Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Sự phát triển của các công ty Tài chính và công ty Bảo hiểm tại thị trường Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.98 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Với Việt Nam bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì nhu
cầu vốn đầu tư rất lớn. Xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000
và những năm tiếp theo nhu cầu vốn đầu tư cho toàn xã hội trong thời kỳ 1996 - 2000
cần vào khoảng 45 - 50 tỉ USD nhà nước ta đã tích cực trên mọi biện pháp để thu hút
vốn đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua VN chính thức gia
nhập tổ chức WTO thì nhu cầu vốn đầu tư để đổi mới công nghệ máy móc thiết bị trong
đó có cả vốn trung và dài hạn của ngành ngân hàng. Còn bị hạn chế bởi nhiều nguyên
nhân khác trong đó có chính sách đầu tư còn nhiều bất cập. Nhằm khắc phục t ình trạng
này việc đưa ra một cơ chế đầu tư hợp lý là điều cấp thiết. Chính vì vậy các công ty cho thuê tài
chính (CTTC) và công ty Bảo hiểm ra đời ở Việt Nam là một giải pháp hữu hiệu và tạo ra sự
năng động trong tôn chỉ "tối đa hoá lợi nhuận" cho khách hàng.
Tuy nhiên hoạt động của các CTTC và cac công ty bảo hiểm ở Việt Nam còn
mới mẻ sơ khai chưa có môi trường pháp lý và định hướng rõ ràng. Thiếu những văn
bản pháp quy hoàn chỉnh và đồng bộ, có một số văn bản pháp quy đến nay đã không còn
phù hợp. Các CTTC đều mong muốn có một hành lang pháp lý rộng rãi sát với thực tiễn
hiện nay. Để cho CTTC hoạt động ngày một hiệu quả hơn.
Việc chọn đề tài: “Sự phát triển của các công ty Tài chính và công ty Bảo hiểm tại
thị trường Việt Nam” là có ý nghĩa rất to lớn.

II.

KHÁI NIỆM.

1. CÔNG TY TÀI CHÍNH LÀ GÌ?
Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng với chức năng sử
dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư: cung ứng các
dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán,
không được nhận tiền gửi dưới 1 năm.

2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH.


a) Bản chất và phạm vi hoạt động.
- Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử
dụng vốn tự có vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các


dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp
luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới một năm.
- Công ty Tài chính được mở chi nhánh, văn phòng đại diện trong nước, ngoài
nước sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
- Công ty Tài chính được thành lập công ty trực thuộc, có tư cách pháp nhân, hạch
toán độc lập để hoạt động dịch vụ tài chính, tiền tệ, môi giới, bảo hiểm, chứng khoán và
tư vấn theo quy định của pháp luật.

b) Mức vốn pháp định.
- Công ty tài chính có vốn pháp định, song ta biết vốn pháp định của công ty tài
chính thấp hơn ngân hàng. Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP, ngày 22/11/2006 của
Chính phủ, công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày Nghị
định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực và trước ngày 31/12/2008 thì phải có
mức vốn pháp định là 300 tỷ đồng; công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập và
hoạt động sau ngày 31/12/2008 thì phải có mức vốn pháp định là 500 tỷ đồng.
Phần vốn pháp định góp bằng tiền phải được gửi vào tài khoản phong toả không được
hưởng lãi mở tại Ngân hàng Nhà nước trước khi hoạt động tối thiểu 30 ngày, số vốn này
chỉ được giải tỏa sau khi Công ty Tài chính khai trương hoạt động.

c) Thời hạn hoạt động.
- Thời hạn hoạt động của công ty tài chính tối đa là 50 năm. Trường hợp cần gia
hạn thời hạn hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận, nhưng
mỗi lần gia hạn không quá 50 năm.

d) Cơ hội cạnh tranh và lợi ích mang lại.

- Xét ở khía cạnh nào đó, các công ty tài chính sẽ chịu áp lực cạnh tranh ở mức độ
thấp. Theo cam kết WTO, chỉ có ngân hàng thương mại nước ngoài và công ty tài chính
nước ngoài mới được thành lập công ty tài chính liên doanh và công ty tài chính 100%
vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được thành lập công ty tài
chính liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài nhưng phải có tổng tài sản trên 10 tỷ
USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn.
- Công ty tài chính huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm công ty.
Vì thế, rủi ro xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập
đoàn hay nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng. Khi các quan hệ kinh tế trong


tập đoàn là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì khả năng xảy ra rủi ro
là không lớn.

D. HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH.
• Huy động vốn.
1. Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước.
2. Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá
khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của
pháp luật hiện hành.
3. Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức tài
chính quốc tế.
4. Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài
nước.

• Huy động tín dụng.
* Công ty Tài chính được cho vay dưới các hình thức:
1. Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước.

2. Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
theo quy định hiện hành của Luật Các tổ chức tín dụng và họp đồng uỷ thác.
3. Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.

** Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác
1. Công ty Tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương
phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá nhân.
2. Công ty Tài chính và các tổ chức tín dụng khác được tái chiết khấu, cầm cố
thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác cho nhau.

*** Bảo lãnh
Công ty Tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối
với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của Công ty Tài chính phải được thực hiện
theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn
của Ngân hàng Nhà nước.


• Mở tài khoản và ngân quỹ.
* Mở tài khoản.
1. Công ty Tài chính được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi
Công ty Tài chính đặt trụ sở chính và các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng ngoài lãnh thổ Việt Nam phải được Ngân
hàng Nhà nước cho phép.
2. Công ty Tài chính có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước
và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà
nước

** Dịch vụ ngân quỹ.
Công ty Tài chính được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
* Các hoạt động khác.

* Các nghiệp vụ khác được phép thực hiện theo đúng quy định của pháp luật

hiện hành, gồm:
1. Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác.
2. Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng.
3. Tham gia thị trường tiền tệ.
4. Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng.
5. Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho các
doanh nghiệp.
6. Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ
chức, cá nhân theo hợp đồng.
7. Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách
hàng.
8. Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm
đồ và các dịch vụ khác.

** Các nghiệp vụ được các cơ quan quản lỷ Nhà nước có thẩm quyền cho phép
1. Hoạt động ngoại hối: Ngân hàng Nhà nước xem xét, cấp giấy phép cho Công
ty Tài chính được thực hiện một số hoạt động ngoại hối theo quy định hiện hành về


quản lý ngoại hối.
2. Hoạt động bao thanh toán: Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm ban hành quy
định hướng dẫn việc thực hiện hoạt động bao thanh toán và xem xét cho phép Công ty
Tài chính có đủ điều kiện thực hiện hoạt động này.

• Các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của công ty tài chính
* Việc trích lập và dự phòng rủi ro
Công ty Tài chính phải dự phòng rủi ro và hạch toán khoản dự phòng rủi ro này

vào chi phí hoạt động. Việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro được thực hiện theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước.

** Trường hợp không được cấp tín dụng
Công ty Tài chính không được cấp tín dụng đối với những đối tượng được quy
định tại khoản 1 Điều 77 Luật Các tổ chức tín dụng, không được chấp nhận bảo lãnh
của các đối tượng theo quy định trên để làm cơ sở cho việc cấp tín dụng đối với khách
hàng.

*** Trường hợp hạn chế tín dụng
1. Công ty Tài chính không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng
với những điều kiện ưu đãi cho những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 78 Luật
Các tổ chức tín dụng.
2. Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này
không được vượt quá 5% vốn tự có của Công ty Tài chính.
3. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của Công ty Tài
chính không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của Công ty Tài chính theo quy định
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
**** Giới hạn góp vốn mua cổ phần
1. Mức góp vốn, mua cổ phàn của Công ty Tài chính trong một doanh nghiệp;
tổng mức góp vốn, mua cổ phần của Công ty Tài chính trong tất cả các doanh nghiệp
không được vượt quá mức tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định.
2. Tổng số vốn của Công ty Tài chính đầu tư vào tổ chức tín dụng khác dưới hình
thức góp vốn, mua cổ phần phải trừ khỏi vốn tự có của Công ty Tài chính khi tính các
tỷ lệ an toàn.


***** Quy định bảo đảm an toàn
Công ty Tài chính phải tuân thủ các quy định bảo đảm an toàn sau:
1. Duy trì tỷ lệ bảo đảm an toàn được quy định tại Điều 81 Luật Các tổ chức tín

dụng và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
2. Mua và đầu tư vào tài sản cố định của mình không quá 50% vốn tự có của
Công ty Tài chính.
3. Giới hạn cho vay đối với một khách hàng được quy định như sau:
a) Tổng dư nợ cho vay một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của
Công ty Tài chính, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ
thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là tổ
chức tín dụng khác;
b) Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của
Công ty Tài chính hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì Công
ty Tài chính được tiến hành cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
4. Các quy định về an toàn khác có liên quan của pháp luật hiện hành..

