đến nhà nước là nói đến nhà nước pháp quyền nhân
dân tập hợp lại để thực hiện tự do và bình đẳng Cantơ con cho rằng: Chế độ cộg
hoà là chế độ phù hợp nhất với nhu cầu phát triể của xã hội, nhằm mục đích vì
hạnh phúc con người
Quan niệm về quyền sở hữu và bình đẳng: Phát triển quan điểm tư sản về xã
hội, Cantơ bảo vệ chế độ tư hữu và cố gắng củng cố nó bằng những lập luận theo
kiểu tư sản : Sự tồn tại của xã hội tư sản là có tính tiên thiên, tính tự nhiên và do
đó nó có tính bất khả xâm phạm. Ông chứng minh rằng, quyền tư hữu tài sản là có
nguồn gốc tiên thiên do đó nó là vĩnh cửu, phổ biến và tuyệt đối câng thiết.
Cantơ cũng nêu lên tư tưởng độc đáo và sâu sắc về quyền bình đẳng của con
người. Bình đẳng không phải là về tài năng mà là về cơ hội để phát triển và áp
dụng tài năng ông cũng xác định là có quyền độc lập của người công dân. Nhưng
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
21
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
quyền độc lập đó được ông hiểu theo kiểu cá nhân chủ nghĩa vốn có trong xã hội
tư sản.
Cantơ chia nhân dân trong xã hội ra hai loại nguời: Người công dân và
người chỉ có quốc tịch. Người chỉ có quốc tịch không hề có một quyền thông
thường nào trong xã hội. Người lao động thuộc loại người này.
Quan niện về hoà bình về chiến tranh : Trong cuốn “Về hoà bình vĩnh viễn
’’1975 Cantơ kêu gọi tất cả các dân tộc hãy thiết lập mối quan hệ hoà bình hữu
nghị. Ông phê phán các thế lực phản động ở Tây âu cuối thế kỷ XVIII đang liên
kết chống cách mạng tư sản Pháp. Theo Cantơ, các cuộc chiến tranh nhiều khi phá
hoại chuẩn mực đạo đức con người. Ông khẳng định “không cần có bất kỳ một
cuộc chiến tranh nào cả.’’ cho nên ông kêu gọi tất cả các quốc gia trên hành tinh
hãy đoàn kết xây dựng một “liên bang’’ tất cả các dân tộc trong khi vẫn đảm bảo
cho mỗi dân tộc được độc lập và tự do về chính trị. Xây dựng một thế giới hoà
bình và hữu nghị theo những lý tang nhân đạo cao cả phải được coi là mục đích
cap đẹp nhất.Song ông lại thấy rằng việc thực hiện mục đích đó trong tình hình
hiện tại có tính chất là một nghĩa vụ luân lý luôn là một nghĩa vụ lịch sử cụ thể
Với những tư tang nêu trên Cantơ thự sự là người đặt nền móng cho nhiều
quan niệm duy vật lịch sử sau này của Mác –Engen
3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người
Mặc dù có mâu thuẫn, có tính chủ quan và tính hình thức của nó, mỹ học
của Cantơ vẫn là một sự đề xuất mới với những ý tưởng sâu sắc và độc đáo, là một
bước tiến rất quan trong trong sự phat triển tư tưởng thẩm mỹ. Lý thuyết về thiên
tài nghệ thuật mặc dù dựa trên cơ sở duy tâm chủ nghĩa, nhưng về mặt nhận thức
luận lại quan trọng ở chỗ nó bác bỏ xu hướng tĩnh quan đặc tính của lý thuyết sao
chép tự nhiên. Xu hướng chủ yếu trong phếp phân tích cái đẹp thuần khiết là xu
hướng hình thức, nhưng phép phân tích ấy cũng vạch rõ chỗ khác nhau giữa chủ
nghĩa duy tâm siêu nghiệm nói về timnhs tất yếu và tính phổ biến của phê phán
thẩm mỹ – v
ới xu hướng tương đối chủ nghĩa của cảm giác luận duy tâm chủ
quan. Với lý thuyết về cái đẹp nương tựa –cái cao cả chứng tỏ trong chừng mực
nào đó, Cantơ đã tiến sát tới quan niệm biện chứng và những phạm trù thẩm mỹ
và mối liên hệ lẫn nhau giữa những yếu tố khách quan và cgủ quan trong những
khái niệm thẩm mỹ.
