Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.29 KB, 24 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Việt Nam đang trong thời kỳ tích cực, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và phát triển đất nước theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã đặt ra vấn đề nghiên cứu là cần phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, thúc đẩy phát triển KT-XH, tạo cơ sở vật chất-kỹ thuật cho ANKT,
là tiền đề quan trọng đầu tiên để đảm bảo ANKT, và ngược lại, môi trường
chính trị ổn định, ANKT được giữ vững là một trong những yếu tố quan
trọng tạo môi trường thu hút đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Hai mặt này có mối quan hệ chặt chẽ tác động
lẫn nhau, trong quá trình phát triển cần phải có giải pháp giải quyết tốt cả
hai mặt này.
Vùng KTTĐPN gồm: TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình
Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An và Tiền Giang. Đây là vùng kinh
tế trọng điểm lớn nhất, là trung tâm công nghiệp, thương mại, tài chính
hàng đầu của cả nước. GDP tính theo đầu người của vùng KTTĐPN cao
gấp gần 2,2 lần mức bình quân cả nước; hơn 2,5 lần so với đồng bằng sông
Hồng. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam còn là vùng có hạ tầng tốt nhất,
có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất nước. Đây là những chỉ số xác định trình độ và
lợi thế phát triển quan trọng bậc nhất của vùng này so với cả nước.
Trong những năm qua, vùng KTTĐPN là nơi dẫn đầu cả nước về thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
đây ngày càng có hiệu quả, là một trong những động lực kích thích quá
trình phát triển KT-XH của vùng nói riêng và cả nước nói chung. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là một trong những nhân tố góp phần tạo ra cơ sở vật
chất cho sự đảm bảo ANKT. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bên
cạnh những yếu tố tích cực cũng đã và đang xuất hiện những vấn đề phức
tạp tác động xấu đến tình hình ANKT như: làm cản trở sự thu hút đầu tư



2
hoặc lợi dụng đầu tư để tiến hành các hoạt động can thiệp, phá hoại nền
kinh tế; vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái; vấn đề các đối tác nước ngoài
đưa công nghệ, thiết bị lạc hậu vào đầu tư; vấn đề quản lý người nước
ngoài; tình trạng chảy máu chất xám; làm lộ bí mật nhà nước; vấn đề đình
công, biểu tình trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… Đây chính
là tính hai mặt của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong mối quan hệ với
ANKT. Vấn đề đặt ra là cần phải có giải pháp giải quyết có hiệu quả, đúng
định hướng mối quan hệ giữa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với đảm
bảo ANKT trong quá trình phát triển. Do đó, nhằm để phát huy mặt tích cực
và hạn chế mặt tiêu cực, góp phần quan trọng cho việc thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài một cách tích cực, có hiệu quả và phục vụ yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm nảy sinh từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, môi trường ANKT đảm bảo cho các
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp
nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của vùng. Nghiên cứu
luận án “Mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam” là vấn đề cần thiết cả về mặt lý luận và
thực tiễn, nhất là trong thời điểm Việt Nam đang chú trọng việc thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài và đảm bảo ANKT trong quá trình phát triển.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án
ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài là một vấn đề quan trọng đã
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như:
Chủ biên Phùng Thiên Tân (nhiều tác giả), An ninh kinh tế và nền
kinh tế thị trường Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội, 2011.
TS Nguyễn Văn Ngừng, Tác động của kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế đối với quốc phòng, an ninh ở Việt Nam, NXB CTQG, Hà
Nội, 2009.
ThS Phạm Văn Thừa, Những tác động của đầu tư trực tiếp nước

ngoài và vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh kinh tế ở Việt Nam, Đề tài
khoa học cấp cơ sở, năm 2012.


3
ThS. Phan Quang Thịnh, Một số hoạt động vi phạm pháp luật Việt
Nam của phía chủ đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại TPHCM – Thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp cơ
sở, năm 2000.
Nguyễn Đức Bình - Nguyễn Thường Lạng, Những vấn đề kinh tế-xã
hội nảy sinh trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài - Kinh nghiệm của
Trung Quốc và thực tiễn của Việt Nam, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội,
2006.
GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm kinh tế thời mở cửa, NXB.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2003.
Ya, Boqiong, Chen, Jianguo, An empirical model of the
environmental effect of FDI in host countries: Analysis based on Chinese
panel data, IAMO Forum 2011, No. 3.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu tác giả nhận thấy, chưa có một nhà khoa
học nào đề cập tương đối, khái quát một cách cụ thể về “Mối quan hệ giữa
ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam” nên đây chính là vấn đề cần phải làm rõ cả về mặt lý luận và thức
tiễn. Dưới góc độ kinh tế chính trị đây là hướng và đối tượng nghiên cứu
mới, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố mà nghiên
cứu sinh được biết cho đến nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu chung:
Giải quyết mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài
nhằm phục vụ cho sự phát triển KT - XH.