III. THỰC TRẠNG CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM.
+ Hiện nay tại Việt Nam có khoảng 17 công ty tài chính vì đây là một hình
thức tài chính khá mới mẻ và các công ty này thuộc các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng nên các công ty này vẫn chưa phát triển quy mô nhu các ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên đây là một hình thưc mới mẻ nên hệ thống các CTTC chắc chắn sẽ nhanh
chóng bành trướng trên thị trường Việt.
+ Ta biết tại Việt Nam vào thời điểm này, có vẻ như thị trường chung của các
tổ chức tín dụng phi ngân hàng vẫn đang trong giai đoạn "tự phát" là chính, số lượng
ít, quy mô nhỏ, cộng thêm không ít rắc rối trong thủ tục hành chính... tất cả đã ngăn
cản các CTTC nhỏ lẻ vượt qua được ngân hàng trong các dịch vụ bán lẻ. Thực tế, ở thị
trường nước ta, các CTTC thường vẫn "quen" làm việc với các doanh nghiệp lớn nhiều
hơn. Vô hình trung, đó lại là một rào cản cho chính họ.
Có một nguyên nhân khác nữa ảnh hưởng tới sự phát triển của CTTC, đó là
việc phần lớn các đơn vị này đều trực thuộc các Tập đoàn kinh tế của Nhà nước, hay
các Tổng công ty dưới Bộ. Nhắc tới các CTTC, giới đầu tư vẫn chỉ quen với 2 cái tên



Prudential Vietnam và Công ty Việt - Sài Gòn. Những công ty này làm ăn được tiếng
là "thoáng" và "mạnh", nhưng cũng vì họ không hoàn toàn giống như những CTTC
còn lại, hầu hết đều thuộc Nhà nước quản lý.
+ Trên thị trường nước ta, phần lớn các CTTC đều nghiêng nhiều về nhiệm vụ
quản lý và sử dụng nguồn tài chính tiền tệ thuộc "ngành dọc". Việc họ mở rộng cung
cấp dịch vụ tài chính cho "người ngoài" vẫn còn rất hạn chế.
+ Theo một thống kê không chính thức mới đây, tổng nguồn vốn huy động từ
các tổ chức phi tài chính, tính đến hết tháng 8/2007 (từ chủ yếu 9 CTTC lớn nhất
nước), chỉ đạt xấp xỉ trên 3 nghìn tỉ đồng. Nhưng điều đáng nói là tổng dư nợ cho vay
của khối tín dụng này lại đạt trên 10 nghìn tỉ. Khoản chênh lệch đó các CTTC lại đi
vay từ... ngân hàng.
+ Như đã nêu trên, dù các CTTC lớn, hay nhỏ, họ vẫn thường tỏ ra rất khó khăn
trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính nhỏ. Các "đơn đặt hàng" lớn không phải lúc
nào cũng có, vì thế, xu hướng chung của các CTTC lại quay ngược về thị trường đầu
tư tài chính. Bất động sản, chứng khoán, đầu tư tài chính dài hạn... các CTTC "làm"
hết. Làm, nhưng không nhiều hiệu quả. Không chỉ bởi họ thua kém hẳn giới ngân hàng
về vốn, nhân lực, hay công nghệ dịch vụ, mà cái thua lớn nhất lại đáng ra phải là điểm
mạnh của họ: Sự năng động và khả năng quyết đoán khi có lời.
+ Theo một thông tin đưa ra mới đây của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam thì nợ
xấu tại các công ty tài chính có xu hướng tăng. Điều này được giải thích rằng, đó là do
cơ chế về thanh toán đối với các công ty này chưa phù hợp. Đó có thể là một lý do,
nhưng chắc không phải là lý do duy nhất.


