Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Chính sách tôn giáo của đảng cộng sản việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.9 KB, 37 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tiến lên quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Có được sự phát triển đó là nhờ công cuộc đổi mới mà đảng ta khởi
xướng và tiến hành hơn 20 năm qua kể từ sau đại hội VI. Tuy nhiên trong những
năm qua đất nước ta đã trải qua rất nhiều khó khăn, một loạt những vấn đè kinh
tế, chính trị, xã hội cần được giải quyết. Một trong những vấn đề đó chính là tôn
giáo.
Nước ta, có nhiều tôn giáo với hàng chục triệu đồng bào theo tín ngưỡng
khác nhau. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
Đảng và nhà nước ta thực hiện chủ trương nhất quán chính sách tôn giáo trong
tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín nguưỡng tôn giáo của nhân dân trong
những năm qua. Tuy nhiên trong những năm trước đây việc thực hiện chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước còn gặp nhiều khuyết điểm, nóng vội chủ quan,
muốn giải quyết vấn đề tôn giáo một cách nhanh chóng. Vì lẽ đó, có nơi có lúc
chúng ta chưa giải quyết tốt vấn đè tôn giáo, vi phạm chính sách tự do tín
ngưỡng tôn giáo, đã phần nào làm giảm tự do tín ngưỡng của nhân dân có tín
ngưỡng đối với Đảng, Nhà nước, đôi khi họ còn nghi ngờ con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng ta.
Trong điều kiện chính trị xã hội hội hiện nay vẫn còn điều kiện cho tôn
giáo tồn tại và phát triển, tôn giáo vẫn ngự trị trong cuộc sống tinh thần của một
bộ phận nhân dân lao động, sinh hoạt tôn giáo và niềm tin tôn giáo là một nhu
cầu không thể thiếu được. Chính vì vậy mà Đảng nhà nước ta phải có những
chính sách phù hợp đối với tôn giáo.
Tuy nhiên, trong hoạt động tôn giáo của một số tín đồ chức sắc ở một số
nơi còn hoạt động chưa theo đúng pháp luật, một số người còn lợi dụng tôn giáo
để hành nghề mê tín. Vẫn còn tình trạng truyền đạo trái phép và lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo tiến hành các hoạt động gây hại đến lợi ích quốc gia dân tộc
1



làm trái với mục đích của tôn giáo. Vì vậy việc tìm hiểu chính sách tôn giáo của
đảng là rất cần thiết để thấy được tính đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong
việc giải quyết tín ngưỡng tôn giáo.
Vì những lí do trên tôi đã chon đề tài “Chính sách tôn giáo của Đảng
cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài tiểu luận kết thúc môn
chuyên đề CNXHKH.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Vấn đề tôn giáo là một đề tài rộng và được nhiều tác giả nghiên cứu. Với
tính chất là một tiểu luận, trong quá trình làm bài Em không thể trình bày một
cách đầy đủ, trọn vẹn tất cả nội dung của vấn đề mà chỉ xin mạnh dạn trình bày
tập trung về các chính sách tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
3 . Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích: Tôn giáo là một vấn đề hết sức nhạy cảm, và phức tạp, chính vì
vậy mà các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đề này để chốn phá Đảng và nhà
nước ta. Hơn nữa tôn giáo ngày càng phát triển và trở thành niềm tin đối với một
bộ phận nhân dân lao động. Vì vậy, Đảng và Nhà Nước ta phải có những chính
sách phù hợp để giải quyết vấn đề tôn giáo một cách hợp lí, ngăn trặn được
những âm mưu xâm lược của kè thù.
Nhiệm vụ: Nêu lên được nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo.
Chỉ ra một số quan điểm, chính sách và giải pháp nhằm giải quyết tốt vấn
đề tôn giáo một cách triệt để trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương chính sách nghị
quyết của Đảng và Nhà nước ta.
Cùng với phương pháp trên, tiểu luận còn sử dụng phương pháp nghiên
cứu tài liệu, phương pháp so sánh, thu thập tài liệu...


2


5. Kết cấu của đề tài.
Tiểu luận bao gồm: phần mở đầu; kết luận, danh mục ghi tài liệu tham
khảo; phần phụ lục và phần nội dung gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận về tôn giáo.
Chương II: Thực trạng chính sách tôn giáo của Đảng ta hiện nay.
Chương III: Một số quan điểm và giải pháp của Đảng nhằn thực hiện tốt
chính sách tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.

3


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Nguồn gốc, tính chất, chức năng của tôn giáo.
1.1.1. Nguồn gốc:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, nó ra đời từ rất sớm trong lịch sử nhân
loại và tồn tại phổ biến gần hết trong các cộng đồng người từ trong lịch sử hàng
ngàn năm qua. Nói đến tôn giáo, nói đến hình thái phát triển đầy đủ của nó, bao
giờ cũng bao gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện quan điểm về các đấng thiêng liêng
cùng theo đó là các tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng
với những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng riêng của nó.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tôn giáo còn tồn tại và có
những biến cố nhất định. Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài
người, tôn giáo ra đời dựa trên các nguồn gốc sau:
Thứ nhất là nguồn gốc kinh tế xã hội của tôn giáo: Trong xã hội nguyên
thủy do trình độ của lực lượng sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối
và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã gán cho tự nhiên

những sức mạnh quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó. Đó là
hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo. Khi xã hội xuất hiện, giai cấp đối kháng
con người cảm thấy bất lực trước sức mạnh của thế lực nào đó trong xã hội.
Không giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức bóc lột, tội
ác con người lại ảo tưởng về thế giới bên kia. Như vậy sự yếu kém của trình độ
phát triển lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất
vọng trước những áp bức bất công xã hội là nguồn gốc xâu xa của tôn giáo.
Thứ hai, bắt nguồn từ nguồn gốc nhận thức của tôn giáo: Sự lúng túng,
nảy sinh từ tình trạng hạn chế trong trình độ nhận thức của con người, đã dẫn
đến sự thừa nhận một thế giới bên kia. Cũng bằng cách hoàn toàn giống như vậy
sự nhân cách hóa các lực lượng tự nhiên làm nảy sinh các vị thần đầu tiên. Ở
những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội
và bản thân mình còn giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ khám phá những điều con
4