Cũng như các nhà tư tưởng khác Cantơ muốn trả lời câu hỏi: Con người từ
đâu đến và nó sẽ đi về đâu? cái gì đang đợi nó?và nó sẽ đi tơi tương lai như nthế
nào.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
22
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Đối với chúng ta khog ai chờ đón chỉ ở một cá nhân lại có thể trả lời được
câu hỏi lớn lao của cả loài người. Điều quan trọng là những vấn đề đã được nhà
triết học nêu lên Cantơ đã đi sâu vào các quan hệ con ngưòi không chỉ từ khía
cạnh nhận thức luận mà cả khiá cạnh bản thể luận, làm rã quan hệ tác động qua lại
giữa cái sinh học và cái xã hộ trong con người. Nếu Cantơ chưa giải quyết được
những vấn đề đó tì chỉ là vì ông chưa giải quyết được chúng trên cơ sở lý luận
nhận thức duy vật biện chứng và duy vật lịch sử một cách triệt để.
Ý nghĩa to lớn của việc nghiên cứu con người của Cantơ là ở chỗ, Cantơ
đã: Thứ nhất, quan tâm đặc biệt tới những điều kiện tự nhiên – vật chất của sự nảy
sinh và sự phát triển xã hội ; Thứ hai, Xây dựng học thuyết về vai trò của tính mâu
thuẫn xã hộivà tính đối kháng như là động lực của tiến trình lịch sử;Thứ ba, tin
vào tiến bộ xã hội và thắng lợi của các yếu tố đạo đức trong con người; thứ tư,
xem mục đích của lịch sử là xây dựng một xã hội công bằng và con người phát
triển hài hoà.
Các qua điểm của Cantơ về tiến trình lịch sử là một trong những bứoc tiến
lớn lao trên con đường loài người xây dựng lý thuyết duy vật –Biện chúng về sự
phát triể
C. KẾT LUẬN
Giá trị lớn lao trước hết của triết học Cantơ là nó đã đặt ra một loạt vấn đề
căn bản của nhận thức luận, về phương pháp biện chứng,về nguồn gốc của những
khái niện và các phạm trù lôgíc chủ yếu và vị trí của chúng trong tư duy khoa học
cũng như trong quá trình nhận thức.
Cantơ cũng đã đề xuất nhiều tư tưởng có ý nghĩa quan trong trong các lĩnh
vực chính trị, xã hội, pháp quyền, những vấn đề tôn giáo, chiến tranh và hoà
bình…Trên con đường tim tòi đó Cantơ đã đư ra nhiều tư tưởg mới mẻ có ý nghĩa
vạch thời đại
Đóng góp quan trọng của Cantơ là đã phát ra được bức tranh của quá trình
nhận thức qua ba giai đoạn từ thấp đến cao. Công lao của Cantơ là đã khẳng định
tính phổ biến của các cặp phạm trù tìm ra những yếu tố của mối liên hệ biện
chứng giữa các cặp phạm trù đó, Cantơ là một trong những người đầu tiên trong
lịch sử triết học đặt ra ván đề mâu thuẫn trong nhận thức luận giải vân đề đó theo
tinh thần biện chứng.
Ý tưởng nhân đạo của triết học Cantơ cho đến hôm nay vẫn còn nguyên
tính chất thời sự. No cho ta phương pháp nhìn nhận t ương lai để đấu tranh chống
lại chủ nghĩa phi nhân đạo của thuyết vị khoa học-kỹ thuật hiện đại: chống lại
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
23
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
quan niệm tách biệt mâu thuẫn và đối lập giữa tiến bộ khoa học –công nghệ với
tiến bộ xã hội loài người; và ý ghĩa lớn lao nhất có tính quyết định có tính nhân
loại bao trùm nhất là nó cho ta thấy rằng, ý nghĩa cuộc sống con người không phải
là cái gì trừu tượng mà là thực tiễn cụ thể ; hơn nữa, không chỉ là cụ thể của hiện
tại mà còn của tương lai, của những khả năng.
2.
Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Lịch sử Triết học, Bùi Thanh Quất, Vũ Tình, NXB GDHN
2001
- Giáo trình Lịch sử Triết học, Học viện Báo chí tuyên truyền - Khoa Triết
học xuất bản năm 1998
- Lịch sử triết học, tập 1,2,3 - NXB Tư tưởng văn hoá Hà Nội 1992
- I.Kant các tác phẩm gồm VI tập Maxcơva 1963 - 1966
- V.F.Axmut. Mỹ học I.Kant - NXB nghệ thuật Maxcơva 1962
- A.A Karapetian Phân tích phương pháp triết học I.Kant erevan 1958
- Triết học I.Kant và thời đại Maxcơva 1974
- Triết học cổ điển Đức, NXB sự thật Hà Nội 1963
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu
24
Cơ