Tải bản đầy đủ (.pdf) (664 trang)

cuốn sách 1001 bí ẩn khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 664 trang )


1001 bí ẩn
Cuốn sách là tập hợp các bài viết được
đăng tải ở trang Khoahoc.com.vn về những
vấn đề bí ẩn của thế giới cũng như ở Việt
Nam, thu hút được sự chú ý, quan tâm của
các nhà khoa học cũng như những người
thích tìm hiểu khám phá....
Source: Khoahoc.com.vn
Created by tinhvan - Sachvui.Com
Contact:
Website: www.Sachvui.Com

10 nhân vật ma quái đáng sợ
nhất
Chúng lẩn khuất, ám ảnh, làm chúng ta kinh
hãi. Nhưng những nhân vật kinh dị nhất dưới đây
chắc chắn sẽ không thình lình xuất hiện trước
mắt bạn. Chúng đã bị chôn vùi trong những thị
trấn thời trung cổ, khi mà các câu chuyện dân
gian kỳ bí ngự trị trong đầu mỗi người.
Sau đây là lịch sử và khoa học về những ngôi


sao kinh dị của ngày 31/10 - Lễ hội Halloween
hằng năm.
1. Yêu tinh
Nổi tiếng từ các câu chuyện cổ tích, những
con yêu tinh nhỏ choắt đầy lông lá có tính ranh
ma nhiều hơn là độc ác. Truyền thuyết kể về
những con yêu tinh trốn trong các khu rừng, bày


ra các trò chơi khăm và đôi khi tráo đổi em bé
mới sinh. Không giống như các sinh vật khác vốn
liên quan đến tôn giáo, yêu tinh chưa vượt qua
được ngưỡng của sự tưởng tượng để gây nên
những cơn hoảng loạn thực sự ở các thị trấn thời
trung cổ.
2. Quỷ
Quỷ, như người ta vẫn thường gọi "linh hồn
của quỷ", có thể đại diện cho bất kỳ thứ nào từ
tà ma, đến một thiên thần bị suy đồi tới đệ tử của
Satan. Ma quỷ có nguồn gốc từ thời cổ đại và
xuất hiện trong các câu chuyện dân gian và văn
học trên khắp thế giới.
3. Tượng đầu thú
Đó cũng là một trong những điều không thể


giải thích được của kiến trúc cổ đại. Nhưng
tượng đầu thú, những con quái vật bằng đá nhô
ra từ mỏm của các giáo đường lớn, thực ra có
chức năng của nó. Chúng được gắn vào các
công trình đá gô-tíc vào đầu thế kỷ 13 để dẫn
nước mưa chảy từ trên nóc nhà thờ, miệng của
chúng như cái máng xả nước. Xét về mặt tâm
linh, tượng đầu thú cũng để bảo vệ giáo đoàn
trước các thế lực ma quỷ rình rập bên ngoài.
4. Thây ma
Là vua của phim kinh dị, thây ma là những
con người đã bị tước mất linh hồn hay người chết
được sống lại nhờ một phép ma thuật nào đó.

Truyền thuyết thây ma bắt nguồn từ tôn giáo ma
thuật ở Haiti, nơi mà người ta tin rằng con người
cơ thể rơi vào trạng thái hôn mê giống như xác
chết di động mà chúng ta thấy trong phim.
5. Ma sói
Là những con người bình thường cho đến khi
ngày trăng tròn tới, họ bị nguyền rủa biến thành
những con sói man rợ - hình tượng xuất hiện
trong mọi nền văn hoá bắt nguồn từ thời Hy Lạp


cổ đại. Giống như phù thuỷ, họ bị săn đuổi vào
thời trung cổ và bị buộc tội trong những vụ giết
người không thể giải thích. Những câu chuyện
truyền miệng cũng nói đến một chứng rối loạn
hoóc môn khiến lông mọc rậm rạp trên cơ thể được gọi là "căn bệnh người sói".
6. Ma trơi
Những quả bí ngô ma quái này có thể là biểu
tượng nổi bật nhất của lễ hội Halloween. Tục lệ
khắc và thắp đèn trong những quả bí là một
phong tục thời Celtic được các cư dân Ireland
mang tới Mỹ. Ở Ireland, người ta dùng củ cải
thay vì bí ngô. Những khuôn mặt đáng sợ tỏa
sáng hiện ra từ những quả bí ngô là để xua đuổi
tà ma lang thang trên các con đường vào đêm
31/10 - đêm các thánh.
7. Dơi
Chúng mù, treo lơ lửng trong các hang động
và tạo nên những cuộc tấn công ồ ạt. Nhưng tại
sao dơi lại liên quan tới Halloween? Những con