Mục tiêu cụ thể:
Luận án đi sâu nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa
ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài; phân tích thực trạng mối quan hệ
giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐPN; đưa ra giải
pháp đảm bảo ANKT gắn với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo môi


4
trường thu hút đầu tư thuận lợi, môi trường an ninh kinh tế đảm bảo cho các
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN thu hút ngày càng mạnh mẽ hơn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào việc phát triển KT - XH ở vùng KTTĐPN.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
- Phân tích làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa ANKT với đầu trực
tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐPN.
- Đề xuất giải pháp đảm bảo ANKT gắn với thu hút đầu tư nước ngoài,
nhằm tạo môi trường an ninh chính trị ổn định, môi trường kinh doanh
thuận lợi, thu hút ngày càng mạnh mẽ hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
việc tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững ở vùng KTTĐPN.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu nhiệm vụ trên, đối tượng nghiên cứu của luận
án là mối quan hệ giữa ANKT với đầu trực tiếp nước ngoài ở vùng
KTTĐPN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: địa bàn vùng KTTĐPN, có tập trung vào một số vụ
án và vụ việc mang tính chất điển hình ở những khu vực trọng điểm của
vùng như: TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương để minh họa cho luận án.

- Về thời gian: luận án chỉ tập trung nghiên cứu từ năm 2009 - 2014.
- Về nội dung: luận án chỉ tập trung vào những vấn đề bản chất nhất
của mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng
KTTĐPN.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận của luận án
Trong quá trình nghiên cứu luận án, tác giả dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng


5
sản Việt Nam về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh làm
định hướng nghiên cứu. Từ đó đi vào nghiên cứu dưới góc độ cụ thể hơn đó
là mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ngoài ra, luận án còn kế thừa một cách có chọn lọc về cơ sở lý luận
trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước
có liên quan đến lĩnh vực ANKT; đầu tư trực tiếp nước ngoài; hoặc mối
quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp chung:
Phương pháp biện chứng duy vật và duy vật lịch sử; phương pháp
trừu tượng hóa khoa học.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp phân tích và tổng
hợp; phương pháp tổng kết từ thực tiễn; phương pháp chuyên gia; phương
pháp điều tra xã hội học; phương pháp đối chiếu, so sánh; phương pháp lấy
điển hình.
Hệ thống thông tin, dữ liệu nghiên cứu:
Luận án chủ yếu sử dụng số liệu thứ cấp (số liệu từ các niêm giám
thống kê, các báo cáo tổng kết năm, báo cáo tình hình và kết quả công tác

hàng năm, các bài báo và các công trình khoa học uy tín có liên quan).
Ngoài ra luận án sử dụng phương pháp định tính, sử dụng thông tin sơ cấp
(thông qua kết quả điều tra xã hội học ở vùng KTTĐPN).
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Về lý luận:
Trên cơ sở nhận thức về mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp
nước ngoài, từ thực tiễn giải quyết mối quan hệ này ở vùng KTTĐPN, luận
án đưa ra những giải pháp làm cơ sở cho việc tổng kết kinh nghiệm và phát
triển lý luận. Luận án đã xác định và chứng minh rằng giữa ANKT với đầu
tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Do đó,
về mặt lý luận cần phải giải quyết tốt cả hai mặt này, thực hiện thu hút đầu


6
tư trực tiếp nước ngoài cần phải có những biện pháp đảm bảo ANKT trong
quá trình phát triển KT-XH.
Về thực tiễn:
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, giảng
dạy, học tập, đặc biệt là ở các trường Công an nhân dân.
- Kết quả nghiên cứu tham khảo cho việc hoạch định chính sách
nhằm nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đồng thời phục
vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đảm bảo ANKT ở một số
địa phương trong vùng KTTĐPN và cả nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án được trình bày trong 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn 20092014.

Chương 3: Giải pháp đảm bảo giải quyết mối quan hệ giữa an ninh
kinh tế với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA AN NINH KINH TẾ
VỚI ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng Cộng sản Việt
Nam về mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài
Mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài, nếu hiểu
rộng hơn đây chính là mối quan hệ giữa phát triển KT-XH với quốc phòng,
an ninh.


7
Kinh tế với quốc phòng, an ninh là những lĩnh vực khác nhau song
giữa chúng có mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau. Trong đó, kinh tế
là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến quốc phòng, quốc phòng tác
động trở lại kinh tế. Ph. Ăngghen đã khẳng định: “Không có gì phụ thuộc
vào kinh tế tiên quyết hơn là chính quân đội và hạm đội”; và “Thắng lợi hay
thất bại của chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế”.
V.I. Lênin chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết
tự vệ”.
Về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh: bảo vệ Tổ quốc không chỉ là tư tưởng quân sự, quốc phòng,
an ninh, kháng chiến, mà kháng chiến bao giờ cũng đi liền với kiến quốc.
Kiến quốc là xây dựng, phát triển nền kinh tế bền vững, làm cơ sở vật chất
cho việc củng cố an ninh, quốc phòng.
Sự gắn kết mối quan hệ giữa quốc phòng-an ninh với phát triển KTXH là phù hợp với mối quan hệ biện chứng duy vật lịch sử, là quy luật
khách quan của sự phát triển bền vững của mọi quốc gia dân tộc.
Ở Việt Nam, sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh đã có

lịch sử lâu dài. Dựng nước đi đôi với giữ nước là qui luật tồn tại, phát triển
của dân tộc ta.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, đã kế
thừa và thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh một cách nhất quán bằng những chủ trương sáng
tạo, phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng. Sự kết hợp đó đã góp phần
tạo ra sức mạnh to lớn giúp cho cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi
quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Do đó, cần phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc một cách khoa học và cách
mạng rằng, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh chỉ có thể
thắng lợi khi mà quốc phòng-an ninh được giữ vững, môi trường hòa bình
được bảo đảm, tình hình chính trị ổn định. Củng cố quốc phòng-an ninh


