Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN áp dụng “ các kỹ thuật dạy học tích cực” là một trong những áp dụng tốt trong dạy học môn toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ÁP DỤNG “CÁC KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC”
TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở TRƯỜNG THPT
GÓP PHẦN PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG,
TƯ DUY ĐỘC LẬP, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH

Người thực hiện: Lê Khắc Khuyến
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
SKKN thuộc môn: Toán

THANH HÓA NĂM 2015

A.ĐẶT VẤN ĐỀ

1


- Dạy học là một nghệ thuật, “ Nghề cao quý trong những nghề cao quý” như Cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói. Do vậy việc đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH) là trách nhiệm và lương tâm của nhà giáo.
- Trong những năm gần đây, việc áp dụng các PPDH tích cực, thực hiện các dự
án liên kết với các nước trong khu vực và thế giới góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học của Việt nam
- Trong dạy học nói chung và môn Toán nói riêng, việc phát huy tính tích cực,
chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh là yêu cầu bắt buộc của các thầy cô giáo
nhằm thay đổi nhận thức của người học từ tiếp thu thụ động sang chủ động lĩnh
hội tri thức và phát huy sáng tạo các kiến thức đó


- Áp dụng “ Các kỹ thuật dạy học tích cực” là một trong những áp dụng tốt
trong dạy học môn Toán của chương trình hợp tác Việt - Bỉ đang được triển khai
rộng rãi trong trường phổ thông.
- Từ năm học 2014- 2015 Bộ GD&ĐT đã quyết định tổ chức kỳ thi THPT quốc
gia, việc đổi mới PPDH nói chung và môn Toán trong trường THPT nói riêng
cần phải được quan tâm đặc biệt nhằm giúp học sinh phát huy tối đa khả năng tự
học, tự rèn luyện

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ: DẠY VÀ HỌC TÍCH CỰC

1.1. Vì sao cần đổi mới PPDH theo hướng tích cực?
1.1.1. Thực trạng dạy học:
- Ngày nay KHKT phát triển nhanh như vũ bão, đặc biệt là lĩnh vực CNTT.
Theo đó hệ thống giáo dục trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cũng
phải đặt ra những yêu cầu phải đổi mới. Từ việc thi theo kiểu thuộc lòng kiến
thức, thuộc nhiều sách ,…được thay thế bằng năng lực giải quyết những vấn đề
thực tiễn, mang lại hiệu quả cao trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội.
- Trước đòi hỏi của thực tiễn, dưới ánh sáng NQ đại hội lần thứ 11 của Đảng
nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luật giáo dục cũng ghi rõ: “ PPDH
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm
việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh”. Đổi mới giáo dục đòi
hỏi nhà trường không chỉ trang bị những kiến thức sẵn có của nhân loại mà còn
phải bồi dưỡng, hình thành ở học sinh tính năng động, tư duy sáng tạo và kỹ
năng thực hành, áp dụng, tức là đào tạo những người lao động không chỉ có kiến
thức mà phải có năng lực hành đọng thực tiễn, kĩ năng thực hành. Để thực hiện
các yêu cầu cấp thiết của đất nước và hội nhập quốc tế, chúng ta đã trải qua


2


nhiều cuộc cải cách, đổi mới với nhiều thành tựu nhưng cũng còn không ít hạn
chế, tồn tại bộc lộ cần phải từng bước khắc phục.
- NQ 08 khóa 11 của BCH trung ương Đảng năm 2013 về “ Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục, đào tạo” là sự quan tâm, sâu sát của Đảng với sự nghiệp
GD&ĐT của nước nhà
- Vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh đã được đề ra từ lâu, chúng ta cũng
đã đổi mới chương trình và sách giáo khoa( SGK) cho hệ phổ thông 12 năm
nhưng ở nhiều trường phổ thông, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo việc học vẫn là truyền thụ “ một chiều”, “ PP đọc chép”, “ Học để thi”, “
Dạy để thi”, áp lực nặng nề của “Bệnh thành tích” trong giáo dục chưa thuyên
giảm. Việc dạy học vẫn nặng tính lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành, thiếu tính
thực tiễn, chưa quan tâm đến việc hình thành thói quen tự học, tự khám phá kiến
thức, phát triển tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh.
1.1.2. Sự cần thiết đổi mới:
- Việc đổi mới PPDH xuất phát từ đòi hỏi của sự phát triển kinh tế, đời sống xã
hội
- CNTT phát triển như vũ bão ngoài chức năng cung cấp thông tin còn là công
cụ hỗ trợ tích cực cho dạy và học, là cộng cụ dạy học hiện đại, hiệu quả cao,
giúp học sinh tiếp cận tri thức trong nước, toàn cầu qua mạng Intenet
- Nền kinh tế đất nước ta đòi hỏi phải nhanh chóng đưa nước ta trỏ thành nước
công nghiệp hiện đại vào năm 2020.Muốn vậy phải có nguồn nhân lực có trình
độ học vấn rộng, thực hiện được nhiều nhiệm vụ, chuyên môn hóa cao, đảm bảo
chất lượng và hiệu quả xứng tầm khu vực và thế giới.
- Đặc điểm, tâm sinh lý của học sinh: Ngày nay học sinh thu lượm thông tin rất
nhanh và chia sẻ thông tin qua mạng với tốc độ chóng mặt, mỗi trẻ em tìm kiếm
thông tin theo nhiều cách khác nhau. Việc sử dụng CNTT giúp các em xử lí

nhiều tình huống khác nhau cùng một lúc. Rõ ràng trẻ em Việt Nam ngày nay
khác biệt rất xa trẻ em cách đây vài thập kỷ. Các nghiên cứu trong khu vực và
thế giới gần đây cho thấy mỗi học sinh có cách học riêng theo sở thích hay
phong cách học riêng. Việc này đòi hỏi dạy học ngày nay phải quan tâm đến
phong cách học của học sinh. Như vậy nếu học theo kiểu thông báo hàng loạt sẽ
làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu của học sinh, các em lĩnh hội kiến thức thụ
động cũng sẽ gặp khó khăn khi giải quyết các vấn đề gặp trong cuộc sống thực
tế. Việc quan tâm đến phong cách học của học sinh là yếu tố thúc đẩy sự phát
triển tối đa năng lực học tập của các em.
- Bảng đánh giá: Chúng ta nhớ được chừng nào?
Nội dung
Những điều ta nghe
Những gì ta đọc
Những gì ta áp dụng
Từ các buổi trình bày, trình diễn
Từ các hoạt động thảo luận