người chưa biết song khoảng cách giữa biết và chưa biết vẫn còn tồn tại. Điều gì
mà khoa học chưa giải thích được điều đó dễ bị tôn giáo thay thế. Sự xuất hiện
của tôn giáo còn gắn với đặc điểm nhận thức của con người. Con người càng
nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan khái quát hóa thành các
phạm trù, khái niệm, quy luật. Nhưng càng khái quát hóa, trừu tượng hóa thì các
sự vật hiện tượng được con người nhận thức có khả năng xa dời hiện thực và
phản ánh sai hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hóa cường điệu hóa của chủ
thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ trở thành
siêu nhiên thần thánh.
Thứ ba, bắt nguồn từ nguồn gốc tâm lý: Các nhà duy vật cổ đại thường
đua ra luận điểm “ sự sợ hãi sinh ra thần linh”. V.I.Lênin tán thành và phân tích
thêm: sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản…., sự phá sản bất ngờ, đột ngột,
ngẫu nhiên làm họ bị diệt vong….dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn
gốc xâu xa của tôn giáo hiện đại. Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự

nhiên và xã hội, những tình cảm như sự biết ơn lòng kính trọng, tình yêu quan
hệ của con người với tự nhiên của con người với xã hội cũng được thể hiện qua
tín ngưỡng tôn giáo.Tín ngưỡng tôn giáo đã dáp ứng nhu cầu tinh thần cua một
bộ phận nhân dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, an ủi, xoa
dịu nỗi đau lúc sa cơ lỡ vận. Vì thế tôn giáo chỉ là hạnh phúc hư ảo nhưng nhiều
người vẫn tin vẫn bám víu. C.Mác nói, tôn giáo là trái tim của thế giới khong
trái tim, cũng như nó là tinh thần của trạng thái xã hội không có tinh thần.
1.1.2. Những tính chất cơ bản của tôn giáo.
• Tính chất lịch sử:
Khi nghiên lịch sử ra đời của tôn giáo chúng ta đã thấy tôn giáo ra đời
trong điều kiện xã hội nhất định. Hay nói cách khác, lúc đầu tôn giáo chưa có
sẵn trong xã hội loài người. Trong quá trình hoạt động xã hội lao đọng sản xuất,
tôn giáo được con người tạo ra để thỏa mãn nhu cầu cấp thiết của xã hội lúc đó.
Quá trình phát triển của xã hội loài người, song song với nó là sự phát triển của
tôn giáo. Tôn giáo ra đời ở điều kiện xã hội nhận thức và tâm lí của con người
5


cho phép, đến khi điều kiện xã hội, nhận thức và tâm lí của con người không cần
đến nó thì tôn giáo cũng mất đi.
• Tính chất quần chúng:
Lúc đầu tôn giáo ra đời để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân lao động,
nó đem lại cho họ niềm hi vọng,(mặc dù là hư ảo) vào con đường giải phóng
khỏi sự đe dọa của tự nhiên, và ách áp bức bóc lột của giai cấp thống trị. Tôn
giáo đem lại cho họ niềm tin vào cuộc sống và trở thành cuộc sống tinh thần
không thể thiếu được. Vì lẽ đó, tôn giáo phát triển nhanh chóng rộng khắp, và ăn
sâu vào tình cảm của quần chúng nhân dân lao động; nó trở thành nguồn sống
nếp sống của con người. Nó góp phần hình thành nhân cách thế giới quan dụy
tâm của con người, trở thành chân lí của đạo đức xã hội và tôn giáo từng bước là
một bộ phận tác động đến việc hình thành văn hóa của dân tộc. Trên thế giới

hiện nay, tôn giáo vẫn ảnh hưởng đến đông đảo quần chúng lao động. Ví dụ: Ba
Lan là một nước có nền kinh tế phát triển nhưng nhân dân vẫn giữ niềm tin tôn
giáo bên cạnh việc học tập nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin với thế giới quan
duy vật. Tôn giáo vẫn ăn sâu vào họ và không thể từ bỏ.
Ở nước ta Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến chính sách tín ngưỡng tôn
giáo, Đảng cũng giáo dục đào tạo cán bộ trên cơ sở lập trường Mác- Xít và thế
giới quan duy vật nhất là thế hệ trẻ được giáo dục đào tạo trong nhà trường chu
đáo. Tuy vậy, ảnh hưởng của tôn giáo không những không giảm đi mà đến nay
có chiều hướng phát triển thêm.
Qua đó ta thấy tôn giáo có tính chất quần chúng sâu sắc bám chặt vào
đời sống của nhân dân lao động. Trong việc đưa ra những chính sách tôn giáo
thì Đảng cần hiểu rõ và quán triệt sâu sắc tính quần chúng của tôn giáo, nếu
không chúng ta dễ mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí, nếu giải quyết nhanh
vấn đề tôn giáo dễ vi phạm chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và
Nhà nước .
• Tính chính trị của tôn giáo.

6


Buổi đầu khi ra đời tôn giáo có giá trị tích cực thực sự đem lại cho con
người niềm tin vào cuộc sống. Từ khi ra đời xã hôi phân chia thành giai cấp,
giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị biến tôn giáo thành
công cụ áp bức tinh thần đối với quần chúng nhân dân lao động. Giai cấp bóc lột
kết hợp chặt chẽ thần quyền với thế quyền để củng cố và duy trì địa vị thống trị
của mình.
Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, việc sử dụng tôn giáo vào mục đích chính trị
ngày càng mạnh mẽ với những âm mưu và thủ đoạn nguy hiểm,”…chủ nghĩa
Mác bao giờ cũng coi tôn giáo và giáo hội hiện đại, tất cả các tổ chức tôn giáo
đều là những cơ quan của các thế lực phản động tư sản, dùng để bảo vệ chế độ

bóc lột và đầu độc giai cấp công nhân” (1). Vì vậy việc đưa ra chính sách tôn
giáo cũng phải dựa vào tính chính trị của nó. Nếu mất cảnh giác thì sẽ bị bọn
phản động sử dụng tôn giáo để chống phá Đảng ta.
Trong giai đoạn hiện nay, muốn giải quyết tốt vấn đề tôn giáo bắt buộc
phải nghiên cứu nguồn gốc và tính chất của tôn giáo, trên cơ sở đó chúng ta sẽ
đưa ra những chính sách phù hợp.
• Tính chất độc lập với khoa học.
Tôn giáo phản ánh thế giới hiện thực vào đầu óc con người, giải thích một
cách duy tâm thần bí những thực tại xã hội mà con người đang gặp phải. Vì vậy,
tôn giáo mang tính chất duy tâm đối lập với khoa học. Trong lịch sử tôn giáo đã
nhiều lần sử dụng quyền lực của mình để đàn áp các nhà khoa học; phủ nhận
những thành tựu của khoa học để phát triển tôn giáo đồng thời vẫn tìm cách giải
thích những sai lệch của khoa học gieo vào đầu con người những định mệnh
không thể cưỡng lại …Tính chất độc lập của tôn giáo đã kìm hãm sự phát triển
của tiến bộ xã hội.1

1

Lênin : TP Mác- Angghen – Chủ nghĩa Mác, Nxb,Hà Nội, 1958, tr283.