8
phải đi đôi với phát triển KT-XH, phát triển KT-XH phải gắn với củng cố
tăng cường quốc phòng-an ninh. Đây là hai nhiệm vụ then chốt, quan trọng
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn nhận thức sâu sắc trong tiến trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết mối quan hệ này dưới góc độ hẹp hơn là mối quan hệ giữa
ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
phải đi đôi với với các biện pháp đảm bảo ANKT; đảm bảo ANKT là cơ sở,
điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển KT-XH, đảm bảo
ANKT trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một trong những
nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của
đất nước.
1.2. Cơ sở lý luận có liên quan đến mối quan hệ giữa an ninh
kinh tế với đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nhân tố ảnh hưởng đến

đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment- FDI): là
hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và sử dụng vốn là một chủ
thể nước ngoài. Có nghĩa là các DN, cá nhân người nước ngoài (Chủ đầu
tư) trực tiếp đầu tư, tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và
vận hành các kết quả đầu tư nhằm đạt được lợi nhuận tối đa.
Các nhân tố tác động đến đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Một là, môi trường an ninh, chính trị, xã hội.
Hai là, hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, bộ máy quản lý
nhà nước có hiệu quả.
Ba là, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Bốn là, hệ thống thị trường đồng bộ, chiến lược phát triển hướng
ngoại.
Năm là, trình độ quản lý và năng lực của người lao động.


9
1.2.2. An ninh kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến an ninh kinh
tế
An ninh quốc gia: tại điều 3 Luật An ninh quốc gia xác định: “An
ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ
nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.
ANQG bao gồm: an ninh chính trị, ANKT, an ninh văn hóa-tư tưởng, an
ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tài chính, an ninh thông tin,
an ninh đối ngoại và chế độ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Bảo vệ ANQG là phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn làm
thất bại các hoạt động xâm phạm ANQG.
ANKT là một bộ phận của ANQG, nằm trong ANQG có tác động lớn
đến ANQG.

An ninh kinh tế: là sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế
theo định hướng XHCN. ANKT thể hiện ở sự đảm bảo thực hiện đúng đắn,
có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà
nước; bảo vệ bí mật Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, sự an toàn của cơ sở
vật chất, kỹ thuật và tài sản quốc gia, các mục tiêu kinh tế trọng điểm và đội
ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế. Bảo vệ ANKT là
nhiệm vụ của toàn Đảng, các ngành, các cấp và mọi công dân, trong đó chịu
trách nhiệm chính là thủ trưởng các ngành, các đơn vị kinh tế. Công an
nhân dân có nhiệm vụ nắm tình hình, tham mưu hướng dẫn và trực tiếp tiến
hành đấu tranh chống âm mưu, hoạt động tình báo, gián điệp, phá hoại kinh
tế của các thế lực thù địch và các loại tội phạm kinh tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến an ninh kinh tế:
Thứ nhất, các đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ ANQG, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội là yếu tố có ảnh hưởng quyết định tới tình hình ANKT.
Thứ hai, là ảnh hưởng của hệ thống pháp luật và đảm bảo thực thi
pháp luật giữ vai trò quan trọng đối với tình hình ANKT.


10
Thứ ba, sự phân hóa giàu nghèo gia tăng gây ảnh hưởng lớn về mặt
xã hội và tình hình ANKT.
Thứ tư, vấn đề thất nghiệp gây ảnh hưởng đến tình hình KT-XH và
ANKT.
Thứ năm, những tác động mặt trái của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đối với ANKT.
1.2.3. Vùng kinh tế trọng điểm
Vùng kinh tế trọng điểm là một bộ phận lãnh thổ quốc gia, hội tụ đủ
các điều kiện và yếu tố phát triển thuận lợi, có tiềm lực kinh tế lớn, giữ vai
trò động lực, đầu tàu lôi kéo sự phát triển chung của cả nước.

1.3. Mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài và những vấn đề nảy sinh về an ninh kinh tế từ hoạt động đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam
1.3.1. Mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam
Giữa ANKT và đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hệ tác động
lẫn nhau.
Môi trường ANKT được ổn định, đảm bảo có ý nghĩa quyết định đến
việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước
ngoài.
Ngược lại, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tạo nguồn vốn quan
trọng cho đầu tư phát triển trong nước, tạo công ăn việc làm cho người lao
động, nâng cao mức sống của nhân dân, giúp tăng thu nhập quốc dân, ngân
sách Nhà nước và ổn định chính trị-xã hội. Đây chính là nền tảng để giữ
vững ổn định chính trị, củng cố ANQG, ANKT.
Do đó, ANKT được đảm bảo chính là một trong những điều kiện để
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
chính là cơ sở để đảm bảo an ninh và phát triển kinh tế.