Tỷ lệ %
5%
10%
20%
30%
50%

3


Từ hành động và giải thích cho người khác

85%


- Tại sao phải áp dụng dạy và học tích cực
Giải thích

Giải thích
minh họa

và Giải thích, minh
họa

trải
nghiệm
85%

Những gì nhớ 70%
72%
được sau 3 tuần
Những gì nhớ sau 10%
32%
65%
3 tháng
1.1.3. Định hướng đổi mới PP dạy và học theo hướng tích cực:
- Trong đổi mới dạy và học theo hướng tích cực thì PP học của học sinh là mối
quan tâm hàng đầu.
Để thiết kế và tổ chức dạy học có hiệu quả thì mỗi thầy cô giáo cần phải suy
nghĩ và giải quyết các vấn đề sau trong từng tiết học và trong cả quá trình:
- Đâu là mối quan tâm hàng đầu của học sinh trong tiết học, vấn đề, nội dung bài
học?
- Học sinh nên học như thế nào thì hiệu quả?
- Điều gì tạo nên động cơ thúc đẩy học sinh học tích cực?

Như vậy vấn đề quan trọng không chỉ là “ Học sinh biết gì?” mà còn phải thêm
trong mỗi tiết học thầy cô giáo phải dự kiến được: “ Điều gì xảy ra với học
sinh?” khi các em tham gia vào quá trình học tập. Khi lấy học sinh làm trung
tâm thầy cô giáo cần xác định thế nào là quá trình học tập hiệu quả nhất.Trên cơ
sở đó thầy cô giáo điều chỉnh các hoạt động dạy học phù hợp với năng lực, sở
thích và nhu cầu của học sinh. Điều này đảm bảo không có học sinh “ Bị bỏ rơi”
trong tiết học, bài dạy. Nó đòi hỏi thầy cô giáo phải có cách nhìn nhận mới, suy
nghĩ mới về quan hệ với học sinh và những vấn đề liên quan.
Hai yếu tố cốt lõi của dạy và học tích cực là: Cảm giác thoải mái và sự tham gia.
“ Sự tham gia” là cường độ của hoạt động, sự tập trung, sự say mê để học sinh
trở nên hăng hái, yêu thích môn học, khám phá và vượt qua giới hạn khả năng
của mỗi người. Nó là biểu hiện xuất sắc cho sự hoàn thiện quá trình học tập nói
riêng và quá trình phát triển nói chung của học sinh.
Quá trình dạy và học tích cực thực sự hiệu quả khi thầy cô giáo thực hiện tốt 5
yếu tố sau đây:
a) Không khí học tập và các mối quan hệ trong nhóm, lớp:
- Nội dung, nhiệm vụ, các hoạt động lĩnh hội kiến thức phù hợp với mức độ phát
triển của học sinh, gần gũi với thực tế, đa dạng về hình thức, tạo điều kiện cho
học sinh được tự do sáng tạo. Môi trường học tập thân thiện mang tính kích
thích học sinh được thể hiện đa dạng, phong phú: bàn ghế, không gian lớp học,
sự thoải mái về tinh thần, không căng thẳng, không nặng nề, không gây phiền
nhiễu, có các hoạt động phụ trợ, giải trí nhẹ nhàng.Ví dụ: Khi dạy về “ Hai quy
tắc đếm” ( Đại số và Giải tích lớp 11) để tránh khô cứng thầy cô giáo có thể cho

4


các em sắp xếp số điện thoại có thể có của một hãng nào đó đang lưu hành hiện
tại: Vietel, Vinaphone,…
Hỗ trợ cá nhân một cách tích cực, tạo cơ hội để học sinh giao tiếp, thể hiện quan