7


1.1.3. Chức năng của tôn giáo
1.1.3.1. Chức năng đền bù hư ảo.
Xã hội loài người từ khi xuất hiện đến ngày nay lúc nào cũng mơ ước có
cuộc sống ấm no tuy nhiên có lúc họ cũng chưa biết giấc mơ đó thành hiện thực.
Trong xã hội nguyên thủy con người luôn phụ thuộc vào tự nhiên,đến khi xã hôi
phân chia giai cấp con người luôn bị giai cấp thống trị áp bức bóc lột. Và thực tế
xã hội không làm thỏa mãn nmhu cầu của họ lên con người gửi niềm tin hi vọng

vào phật chua thánh hi vọng tìm được cuộc sống hạnh phúc ở thế giới bên kia.
Hơn nũa ngoài cuộc sống vật chất con người còn có cuộc sống tinh thần đó là
niềm tin vào cuộc sống. Trong xã hội có giai cấp đã làm con người mất niềm tin
vào cuộc sống cho lên họ tìm đến với tôn giáo và tôn giáo đã giúp họ vượt qua
khó khăn.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, cuộc sống của con người đã được
cải thiện nhưng những hiện tượng tiêu cực vẫn kìm hãm con người dẫn đến
niềm tin hư ảo cho nên họ luôn cầu sự may mắn từ các lực lượng siêu nhiên.
1.1.3.2.Chức năng điều chỉnh của tôn giáo
Tạo ra một hệ thống chuẩn mực và giá trị của đạo đức và luân lí. Tôn giáo
nhấn mạnh vai trò của cái siêu nhiên như một giá trị chuẩn mực cao nhất. Những
chuẩn mực tôn giáo không chỉ tiến hành trong giáo lễ mà còn điều chỉnh cả
hành vi xã hội con người thái độ đối với gia đình với cuộc sống hằng ngày.
Đạo phật ở Việt Nam đã ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức hành vi và nếp
sống của nhân dân như “ở hiền gặp lành”, “Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” là
đạo đức của con gái trong thời kì phong kiến.
1.2. Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về giải quyết vấn đề
tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác- Lênin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản
ánh một cách hoang đường hư ảo hiện thực khách quan. Nhưng cũng thừa nhận
vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội đồng thời tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân. Chủ nghĩa Mác-Lênin đưa ra quan điểm như sau:
8


Thứ nhất: Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn
liền với cuộc vận động toàn dân đoàn kết cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội
nên muốn thay đổi ý thức xã hội trước hết phải làm thay đổi tồn tại xã hội. Đấu

tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn giáo là đấu tranh với cái thế giới
đang cần có ảo tưởng chứ không phải trực tiếp tấn công vào thần thánh và
những biểu hiện tín ngưỡng khác. Muốn đẩy lùi ước mơ về thế giới bên kia thì
con người phải từng bước xây dựng một thiên đường trên thế gian. Đó là một
quá trình lâu dài gắn liền với công cuộc cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới
nâng cao đời sống trí tuệ cho con người. Chỉ có thông qua quá trinh đó mới có
khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo. Để khắc phục
những hậu quả đó phải kiên quyết chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, cục bộ,
khai thác và phát huy tiềm năng của đồng bào tín đồ các tôn giáo vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hôi công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ hai: tôn trọng đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Bất kì ai cũng được hoàn toàn tự do theo tôn giáo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Việc vào đạo chuyển đạo đều thực hiện theo khuôn khổ của pháp
luật quy định. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thừa nhận hoặc đảm bảo cho mọi công
dân có hoặc không có tín ngưỡng đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi . Các
tôn giáo được nhà nước thừa nhận đều bình đẳng trước pháp luật, giáo hội các
tôn giáo có nhiệm vụ động viên các tín đồ thực hiện đúng nghĩa vụ của công dân
phấn đấu sông “tốt đời, đẹp đạo” phù hợp với lợi ích của quốc gia dân tộc. Nhà
nước nghiêm cấm những kẻ lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị
đoan và những âm mưu lợi dụng tôn giáo vị những mục đích chính trị phản
động.
Thứ 3: Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Ở mỗi thời kì khác nhau vai trò của tôn giáo lại thể hiện khác nhau: quan
điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống
9


cũng không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy khi thực hiện chính sách nhất quán
nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử cần phải có quan điểm lịch sử cụ
thể khi xem xét.

Có những tôn giáo khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi ích
của người nghèo nhưng rồi tôn giáo ấy lại biến thành công cụ bóc lột của giai
cấp thống trị. Cũng có những giáo sĩ muốn suốt đời đồng hành cùng với nhân
dân nhưng cũng có những người đã hợp tác với kẻ thù bên ngoài đi ngược lại lợi
ích quốc gia. Điều đó khiến cho nhà nước xã hội cần có thái độ cách ứng xử với
từng trường hợp cụ thể.
Thứ 4: Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn
đề tôn giáo.
Mặt chính trị trong vấn đề tôn giáo là sự lợi dụng tôn giáo của chủ nghĩa
đế quốc vào các thế lực phản động trong và ngoài nước chống phá chủ nghĩa xã
hội. Trong các nước chủ nghĩa xã hội một bộ phận quần chúng có tín ngưỡng
vẫn tin vào sự xuyên tạc của bọn phản động. Một số vẫn tham gia vào các tổ
chức chống phá của kẻ thù. Vì vậy, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
thì Đảng và Nhà nước phải giải quyết tốt vấn đề chính trị trong tôn giáo. Muốn
vậy, phải đoàn kết chặt chẽ quần chúng nhân dân lao động không phân biệt quần
chúng có tôn giáo hay không có tôn giáo, đoàn kết các tổ chức tôn giáo, các
chức sắc tôn giáo tạo điều kiện cho họ chuyên lo việc đạo. Kiên quyết trừng trị
những kẻ đội lốt tôn giáo chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Mặt tư tưởng trong vấn đề tôn giáo là phong tục, tập quán và tình cảm của
nhân dân lao động đối với vấn đề tôn giáo.
Nhân dân lao động là lực lượng xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngoài tình
cảm đối với tổ quốc còn tình cảm với tôn giáo. Hơn nữa những phong tục tập
quán tôn giáo ngày nay vẫn được duy trì và tồn tại nó trở thành những hoạt động
văn hóa của nhân dân lao động, giải quyết vấn đề tôn giáo không lên dùng biện
pháp cưỡng chế, bắt buộc, mà phải giáo dục thuyết phục tuyên truyền và giác
ngộ quần chúng nhân dân thấy được bản chất của tôn giáo là hư ảo. Nhà nước
10