11
1.3.2. Những vấn đề nảy sinh về an ninh kinh tế từ hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Bên cạnh những mặt tích cực là chủ yếu, FDI khi đầu tư vào Việt
Nam cũng làm nảy sinh một số vấn đề có liên quan đến ANKT bao gồm:
(1) Cơ cấu vốn FDI chưa hợp lý, đang bộc lộ những nhân tố bất lợi
cho việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng xấu đến chủ
quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc cả trong hiện tại và lâu dài.
(2) Một số các nhà đầu tư nước ngoài, lợi dụng hoạt động đầu tư để
thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật như: kinh doanh trái phép, buôn

lậu, hối lộ, trốn thuế, rửa tiền, gây ô nhiễm môi trường… gây ra những thiệt
hại nghiêm trọng cho nền kinh tế Việt Nam và tác động ảnh hưởng tiêu cực
đến môi trường đầu tư.
(3) Một số nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có biểu hiện lợi dụng đầu
tư để thực hiện các hoạt động tình báo, gián điệp về kinh tế và thực hiện các
hoạt động vi phạm phạm luật mang tính chất quốc tế.
(4) Một số đối tác nước lợi dụng hoạt động đầu tư để thực hiện hoạt
động trục lợi trái phát luật hoặc tiến hành các hoạt động lừa đảo.
(5) Vấn đề mất ổn định về ANKT khác do các hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài gây ra.
1.3.3. Mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở một số quốc gia trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
Ở phần này, tác giả đã nêu kinh nghiệm của Trung Quốc, Malaixia và
Thái Lan về mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các
quốc gia này đều thành công trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, coi
đây là yếu tố then chốt để thực hiện công nghiệp hóa, là một trong những
nhân tố quan trọng đóng góp vào tăng trưởng GDP, tăng trưởng và phát
triển KT-XH. Song FDI cũng có những mặt trái tác động đến ANKT như:
tăng thêm dư thừa vốn trong nước; một số lĩnh vực kinh tế phải phụ thuộc
nước ngoài; lĩnh vực gia công giá trị thấp; giá trị nhập khẩu cao, tỷ lệ nội
địa hóa thấp; làm tăng mức độ nhạy cảm bất ổn về kinh tế và chính trị; là


12
mảnh đất màu mỡ cho các loại loại tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài
như: lừa đảo, rửa tiền, khủng bố và các đe dọa an ninh phi truyền thống
khác; gây thất thu ngân sách từ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; phía
đầu tư nước ngoài sử dụng các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh gây
thiệt hại cho các doanh nghiệp tại địa phương; việc xử lý và quản lý chất
thải, ô nhiễm môi trường còn chưa tốt.

Qua kinh nghiệm của một số quốc gia có thể rút ra bài học đối với
Việt Nam:
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển KT-XH là nhân tố
quan trọng giữ vững ổn định chính trị, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an
ninh tạo ra những nhân tố cho sự đảm bảo ANKT của Việt Nam.
ANKT ở Việt Nam được đảm bảo sẽ tạo môi trường an ninh chính trị
ổn định thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp phát triển
KT-XH. Nếu làm tốt công tác đảm bảo ANKT đấu tranh có hiệu quả các tội
phạm xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, giữ vững ổn
định chính trị, tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,
phục vụ phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế.
Tóm tắt chương 1, luận án làm rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa
ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong đó, tập trung làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp
nước ngoài; các khái niệm có liên quan đến mối quan hệ giữa ANKT với
đầu tư trực tiếp nước ngoài; Những tác động ANKT tới đầu tư trực tiếp
nước ngoài, và ngược lại ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
ANKT, rút ra hệ quả của mối quan hệ này đó là những vấn đề phức tạp về
ANKT nảy sinh từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, luận
án cũng nêu ra kinh nghiệm của một số quốc gia về mối quan hệ giữa
ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài và bài học đối với Việt Nam.


13
Đây chính là cơ sở lý luận để làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa
ANKT và đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
giai đoạn 2009-2014, mà luận án sẽ đề cập ở chương 2.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA AN NINH KINH TẾ VỚI

ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG
ĐIỂM PHÍA NAM GIAI ĐOẠN 2009-2014
2.1. Khái quát một số đặc điểm vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam
Vùng KTTĐPN có vị trí địa lí quan trọng và thuận lợi cho quá
trình phát triển KT-XH, tạo ra những lợi thế so sánh của vùng trong quá
trình phát triển kinh tế so với các vùng khác trong cả nước.
Vùng KTTĐPN có diện tích tự nhiên toàn vùng 30.595 km2, chiếm
9,24% diện tích cả nước, dân số toàn vùng năm 2014 có khoảng 18.983,7
nghìn người, chiếm 20,92 % dân số cả nước, Tỷ lệ đô thị hóa của vùng đạt
48%, bằng 1,8 lần cả nước.
2.2. Thực trạng về mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn
2009-2014
2.2.1. Những kết quả đạt được và tác động của đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn 2009-2014
Vùng KTTĐPN giai đoạn 2009-2014 có tốc độ tăng trưởng kinh tế
hàng năm đạt 10,67%, cao gấp 1,86 lần so với tốc độ bình quân của cả
nước, mặc dù diện tích chỉ chiếm 9,24% so với diện tích cả nước, dân số chỉ
chiếm 20,92 % so với cả nước nhưng vùng KTTĐPN đã tạo ra gần 40%
GDP cả nước và thu nhập bình quân theo đầu người cao gấp 2,2 lần so với
chung của cả nước.