điểm, giá trị, mơ ước, chia sẻ kinh nghiệm, … và hợp tác trong các hoạt động
học tập
b) Phù hợp với mức độ phát triển của học sinh:
Việc giao các nhiệm vụ, tổ chức các hoạt động học tập cần có sự phân hóa, quan
tâm đến sự khác nhau về nhịp độ học tập, khả năng tư duy, phát triển của các đối
tượng học sinh. Có sự thỏa thuận, cam kết rõ ràng về mong đợi, yêu cầu của
thầy cô với học sinh và ngược lại. Các yêu cầu đối với học sinh cần rõ ràng,
tránh mơ hồ, đa nghĩa. Tức là việc đặt vấn đề, câu hỏi phải đảm bảo các yếu tố
kĩ thuật đem lại lợi ích cao nhất. Phần này tác giả đã viết rõ trong đề tài “ Kỹ
thuật đặt câu hỏi…” năm 2013.
Thầy cô nên khuyến khích học sinh giúp đỡ lẫn nhau, Quan sát học sinh học tập
để tìm ra phong cách và sở thích của từng học sinh, có sự hỗ trợ kịp thời, yêu
cầu học sinh động não, tạo điều kiện để các em trao đổi về nhiệm vụ học tập.
c) Gần gũi với thực tế:
Các nội dung và nhiệm vụ học tập nên gắn với các mối quan tâm của học sinh
với thế giới bên ngoài. Thầy cô cần tận dụng mọi cơ hội để học sinh giao tiếp
với các tình huống thực tế, góp phần áp dụng kĩ năng, kiến thức và các tình
huống trong đời sống hàng ngày. Ví dụ: Thu thập số liệu năng suất lúa của địa
phương trường đóng, của huyện, tỉnh khi học thống kê( Đại số lớp 10), trong
một số năm: 5 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm gần đây giúp so sánh, đối chiếu và
đưa ra kết luận.
d) Mức độ và sự đa dạng của hoạt động:
Trong việc tổ chức các hoạt động thầy cô giáo cần hạn chế tối đa thời gian chết
và chờ đợi; cần tạo ra các thời điểm hoạt động và trải nghiệm học tập tích cực.
Nên tích hợp các hoạt động, tổ chức trò chơi giáo dục, đố vui toán học. Tăng
cường các trải nghiệm thành công. Tăng cường sự tham gia tích cực, đảm bảo
hỗ trợ đúng mức( học sinh hỗ trợ lẫn nhau và từ phía thầy cô), đảm bảo đủ thời
gian thực hành. Cụ thể trong một tiết Toán thầy cô phải phân phối thời lượng
cho từng hoạt động và hoạt động thành phần sao cho học sinh có thể có thời gian
thực hành tối đa. Phần này tác giả đã trình bày trong đề tài: “ Thiết kế bài dạy và

tổ chức các hoạt động trên lớp…” năm 2012.
e) Phạm vi tự do sáng tạo:
Học sinh được tạo điều kiện lựa chọn hoạt động theo sở thích; Học sinh được
tham gia xây dựng kế hoạch và đánh giá bài học. Học sinh được tạo điều kiện
tham gia vào các hoạt động học tập.
Dạy học tích cực chỉ thực sự diễn ra khi học sinh có được cảm giác thoải mái:
được quan tâm, cảm thấy an toàn, không bị áp lực tâm lý, được thể hiện bản
thân. Đó là dấu hiệu của phát triển tâm lý tốt; Nó chỉ tồn tại khi học sinh tự tin
vào bản thân, có lòng tự tôn cao. Biết rõ mình có thể mắc lỗi là yếu tố quan
trọng có thể mang lại sự tiến bộ và phát triển, giúp các em có thể đương đầu với

5


khó khăn tốt hơn. Sự hỗ trợ phản hồi tích cực và mong đợi thực tế cần trở thành
một phần của cuộc sống trong nhà trường.
Để tạo không khí thoải mái trong tiết dạy một trong những yếu tố là tính hài
hước, sự vui vẻ, tiếng cười đúng lúc, đúng chỗ.
Học sinh học tập hiệu quả nhất khi có cộng đồng học tập gắn kết và có sự quan
tâm lẫn nhau. Đó là nền tảng tạo nên sự thoải mái cho học sinh. Các thầy cô dạy
có hiệu quả sẽ quan tâm đến từng học sinh; biết được sở thích, điều kiện học tập,
hoàn cảnh gia đình của các em, nắm bắt được những khó khăn trong học tập của
học sinh. Để tạo ra môi trường học tập gắn bó, các hoạt động học tập cần liên hệ
với những kiến thức đã biết của học sinh.
Văn hóa gia đình đóng vai trò quan trọng trong cộng đồng học tập. Trên quan
điểm đó, ta xem xét nhà trường như là phần mở rộng của gia đình, do vậy cần
rút ngắn khoảng cách giữa ở nhà và ở trường. Do vậy chúng ta phải tìm hiểu sự
khác nhau của về điều kiện của mỗi gia đình học sinh. Vì không phải mọi học
sinh có hoàn cảnh gia đình ổn định và có cơ hội học tập, điều kiện sống giống
nhau. Nhà trường cần nỗ lực tạo ra bầu không khí hỗ trợ, gắn bó giữa nhà trường

và gia đình, điều đó khuyến khích sự tham gia của phụ huynh trong quá trình
học tập của học sinh. Các thầy cô dạy giỏi coi lỗi của học sinh thường mắc phải
là một phần tự nhiên trong quá trình dạy học, khi được hỗ trợ và quan tâm, học
sinh có thể thoải mái thể hiện nhận thức của mình mà không sợ bị chế nhạo hay
coi thường.Điều này thể hiện rõ ở một số học sinh học ban cơ bản trong trường
THPT.
Môi trường học tập và cách thức tổ chức học tập phải phù hợp với nhu cầu của
học sinh.Cảm giác thoải mái của học sinh thông qua sự cởi mở tiếp thu kiến thức
tốt, dễ dàng thích nghi, hòa nhập môi trường, không bị băn khoăn hay chán nản.
Các em bộc lộ sự nhận thức về bản thân: sự tự tin, khả năng bênh vực cái đúng,
bảo vệ lẽ phải, coi trọng bản thân và những người xung quanh. Ở mức đọ cao
thể hiện sự liên hệ bên trong( ý chí, tình cảm). Các em tự biết cái gì cần cho bản
thân, cái gì cần làm, mong ước, suy nghĩ và cảm nhận. Các em cần phải cảm
thấy an toàn, được tôn trọng trong môi trường học tập thân thiện. Bằng cách này
là điều kiện học sinh đạt được mức độ cao và tham gia tích cực vào quá trình
học tập.Cảm giac thoải mái và sự tham gia tích cực có thể trở thành tiêu chuẩn
cơ bản để đánh giá chất lượng của quá trình giáo dục. Điều đó có nghĩa là các
thầy cô giáo cần phải thiết kế những hoạt động học tập nhằm đảm bảo mức độ
tham gia cao của học sinh, đem đến cho các em niềm vui và sự hứng thú trong
học tập.
Những định hướng này sẽ làm thay đổi vai trò của thầy cô giáo và học sinh.
Trong đó thầy cô giáo chủ yếu giữ vai trò là người tạo môi trường học tập thân
thiện, phong phú, đa dạng, là người tư vấn, chỉ dẫn, động viên, kèm cặp, đưa đến
những thông tin phản hồi cần thiết, định hướng quá trình lĩnh hội tri thức và cuối
cùng là người thể chế hóa kiến thức.