cần có kế hoạch cụ thể đầu tư lớn vào giáo dục để không ngừng nâng cao trình

độ văn hóa khoa học kĩ thuật xây dựng nếp sống văn minh với trình độ cao. Trên
cơ sở đó, nhân dân lao động hiểu biết và giải thích được các quy luật của tự
nhiên xã hội. Đồng thời làm cho họ thấy được chính họ là người đem lại cuộc
sống ấm no hạnh phúc cho họ chứ không phải lực lượng siêu nhiên nào đó.
Trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo việc phân biệt được mặt chính trị và tư
tưởng trong tôn giáo là rất cần thiết giúp chúng ta đưa ra được những chính sách
và biện pháp thích hợp.
1.3. Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Mính về tôn giáo.
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin Hồ Chí Minh đã đưa ra
quan điểm.
Một là: Đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc.
Hồ Chí Minh đã từng nói:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
Đoàn kết lương giáo và đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo
và không có tín ngưỡng tôn giáo là một bộ phận của đại đoàn kết dân tộc nói
chung. Ý nghĩa của của đoàn kết được người chỉ rõ lúc nào dân ta đoàn kết
muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Đoàn kết là phải xuất phát từ
mục tiêu độc lập dân tộc và từ lí tưởng cao cả giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội cua người cộng sản. Thực hiện được lí tưởng ấy cần phải huy động sức
mạnh của cả dân tộc trong đó có các đồng bào theo các tôn giáo.
Muốn đoàn kết những người có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng tôn
giáo cần quan tâm đến đời sống tinh thần, vật chất của đồng bào có đạo đồng
thời phải tôn trọng quyện tự do tín ngưỡng của nhân dân. Hơn nũa phải biết kế
thừa những giá trị nhân bản của tôn giáo trân trọng những người sáng lập ra các
tôn giáo.
Quan điểm đoàn kết của người là quan điểm bao trùm lên tất cả vì sự
nghiệp giải phống dân tộc vì lợi ích của nhân dân, muốn đoàn kết với đồng bào
11



có tín ngưỡng tôn giáo trước hết phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng cua họ .
Hai là: Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Trong các bài viết, các văn bản, sắc lệnh…,Người luôn khẳng định tư
tưởng nhất quán, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân. Sự tôn trọng đức tin của đồng bào có đạo và lòng thương
yêu bà con có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau ở Người làm cho nhũng người
không cùng quan điểm cũng phải kính phục. Đồng thời, Người cũng giáo dục
cho mọi người tôn trọng tự do tín ngưỡng đồng thời nghiêm khắc phê phán
những phần tử lợi dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, phê phán những
việc làm chủ trương sai trái của Đảng và Chính phủ ở các giáo chức, tín đồ, cán
bộ đảng viên.
Ba là: Về mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc, đức tin và lòng yêu nước.
Theo quan niệm của Người thì những người có tín ngưỡng tôn giáo và
lòng yêu nước không mâu thuẫn với nhau mà mỗi người vừa là người dân yêu
nước vừa là tín đồ chân chính. Đối với đồng bào Công Giáo Người nói: Người
Công giáo tốt phải là người công dân tốt và yêu nước là nhiệm vụ không thể
tách rời, có hết lòng phục vụ tổ quốc mới làm sáng danh Chúa. Người thường
nhắc đất nước độc lập thì tôn giáo mới có tự do, vì vậy mọi người phải làm cho
nước nhà độc lập trước. Độc lập rồi phải quan tâm đến đời sống nhân dân, vì
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do độc lập cũng chẳng có
nghĩa lí gì.

12


CHƯƠNG 2: Thực trạng chính sách tôn giáo của Đảng ta

trong giai đoạn hiện nay.

2.1 Vài nét về tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay.
2.1.1 Phật giáo.
Phật giáo được hình thành ở Ấn Độ du nhập vào Việt Nam khoảng thế kỉ I
sau công nguyên trung tâm phật giáo đầu tiên được hình thành ở Luy Lâu (Bắc
Ninh). Phật giáo vào Việt Nam đi theo hai con đường với thời gian khác nhau từ
Ấn Độ sang và từ Trung Quốc xuống. Đạo phật vào Việt Nam sớm nhất so với
Thiên chúa Giáo và Đạo Tin Lành. Nó tồn tại và phát triển cùng với sự thăng
trầm của lịch sử. Từ thế kỉ X- XV, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và trở thành
quốc giáo. Phật giáo cùng chính quyền nhà nước phong kiến trị vì đất nước.
Trong thời gian lâu dài đạo phật đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của người dân.
Chính vì thế, Phật giáo đã trở thành đạo đức, triết học có ảnh hưởng sâu sắc đến
việc hình thành phong tục tập quán nếp sống của nhân dân và là một thành tố
hình thành nên văn hóa dân tộc.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta đa số
tín đồ phật giáo có tinh thần dân tộc ủng hộ Đảng cộng sản Việt Nam đánh đuổi
đế quốc dành độc lập dân tộc.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, một số tổ chức Phật giáo phản
động tìm mọi cách lôi kéo tăng ni, phật tử vào những hoạt động chống phá thành
quả mà cách mạng đã đạt được. Bọn di tán nước ngoài cấu kết với chủ nghĩa đế
quốc âm mưu lơi dụng những thiếu sót sai lầm của Đảng và Nhà nước để tuyên
truyền kích động lôi kéo nhân dân có tín ngưỡng vào các hoạt động chống lại
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.Như vậy, đạo phật nói chung đều
có tinh thần dân tộc tham gia bảo vệ dân tộc chống lại ách áp bức ngoai xâm.
Hiện nay phật giáo ở Việt nam gồm : Gần 10 triệu tín đồ (những người
quy y Tam Bảo), có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó
tập trung đông nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương,