thú có cánh này nên cảm ơn ma cà rồng vì điều
đó. Giống như các con quỷ dracula, một bộ phận


nhỏ dơi chuyên sống nhờ vào máu động vật dùng răng sắc nhọn để cắn nạn nhân khi đang
ngủ.
8. Phù thuỷ
Hãy quên đi những chiếc mũ đen nhọn hoắt
hay cái mũi khoằm. Những hình ảnh đó chỉ xuất
hiện gần đây so với lịch sử bi thương có từ rất
lâu về phù thủy trên khắp hành tinh. Trong quá
khứ, phù thuỷ được coi là người sở hữu những
phép thuật liên quan tới thế giới tự nhiên. Giống
như mọi kẻ ngoại giáo khác, họ bị truy lùng bởi
nhà thờ Cơ đốc. Cuộc săn lùng lên tới đỉnh điểm
vào thời trung cổ ở châu Âu và thế kỷ 17 ở châu
Mỹ.
9. Bóng ma
Chọc 2 lỗ thủng từ tấm ga trải giường để
nhìn và bạn đã có trang phục đơn giản nhất cho
ngày Halloween. Trở thành một con ma thực thụ
thì phức tạp hơn. Trước hết bạn phải chết, có thể
một cách đau đớn, rồi để cho linh hồn của bạn
lang thang khắp trái đất hù doạ người thân và ám
ảnh các ngôi nhà. Từ một góc độ khoa học nào


đó, các nhà cận tâm lý cho rằng một phần năng
lượng của con người không bao giờ bị phá huỷ.
Xã hội dường như cũng đồng ý, một cuộc khảo

sát cho thấy 50% tin rằng thực sự có ma.
10. Ma cà rồng
Họ muốn hút máu bạn. Ma cà rồng xuất hiện
trong nền văn hóa dân gian từ hàng nghìn năm
trước, còn hình ảnh về những chiếc răng nanh
phổ biến từ thế kỷ 18-19 tại Tây Âu. Người ta tin
rằng một ai đó khi sinh ra bị dị dạng hoặc chết
một cách bất thường thì sau khi chôn sẽ sống
dậy để khủng bố người sống. Ma cà rồng được
coi là những người chưa chết hẳn và cần phải hút
máu người để duy trì sự sống.
M.C.R.
Theo Livescience, Vnexpress

3 bí ẩn của địa cầu
Ai cũng biết không gian có thể tác động
đến con người. Mặt trời gây nên nhiều vấn
đề nơi một số người nhạy cảm trước những
đổi thay thời tiết. Bên cạnh việc gây nên


biến động thủy triều, mặt trăng còn là
nguyên nhân của hiện tượng mộng du (bước
đi trong khi ngủ).
Dường như ai cũng nghe nói địa cầu chúng
ta có thể là nơi “đổ bộ” của thiên thạch vào một
ngày vô định nào đó trong tương lai? Bản thân
trái đất có thể tác động đến cuộc sống con người
như sau:
1. Bức xạ tần số thấp phát ra từ ruột trái đất

tác động bất lợi cho nội tạng con người.
2. Nhà cao tầng xây dựng trên vùng dẫn lưu
có thể bị rung chuyển và sụp đổ vì lý do
không ai biết.
3. Theo một trong nhiều lý thuyết, khủng
long diệt vong do hai cực từ của địa cầu di
chuyển.
Đội ngũ chuyên gia của Viện hàm lâm Khoa
học Nga phát hiện sự liên kết kỳ lạ giữa số vụ
tai nạn với rối loạn trường điện từ của trái
đất, và bức xạ tần số thấp trong ruột địa cầu