CÔNG TY BẢO HIỂM
I. KHÁI NIỆM CÔNG TY BẢO HIỂM
Là tổ chức huy động vốn bằng cách bán chứng nhận bảo hiểm cho công chứng và sử dụng
nguồn vốn huy động được để đầu tư trên TTTC.
II. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ BẢO HIỂM CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM:


1. Sàng lọc:
Để giảm bớt sự lựa chọn đối nghịch, các công ty bảo hiểm cố gắng sàng lọc những người
mang bảo hiểm rủi ro tốt khỏi những người mang bảo hiểm rủi ro tồi. Do vậy các phương thức tập
hợp thông tin có hiệu quả là 1 nguyên tắc quan trọng trong quản lý bảo hiểm.
2. Phí bảo hiểm rủi ro:
Đối với công ty bảo hiểm, việc thu phí bảo hiểm trên cơ sở mức độ rủi ro của 1 người được
bảo hiểm (được gọi là các phí bảo hiểm rủi ro) là 1 nguyên tắc bảo hiểm đúng đắn. Chọn lựa đối
nghịch giải thích vì sao nguyên tắc này lại quan trọng đến vậy đối với khả năng sinh lợi của công
ty bảo hiểm.
3. Những điều khoản hạn chế:
Những điều khoản hạn chế trong các họp đồng là 1 công cụ quản lý để giảm bớt rủi ro đạo
đức.
4. Phòng ngừa gian lận:
Một nguyên tắc quản lý quan trọng cho những công ty bảo hiểm là thực hiện những cuộc
điều tra ngăn ngừa gian lận, để chỉ những người khiếu nại có căn cứ mới nhận được bồi thường.
5. Huỷ bỏ bảo hiểm:
Sẵn sàng huỷ bỏ các hợp đồng là 1 công cụ quản lý bảo hiểm khác. Các công ty bảo hiểm
có thể kiềm chế rủi ro đạo đức nếu họ đe doạ huỷ bỏ 1 họp đồng khi người nào đó đang bảo hiểm
có những hoạt động mà dễ khiếu nại đòi bồi thường.
6. Khoản khấu trừ:
KKT là 1 khoản tiền cố định được khấu trừ từ tổn thất của người được bảo hiểm khi được
thanh toán. Như thế, 1 khoản khấu trừ khiến cho người được bảo hiểm hành động phù hợp hơn
với những gì có lợi cho công ty mà người đó mua bảo hiểm; tức là, rủi ro đạo đức được giảm
xuống. Do rủi ro đạo đức được giảm, nên chi phí bảo hiểm của công ty đã hạ thấp hơn cả so với


mức phải bồi thường là nhờ tác dụng của khoản khấu trừ.
7. Đồng bảo hiểm:
Khi 1 người được bảo hiểm cùng gánh chịu 1 tỷ lệ tổn thất với công ty bảo hiểm, sự dàn
xếp như thế được gọi la đồng bảo hiểm. Đồng bảo hiểm là 1 công cụ quản lí khác rất hữu ích cho

các công ty bảo hiểm.
8. Những giới hạn của số tiền bảo hiểm:
Một nguyên tắc quan trọng khác của việc quản lý bảo hiểm là có những giới hạn đối với số
tiền của bảo hiểm được cung cấp, mặc dù 1 khách hàng sẵn lòng được thanh toán để có thêm tiền
bồi thường. Các công ty bảo hiểm phải luôn luôn đảm bảo rằng tiền bồi thường bảo hiểm của hộ
không cao đến mức để rủi ro đạo đức dẫn đến các tổn thất lớn.
III. VAI TRÒ CỦA CÔNG TY BẢO HIẾM

- Khía cạnh kinh tế - xã hội:
Rủi ro tổn thất phát sinh làm thiệt hại đến các đối tượng: của cải vật chất do con người
tạo ra và chính bản thân con người, làm gián đoạn quá trình sinh hoạt của dân cư ngưng ừệ
hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. nói chung nó làm gián đoạn và giảm hiệu quả
của quá trình tái sản xuất XH.
Quỹ dự trữ BH được tạo lập trước 1 cách có ý thức, khắc phục hậu quả nói trên, bằng cách bù
đắp các tổn thất phát sinh nhằm tái lập và đảm bảo tính thường xuyên liên tục của quá trình
XH. như vậy, trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế XH BH đóng vai trò như 1 công cụ an toàn và
dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi chủ thể dân cư và kinh tế. với vai trò
đó, BH khi thâm nhập sâu vào đời sống đã phát huy tác dụng vốn có của mình: thúc đẩy ý
thức đề phòng - hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội.
BH là môi trường nghề nghiệp của 1 số lượng lớn lao động, lao động trong ngành BH cùng
các ngành khác tạo ra nhiều giá trị gia tàng cho cả nền kinh tế góp phần đáng kể vào GDP của
quốc gia. hoạt động BH là 1 trong những hoạt động có mối quan hệ với nhiều ngành nghề
khác nhất, không những thế, ngày nay hd BH ko chỉ hướng đế việc phân phối lại về mặt giá
trị mà còn hướng đến vai trò XH tích cực hơn ừong việc chống lại những hậu quả bất hạnh
của cuộc sống, các chương trình hỗ ừợ của BH ngày càng đa dạng và phong phú.Hiệu quả của
các hoạt động hỗ trợ của BH ko chỉ thúc đẩy ý thức phòng ngừa rủi ro của các thành viên
trong XH mà còn làm giảm thiệt hại về mặt kinh tế tổn thất giảm đi, đồng nghĩa với giá trị của
nền kte tăng lên mức đóng góp của các thành viên trong quỹ BH cũng giảm đi.