14
Kể từ 1998 đến nay, các dự án đầu tư nước ngoài liên tục tăng lên cả
về số dự án và vốn đầu tư, tính đến 31/12/2014 vùng KTTĐPN đã có
khoảng 10.350 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là
116.199,3 triệu USD, chiếm 58,25% tổng số dự án và 44,79% tổng vốn FDI

cả nước.
Những năm qua, FDI đã đem lại những hiệu quả kinh tế quan trọng
và có những tác động tích cực đối với sự ổn định, phát triển KT-XH và đảm
bảo ANKT thể hiện trên một số khía cạnh:
(1) FDI góp phần tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng
KTTĐPN theo hướng CNH, HĐH phát triển lực lượng sản xuất, trước hết
trong các ngành công nghiệp, cơ sở hạ tầng và dịch vụ.
(2) FDI góp phần tích cực và ngày càng to lớn vào tăng trưởng kinh
tế, mở rộng nguồn thu ngân sách của khu vực KTTĐPN.
(3) FDI đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tham
gia phát triển nguồn nhân lực trong vùng.
(4) FDI bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp
phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực của vùng, tạo ra
thế và lực cho cho sự phát triển của vùng KTTĐPN.
(5) FDI tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận, mở rộng thị trường
và nâng cao năng lực xuất khẩu của vùng.
(6) FDI góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh tế đối
ngoại, chủ động hội nhập kinh tế của vùng với khu vực và thế giới.
(7) FDI là cầu nối và thúc đẩy các DN Việt Nam trong vùng mở
rộng đầu tư trong và ngoài nước.
Tác động tích cực của thu hút FDI đối với sự phát triển KT-XH của
địa phương là vô cùng to lớn không thể phủ nhận đối với nhiều mặt, trong
đó có cả việc tạo ra cơ sở vật chất cho sự đảm bảo ANKT. Thu hút FDI đã
tạo nhiều mặt tích cực về ANKT đối với vùng KTTĐPN có thể thấy rõ như:
thúc đẩy mở rộng quan hệ hợp tác của vùng với nhiều công ty của nhiều
nước trên thế giới, tao cơ hội “thêm bạn bớt thù”; tiếp thu những tinh hoa


15
văn hóa nhân loại giúp xóa bỏ những tập tục lạc hậu, bảo thủ, trì trệ trên

lĩnh vực văn hóa-tư tưởng; tận dụng những thành tựu khoa học-kỹ thuật tiên
tiến để hiện đại hóa quốc phòng, an ninh trong vùng và cả nước; thúc đẩy
xây dựng những quan hệ, đối tác mới nhằm tăng cường sức mạnh quốc
phòng, an ninh; tạo ra những nhận thức mới, tăng cường ý thức quốc gia về
đầu tranh phòng, chống và bảo vệ môi trường; thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài thúc đẩy phát triển KT-XH, tạo điều kiện thuận lợi gắn kết chặt chẽ
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội trong vùng, nhất là giải
quyết việc làm, giảm thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, thực hiện các chính
sách an sinh xã hội… đây là vấn đề có ý nghĩa to lớn góp phần đảm bảo
ANKT của vùng KTTĐPN.
2.2.2. Những vấn đề nảy sinh về an ninh kinh tế từ hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn
2009-2014
Bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đạt được là chủ yếu của
đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trực tiếp nước ngoài trong mối quan hệ
với ANKT ở vùng KTTĐPN cũng có thể phát sinh nhiều mặt trái tác động
đến ANKT, cụ thể trong giai đoạn hiện nay nổi lên một số mặt trái như:
(1) Một số đối tượng thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài để thực hiện các hoạt động phá hoại nền kinh tế hoặc gây thiệt hại
đến lợi ích kinh tế và chính trị.
(2) Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để buôn lậu
hoặc buôn bán hàng cấm.
(3) Tiến hành hoạt động đầu tư “chui” ở một số KCN và địa bàn
khu KTTĐPN.
(4) Dưới danh nghĩa hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để
chuyển giao thiết bị, công nghệ lạc hậu vào địa phương.
(5) Khi tiến hành hoạt động liên doanh, liên kết một số DN FDI sử
dụng những thủ đoạn cạnh tranh trái pháp luật trong sản xuất kinh doanh
gây thiệt hại cho các DN và đối tác kinh doanh tại địa phương.