13



Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà, TP Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ...
2.1.2 Thiên chúa giáo.
Thiên chúa giáo ra đời vào thế kỉ thứ I ở phía đông của đế chế La Mã.
Qúa trình du nhập của nó vào Việt Nam gắn liền với âm mưu xâm lược của chủ
nghĩa thực dân. Lúc đầu là công cụ dọn đường cho ý đồ xâm lược Đông Dương
của thực dân Pháp. Thời kì thực dân Pháp xâm lược giáo hội thiên chúa đã cấm
giáo dân tham gia kháng chiến chống cộng sản. Thời kì kháng chiến chống Mĩ,
Thiên chúa giáo thực sự trở thành công cụ cho việc bóc lột của chúng. Chúng
đầu tư không tiếc tiền để xây dựng nhà thờ, đài phát thanh, trường đại học thiên
chúa, các hình thức giáo hội dựa vào tổ chức từ thiện để mị dân lôi kéo quần
chúng nhân dân đi theo đạo thiên chúa. Sau khi miền Nam giải phóng trước khi
rút khỏi Miền Nam chúng đã chuẩn bị kế hoạch hậu chiến, cài các phần tử phản
động vào các giáo hội nhà thờ, nhằm tuyên truyền kích động quần chúng giáo
dân đấu tranh chống lại chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay ở nước ta Thiên Chúa Giáo có : Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở
50 tỉnh, thành phố, trong đó có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh
Bình, Thái Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kon Tum, Đắk Lắk,
Khánh Hoà, Bình Thuận, Đồng Nai,Tp Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long,
An Giang, thành phố Cần Thơ.
2.1.3 Đạo tin lành
Đạo tin lành được hình thành trong quá trình cải cách tôn giáo ở thế kỉ
XVI. Tin lành được tách ra từ Kito giáo cùng với sự phát triển của giai cấp tư
sản. Đạo Tin lành vào nước ta vào cuối thế kỉ 19. Đạo tin lành ở Việt Nam với
số lượng tín đồ không nhiều, mức hoạt động và phát triển kém hơn so với đạo
phật và đạo thiên chúa.
Thời Mỹ- Ngụy ở miền Nam chúng rất chú ý đến đạo tin lành vì lúc đó
đạo phát triển mạnh ở khu vực Tây Nguyên giáp ranh giữa ta và địch. Sau khi
giải phóng đạo tin lành kết hợp với FULRO chống lại cách mạng. Vì vậy, Đảng
14



cần phải có những chính sách phù hợp không được lơ là mất cảnh giác bởi vì các
thế lực thù địch vẫn có âm mưu lợi dụng.
Hiên nay đạo Tin Lành ở Việt Nam khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các
tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng,
Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Bình Phước... và một số tỉnh phía Bắc.
2.1.4 Đạo cao đài.
Đạo cao đài thành lập ở Việt Nam vào khoảng 1926, trung tâm là tòa
thánh Tây ninh. Đạo cao đài hình thành để phục vụ mục đích chính trị bóc lột
lúc bấy giờ. Đạo Cao đài nhằm tập hợp quần chúng nhân dân lao động chưa theo
tín ngưỡng nào thành một lực lượng giai cấp bóc lọ để áp bức sau đó phục vụ
mục đích xâm lược của thực dân pháp và đế quốc Mỹ.
Lịch sử của đại Cao Đài không dài lắm so với lịch sử của các tôn giáo
khác ở nước ta, nhưng đã có trang lịch sử đen tối bởi sự tham gia của các tổ
chức giáo phái khác và các hoạt dộng chính trị chống phá cách mạng lại Đảng
và Nhà Nước ta. Khi nghiên cứu và giải quyết vấn đề tôn giáo ở khu vực đạo
Cao Đài, chúng ta hết sức chú ý đến những nét đặc trưng và hình thành và lịch
sử hoạt động của nó để đưa ra những biện pháp và chính sách phù hợp.
Hiện nay ở Việt Nam đạo Cao Đài có : Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ
yếu ở các tỉnh Nam Bộ như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh,
Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An
Giang…
2.1.5 Đạo Hòa Hảo.
Đạo Hòa Hảo thành lập ở Việt Nam 1939 tại xã Hòa Hảo, Châu Đốc.
Người sáng lập ra là Huỳnh Phú Sồ. Đạo Hòa Hảo ra đời kế thừa từ giáo lí của
đạo phật, nhưng mang màu sắc mê tín dị đoan. Ngày đầu thành lập, đạo Hòa
Hảo có tư tưởng chống Pháp sau hòa hợp với Pháp. Trong thời kì Ngô Đình
Diệm đã đưa ra chủ trương diệt lực lượng Hòa Hảo. Sau một thời gian dài mới
được hoạt động công khai. Hiện nay ở Việt Nam đạo Hòa Hảo có khoảng : Gần


15


1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: An Giang,
Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long…
2.2. Những yếu tố tác động ảnh hưởng đến tôn giáo.
2.2.1.Điều kiện kinh tế- xã hội.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, với thắng lợi đã đạt được chứng tỏ chính sách của Đảng và Nhà Nước là
đúng đắn. Bên cạnh những thắng lơi đó còn bộc lộ một số hạn chế đã gây ra khó
khăn đời hỏi cần được giải quyết một trong những vấn đề đó là vấn đề tôn giáo
trong cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là nền kinh tế vận hành với nền kinh tế nhiều thành
phần, và nhiều hình thức sở hữu. Chính điều này cũng tạo ra sự phân hóa giàu
nghèo. Và nền kinh tế càng phát triển thì các ông chủ càng cần đến các thế lực
hỗ trợ đó là lực lượng siêu nhiên trong những lúc làm ăn không gặp may mắn.
Các ông chủ rất cần đến sự cứu giúp của thượng đế, thì người làm thuê càng cần
con người không bao giờ cam chịu trước cuộc sống nghèo khổ, họ muốn vượt
lên để có cơm ăn áo mặc. Mà xã hội đòi hỏi rất cao, phải có sự cạnh tranh để họ
vươn lên cho nên những lúc quẫn bách bế tắc thì con đường mưu cầu sự may
mắn đã thôi thúc họ đến với tôn giáo dễ dàng, nhẹ nhàng như một quy luật tất
yếu.
Từ những hiện tượng trên cho chúng ta thấy công cuộc đổi mới đã mở
đường cho sự phát triển của kinh tế nhưng cũng tạo ra những khả năng và điều
kiện phân hóa đội ngũ những người lao động những sự may rủi, thành bại… tạo
ra sự bất bình đằng giũa các thành viên. Vì vậy, những điều kiện khách quan cho
tôn giáo tồn tại là chưa thể mất đi, tín ngưỡng tôn giáo có vai trò rất quan trọng
trong đời sống của nhân dân lao động. Điều đó cho thấy Đảng phải có những
chính sách phù hợp để giải quyết vấn đề tôn giáo mà không đi ngược lại lợi ích

nguyện vọng của nhân dân lao động.