Khía cạnh tài chính:
* Đối với người tham gia bảo hiểm: Khi tham gia bảo hiểm, sẽ giúp cho bản thân và tài sản
của người tham gia được bảo đảm bằng một khoản tiền xác định nào đó. Và nếu như có điều
rủi ro xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm thì họ sẽ được các công ty bảo hiểm chia sẻ một
phần nào đó khó khăn, giúp họ có khả nàng tài chính để có thể vượt qua được khó khăn trước
mắt.
* Đối với các công ty bảo hiểm:
Bảo hiểm chính là một kênh tập trung vốn của các công ty bảo hiểm. Với số tiền mà
khách hàng đóng vào, sẽ giúp các công ty bảo hiểm đầu tư vào các ngành kinh doanh khác,
mang lại lợi nhuận nhiều hơn, qua đó, giúp gia tăng khả năng tài chính của công ty, đồng thời
bảo đảm nguồn tiền mặt đối với các hoạt động thường ngày của 1 công ty.
* Đối với xã hội:
Bảo hiểm là một kênh luân chuyển tiền tệ của nền kinh tế. Nó tạo ra sự an tâm của các
nhà đầu tư cũng như của dân chúng, thúc đẩy cho các hoạt động tài chính diễn ra một cách
suông sẻ hơn. Bảo hiểm có thể coi là một trong những nhân tố giúp ổn định nền tài chính tiền
tệ của một quốc gia. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu các hoạt động kinh doanh bảo
hiểm không rõ ràng và minh bạch, có thể tạo ra những tác động xấu, ảnh hưởng không tốt đến
nền kinh tế (mà ví dụ điển hình là sự phá sản của ông lớn AIG hiện nay)
Sau ngân hàng thương mại thì các công ty bảo hiểm cũng được nhắc tới như những
trung gian tài chính có khả năng huy động lượng vốn nhàn rỗi khổng lồ từ dân cư từ đó cung
cấp vốn cho nền kinh tế đồng thời các công ty bảo hiểm cũng có thể được coi như những tổ
chức đầu tư chuyên nghiệp, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn .thị trường tài chính
tiền tệ hoạt động ổn định và có hiệu quả.


THỰC TRẠNG CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM
Qúa trình hình thành và phát triển:
Ở Việt Nam, bảo hiểm ở Việt Nam ra đời tự bao giờ? Không có một tài liệu nào chứng minh một
cách chính xác mà chỉ phỏng đoán vào những năm 1880 các Hội bảo hiểm ngoại quốc như Hội
bảo hiểm Anh, Pháp, Thuỵ Sỹ, Hoa Kỳ,.... đã để ý đến Đông Dương.

− Năm 1926, chi nhánh đầu tiên là của công ty Franco- Asietique.
− Đến năm 1929 mới có công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn, đó là
Việt Nam Bảo Hiểm công ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe ô tô.
− Từ năm 1952 về sau, hoạt động bảo hiểm mới được mở rộng dưới nhiều
hình thức phong phú với sự hoạt động của nhiều công ty Bảo hiểm trong
nước và ngoại quốc.

1. Trước năm 1986
Hoạt động bảo hiểm của nước ta ít nhiều cũng đã có những bước phát
triển ngay từ thời kỳ thực dân Pháp. Cho tới khi miền Bắc được giải phóng, đất
nước bị chia cắt, hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở miền Nam khá phát triển
dưới chế độ nguy quyền.