chính là thủ phạm đáng ghét. Một trong nhiều
giả thuyết cho rằng hiện tượng sinh ra do các
tiến trình lực căng ứng suất trong lớp vỏ trái đất.
Và, có thể một phần năng lượng này sau đó biến
thành luồng phân tử điện từ vỡ tự do, giống như
đám quỷ dữ thoát ra từ chiếc hộp Pandora. Khoa
học tin rằng bức xạ bí ẩn tác động xấu đến sức
khỏe con người. Ví dụ, thống kê cho thấy phần
lớn những người gọi xe cứu thương và tai nạn
giao thông bột phát khi có một sự gia tăng loại
bức xạ này.
Khoa học ghi nhận nhiều lỗ thủng khổng lồ
đang xuất hiện trong từ trường trái đất. Đến một
mức độ nào đó thì những lỗ thủng này sẽ gây
nên vấn đề. Khoa học cho rằng lúc đó hai cực từ
của trái đất sẽ hoán đổi vị trí, vì hiện tượng này
từng xảy ra trong lịch sử địa chất hành tinh.

Hiện thời, cực từ Bắc đang di chuyển và
tiến gần đến Siberia. Cực từ Nam cũng thế, nó
rời Nam Cực và hiện tiến dần đến các vùng bờ
biển miền Tây Australia. Chuyển động của hai
cực từ được dò thấy ở Trung tâm Quân sự và


Viện Kỹ thuật Ground Forces. Theo một số dữ
liệu, hiện tượng thay đổi vị trí của hai cực từ xảy
ra một lần trong giai đoạn 12.500, và có thể nó
đã giết chết loài khủng long, voi mammouth, và
gây nên sự huỷ điệt Atlantis
Di An
Theo LiveScience, CAND.com.vn

Ai Cập - Huyền bí pho tượng
nhân sư
Tượng Sphinx nằm ở sa mạc Ai Cập cách
thủ đô Cairo khoảng 8 dặm, được người xưa
dùng để canh gác ba kim tự tháp lớn ở
Gizah. Đó là một quái vật tạc bằng đá, đầu
người mình sư tử với những chân có vuốt
trải ra phía trước.
Hình tượng chạm trổ sơ sài nhưng đầu lại
được tạc một cách rất công phu. Đôi mắt đầy vẻ
bí hiểm và có cái nhìn không ai có thể giải thích
nổi. Mắt con Sphinx nhìn chằm chằm ra phía sa
mạc với cái vẻ kênh kiệu khó hiểu. Tượng cao
hơn 18 mét và trải dài tới 57 mét, mặt có bề



ngang 5 mét, tại 1,57 mét, mũi 1,7mét.
Người ta cho rằng tượng Sphinx đã tồn tại ít
nhất 5.000 năm nay! Tại sao lại thiết kế tượng
này? Một bằng chứng mà ta có được xuất phát
từ việc tìm thấy một am thờ nằm giữa những cái
chân của quái vật này. Am thờ nhỏ này có bút
tích của hai vị hoàng đế cổ Ai Cập. Hai vị giải
thích rằng tượng Sphinx biểu thị một trong những
hình dạng của thần Mặt trời Harmachis. Và hai
vị còn nói rằng mục đích làm tượng Sphinx là để
xua đuổi tất cả những điều bạo ác, tội lỗi khỏi
khu nghĩa địa quanh kim tự tháp.
Ở Ai Cập có nhiều tượng Sphinx, ngoài
tượng Sphinx lớn ở Gizah. Đầu tượng biểu thị
các vị hoàng đế. Trong các sách thánh của
người Ai Cập, Sphinx có nghĩa là “vua chúa”.
Đối với các tôn giáo nguyên thủy ở Ai Cập
cũng như ở các nơi khác, nhà vua được coi là
sức mạnh và sự khôn ngoan của nhiều con thú
bằng cách khoác cái lốt của chúng. Vì vậy người
Ai Cập đã chạm các vị thần và các vị hoàng đế
của họ nửa người, nửa thú.