6


1.2. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực là

gì?
1.2.1. Tính tích cực:
Đây là phẩm chất của con người trong đời sống xã hội. Hình thành và phát triển
tích tích cực là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo
những con người năng động, thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng. Tính
tích cực là điều kiện, đồng thời là kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá
trình giáo dục.
1.2.2. Tính tích cực học tập:
Đó là những gì diễn ra bên trong người học: Nói đến những hoạt động của chủ
thể. Về thực chất là tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng
trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Tính tích cực nhằm chuyển biến vị trí của học sinh từ đối tượng tiếp nhận tri
thức thụ động sang tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập. Nó liên qua
đến động cơ học tập.Động cơ đúng tạo nên hứng thú học tập là tiền đề của tự
giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý tạo nên tính tích cực. Tính tích cực
quan hệ chặt chẽ với tư duy độc lập. Suy nghĩ, tư duy độc lập là mầm mống của
sáng tạo. Ngược lại, học tập độc lập, tích cực, sáng tạo sẽ phát triển tính tự giác,
hứng thú và nuôi dưỡng động cơ học tập.
Một số đặc điểm cơ bản thể hiện tính tích cực học tập của học sinh:
- Có hứng thú học tập
- Tập trung chú ý tới bài học, nhiệm vụ học tập.
- Mức độ tham gia vào xây dựng bài học, trao đổi, thảo luận, ghi chép.
- Có sáng tạo trong quá trình học tập.
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập được giao.
- Hiểu bài và có thể trình bày lại theo cách hiểu của mình.
- Biết vận dụng những tri thức thu được vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Bảng nguyên nhân những khác biệt trong hiệu quả học tập:
Hành vi
Năng lực
Niềm tin

Bản thể

Chăm chỉ
Có năng lực
Có động cơ
Có cảm giác kết nối( được hợp
tác).Tác động tới tâm can, bản thể

Các biểu hiện của học tích cực:
- Tìm tòi, khám phá, tiến hành thí nghiệm,...
- So sánh, phân tích, kiểm tra.
- Thực hành, xây dựng,…
- Giải thích, trình bày, thể hiện, hướng dẫn,…
- Giúp đỡ, làm việc chung, liên lạc,…
- Thử nghiệm, giải quyết vấn đề, phá bỏ làm lại,…

7


- Tính toán,…
1.2.3. Phương pháp dạy và học tích cực:
Đề cập đến các hoạt động dạy và học nhằm tích cực hóa các hoạt động học tập
và phát triển tính sáng tạo của học sinh. Trong đó các hoạt động học tập được
định hướng bởi thầy cô giáo, học sinh không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích
cực tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá, phát hiện tri thức, vận dụng
kiến thức để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học
tập và phát triển năng lực sáng tạo.
PPDH tích cực không phải là một PPDH cụ thể, mà là một khái niệm, bao gồm
nhiều phương pháp, hình thức, kỹ thuật cụ thể khác nhau nhằm tích cực hóa,
tăng cường sự tham gia của học sinh, tạo điều kiện tối đa cho học sinh phát triển

khả năng học tập, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
PPDH tích cực mang lại cho học sinh sự hứng thú, niềm vui trong học tập, phù
hợp với đặc tính ưa hoạt động của lứa tuổi, khi đã là niềm hạnh phúc sẽ giúp các
em tự khẳng định mình, nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo. Dạy và học tích
cực nhấn mạnh đến tính tích cực của hoạt động của học sinh và tính nhân văn
của giáo dục.
Bản chất của dạy và học tích cực:
- Khai thác động lực học tập của học sinh để phát triển chính các em
- Coi trọng lợi ích, nhu cầu của cá nhân học sinh để chuẩn bị tốt nhất cho các em
sau này khi ra trường thích ứng với nhu cầu, đòi hỏi của xã hội.
Sơ đồ thể hiện quan hệ của thầy cô giáo và học sinh:

8


- Tiêu chí hàng đầu của việc dạy và học là cách học.
- Phẩm chất cần phát huy mạnh mẽ là tính chủ động của học sinh.
- Công cụ cần khai thác triệt để là công nghệ thông tin và đa phương tiện.
1.2.4. Những dấu hiệu đặc trưng của dạy và học tích cực:
*. Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh và chú trọng
rèn luyện phương pháp tự học.
Khuyến khích học sinh tự lực khám phá những điều chưa biết trên cơ sở những
điều đã biết. Học sinh tham gia trực tiếp vào các tình huống, trực tiếp thảo luận,
quan sát, trao đổi, làm thí nghiệm, khuyến khích các em đưa ra những giải pháp
riêng, động viên các em trình bày những quan điểm riêng. Qua đó không những
chiếm lĩnh tri thức mà còn làm chủ cách xây dựng kiến thức, từ đó tính tự chủ và
sáng tạo có cơ hội được bộc lộ, rèn luyện.
Tổ chức các hoạt động học tập của học sinh phải trở thành trung tâm của quá
trình giáo dục.Thầy cô giáo cần phải biết lập kế hoạch dạy học để hướng dẫn
học sinh phát triển các năng lực cần thiết trong cuộc sống, trong và ngoài nhà