Miền Nam trước năm 1975: Có hơn 52 công ty trong và ngoài

nước đã triển khai các loại hình nghiệp vụ khá đa dạng như bảo hiểm
hoả hoạn, bảo hiểm chuyên chở, bảo hiểm xe tự động, bảo hiểm sinh
mạng, bảo hiểm tai nạn lao động... Để đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh được trôi chảy, cạnh tranh lành mạnh, các công ty Bảo hiểm đã
sớm thành lập hiệp hội nghề nghiệp bảo hiểm của mình. Hiệp hội có
chức năng thông tin tư vấn, đào tạo, tạo ra một môi trường hợp tác.
Việc quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm được thực hiện
thông qua bộ tài chính. Các văn bản pháp luật điều chỉnh như luật bảo
hiểm cũng sớm ra đời. Ngoài ra, hội đồng tư vấn bảo hiểm Quốc Gia
cũng đóng vai trò khá quan trọng.





Miền Bắc trước năm 1975: Hoạt động bảo hiểm thực sự bắt đầu

khi có sự ra đời của bảo việt. Để đáp ứng nhu cầu về bảo hiểm trong
hoạt động ngoại thương, Ngày 17-12-1964, thủ tướng Chính phủ ra
quyết định thành lập công ty Bảo Hiểm Việt Nam, gọi tắt là Bảo Việt.
Đến ngày 15/1/1965, Bảo Việt chính thức đi vào hoạt động. Đây cũng
là công ty bảo hiểm Nhà Nước duy nhất, đại diện cho ngành bảo hiểm
Việt Nam. Từ ngày thành lập cho đến trước năm 1975, do những điều
kiện khó khăn của chiến tranh, hoạt động của Bảo Việt ở miền Bắc
chưa phát triển. Lúc bấy giờ, Bảo hiểm chỉ có trụ sở ở Hà Nội và chi
nhánh ở Hải Phòng thực hiện chủ yếu 3 nghiệp vụ: Bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu, Bảo hiểm thân tàu và tái bảo hiểm. Tỉ lệ tái bảo hiểm
cho Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, và Ba Lan lúc đó cũng tương đối cao.
• Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Cũng như tất cả các
ngành kinh tế khác, các công ty bảo hiểm cũ của miền Nam được tiến
hành quốc hữu hoá. Công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam được
thành lập để thực hiện tiếp trách nhiệm của cong ty cũ đối với những
người được bảo hiểm muốn tiếp tục hợp đồng. Đối với các công ty bảo
hiểm nước ngoài, công ty có trách nhiệm thanh toán và đòi nợ theo
đứng hợp đồng. Năm 1976 khi hoàn toàn thống nhất đất nước, công ty
được chuyển thành chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành
phố Hồ Chí Minh. Thời kỳ này Bảo Việt là công ty duy nhất hoạt động
kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam theo chế độ hoạch toán kế toán kinh
tế thống nhất toàn ngành. Công ty trực thuộc bộ Tài Chính có chức
năng giúp bộ tài chính thống nhất quản lý công tác bảo hiểm Nhà Nước
và trực tiếp tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm trong nước. Trong giai đoạn
này ở Việt Nam Bảo Việt độc quyền kinh doanh bảo hiểm nên các sản
phẩm của Bảo Việt chưa đa dạng, chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ bảo
hiểm phi nhân thọ với khoảng 20 sản phẩm bảo hiểm. Có thể nói thời
gian này hoạt động bảo hiểm ở nước ta vẫn chưa phát triển.


2. Từ năm 1986 đến nay:


Năm 1986 đánh dấu một bước ngoặc trong sự nghiệp phát triển kinh tế
của nước ta. Sự xuất hiện của các công ty bảo hiểm mới, công ty liên doanh, công ty
cổ phàn, công ty 100% vốn nước ngoài... sẽ có ý nghĩa rất lớn với quá trình phát triển
bảo hiểm nước ta.
Ngày 18/12/1993 nghị định 100 CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
đã được chính phủ ban hành, mở ra bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm Việt Nam.
Nó phá vỡ thế độc quyền đang tồn tại, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức bảo
hiểm với nhiều hình thức khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặc dù vậy, phải
đến sau năm 1995 một loạt các công ty kinh doanh bảo hiểm mới ra đời: Bảo Minh,
VINARE, PVI, PJICO... và các công ty liên doanh bảo hiểm như: UIC,VIA... Ngoài
ra, với khoản 40 văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài và hơn
70000 đại lý bảo hiểm, thị trường bảo hiểm Việt Nam đang phát triển ngày càng một
sôi động.
Việc mở cửa thị trường bảo hiểm cũng như sự xuất hiện của các công
ty bảo hiểm mới đã tạo điều kiện cho bảo hiểm phát triển mạnh mẽ trong một môi
trường cạnh tranh quyết liệt. Các công ty liên tục hoàn thiện những sản phẩm cũ đồng
thời nghiên cứu và giới thiệu những loại hình nghiệp vụ mới đa dạng và hấp dẫn.
Người tham gia bảo hiểm có thể tự do lựa chọn người bảo hiểm, loại hình dich vụ bảo
hiểm với mức phí cạnh tranh nhất. Trong tương lai nhu cầu bảo hiểm sẽ càng đa dạng
hơn và số lượng, chủng loại sản phẩm chắc chắn sẽ còn được mở rộng. Không chỉ có
vậy để nâng cao tính cạnh trang công tác chăm sóc khách hàng ngày càng được chú
trọng. Bảo hiểm Vịêt Nam được đánh giá là một thị trường vẫn đang rất giàu tiềm
năng phát triển.