Quan niệm về Sphinx đã từ Ai Cập truyền
tới các nền văn minh khác, chẳng hạn như
Assyria và Hy Lạp. Ở các vùng này, Sphinx
thường có thêm cánh. Ở Assyria Sphinx thường
là đàn ông, nhưng ở Hy Lạp Sphinx lại có đầu

đàn bà.
Người Hy Lạp có một câu chuyện truyền
thuyết về Sphinx như sau: Sphinx sống trên một
tảng đá và giết bất cứ người nào đi qua mà
không trả lời được câu đố sau đây: “Cái gì đã
đi bằng bốn chân vào buổi sáng, đi bằng hai
chân vào buổi trưa, đi bằng ba chân vào ban
đêm?”. Ocdipus trả lời rằng đó là con người, bò
bằng cả bốn chân tay khi là đứa trẻ, đi thẳng
người trên hai chân khi là người lớn và đi với cây
gậy khi đã già.
Đó là câu trả lời đúng, do đó con Sphinx điên
tiết lên đã lao từ trên tảng đá xuống và chết. có
nguồn khác thì cho rằng: do Sphinx là học trò của
nữ thần thông thái ! nữ thần từng phán rằng, nếu
ai giải được câu đó của Sphinx thì Sphinx sẽ phải
chết!


Theo VietNet

Ai chế tạo ra đầu người thủy
tinh?
Năm 1927, hai cha con nhà khảo cổ
học người Anh là Mixin Haiđơ Jidơ và Anna, tại
khu phế tích thành cổ Lôba Antômô nơi gần
thành phố Hatơri nước Anh đã tiến hành khảo
sát và tìm thấy một đầu người thủy tinh nặng
khoảng 5kg. Đó là một khố thủy tinh phỏng theo
xương đầu người chế tác ra. Xương mũi được

lắp ghép bởi ba mành thủy tinh, hố mắt là một
viên thủy tinh tròn, răng được gắn ngay ngắn vào
xương hàm.
Cuốn sách "Nguy hiểm lắm, con đường của
tôi" xuất bản năm 1954 đã nhận định rằng, xương
đầu người bằng thủy tinh này do người cổ chế
tạo ra cách đây hơn 3.600 năm: Theo giám
định của các nhà khảo cổ học, chiếc sọ
người thủy tinh này phải tốn thời gian 150
năm mới được chế tác xong. Sau khi đục


khắc xong còn được dùng cát để đánh bóng.
Trước khi được khai quật, nó đã được chôn
dưới đất chí ít cũng đã 3.600 năm.
Một số nhà khảo cổ khác không đồng ý với
cách suy luận đó. Họ cho rằng, những người cổ
đại sống cách đây 3.600 năm bị hạn chế bởi điều
kiện khoa học kỹ thuật lúc bấy giờ ở trình độ rất
thấp, không thể chế tạo được sọ người thủy tinh
tinh xảo đến thế.
Viện bảo tàng nhân loại học của Pháp
cũng lưu giữ một sọ người thủy tinh. Theo
khảo chứng của một số nhà khoa học Pháp:
Chiếc sọ người thủy tinh đó qua giám định khoa
học, được xác định là do người Aztech, tức
người Anhđiêng - Mexico chế tạo ra vào thế kỷ
14 hoặc thế kỷ 15. Phân tích từ góc độ lịch sử và
tôn giáo, nó có thể là vật trang sức của mục sư
Aztech, của người Anhđiêng cúng tế. Gần quanh

nơi tìm thấy sọ người thủy tinh, người ta cũng tìm
thấy rất nhiều công cụ đồ đồng cỡ nhhỏ nhưng
rất tinh xảo. Xem ra, sọ người thủy tinh rất có
khả năng do người Aztech dùng công cụ bằng


đồng để chế tạo nên.
Một số học giả tán thành quan điểm trên, họ
cho rằng thế kỷ 14 và 15, người Aztech đã có
trình độ phát triển khá cao, họ đã chế tạo được
đồ gốm với đặc trưng màu nâu vân đen, tạo hình
mỹ quan, đường vân đa dạng, phức tạp, từ những
bản vẽ hình học phát triển tới việc tả thực hoa lá,
chim cá, côn trùng, họ còn biết sử dụng đồng
thiên nhiên để rèn thành công cụ, dùng lông chim
cắm vào để tạo ra vật trang sức. Năm 1978,
trong khai quật khảo cổ, Mexico lại phát hiện một
tảng đá điêu khắc nặng khoảng 10 tấn, đường
kính 11 thước Anh được gọi là "Đá Mặt Trăng".
Đó là tảng đá được người Aztech chế tác vào
năm 1470. Từ những bằng chứng trên, có thể
chứng minh rằng, trình độ khoa học kỹ thuật của
người Aztech tinh chắc rằng linh hồn sống mãi,
và họ theo tín ngưỡng đa thần (Thần Mặt Trời,
thần Mặt Trăng, Thần Mưa,...). Khi tế thần họ
dùng người sống để làm vật hiến tế. Sọ người
thủy tinh này có thể là một trong những vật
phẩm được họ dùng để tiến hành những hoạt