16


2.2.2 Điều kiện chính trị- xã hội.
Trong những năm trước đổi mới Đảng và Nhà nước ta đã có những chính
sách sai lầm dẫn đến sự khủng hoảng làm mất niềm tin của nhân dân với Đảng
và đây chính là điều kiện để cho tôn giáo phát triển và đã trở thành niềm tin để
động viên mọi người vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc sống.
Ở nước ta, chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động trong và ngoài nước đã
không trừ một âm mưu nào để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng lợi dụng
việc tuyên truyền bá đạo Thiên chúa vào các vùng dân tộc thiểu số. Thông qua
các hoạt động từ thiện tôn giáo để thực hiện âm mưu phá hoại công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc ở nước ta. Chúng mưu dò kích động những người có tín
ngưỡng tôn giáo chống lại đường lối chính sách, lôi kéo người di tán làm mất
trật tự an ninh xã hội. Chúng hỗ trợ và chỉ đạo một số phần tử phản động hoặc
một số tổ chức tôn giáo trong nước để tập hợp lực lượng xây dựng tổ chức nhằm
thực hiện “diễn biến hòa bình”. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà
nước không được lơ là mất cảnh giác mà phải có chính sách phù hợp để chống
lại những âm mưu lợi dụng của các thế lực phản động.
2.3 Những chính sách cụ thể của Đảng đối với tôn giáo hiện nay.
Theo nghị định số 26/1999/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày
19/4/1999 rất cụ thể của tôn giáo. Có thẻ nêu lên những chính sách cụ thể sau:
2.3.1. Đối với các tín đồ tôn giáo
Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ
trương chính sách và pháp luật của nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ cúng,
cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo
đức, phục vụ nghi lễ tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
Tín đồ không được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm trái pháp luật,

không được hoạt động mê tín dị đoan.
Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo
theo pháp luật Việt Nam.
17


2.3.2 Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo
Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có quyền: Được thực hiện các chức trách,
chức vụ tôn giáo của mình trong phạm vi trách nhiệm đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền chấp thuận. Được nhà nước xét khen thưởng công lao đóng góp
trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Được hưởng
các quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của công dân.
Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có nghĩa vụ:Thực hiện đúng chức trách,
chức vụ tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm tôn giáo đã được cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền chấp nhận và chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi
hoạt động tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm đó.
Động viên tín đồ chấp hành nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật của nhà
nước.Người mạo danh chức sắc, nhà tu hành tôn giáo bị xử lý hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự.Người đang chấp hành án phạt tù hoặc đang bị
quản chế hành chính không được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo. Việc
phục hồi chức trách, chức vụ tôn giáo khi đã hết hạn hình phạt trên phải do tổ
chức tôn giáo quản lý người đó đề nghị và được cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền chấp thuận.
Việc mở trường đào tạo các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo phải được
phép của thủ tướng chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các trường thực hiện
theo các quy định của Ban Tôn giáo Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các
trường thực hiện các quy chế chính sách, pháp luật của nhà nước theo sự hướng
dẫn, giám sát kiểm tra của các cơ quan chức năng của Nhà nước và Ủy ban nhân
dân sở tại.
Việc phong giáo phẩm, phong chức cho các chức sắc, nhà tu hành tôn

giáo, việc bổ nhiệm, thuyên chuyển những chức sắc phải được sự chấp thuận
của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (tùy theo
giáo phẩm). Đối với các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo được tổ chức, cá nhân ở
nước ngoài phong giáo phẩm, phong chức, bổ nhiệm phải được sự chấp thuận
của Thủ tướng chính phủ.
18


2.3.3 Đối với các tổ chức tôn giáo
Tổ chức tôn giáo có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ
chức phù hợp với pháp luật và được Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt động
thì được pháp luật bảo hộ.
Tổ chức tôn giáo hoạt động trái với tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành
đạo, cơ cấu tổ chức đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thì bị đình chỉ hoạt
động. Các cá nhân chịu trách nhiệm về những vi phạm đó bị xử lý theo pháp
luật.
Chức sắc, nhà tu hành và tổ chứ tôn giáo hoạt động từ thiện theo quy định
và hướng dẫn của Nhà nước và các cơ quan chức năng.
2.3.4 Đối với các hoạt động tôn giáo
Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự đã đăng ký hàng năm và thực hiện
trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép. Những hoạt động tôn
giáo vượt ra khỏi khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc chưa đang ký hàng năm phải
được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Các cuộc tĩnh tâm của linh mục trong giáo phận, của các tu sĩ tập trung từ
nhiều cơ sở, dòng tu của Công giáo, các cuộc bồi linh của mục sư và truyền đạo
của đạo Tin lành, các kỳ an cư của tăng ni đạo Phật và các sinh hoạt tôn giáo
tương tự khác thực hiện theo quy định của cơ quan quản lý Nhà nước cấp tỉnh về
tôn giáo .
Các đại hội, hội nghị cấp toàn quốc hoặc có liên quan đến nhiều tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thì phải được phép của Thủ tướng chính phủ.

Những đại hội, hội nghị tôn giáo ở các cấp địa phương phải được phép của Chủ
tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Việc in, xuất bản các loại kinh sách và các xuất bản giáo phẩm tôn giáo,
việc sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng trong
việc đạo thực hiện theo quy chế của Nhà nước về in, xuất bản, sản xuất kinh
doanh, xuất nhập nhập khẩu văn hóa phẩm, hàng hóa. Cấm in, sản xuất, kinh
19


doanh, lưu hành và tàng trữ sách báo, văn hóa phẩm có nội dung chống lại Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây chia rẽ tôn giáo, chia rẽ dân tộc,
gây mất đoàn kết trong nhân dân.
2.3.5 Đối với nơi thờ tự và tài sản của các tổ chức tôn giáo
Nhà nước bảo hộ nơi thờ tự của tổ chức tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo có
trách nhiệm giữ gìn, tu bổ nơi thờ tự. Nhà đất và các tài sản khác đã được các tổ
chức cá nhân, tôn giáo chuyển giao cho các cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng
hoặc tặng, hiến cho Nhà nước đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ, không làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công
trình thuộc cơ sở thờ tự thì tổ chức thực hiện sau khi thông báo cho Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã sở tại. Việc sửa chữa lớn làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc
công trình tại cơ sở thờ tự, việc khôi phục công trình thờ tự bị hoang phế, bị hủy
hoại do chiến tranh, thiên tai, rủi ro, việc tạo lập cơ sở thờ tự mới, xây dựng các
công trình thờ tự (nhà, tượng, đài, bia, tháp…) phải được phép của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh.
Tổ chức tôn giáo được nguồn tài chính từ sự ủng hộ tự nguyệncủa các cá
nhân, tổ chức, từ những thu nhập hợp pháp khác. Việc tổ chức quyên góp (kể cả
quyên góp vì mục đích xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự) phải được Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh cho phép. Nghiêm cấm việc ép buộc tín đồ đóng góp. Việc
quản lý, sử dụng các nguồi tài chính có được từ các nguồn trên đây thực hiện

theo quy định của pháp luật.
2.3.6 Đối với hoạt động đối ngoại của tôn giáo
Hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo phải tuân thủ pháp
luật và phù hợp với chính sách đối ngoại của của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, vì hòa bình, ổn
định, hợp tác và hữu nghị.