trường, hiện tại và tương lai.
Dạy học cần bám sát các vấn đề của thực tiễn, áp dụng kiến thức vào giải quyết
các vấn đề thực tiễn thay cho việc nhồi nhét kiến thức, thông tin. Điều đó giúp
học sinh nhận thức, thông hiểu, tự biết mình cần phải học gì? Và vì sao phải học
chúng? Ví dụ phần Thống kê ( Đại số lớp 10) nếu không phải để giải quyết
những vấn đề trước mắt của cuộc sống đòi hỏi thì nó sẽ là những con số khô
cứng, không có ý nghĩa gì.
Trong quá trình dạy học chúng ta cần rèn luyện cho học sinh phương pháp tự
học, sẽ tạo cho các em lòng say mê học tập, khơi dậy nội lực vốn có và kết quả
sẽ được nâng lên.
Dạy và học tích cực tập trung vào hoạt động học, tạo ra sự chuyển biến từ học
tập thụ động sang chủ động, phát huy khả năng tự học ngay từ nhỏ của học sinh,
không chỉ trong giờ học trên lớp mà ở cả hoạt động ngoài giờ lên lớp, ở nhà,…
Trong dạy học truyền thống, thường chỉ đơn thuần khuyến khích học sinh ghi
nhớ kiến thức. trong dạy học tích cực cần khuyến khích học sinh vận dụng kiến
thức vào điều kiện thực tế, giúp các em rèn luyện kỹ năng đã học.
Hướng dẫn học sinh tự học, thầy cô giáo cần quan tâm đến những vấn đề
sau:
- Học sinh có được tạo điều kiện để sáng tạo không?
- Học sinh có thể hoạt động độc lập không?
- Học sinh có được khuyến khích đưa ra các giải pháp của mình không?
- Học sinh có thể xây dựng con đường học tập cho riêng mình không?
- Học sinh có thể tự mình lựa chọn chủ đề, bài tập khác nhau không?
- Học sinh có thể tự đánh giá không?
- Học sinh có được tự chủ trong các hoạt động học tập không?
* Tăng cường hoạt động của mỗi cá nhân, phối hợp với học hợp tác.
Trong dạy học tích cực, thầy cô giáo cần quan tâm đến sự phân hóa về trình độ
nhận thức, cường độ, tiến độ hoàn thành các nhiệm vụ học tập của mỗi học

9



sinh.Trên cơ sở đó xây dựng các nhiệm vụ, bài tập, mức độ hỗ trợ phù hợp với
mỗi cá nhân nhằm phát huy tối đa khả năng của học sinh.
Cần đặt học sinh vào mói tương tác giữa thầy – trò, trò – trò. Khi đó học sinh
không chỉ học qua thầy mà còn học được qua bạn, được chia sẻ kinh nghiệm sẽ
kích thích tính tích cực, chủ động của mỗi cá nhân, đồng thời hình thành năng
lực tổ chức, điều khiển, lãnh đạo, các kỹ năng hợp tác, giao tiếp, trình bày, giải
quyết vấn đề,…và tạo môi trường học tập thân thiện.Để việc này thực hiện có
hiệu quả thầy cô giáo cần hình thành cho các em thói quen học tập tự giác, tôn
trọng, giúp đỡ lẫn nhau trong nhóm, trong lớp; giao việc phải rõ ràng, cụ thể, các
thành viên trong nhóm phải có trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ được giao,
tránh tình trạng ỷ lại, thậm chí phá rối, làm cho hoạt động hợp tác kém hiệu quả.
Ngoài vai trò hoạt động cá nhân học tập hợp tác còn đề cao sự tương tác, ràng
buộc lẫn nhau. Sự phân chia nhiệm vụ và nhiệm vụ thể hiện mức độ hợp tác. Kết
quả làm việc phụ thuộc vào “Nguyên liệu” thu được trong nhóm. Đề tài “ Khăn
phủ bàn” nhằm giải quyết một phần kết quả này.Nó nhằm phát triển ở học sinh
những kỹ năng nhận thức, kỹ năng giao tiếp xã hội, tích cực hóa hoạt động học
tập và tạo cơ hội bình đẳng trong học tập.
* Dạy và học chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của học sinh, nhu cầu
và lợi ích của xã hội:
Theo dấu hiệu này dưới sự hướng dẫn của thầy cô giáo, học sinh được chủ động
lựa chọn vấn đề mà mình quan tâm, ham thích, tự lực tiến hành nghiên cứu giải
quyết vấn đề và trình bày kết quả.Đó là đặc trưng lấy học sinh làm trung tâm.
Các chủ đề, nội dung học sinh có thể tự đề xuất ( Vận dụng sáng tạo mức độ
cao), hoặc lựa chọn trong số do thầy cô giới thiệu( Vận dụng mức độ thấp)
nhưng nó phải gắn với nhu cầu, lợi ích của học sinh và các em phải thấy được
giá trị, sự cần thiết của những kiến thức đó.
Dạy và học cần chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của học sinh, nhu cầu,
lợi ích của xã hội nhằm phát huy cao độ tính tích cực, tự lực, rèn luyện cho học

sinh cách làm việc độc lập, phát triển tư duy sáng tạo, kỹ năng tổ chức công
việc, trình bày kết quả.
Phải đảm bảo nguyên tắc phân hóa trong dạy học, quan tâm đến mọi đối tượng,
không có học sinh bị “ Bỏ rơi”
* Dạy và học coi trọng hướng dẫn, tìm tòi:
Giúp học sinh phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề và nhấn mạnh rằng học sinh
có thể học thông qua hoạt động.Nó giúp các em khả năng làm việc độc lập, tự
giác, tư duy lô gic, khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá.