động tế thần.
Nhưng một số học giả tỏ ra hoài nghi, thậm
chí phủ định quan điểm trên. Họ cho rằng, vào
thế kỷ 14 và 15, công cụ sản xuất và vũ khí của
người Aztech thường vẫn là đồ đá và đồ gỗ. Lúc
bấy giờ họ đang ở giai đoạn liên minh bộ lạc,
đang trong thời kỳ từ xã hội nguyên thủy quá độ
tiến lên buổi đầu của chế độ nô lệ, còn thiếu hẳn
kỹ nghệ điêu khắc ở trình dộ cao, rất khó có thể
chạm khắc được sọ người thủy tinh sinh động
như vậy.
Viện bảo tàng Anh quốc cũng lưu giữ
một sọ người thủy tinh. Trong đêm tối không
có ánh đèn, chiếc sọ vẫn phát ra ánh sáng trắng
lóa mắt, hiển hiện một vẻ khủng khiếp giống hình
một ác quỷ nhe răng trợn mắt. Chiếc sọ thủy tinh
này được mua lại tại hiệu châu báu Tiphanni ở
NewYork năm 1898. Theo lời người chủ hiệu thì
nó được một người lính bán cho chủ hiệu vào
cuối thế kỷ 18. Một số nhà khảo cổ cho rằng, đó
là tác phẩm của người Adôđê (châu Mỹ Latinh), chế tác từ thời thực dân. Nhưng đó cũng


chỉ là một giả thuyết, chứ chưa phải là kết luận
nhất trí của giới khảo cổ học.
Cho đến nay cả 3 chiếc sọ người thủy tinh
trên đều chưa rõ lai lịch, không biết người nào
chế tác ra chúng vào thời gian nào, có mục đích
và ý nghĩa gì? Đến nay thế giới đang chờ các
nhà khảo cổ học nghiên cứu tìm ra câu trả lời

thỏa đáng.
H.T sưu tầm

Ai dạy người Maya cách tính
lịch?
Người Maya sáng tạo được một nền toán
học phát triển vượt bậc, để có thể ghi chép các
sự kiện theo năm tháng nhằm quyết định thời
gian gieo trồng và thu hoạch, tính toán một cách
chính xác thời tiết và những ngày mưa nhiều nhất
trong năm. Kỹ thuật toán học của họ trong các
dân tộc thời cổ đại nguyên thủy khiến các nhà
khảo cổ không khỏi kinh ngạc, nhất là việc họ rất
thành thạo khái niệm về số "0". So với các nhà
buôn Ả Rập vượt sa mạc đưa khái niệm số "0"


truyền từ Ấn Độ sang châu Âu thì người Maya
sớm hơn 1000 năm.
Người Maya tính ra mỗi tháng có 20
ngày, mỗi năm có 18 tháng cộng thêm mỗi
năm có 5 ngày kiêng kỵ không đưa vào
tháng nào. Nhờ vậy số ngày thực chất trong
một năm là 365 ngày. Số đó vừa vặn trùng hợp
với nhận thức quay về thời gian Trái đất tự quay
và quay quanh Mặt trời hết một chu trình. Người
Maya ngoài sự hiểu biết về lịch Trái đất
chuẩn xác, họ còn rất am hiểu về lịch năm
của sao Kim. Một năm của sao Kim, tức là thời
gian để sao Kim quay quanh Mặt trời hết một

chu trình, người Maya tính ra một năm sao Kim
dài 584 ngày. Còn ngày nay tính ra một năm sao
Kim dài 583,92 ngày. Đó là một con số chuẩn
xác đến kinh ngạc mà người Maya đã có
phương pháp tính lịch từ mấy ngàn năm trước.
Trong thực tiễn xã hội và sản xuất, phần
đông các dân tộc căn cứ vào con số ngón tay để
sáng tạo ra phép đếm cơ số 10. Còn người Maya
lại căn cứ vào số ngón tay và ngón chân cộng lại