16
(6) Thông qua hoạt động đầu tư thực hiện một số hoạt động có thể
tác động làm suy yếu vai trò của các DN nhà nước, gây nguy cơ suy giảm vị
trí, vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước tại địa phương.
(7) Lợi dụng danh nghĩa đầu tư FDI để tiến hành các hoạt động lừa
đảo.
(8) Thực hiện các hoạt động thu thập tin tức tình báo.
(9) Tạo ra những yếu tố chi phối, lệ thuộc kinh tế nước ngoài.
(10) Những tác động có thể gây ra bất ổn về chính trị - xã hội có liên
quan đến vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài.
(11) Những phức tạp khác có liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong vùng như: gây ô nhiễm môi trường sinh thái, trốn thuế,
trộm cắp tài sản của các doanh nghiệp FDI, khiếu kiện đông người, tranh
chấp lao động, đình công…
2.3. Tồn tại, yếu kém và nguyên nhân trong giải quyết mối quan
hệ giữa an ninh kinh tế với đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam
2.3.1. Tồn tại, yếu kém
Về khía cạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài:
(1) Một số thủ tục pháp lý liên quan đến việc hình thành và hoạt
động của các DN FDI còn chưa đồng bộ, ban hành chậm gây khó khăn và
thiệt hại cho các chủ đầu tư.
(2) Chưa có cơ chế phối hợp đồng bộ giữa vùng và một số địa
phương khác nên không tận dụng được những lợi thế so sánh, dẫn tới tình
trạng cạnh tranh gay gắt, thậm chí cạnh tranh không lành mạnh hoặc chen
lấn để thu hút FDI.
(3) Sự hạn chế thu hút đối tác đầu tư, đối tác đầu tư trong vùng phần
lớn là các quốc gia trong khu vực Châu Á.
(4) Các hình thức đầu tư chưa được đa dạng hóa phù hợp với tình

hình thực tế của vùng, tỷ lệ đầu tư còn ít các ngành công nghiệp mũi nhọn


17
và công nghệ cao. Trong công tác quản lý, thu hút công nghệ vẫn còn nhiều
hạn chế.
(5) Môi trường đầu tư đôi khi vẫn chưa được thuận lợi.
(6) Trình độ quản lý, kiến thức và kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh
vực đầu tư trực tiếp nước ngoài của một bộ phận cán bộ còn yếu.
(7) Việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng, định giá thuê đất, phí hạ tầng tại
một số khu, cụm công nghiệp tính cạnh tranh chưa cao, chưa thật sự hấp
dẫn các nhà đầu tư.
Về khía cạnh ANKT trong mối quan hệ với đầu tư trực tiếp nước
ngoài..
(1) Một số DN FDI đã lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong công
tác quản lý để tiến hành nhập máy móc thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu nhằm
nâng giá trị đầu tư.
(2) Một số DN thực hiện việc tạm nhập tái xuất, nhưng chủ yếu là
đưa hàng ra thị trường để bán phá giá, trốn thuế, thu lợi bất chính.
(3) Đã có nhiều sự chuyển dịch vốn từ các Công ty nhỏ vào các tập
đoàn lớn của nước ngoài, từ DN liên doanh thành DN 100% vốn nước
ngoài.
(4) Số người nước ngoài và lao động nước ngoài tại địa phương
hoạt động không hợp pháp ngày càng gia tăng.
(5) Một số phần tử phản động lợi dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài
để tiến hành các hoạt động tình báo, gián điệp phá hoại kinh tế; các hành vi
trốn thuế, gian lận thương mại, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, chiếm đoạt
tiền hoàn thuế VAT; hoạt động lừa đảo, buôn bán hàng giả, hàng cấm, mua
bán hóa đơn; hoạt động rửa tiền… diễn ra khá phức tạp.
(6) Tình trạng trộm cắp, công nhiên chiếm đoạt tài sản của DN FDI

và người nước ngoài vẫn xảy ra nhiều. Tình trạng dân di cư tự do từ các địa
phương khác đến lưu trú chưa được quản lý tốt, một số đối tượng hình sự
trong nước lợi dụng ẩn nấp, gây án, trốn tránh pháp luật. Các tệ nạn xã hội
diễn biến khá phức tạp.


18
(7) Việc tranh chấp, khiếu kiện, đình công vẫn xảy ra thường xuyên
đổi khi trở thành đặc biệt nghiêm trọng (tháng 05/2014).
(8) Công tác nắm tình hình của cơ quan chức năng có thẩm quyền,
trong đó chủ yếu là lực lượng Công an tuy có tiến bộ nhưng một số mặt còn
chưa sâu, chưa kịp thời; công tác nghiệp vụ cơ bản còn dàn trải, thiếu trọng
tâm, trọng điểm, chưa phù hợp với phương thức thủ đoạn hoạt động của đối
tượng và sự phát triển, thay đổi của tình hình. Công tác tổng hợp, phân tích,
đánh giá, dự báo tình hình và tham mưu trên một số lĩnh vực chưa mang
tính căn cơ, lâu dài.
(9) Công tác bảo vệ an ninh kinh tế còn một số mặt hạn chế.
(10) Công tác phối kết hợp với các ban, ngành liên quan chưa thường
xuyên. Công tác điều tra, khám phá các vụ án có liên quan đến các yếu tố
nước ngoài còn chưa cao.
(11) Công tác đấu tranh chống tội phạm môi trường, nhất là đối với
các DN FDI gây ô nhiễm môi trường còn chưa cương quyết, chủ yếu chỉ
dừng lại ở phạm vi xử lý hành chính.
(12) Công tác kiểm tra, quản lý nhân hộ khẩu đối với người nước
ngoài và đối người làm việc trong các DN FDI còn nhiều sơ hở.
(13) Tình hình ANKT tại các KCN và các khu vực trong vùng tập
trung các DN FDI có lúc chưa được đảm bảo và bị động bất ngờ.
(14) Hệ thống pháp luật còn nhiều sơ hở, chồng chéo; cơ chế chính
sách, quy định pháp luật chưa đáp ứng được quá trình hội nhập và quá trình
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nên chưa tạo điều kiện phát huy lợi thế

của vùng KTTĐPN trong thu hút FDI.
(15) Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý có liên quan đến đầu tư
trực tiếp nước ngoài còn yếu kém cả về năng lực và trình độ, năng lực thẩm
định.