10


Một nhiệm vụ học tập tốt đặt ra sự thách thức đối với học sinh, không nên quá
dễ gây nên sự nhàm chán, cũng không quá khó gây ra sự lo lắng. Do vậy cần đa
dạng và thiết phù hợp từng loại đối tượng học sinh trong điều kiện cho phép.
Thầy cô giáo cần hỗ trợ kịp thời: yêu cầu nhìn lại nhiệm vụ, liên hệ kiến thức đã
học,…
* Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của học sinh:
Trong dạy học thụ động thì đánh giá là nhiệm vụ của thầy cô giáo, chủ yếu là
qua điểm số bài kiểm tra, thi cử dẫn đến học vẹt, học tủ, đối phó và kết quả giáo
dục yếu kém
Trong dạy và học tích cực, đánh giá khong chỉ nhằm mục đích nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động học tập của học sinh mà còn nhận định thực
trạng, điều chỉnh hoạt động dạy của thầy cô giáo.
Tự đánh giá là hình thức học sinh tự liên hệ phần nhiệm vụ đã thực hiện với các
mục tiêu của quá trình học tập. Đó là sự đánh giá những nỗ lực, quá trình và kết
quả, ở mức độ cao hơn là học sinh có thể phản hồi lại quá trình học của mình.
Như vậy tự đánh giá giữ vai trò quan trọng trong đánh giá vì học sinh chủ động
xem xét lại quá trình, kết quả học tập của mình để tự điều chỉnh cách học, xác
định động cơ học tập, lập kế hoạch tự nâng cao kết quả học tập. Tự đánh giá

đúng và điều chỉnh hoạt động học tập kịp thời là năng lực cần thiết cho sự thành
đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.Đây là sự khác
biệt giữa dạy học thụ động và dạy học tích cực.
Cùng với tự đánh giá, thầy cô giáo cần tổ chức cho học sinh đánh giá lẫn nhau
hay đánh giá “đồng đẳng”. Các nhóm học sinh trong cùng lớp đánh giá công
việc, kết quả công việc lẫn nhau. Chủ yếu dùng hỗ trợ học sinh trong quá trình
học. Nó được dựa trên các tiêu chí do thầy cô giáo cung cấp, các tiêu chí này cần
rõ ràng, diễn giải cụ thể, dễ hiểu.

11


Kết hợp đánh giá của thầy và của trò không những giúp học sinh nhìn nhận
chính mình để điều chỉnh cách học mà còn giúp thầy cô giáo điều chỉnh cách
dạy.
Đánh giá trong dạy và học tích cực còn là sự đánh giá về việc học( kết quả), vì
việc học( quá trình học) với tự đánh giá.

1.3. Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực
như thế nào?
Đổi mới PPDH theo hướng tích cực chính là phát huy tính tích cực của học sinh
tức là “Lấy hoạt động của học sinh làm trung tâm”.
Dưới sự thiết kế, tổ chức, định hướng của thầy cô giáo học sinh được tham gia
vào quá trình hoạt động học tập từ khâu phát hiện vấn đề, tìm giải pháp cho vấn
đề đặt ra, thực hiện các giải pháp và rút ra kết luận. Về PPDH giải quyết vấn đề
tác giả đã trình bày trong đề tài “ Thiết kế bài học và tổ chức các hoạt động trên
lớp…” năm 2012.
Đổi mới PPDH theo hướng tích cực có nghĩa hoạt động học tập phải được thực
hiện trên cơ sở kết hợp giữa hoạt động cá nhân học sinh và hoạt động hợp tác,
trong mối quan hệ giữa thầy và trò, trò – trò trong môi trường học tập thân thiện,

an toàn.
Học sinh là chủ thể hoạt động, thầy cô giáo đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn, đòi
hỏi thầy cô giáo phải có kiến thức sâu, rộng, có kỹ năng sư phạm, đặc biệt phải
có tình cảm nghề nghiệp, hết lòng vì học sinh thì việc đổi mới PPDH mới có
hiệu quả.
Vai trò của thầy cô giáo và học sinh trong dạy và học tích cực
Thầy cô giáo
Học sinh
Định hướng / Hướng dẫn
Nghiên cứu, tìm tòi
Tổ chức
Thực hiện
Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra
Tự kiểm tra, tự điều chỉnh
Mục đích của dạy và học tích cực so với dạy học thụ động:
- Học có hiệu quả hơn, bài học sinh động hơn
- Quan hệ thầy – trò, trò – trò tốt hơn
- Hoạt động học tập phong phú hơn; học sinh hoạt động nhiều hơn.
- Thầy cô giáo có nhiều cơ hội giúp học sinh hơn.
- Quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển cá nhân của học sinh.
Trong dạy học không có phương pháp nào hoàn toàn thụ động và phương pháp
hoàn toàn tích cực.Vấn đề là thầy cô giáo phải vận dụng các PPDH thế nào để
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.

1.4. Điều kiện đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích
cực:
Đòi hỏi thầy cô giáo phải biết kế thừa, phát huy những ưu điểm, khắc phục
nhược điểm của các PPDH truyền thống và cập nhật các PPDH hiện đại sao cho
phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy học của nhà trường, địa phương.