để sáng tạo ra phép đếm cơ số 20. Ngoài ra họ
còn sử dụng thêm cả phép đếm cơ số 18, phép
đếm này gợi ý về cái gì? Lấy cái gì làm căn cứ?
Người Maya còn là dân tộc đầu tiên trên thế giới
nắm vững khái niệm cơ số "0", nhận thức và vận
dụng số "0" trong toán học đánh dấu trình độ
nhận thức của một dân tộc. Về vấn đề này,
người Maya so với người Trung Quốc và người
châu Âu đã sớm hơn được 3800 năm và 1000
năm.
Kim tự tháp mà người Maya căn cứ vào
lịch pháp của mình để xây dựng nên, thực
chất là một đàn cúng tế thần linh kiêm đài
quan trắc thiên văn.
Đài thiên văn ở Chichén Itzá là đài thiên văn
số Một do người Maya xây dựng nên cũng là đài
thiên văn cổ nhất. Đỉnh chóp của đài thiên văn
này cao trội hẳn lên trên các ngọn cây trong
rừng rậm, bên trong có một cầu thang tròn lên

tận đỉnh chóp của đài quan sát. Trong đỉnh chóp
có các cửa sổ để quan trắc các tinh tú. Bên
ngoài vách đá của tháp có trang trí hình khắc


thần mưa, còn có cả hình khắc phù điêu hình
người vươn cánh tay bay vào Vũ trụ. Tất cả cái
đó làm các nhà khảo hổ học và khoa học có
nhiều suy nghĩ và giả thiết.
Cửa sổ đài thiên văn Chichén Itzá của họ
không phải hướng về những vì sao sáng
nhất mà họ hướng về nơi màn đêm trầm lặng
bên ngoài dải Ngân Hà. Còn lịch pháp của họ
thì có thể duy trì được đến 400 triệu năm sau, nó
được dùng để làm gì? Ngoài ra họ tiếp thu từ
đâu mà tính ra được năm Mặt trời và năm sao
Kim với độ chính xác chỉ sai ở những con số sau
dấu phảy?
Rất hiển nhiên, tất cả những kiến thức đó đã
vượt ra ngoài nhu cầu thực tế của người Maya
đang sống trong thời kỳ xã hội nông nghiệp và
khiến cho các nhà khảo cổ chưa thể giải thích
được.
Đã nằm ngoài nhu cầu của họ thì chứng tỏ
những kiến thức đó không phải do người Maya
sáng tạo ra. Vậy ai đã truyền cho người Maya
những kiến thức đó? Trong thời đại mà tất cả


mọi dân tộc trên Trái đất đều đang sống trong

mông muội, ai đã nắm được những kiến thức tiên
tiến như vậy?
H.T sưu tầm

Angkor, ngôi nhà của thần linh
Xây dựng từ thế kỷ thứ 9 và đạt cực
thịnh dưới triều vua Suryavarman II (1113 1150) vào nửa đầu thế kỷ 12. Đột nhiên mất
tích trong bóng tối rừng già Đông Dương
hơn 5 thế kỷ, đồng nghĩa với sự lãng quên
của con người cho đến khi được tìm ra bởi
những nhà thám hiểm người Pháp vào thế
kỷ 19.
Nhưng liệu một nền kiến trúc kỳ vĩ, huy
hoàng đến thế có thật bị lãng quên? Không!
Người Khmer của nhiều thế kỷ sau vẫn biết có
một kỳ quan di sản của dân tộc mình được rừng
già vĩnh cửu giấu kín. Rừng già và bóng tối nhận
lãnh sứ mạng che giấu chứ không phải Angkor bị
mất tích. Đây là một luận điểm của Michael
Freeman, một nhà nghiên cứu người Mỹ.


Angkor giờ đây đã phơi mình giữa ánh sáng
của nền văn minh thế kỷ 21. Nó vẫn im lặng ra
câu đố với nhân loại: Đá núi lấy từ đâu? Vận
chuyển, xây dựng thế nào khi chưa có nền
công nghệ hiện đại như hôm nay, tại sao nó
vẫn sừng sững có mặt, vĩ đại và bí ẩn hệt
như những nụ cười kỳ lạ trên những gương
mặt Bayon...

Nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp và tầm thường
của người viết bài này, Angkor sẽ chỉ được ghi
nhận bằng cảm quan du khách. Cái cảm quan
một lần chiêm ngưỡng và chạm tay vào những
phiến đá đã nghìn năm tuổi. Còn thấy những nụ
cười, gương mặt băng qua bóng tối thời gian, nó
đủ khơi gợi trí tưởng tượng về sự sống và cái
chết, về khoảnh khắc vĩnh cửu...
Dưới bóng cây thần thánh
Khi được tìm ra sau năm thế kỷ, những cây cổ
thụ nghìn tuổi đã toả những chiếc rễ khổng lồ
chụp xuống những mái đền đá tảng từ lâu, sức
mạnh mềm mại mà kinh hoàng của nó chẻ tường


đá thành khe nứt, làm xiêu vẹo cả đền đài tưởng
chừng thời gian chỉ có thể bào mòn mà thôi.
Những cây cổ thụ, những chiếc rễ kỳ dị ấy đã
nổi tiếng khắp thế giới ngay từ những bức ảnh
chụp đầu tiên được công bố. Trong ánh nắng
chiều xiên khoai, những chiếc rễ toả sáng như có
hào quang, lấp lánh ánh bạc kim nhũ – một vẻ
đẹp làm kinh ngạc du khách - Những “cổ thụ
thần thánh” sáng lên trong vẻ thâm u hoang tàn
của đền đài Ta Phrom ở quần thể Angkor. Một
trong những ấn tượng kỳ bí và hùng vĩ biểu tượng
sức mạnh thiên nhiên với mọi du khách khi chiêm
ngưỡng.
Nụ cười trong bóng tối
Khó có thể đếm được bao nhiêu phù điêu

chạm khắc hình tượng Apsara ở toàn bộ Angkor.
Nghệ thuật điêu khắc ở đây đã đạt đến đỉnh
điểm. Những nụ cười Bayon cũng đã nổi tiếng
khắp thế giới. Những nét mũi, đường môi uốn
mềm mại trên đá tảng. Nụ cười viên mãn hay
hoan lạc, bí ẩn, khó hiểu như một thách đố tâm


linh của thần thánh đối với con người. Trong đám
rễ cây đã có nghìn năm tuổi, từng chôn vùi, trói
chặt, giam giữ những tượng đá đứng đấy cũng
đã nghìn năm, thỉnh thoảng lộ ra một gương mặt,
một nụ cười sống động đến rợn người. Nụ cười
ấy thách thức bóng tối nhiều thế kỷ cho đến ngày
lộ ra ánh sáng như hôm nay – trong những bức
ảnh hiếm thấy của nhà nhiếp ảnh Trần Việt Đức
– anh vừa tìm ra trong chuyến đi này...
Vẻ đẹp hoang tàn...
Quần thể Angkor đang được Unesco trùng tu.
Thiên nhiên, sự quên lãng đã tàn phá nó khá
nặng nề. Nhưng trước những mái đền đã sụp đổ,
những đống đá chồng chất phủ rêu xanh, người
chiêm ngưỡng không khỏi ngậm ngùi... Bao
nhiêu triều đại huy hoàng, bao nhiêu bước chân
vua chúa, mỹ nữ từng đi qua đây... Nay chỉ còn
chơ vơ sự hoang phế, tĩnh mịch. Mỗi du khách
lặng lẽ len lỏi qua từng ô cửa đá, hành cung thăm
thẳm bóng tối với sổ tay hay máy ảnh trong tay –



mỗi người đều tưởng như một nhà khảo cổ, lần
mò, đào bới tìm kiếm dấu vết thần thánh lẫn con
người quá khứ. Cái cảm giác khó tìm ở đâu
ngoài Angkor kỳ vĩ.
Đỗ Trung Quân
Theo Sài Gòn tiếp thị

Ẩn ngữ nghệ thuật thời tiền sử
Tháng 12/1994, Jean-Marie Chauvet và
hai người bạn khám phá hệ hang động vùng
Ardèche nước Pháp. Thật may mắn, họ đã
tìm thấy các bức bích họa sinh động về
ngựa, sư tử, bò tót, tê giác cũng như voi mamút. Một số hình ảnh được vẽ, số khác
được “chạm” vào vách hang.
Khám phá của Chauvet là một trong những
khám phá khảo cổ vĩ đại nhất thế kỷ XX.
Nhưng giống như các khám phá khác, trong
khi giải đáp được nhiều vấn đề, nó cũng đặt
ra nhiều câu hỏi mới.


×