20


Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước mời tổ chức, cá nhân tôn giáo ở
nước ngoài vào Việt Nam phải được sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính
phủ.
Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước tham gia làm thành viên của tổ
chức tôn giáo nước ngoài, tham gia các hoạt động tôn giáo hoặc có liên quan
đến các tôn giáo nước ngoài thực hiện theo quy định của Ban Tôn giáo Chính
phủ.
Tổ chức cá nhân nước ngoài, kể cả tổ chức, cá nhân tôn giáo vào Việt
Nam để hoạt động ở các lĩnh vực không phải là tôn giáo thì không được tổ chức,
điều hành hoặc tham gia tổ chức điều hành các hoạt động truyền bá tôn giáo.Các
tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước muốn nhận viện trợ thuần tuý tôn giáo phải
xin phép Chính phủ.
2.4. Thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện chính sách tôn giáo
của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
2.4.1. Thành tựu đạt được.
Một là, các sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá sôi nổi, da dạng.
Ở khắp mọi miền của đất nước, đặc biệt là tại các thành phố, các trung
tâm tôn giáo lớn như: Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam
Định, Ninh Bình, Tây Ninh, Cần Thơ…các sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá sôi
nổi, da dạng và phong phú; hoạt động của các thiết chế tôn giáo đã có những

đóng góp nhất định trong việc tập hợp và vận động quần chúng theo đạo - một
lực lượng quan trọng trong khối đại đoàn kết dân tộc - tham gia vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước.
Các ngày lễ trọng, các lễ nghi, lễ hội tôn giáo được tổ chức ngày càng
trang nghiêm, quy mô hơn trước và thu hút ngày càng đông đảo tín đồ tham dự.
Nhiều sinh hoạt tôn giáo đã trở thành sinh hoạt văn hoá cộng đồng được đông
đảo tầng lớp nhân dân tham gia với tinh thần phấn khởi, yên tâm và tin tưởng.
Các lễ hội như lễ Phật đản của Phật giáo, lễ Noel của Công giáo và đạo Tin
Lành, lễ kỷ niệm ngày khai đạo của đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo, tháng ăn
21


chay Ramadan của Hồi giáo được tổ chức trọng thể, trang nghiêm và đảm bảo
an ninh trật tự.
Hai là, Các tổ chức tôn giáo được củng cố, tăng cường
Việc phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển và bổ nhiệm các vị chức
sắc, thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo chức sắc tôn giáo được giải quyết
nhanh chóng thuận tiện phù hợp Hiến chương, Điều lệ tôn giáo và quy định của
pháp luật. Năm 2003, ở Việt Nam có khoảng 20 triệu tín đồ tôn giáo.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã qua 5 kỳ đại hội và ngày càng được củng
cố từ trung ương đến địa phương. Cả nước có 9.038.064 người theo đạo Phật,
chiếm 12% dân số. Tăng ni có 33.066 người (Bắc tông 21.606; Nam tông
Khmer: 9.415; Khất sỹ:2.045); Chức sắc cao cấp có: 9.065, gồm 339 vị Hoà
thượng; 5.021 vị Thượng toạ, Đại đức; 130 vị Ni trưởng; 3.575 vị Ni sư.
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã qua 8 kỳ đại hội, số lượng tín đồ Thiên
chúa giáo tiếp tục gia tăng, hiện có 5.803.445 người, chiếm 7,2% dân số cả
nước. Có 3 Tổng giáo phận; 25 địa phận; 2.027 giáo xứ và 6.033 nhà thờ, nhà
nguyện với 14.852 giáo sỹ (Hồng y: 1; Tổng giám mục: 3; Giám mục: 36; Linh
mục: 2.410; Tu sỹ: 10.947).
Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc có 6.370 tín đồ và 12 cơ sở thờ tự

với 3 mục sư, 9 nhà truyền đạo. Tổng liên hội Hội thánh Tin Lành Việt Nam
(miền Nam) có 558.000 tín đồ và 279 cơ sở thờ tự với 205 mục sư và 430 mục
sư nhiệm chức. Riêng Tin Lành ở các tỉnh Tây Nguyên có 263.514 tín đồ với 79
mục sư và mục sư nhiệm chức; 65 nhà truyền đạo và 380 truyền đạo tình
nguyện. Đạo Cao Đài hiện có 2.276.978 tín đồ, 1.284 thánh thất với 7.104 giáo
sỹ (Cửu trùng đài: 6.827; Hiệp thiên đài: 227). Phật giáo Hoà Hảo có 1.232.572
tín đồ, 522 cơ sở thờ tự với 534 giáo sỹ. Hồi giáo hiện có 64.991 tín đồ, 77 cơ sở
thờ tự với 699 giáo sỹ.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, các tôn giáo ở Việt Nam đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong công tác xây dựng, củng cố tổ chức, các giáo
hội ngày càng hoàn thiện, ổn định, thống nhất; tín đồ, giáo sỹ các tôn giáo không
22


ngừng lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, góp
phần xứng đáng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo,
tích cực vận động quần chúng có đạo tham gia cuộc vận động xoá đói, giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, các hoạt động
từ thiện …cùng toàn dân xây dựng cuộc sống mới vì lợi ích của đất nước và dân
tộc.
Ba là, Các cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo được mở rộng.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam có ba Học viện Phật giáo tại ba miền đất
nước: Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh với trên 1.000 tăng ni sinh, hàng
năm có hàng trăm tăng ni sinh tốt nghiệp; 4 lớp cao đẳng Phật học với tổng số
trên 700 tăng ni sinh theo học; 30 trường Trung cấp Phật học với hơn 3.000 tăng
ni sinh; 37 lớp sơ cấp với 2.500 tăng ni sinh và 2.500 chư tăng Khmer theo học
tại các lớp sơ cấp Phật học ở Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang. Hiện đang tập
trung xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam tại huyện Sóc Sơn, Hà Nội và Học
viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Thành phố Cần Thơ. Giáo hội Phật giáo
Việt Nam đã cử trên 120 tăng ni sinh đi du học tại các nước Ấn Độ, Nhật Bản,