12


Các điều kiện để thực hiện dạy học tích cực
- Nâng cao trình độ, năng lực sư phạm của đội ngũ thầy cô giáo
- Điều chỉnh chương trình, SGK cho phù hợp với thực tế giáo dục, điều kiện và
hoàn cảnh của địa phương
- Đảm bảo có đủ đồ dùng dạy học tối thiểu, trang thiết bị và cơ sở vật chất theo
quy định
- Đổi mới kiểm tra đánh giá
- Nâng cao trình độ, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý, đổi mới công
tác chỉ đạo quản lý của các cấp.
Như vậy trọng dạy và học tích cực, vai trò của thầy cô giáo quyết định chất
lượng giáo dục
Yêu cầu đối với thầy cô giáo trong dạy và học tích cực:
Trách nhiệm- lương tâm của người thầy
- Có thái độ tích cực, thân thiện đối với học sinh
- có nhạy cảm sư phạm
- Linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng các PPDH, tổ chức các hoạt động dạy học
đảm bảo sự tương tác giữa thầy cô giáo và học sinh, giữa học sinh và học sinh
Đáp ứng sự đa dạng của dạy và học tích cực:
- Hiểu rõ bản chất của dạy và học tích cực
- Có năng lực chuyên môn vững vàng
- Có thái độ coi trọng sự khac biệt của học sinh và có khả năng tổ chức các hoạt
động dạy học đáp ứng khả năng, năng lực của học sinh.

CHƯƠNG II. MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC ÁP
DỤNG CHO MÔN TOÁN TRONG TRƯỜNG THPT.
2.1. Dạy học theo hướng giải quyết vấn đề:
Đề tài này đã được tác giả trình bày trong SKKN và NCKH năm học 20112012 và đã được HĐKH ngành xếp giải A, được HĐKH tỉnh Thanh Hóa xếp

giải A năm 2013
2.2. Kĩ thuật đặt câu hỏi:
Đề tài này đã được tác giả trình bày trong SKKN và NCKH năm học 20122013 và đã được HĐKH ngành xếp giải B năm học 2012- 2013
2.3. Kĩ thuật khăn phủ bàn:
Đề tài này đã được tác giả trình bày trong SKKN và NCKH năm học 20132014 và được HĐKH ngành xếp giải B năm học 2013- 2014
2.4. Kĩ thuật các mảnh ghép:
2.4.1. Kĩ thuật mảnh ghép là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp
giữa cá nhân, nhóm và lên kết giữa các nhóm.
2.4.2. Mục tiêu:
- Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp
- Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh trong hoạt động nhóm

13


- Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác( Không những nhận thức
hoàn thành nhiệm vụ học tập cá nhân mà còn phải trình bày truyền đạt lại kết
quả và thực hiện tiếp ở mức độ cao hơn)
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm học tập của mỗi cá nhân
2.4.3. Tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh hiểu rõ nội dung kiến thức.
- Học sinh được phát triển kĩ năng trình bày, giao tiếp.
- Thể hiện được khả năng, năng lực cá nhân
- Tăng cường hiệu quả học tập.
2.4.4. Cách tiến hành: Sơ đồ kĩ thuật “ Mảnh ghép”

2.4.4.1. Giai đoạn 1: “ Nhóm chuyên sâu”
- Lớp học được chia thành các nhóm. Đối với lớp học trong trường THPT hiện
nay nên chia theo tổ học tập tiện việc trao đổi, thảo luận ở nhóm chuyên sâu.
Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ tìm hiểu, nghiên cứu sâu một phần nội dung

bài học khác nhau nhưng có sự liên quan chặt chẽ với nhau. Các nhóm này gọi
là nhóm “Chuyên sâu”.
Ví dụ: Khi học bài “ Khái niệm đạo hàm” ( Đại số và giải tích lớp 11- CT nâng
cao) lớp 11B3- Trường THPT Yên Định 2 được chia thành 4 nhóm:
Nhóm 1: Nghiên cứu các bài toán thực tế dẫn đến khái niệm đạo hàm
Nhóm 2: Nghiên cứu định nghĩa đạo hàm của hàm số tại một điểm và quy tắc
tính đạo hàm bằng định nghĩa

14


Nhóm 3: Nghiên cứu ý nghĩa hình học của đạo hàm
Nhóm 4: Nghiên cứu bài toán viết tiếp tuyến của đường cong tại một điểm nằm
trên đường cong đó
- Các nhóm nhận nhiệm vụ và nghiên cứu, thảo luận, đảm bảo mỗi thành viên
trong nhóm đều nắm vững và có khả năng trình bày lại được các nội dung trong
nhiệm vụ được giao cho các bạn ở nhóm khác. Mỗi học sinh trở thành “ Chuyên
sâu” của lĩnh vực đã tìm hiểu trong nhóm mới ở giai đoạn tiếp theo.
2.4.4.2. Giai đoạn 2: “ Nhóm mảnh ghép”
- Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở giai đoạn 1, mỗi học sinh từ các nhóm “
chuyên sâu” khác nhau hợp lại thành các nhóm mới, gọi là “ nhóm mảnh ghép”.
Lúc này, mỗi học sinh “ Chuyên sâu” trở thành những mảnh ghép trong “ Nhóm
mảnh ghép”. Các học sinh phải lắp ghép các mảng kiến thức thành một bức
tranh “ Tổng thể”.
- Từng học sinh từ các nhóm “ Chuyên sâu” trong nhóm “ Mảnh ghép” lần lượt
trình bày lại nội dung tìm hiểu của nhóm mình. Đảm bảo tất cả các thành viên
trong nhóm “ Mảnh ghép” nắm bắt được đầy đủ toàn bộ nội dung của các nhóm
chuyên sâu giống như nhìn thấy một “ bức tranh” tổng thể
- Sau đó nhiệm vụ mới được giao cho các nhóm mảnh ghép. Nhiệm vụ này
mang tính khái quát, tổng hợp toàn bộ nội dung đã được tìm hiểu từ các nhóm “