CÁC SẢN PHẨM BẢO HIỂM ĐƯỢC QUY ĐỊNH TRONG HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM:

Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại
Thế giới ngày 11/1/2007, các quy định về mở cửa thị trường bảo hiểm quy định tại hiệp
định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được thực hiện gần như toàn diện, hệ thống
pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại việt Nam đã được xây dựng,
hoàn thiện và áp dụng hiệu quả trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay bên cạnh luật Kinh doanh bảo hiểm, các


văn bản hướng dẫn thi hành luật Kinh doanh bảo hiểm thì tồn tại hàng loạt các quy
định khác cũng tham gia vào việc điều chỉnh trực tiếp hoặc gián tiếp hoạt động kinh
doanh bảo hiểm tại Việt Nam, trước hết phải kể đến các quy định pháp luật về bảo
hiểm xây dựng, đấu thầu bảo hiểm, bảo hiểm cho công ty chứng khoán... đã làm cho
các doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm lúng túng trong việc lựa chọn
các quy định pháp luật để áp dụng, thực hiện, hơn nữa các chính vì những quy định
này, nhiều doanh nghiệp nhiều doanh nghiệp đã bỏ quên trách nhiệm tham gia bảo
hiểm của mình.
Dưới đây là 16 loại sản phẩm bảo hiểm được quy định bởi các văn bản
pháp luật hiện hành và đang áp dụng trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam:

Nhóm bảo hiểm TNNN:
1. Bảo hiểm TNNN cho công ty môi giới bảo hiểm.
2. Bảo hiểm TNNN cho luật sư.
3. Bảo hiểm TNNN cho công ty chứng khoán
4. Bảo hiểm TNNN cho công ty quản lý.
5 Bảo hiểm TNNN của nhà thiết kế xây dựng công trinh
6. Bảo hiểm TNNN của Nhà thầu giám sát thi công công trinh
7. Bảo hiểm TNNN cho công ty ki ểm toán
8. Bảo hiểm TNNN cho doanh nghiệp thẩm định giá
9. Bảo hiếm TNNN của Chủ đầu t ư xây d ựng công trinh trong việc thi công công trinh
10.


Bảo hiểm TNNN của bên mời thầu

bảo hiểm cháy nổ:
11.

Bảo hiểm cháy nổ bắt buộc

Bảo hiểm vận tải đường thuỷ
12.

tàu biển chuyên dùng để vận chuyển dầu mỏ, chế phẩm từ dầu mỏ hoặc các hàng hoá

nguy hiểm khác bắt buộc phải có bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu về ô nhiễm môi
truờng khi hoạt động trong vùng nước cảng biển và vùng biển Việt Nam.
Bảo hiểm hàng không:
13.

Người vận chuyển phải mua bảo hiểm bắt buộc ừách nhiệm bòi thường ừách nhiệm đối

với tính mạng, sức khoẻ của hành khách, việc mất mát thiếu hụt, hư hỏng hàng hoá, hành lý
và do vận chuyển chậm.


14. Người khai thác tàu bay phải mua bảo hiểm bắt buộc ừách nhiệm bòi thường thiệt hại đối
với người thứ 3 ở mặt đất.
Báo hiểm xe cơ giới:
15. Bảo hiểm bắt buộc ừách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Bảo hiểm du lịch:
16. Doanh nghiệp du lịch kinh doanh lữ hành quốc tế phải mua bảo hiểm du lịch cho khách du

lịch Việt Nam ra nước ngoài trong thời gian thực hiện chương trinh du lịch



×