19
2.3.2. Nguyên nhân cơ bản của nhưng tồn tại, yếu kém
Những hạn chế, yếu kém trên do nhiều nguyên nhân cơ bản sau:
(1) Công tác vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài chưa thực sự hiệu
quả, chưa tạo được sự liên kết vùng xúc tiến đầu tư. Chất lượng dự án đầu
tư còn chưa cao. Kết cấu hạ tầng còn chậm phát triển, lạc hậu. Chất lượng
nguồn nhân lực còn thấp và vẫn còn sự rườm rà về các thủ tục hành chính
trong đầu tư kinh doanh, cấp phép đầu tư.
(2) Các thế lực thù địch và bọn phản động bên ngoài không ngừng
lợi dụng vấn đề đầu tư trực tiếp từ nước ngoài thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình” phá hoại về kinh tế.
(3) Một số các nhà đầu tư nước ngoài vì tối đa hóa lợi nhuận và giá
trị thặng dư đã bất chấp tất cả.
(4) Công tác quản lý lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại địa
phương bộc lộ nhiều sơ hở, yếu kém.
(5) Sự tha hóa, biến chất của một số cán bộ, đảng viên trong các cơ
quan chức năng và sự thiếu biên chế cán bộ quản lý đã tạo điều kiện để các
DN FDI có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
(6) Sự kém hiểu biết pháp luật của một bộ phận đội ngũ công nhân
Việt Nam là một trong những nguyên nhân làm gia tăng sự tranh chấp lao
động và đình công.
(7) Các tổ chức Đảng, chính quyền, công đoàn cơ sở trong các DN
có vốn đầu tư nước ngoài chưa thể hiện hết vai trò trách nhiệm của mình.
(8) Gắn với kế hoạch phát triển KT-XH còn đặt nặng nhiệm vụ phát

triển kinh tế, chưa kết hợp đồng bộ chặt chẽ với giải quyết các vấn đề xã
hội.
Tóm tắt chương 2, luận án đã tập trung làm rõ thực trạng mối quan
hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐPN giai đoạn
2009-2014. Trong đó, làm rõ:
Một số đặc điểm vùng KTTĐPN có liên quan đến mối quan hệ giữa
ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài.


20
Phân tích thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐPN giai đoạn 2009-2014.
Rút ra những mặt tồn tại, hạn chế; nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở vùng KTTĐPN.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế là cơ sở để luận án đề ra giải
pháp đảm bảo giải quyết mối quan hệ giữa ANKT với thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở chương 3.
CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA AN NINH KINH TẾ VỚI ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC
NGOÀI Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM
3.1. Dự báo tình hình đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và an ninh
kinh tế ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Những năm tới vùng KTTĐPN vẫn luôn là khu vực đi đầu cả nước
trong lĩnh vực thu hút đầu trực tiếp nước ngoài với nhiều làn sóng đầu tư
mới. Đầu tư nước ngoài gia tăng có thể kéo theo những diễn biến phức tạp
mới về ANKT.
3.2. Một số quan điểm, giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa an
ninh kinh tế với thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở vùng kinh tế

trọng điểm phía Nam
3.2.1. Quan điểm về giải quyết mối quan hệ giữa an ninh kinh tế
với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Gắn chặt nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài với đảm bảo ANKT, trước hết phải quán triệt và thực
hiện tốt các quan điểm của Đảng về kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với
quốc phòng an ninh, đã được đặt ra và khẳng định một cách nhất quán trong
tất cả Cương lĩnh, Nghị quyết, Văn kiện của Đảng.


21
3.2.2. Một số giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa an ninh kinh
tế với thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam
3.2.2.1. Nhóm giải pháp tạo lập môi trường thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, tạo cơ sở vật chất đảm
bảo an ninh kinh tế ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
- Tiếp tục ban hành và thực hiện chính sách xúc tiến, kêu gọi đầu tư.
- Nâng cao chất lượng dự án FDI đầu tư vào vùng KTTĐPN.
- Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư.
- Làm tốt công tác đào tạo nguồn nhân lực.
- Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, đổi mới về tổ chức và thủ
tục hành chính để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.2.2.2. Nhóm giải pháp phòng ngừa xã hội trong giải quyết mối
quan hệ giữa an ninh kinh tế với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
- Tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng cộng sản Việt Nam đối
với đảm bảo ANKT gắn với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại địa
phương.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước

ngoài.
- Thực hiện nghiêm túc các chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước có
liên quan đến các đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển KT-XH.
Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao sự hiểu biết pháp luật Việt
Nam cho các đối tác đầu tư nước ngoài và lao động Việt Nam tại địa
phương. Phát huy năng lực của các cơ quan quản lý và công đoàn ở các DN
FDI, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng
lao động theo quy định của Nhà nước, hạn chế tối đa việc đình công, lãn
công và tranh chấp lao động.
- Kiện toàn bộ máy quản lý, nâng cao hiệu quả điều hành của các cơ
quan nhà nước tại địa phương.