Chuyên sâu”. Bàng cách này, học sinh có thể nhận thấy những phần vừa thực
hiện không chỉ để giải trí hoặc trò chơi đơn thuần mà thực sự là những nội dung
học tập quan trọng.
Ví dụ: Sau khi các nhóm “ Chuyên sâu” hoàn thành nhiệm vụ được giao của bài
trên giáo viên tổ chức ngay nhóm “ Mảnh ghép”. Các nhóm 1, 2, 3, 4 cử đại diện
trình bày kết quả nghiên cứu của nhóm mình theo thứ tự. Ta sẽ có một bức tranh
tổng thể là: Bài toán đẫn đến khái niệm đạo hàm của hàm số tại một điểm, định
nghĩa đạo hàm của hàm số tại một điểm, quy tắc tính, ý nghĩa hình học của đạo
hàm , bài toán viết phương trình tiếp tuyến của đường cong tại một điểm nằm
trên đường cong đó.
2.4.5. Một số lưu ý khi tổ chức dạy học áp dụng kĩ thuật mảnh ghép:
- Một nội dung hay chủ đề lớn của bài học thường bao gồm trong nó các nội
dung hay chủ đề nhỏ. Những nội dung, chủ đề nhỏ đó được giáo viên xây dựng
thành các nhiệm vụ cụ thể giao cho các nhóm học sinh tìm hiểu, nghiên cứu.
Cần lưu ý nội dung các chủ đề nhỏ phải có sự liên quan chặt chẽ với nhau
Ví dụ: Bài “ Khái niệm đạo hàm” ở trên các nội dung liên quan chặt chẽ, mật
thiết với nhau.
- Nhiệm vụ nêu ra phải hết sức cụ thể, đảm bảo tất cả mọi học sinh đều hiểu rõ
và có khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
- Khi học sinh thực hiện nhiệm vụ tại các nhóm “ Chuyên sâu”, giáo viên cần
quan sát và hỗ trợ kịp thời để đảm bảo các nhóm hoàn thành đúng thời gian quy
định và các thành viên đều có khả năng trình bày lại kết quả thảo luận của nhóm.
- Thành lập nhóm mới “ Nhóm mảnh ghép” cần có đủ các thành viên của nhóm
“Chuyên sâu”.

15


- Khi các nhóm “ Mảnh ghép” hoạt động, giáo viên cần quan sát, hỗ trợ để đảm
bảo các thành viên nắm được đầy đủ nội dung từ các nhóm “ Chuyên sâu”. Sau

đó giáo viên giao nhiệm vụ mới, nhiệm vụ mới phải mang tính khái quát, tổng
hợp kiến thức trên cơ sở nội dung kiến thức( mang tính bộ phận) học sinh đã
nắm được từ các nhóm “Chuyên sâu”.
Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động nhóm, các thành viên trong nhóm cần được
phân công nhiệm vụ như trong bảng sau:
Vai trò

Nhiệm vụ
Trưởng nhóm
Phân công nhiệm vụ
Hâu cần
Chuẩn bị đồ dùng, tài liệu cần thiết
Thư kí
Ghi chép kết quả
Phản biện
Đặt các câu hỏi phản biện
Liên lạc với nhóm khác
Liên hệ với các nhóm khác
Liên lạc với giáo viên
Liên lạc với giáo viên để xin trợ
giúp
Ví dụ: Trong bài trên thì thiết bị là dụng cụ thí nghiệm: con lăn, viên bi, giấy
A0, bút dạ, …v…v…
Tóm tắt quy trình thực hiện “ Kĩ thuật mảnh ghép”

III. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM KĨ THUẬT CÁC MẢNH
GHÉP:
Đề tài này được thực hiện tại 2 lớp 11B1, 11B3 trường THPT Yên Định 2
trong năm học 2014- 2015.Kết quả khảo sát như sau:


3.1. Đầu năm hoc:

16


Lớp

Giỏi
SL
11B1 20
(47)
11B3 0
(48)

%
42,6

Khá
SL
27

%
57,4

Trung bình
SL
%
0
0


Yếu, kém
SL
%
0
0

0

19

39,6

19

10

%
93,6

Khá
SL
3

%
6,7

Trung bình
SL
%
0

0

Yếu, kém
SL
%
0
0

34,0

24

51,1

5

2

39,6

Ghi
chú

20,8

3.2. Hết năm hoc:

Lớp

Giỏi

SL
11B1 44
(47)
11B3 16
(47)

10,6

Ghi
chú

4,3

C. KẾT LUẬN:
- Dạy học là một nghệ thuật. Không có một PPDH nào là toàn mỹ cả. Để
đáp ứng yêu cầu “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” như NQ BCH TW
Đảng lần thứ 8 ( Khóa XI ) đã đề ra đòi hỏi mỗi thầy cô giáo phải luôn “ Tự đổi
mới”. Phải là tấm gương “ Đạo đức, tự học và sáng tạo”. Trên tinh thần đó, với
kinh nghiệm trên 30 năm giảng dạy Toán ở trường THPT, nhiều năm liền giảng
dạy các chuyên đề đổi mới chương trình, sách giáo khoa của Bộ GD&ĐT, các
chuyên đề của Sở GD&ĐT Thanh Hóa, tác giả viết đề tài này mong muốn cùng
các đồng nghiệp trong tỉnh và toàn quốc góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy môn Toán ở trương trung học phổ thông nói chung và môn Toán nói riêng.
Bài viết không tránh khỏi thiếu sót, mong sự góp ý kiến của đồng nghiệp
trong tỉnh và cả nước.Mọi đóng góp xin gửi về:
- Lê Khắc Khuyến: THPT Yên Định 2, Thanh Hóa
- Điện thoại: 0915.089.029
- Email:
Tác giả xin chân thành cảm ơn mọi ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô
Thanh Hóa ngày 10 tháng 4 năm 2015

CAM KẾT KHÔNG COPY
Người viết

17


Lê Khắc Khuyến
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….

18



×