Srilanka, Trung Quốc, Pháp, Ôt-xtrây-lia, Mỹ, Đài Loan…
Bốn là: Việc in ấn kinh sách và xuất bản phẩm tôn giáo tăng cả số
lượng và chất lượng.
Riêng năm 2005, Nhà xuất bản Tôn giáo đã cấp phép xuất bản 450 đầu
kinh sách (với hơn 1 triệu bản in) và 60 loại xuất bản phẩm khác, tăng 26% so
với năm 2004. Một loạt các bộ kinh sách Phật giáo quan trọng đã được dịch ra
tiếng Việt, in ấn và phát hành rộng rãi. Tính đến nay, công tác in ấn Đại Tạng
kinh Việt Nam đã hoàn tất, tổng cộng có 39 tập, trên 200.000 trang; đã xuất bản
được 313 đầu sách kinh, luật, luận và sách Phật giáo. Phật giáo Tập văn của Ban
Văn hóa Trung ương Giáo hội ra số 51, mỗi kỳ từ 4.000 đến 10.000 bản với nội
dung phong phú làm cơ sở nghiên cứu của tăng ni, phật tử và độc giả trong và
ngoài nước. Báo Giác Ngộ của Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh
phát hành được 1.640.000 bản, không ngừng cải tiến về nội dung và hình thức.
23


Hiện nay đã chuyển từ bán nguyệt san thành tuần báo, đã ra được 80 số. Tạp chí
Nghiên cứu Phật học đã phát hành được gần 100 số.
Thời gian qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã tổ chức nhiều cuộc
hội thảo khoa học ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần Thơ… có
nội dung gắn Phật giáo và những vấn đề cấp thiết của xã hội Việt Nam hiện nay
như: Phật giáo với văn hóa dân tộc; giáo dục Phật giáo; đạo đức Phật giáo; Phật
giáo hội nhập vào nền văn hóa dân tộc; Phật giáo thời đại mới - Cơ hội và thách
thức; chuyên đề Phật giáo Nam tông Khmer; việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt
để dịch Kinh Phật…
Năm là: Quan hệ quốc tế của các tôn giáo Việt Nam được mở rộng.
Các tôn giáo ở Việt Nam đã và đang mở rộng quan hệ quốc tế nhằm tăng
cường trao đổi thông tin, góp phần hiểu biết lẫn nhau, mở rộng giao lưu vì giáo
lý của các tôn giáo, thể hiện tình đồng đạo của những người cùng chung đức tin
và tinh thần yêu hoà bình, thiện chí hợp tác hữu nghị của nhân dân Việt Nam với

nhân dân các nước trên thế giới vì lợi ích của đất nước và của giáo hội, góp phần
đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo của các thế lực xấu
thiếu thiện chí với Việt Nam; tranh thủ được sự giúp đỡ đào tạo được đội ngũ
tăng tài, giáo sĩ có trình độ cao. Các Giáo hội tôn giáo Việt Nam đã liên kết thân
hữu với các Giáo hội tôn giáo các nước: Lào, Campuchia, Trung Quốc, Mianma,
Sri Lanka, Triều Tiên, Mông Cổ, Ấn Độ, Thái Lan, Nhật Bản, Đài Loan,
Canađa, Pháp, Đức, Bỉ… Đã đón tiếp, làm việc với hàng trăm phái đoàn tôn
giáo đến thăm hữu nghị Việt Nam để trao đổi, làm việc; tổ chức đi thăm hữu
nghị một số nước trong khu vực Đông Nam Á, Tây Âu và châu Âu; đã tham dự
hàng chục hội nghị, hội thảo quốc tế về chuyên đề tôn giáo đạt kết quả tốt, góp
phần tạo uy tín cho các Giáo hội tôn giáo Việt Nam trong nước và trên thế giới.
Từ năm 1993 đến hết năm 2002, đã có 3.272 trường hợp giáo sỹ xuất cảnh
(Công giáo 1.600 trường hợp, Phật giáo 1.303 trường hợp, Hồi giáo 228 trường
hợp, Tin Lành 36 trường hợp, Cao Đài 15 trường hợp) đi học, tham dự hội nghị,
hành hương, chữa bệnh, thăm thân, du lịch. Riêng năm 2005 đã có 159 cá nhân
24


chức sắc, tu sỹ của các tôn giáo Việt Nam được đi học tập, dự hội nghị, hội thảo
và tham gia các hoạt động tôn giáo ở nước ngoài. Việt Nam đã đón ba đoàn tôn
giáo nước ngoài rất quan trọng như: đoàn do Thiền sư Thích Nhất Hạnh dẫn đầu
cùng với 200 thiền sinh từ 30 quốc tịch khác nhau về thăm Việt Nam hơn 3
tháng; đoàn Uỷ ban tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ do Đại sứ lưu động J.
Handford dẫn đầu thăm Việt Nam từ ngày 04 đến 09-3- 2005 và đoàn của Hồng
y C. Sepe - Bộ trưởng Bộ truyền giáo Vatican; đón tiếp và giúp đỡ Đoàn Viện
Can dự toàn cầu của Mỹ tìm hiểu về tình hình sinh hoạt đạo Tin Lành ở các tỉnh
Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.
Các hoạt động quốc tế ngày càng được mở rộng và phát triển đã góp phần
làm cho các nước hiểu rõ hơn về chính sách đối ngoại và phát triển kinh tế cũng
như pháp luật của Việt Nam về tôn giáo, tín ngưỡng, thúc đẩy Bộ Ngoại giao

Hoa Kỳ thông qua quyết định đưa Việt Nam ra khỏi danh sách “các nước đặc
biệt quan tâm” về tôn giáo (CPC); tăng cường công tác thông tin tôn giáo và
thông tin đối ngoại góp phần tuyên truyền những thành tựu đổi mới ở trong
nước nhằm quy tụ đồng bào, giáo dân ở nước ngoài hướng về xây dựng Tổ
quốc; tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của các Tổ chức tôn giáo phi chính phủ
và các Tổ chức quốc tế.
Sáu là: Việc nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới cơ sở thờ tự của các tôn
giáo được chính quyền địa phương các cấp tạo điều kiện giải quyết nhanh
chóng.
Các thủ tục theo quy định của pháp luật góp phần làm tôn nghiêm các cơ
sở thờ tự tại địa phương và tạo thêm mỹ quan cho xã hội. Thời gian qua, các cơ
sở thờ tự trên cả nước đã được trùng tu, tôn tạo mới ngày càng nhiều nhờ sự
đóng gó tự được nâng cấp sửa chữa, tạo điều kiện cho các chức sắc, và toàn thể
đồng bào công giáo hoạt động tôn giáo.
Bảy là, hoạt động từ thiện nhân đạo của các tổ chức, chức sắc, nhà tu
hành tôn giáo rất đáng ghi nhận.

25


×