22
- Đối với lực lượng Công an cần thực hiện tốt chức năng tham mưu
cho các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương hoàn thiện hành lang pháp lý
và lành mạnh hóa môi trường đầu tư.
3.2.2.3. Nhóm giải pháp nghiệp vụ của lực lượng Công an nhằm
giải quyết mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
- Tích cực trong công tác phòng, chống và xử lý nghiêm các loại tội
phạm trên địa bàn, nhằm lành mạnh hóa và ổn định môi trường ANKT.
- Thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng Công an nhân
dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm có liên quan đến lĩnh vực đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐPN.
- Chú trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sỹ Công an nhân
dân thật sự trong sạch vững mạnh có đủ năng lực và phẩm chất để có thể
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
3.3. Một số kiến nghị
- Các cấp ủy Đảng trong bộ máy chính quyền và lực lượng Công an

nhân phải thường xuyên tổ chức các buổi tuyên truyền, tập huấn trao đổi về
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về giải quyết và thực hiện mối
quan hệ giữa an ninh kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Thực hiện chính sách thu hút FDI phải gắn chặt với các chính sách
xã hội tại địa phương.
- Thực hiện chính sách thu hút FDI theo ngành phù hợp trong từng
tỉnh và khu công nghiệp, tránh việc thu hút FDI tràn lan không hiệu quả, thu
hút FDI phải gắn với các biện pháp nhằm đảm bảo ANKT.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động
phòng chống tội phạm có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam.
Tóm tắt chương 3, trên cơ sở dự báo tình hình và dựa vào một số
quan điểm để giải quyết, chương này luận án xác định những giải pháp cơ
bản giải quyết mối quan hệ giữa an ninh kinh tế với thu hút đầu tư trực tiếp


23
nước ngoài ở vùng KTTĐPN. Do tác giả đặc thù công tác trong lực lượng
công an, đối với các nhóm giải pháp này tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến các
giải pháp nghiệp vụ nhằm đảm bảo ANKT trong thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở vùng KTTĐPN, trong đó theo tác giả cần phải đặc biệt chú
trọng đến yếu tố con người, phải quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến
sỹ Công an nhân dân thật sự trong sạch vững mạnh có đủ năng lực và phẩm
chất để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ đảm bảo ANKT. Ngoài ra, tác giả
cũng đưa ra một số kiến nghị để có thể thực hiện và giải quyết mối quan hệ
này trong thực tế đặc thù của vùng KTTĐPN.
KẾT LUẬN
Giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, không tách rời nhau. Đây là mối quan hệ cơ bản, mang tính chiến
lược chi phối sự phát triển KT-XH và đảm bảo an ninh quốc gia. Quán triệt

quan điểm của Đảng về phát triển KT-XH phải có sự kết hợp chặt chẽ với
quốc phòng, an ninh hay thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phải gắn với
đảm bảo ANKT. Bên cạnh việc phải tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, để tận dụng những ưu thế về vốn, kỹ thuật, công nghệ… tạo
động lực thúc đẩy phát triển KT-XH, tạo nền tảng vững chắc đảm bảo
ANKT, cũng cần phải có nhiều biện pháp tăng cường ANKT của địa
phương và quốc gia, nhằm hạn chế những mặt trái của đầu tư trực tiếp nước
ngoài có thể gây ảnh hưởng đến nhiều mặt về ANKT và tác động trở lại gây
ảnh hưởng xấu đến môi trường thu hút đầu tư tại vùng KTTĐPN.
Qua nghiên cứu “Mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở vùng KTTĐPN” luận án đã có một số đóng góp mới như sau:
Luận án đã hệ thống hóa và làm rõ lý luận về mối quan hệ giữa
ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Luận án đã tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo hướng kinh tế chính trị
và cách tiếp cận liên ngành. Luận án sử dụng lý luận của kinh tế chính trị
học Mác-Lênin làm nền tảng lý luận xuyên suốt. Luận án nghiên cứu dựa


24
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Từ cơ sở lý luận, luận án đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
để phân tích, làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở vùng KTTĐPN và đề ra những giải pháp giải quyết mối quan
hệ này dựa trên nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, yếu kém.
Về phương diện lý thuyết, luận án đã góp phần phát triển lý luận về
mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luận án đã xác
định và chứng minh rằng giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài có
mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Cần phải có biện pháp giải quyết

tốt cả hai mặt này trong quá trình phát triển KT-XH.
Về phương diện thực tiễn, kết quả nghiên cứu là cơ sở cho các nhà
nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách có cách nhìn đầy đủ và toàn diện
hơn về mối quan hệ giữa ANKT với đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong quá
trình hoạch định chính sách nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài phải có những biện pháp phục vụ cho công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm đảm bảo ANKT ở trong vùng KTTĐPN và cả nước.



×