Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 175 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH






Nguyễn Thị Mỹ Dung





CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM








LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC











Thành phố Hồ Chí Minh - 2009


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH




Nguyễn Thị Mỹ Dung




CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM



Chuyên ngành: Địa Lý học
Mã số: 60 31 95






LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐẶNG VĂN PHAN





Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô
giáo trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đặng Văn Phan - người đã tận tình
hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Qua đây, tác giả cũng trân trọng cảm ơn các cơ quan: Viện Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh, Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tác giả trong quá
trình thu thập số liệu, tài liệu và thông tin có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
Cuối cùng, tác giả xin lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã giúp
đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện
luận văn.


Tp. Hồ Chí Minh, ngày….tháng….năm2009
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Mỹ Dung

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta đi lên từ điểm xuất phát thấp. Sau khi đất nước bước vào công cuộc đổi
mới (1986), nền kinh tế tuy đã khởi sắc nhưng trình độ phát triển vẫn còn nhiều hạn
chế. Đứng trước xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, để tránh nguy cơ tụt hậu, việc
hội nhập của nước ta vào nền kinh tế thế giới nói chung và khu vực nói riêng nhằm
bổ sung nguồn vốn phát triển kinh tế - xã hội là nhu cầu cấp thiết.

Trong 20 năm qua (1988 – 2007), bên cạnh nguồn vốn trong nước, nước ta đã
thu hút được hơn 80 tỉ USD vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign
Direst Investment - FDI). Đây là nguồn vốn quan trọng góp phần đẩy nhanh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhận thấy vai trò quan trọng của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đối với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chính phủ đã đề ra Nghị quyết
09/
2001/NQ – CP ngày 28/8/2001 và chỉ thị 19/2001/CT – TTg ngày 28/8/2001
nhằm tăng cường thu hút, nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài (ĐTNN) thời kỳ
2001 – 2005: “đầu tư vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò vùng
động lực”- Địa bàn có nhiều lợi thế ở đây có thể hiểu là địa bàn, vùng kinh tế trọng
điểm (VKT
TĐ). Tính đến tháng 4 năm 2009, Việt Nam có 4 vùng kinh tế trọng
điểm: VKTTĐ Phía Bắc, VKTTĐ miền Trung, VKTTĐ phía Nam và VKTTĐ đồng
bằng sông Cửu Long (thành lập ngày 16/4/2009). Trong đó, vùng kinh tế trọng

điểm phía Nam (VKTTĐPN) là vùng có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế, có
khả năng mở rộng giao lưu liên kết với các vùng khác trong và ngoài nước, tạo điều
kiện cho vùng cũng như cả nước nhanh chóng hội nhập vào thị trường khu vực và
thế giới. Tr
ong thời gian qua, VKTTĐPN là địa bàn thu hút vốn FDI nhiều nhất cả
nước. Từ năm 1988 – 2007, vùng đã thu hút được hơn 50% tổng vốn đăng ký của cả
nước, giữ vai trò động lực, đầu tàu lôi kéo sự phát triển chung của cả nước.
Đến nay, có thể đánh giá đây là địa bàn có khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
tăng lên đáng kể cả về số lượng dự án lẫn vốn đầu tư. Tuy nhiê
n, các dự án và vốn
đầu tư này có sự biến đổi trong thời gian qua.
Nhằm đánh giá một cách tương đối khách quan và đầy đủ về tình hình đầu tư
trực tiếp nước ngoài cũng như sự thay đổi về cơ cấu vốn FDI, tìm ra những mặt
mạnh, mặt yếu của vùng kinh tế trọng điểm này trong việc thu hút và sử dụng vốn
FDI. Từ đó, đưa ra những định hướng nhằm thu hút và sử dụng tốt hơn nguồn vốn
này trong tương lai, phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế của vùng. Chúng tôi
tiến hà
nh nghiên cứu đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam” góp một phần nhỏ trong việc phát triển
kinh tế của vùng cũng như cả nước.
2. Mục đích của đề tài
Đề tài thực hiện 2 mục đích chính:
- Khái quát về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự chuyển dịch cơ cấu vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng ki
nh tế trọng điểm phía Nam.
- Tìm ra các giải pháp nhằm thu hút và sử dụng tốt hơn nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng và cả
nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu


Quá trình chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
 Về nội dung: chuyển dịch cơ cấu vốn FDI theo ngành, theo lãnh thổ, theo đối
tác và theo hình thức đầu tư.
 Về không gian: địa bàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
 Thời gian: Giai đoạn 1996 – 2007 (đặc biệt từ 2000 – 2007).Tuy nhiên do tình
hình đầu tư nước ngoài năm 2008 và đầu năm
2009 có nhiều biến động, vì vậy cũng
sẽ xem xét một cách tổng quan trên cơ sở định hướng cho các năm sau.
4. Hệ thống quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Hệ thống quan điểm
4.1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Đây là quan điểm cơ bản, truyền thống của Địa Lý học. Trong thực tế, các sự
vật hiện tượng địa lý luôn có sự phân hóa không gian làm cho chúng có sự khác biệt
giữa nơi này với nơi khác. Do đó, khi nghiên cứu sự chuyển dịch vốn FDI tại
VKTTĐPN p
hải tìm hiểu mối quan hệ bên trong lãnh thổ và mối quan hệ giữa lãnh
thổ nghiên cứu với các lãnh thổ lân cận.
4.1.2. Quan điểm hệ thống
Chuyển dịch cơ cấu vốn FDI là một bộ phận của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tác động tích cực của sự chuyển dịch cơ cấu này góp phần quan trọng trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng lãnh thổ và cả nước. VKTTĐPN l
à một
trong những vùng kinh tế đầu tàu, động lực có vai trò thúc đẩy sự phát triển các
vùng kinh tế khác và cả nước. Vì vậy, khi nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu vốn
FDI trong VKTTĐPN cần xem xét, đánh giá và phân tích nó trong sự phát triển tổng
thể của hệ thống kinh tế - xã hội hoàn chỉnh.
4.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh

Quan điểm này chú ý đến khía cạnh địa lý lịch sử. Các yếu tố địa lý không chỉ
biến đổi trong không gian m
à biến đổi cả theo thời gian. Do đó, việc nghiên cứu
chuyển dịch cơ cấu vốn FDI tại VKTTĐPN trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại -
tương lai sẽ làm rõ bản chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo được tính
logic, khoa học và chính xác khi nghiên cứu.
4.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững

Con người luôn chịu tác động của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người đã làm biến đổi tự nhiên, gây
ra những vấn đề môi trường nghiêm trọng. Cho nên, khi nghiên cứu cần phải quán
triệt quan điểm sinh thái và phát triển bền vững để đề ra những giải pháp nhằm đảm
bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội, tài nguyên môi trường và vấn đề phát
triển bền vững.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập và phân tích các tài liệu, văn bản, số liệu liên quan đến FDI trong phạm
vi cả nước và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
- Kế thừa các nguồn tư liệu có sẵn.
- Phương pháp thống kê và phương pháp so sánh.
- Sử dụng phương pháp hệ thống thông tin địa lý (GIS), excel và powerpoint để
vẽ và xử lí các số liệu, biểu đồ, lược đồ.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Nhìn lại những thành tựu và hạn chế trong thu hút vốn F
DI tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam trong thời gian qua một cách cụ thể thông qua việc phân tích
sự chuyển dịch cơ cấu vốn FDI của vùng kinh tế này.
- Tìm ra một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng tốt hơn nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng và
cả nước.
6. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một đề tài mới, được nhiều nhà khoa học quan
tâm và tiến hành nghiên cứu.
Một trong số đó là:
- Đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thành phố Hồ Chí Minh – tình trạng và
giải pháp” (do TSKH Trần Trọng Khuê, TS. Trương Thị Minh Sâm, PGS.TS. Đặng
Văn Phan và các cộng sự thực hiện).
- Đề tài: “Đánh giá vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoà
i trong phát triển kinh tế
- xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” (do Thạc sỹ Nguyễn Văn Quang chủ
nhiệm – Thạc sỹ Cao Ngọc Thành phó chủ nhiệm cùng các cộng sự thực hiện, Viện
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2005).
- Đề tài: “Định hướng thu hút đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh” (do Thạc sỹ Nguyễn Văn Qua
ng chủ
nhiệm cùng các cộng sự thực hiện, Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2007).
- Đề tài : “Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển các
ngành và các lĩnh vực của Thành phố Hồ Chí Minh” (Nguyễn Thị Hoài Phương,
luận văn Thạc sỹ địa lý, 2006).
- Đề tài : “Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Bà Rịa – Vũng
Tàu” (Lê Thị Nga, luận văn Thạc sỹ địa lý, 2008).
Ngoài ra, còn có nhiều bài báo, phóng sự nhận định về tình tình thu hút, thực
hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ cu
ng cấp thông
tin, gợi mở các vấn đề mang tính khái quát.
Nhìn chung các nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài đều tập trung vào việc
nghiên cứu ở một địa phương cụ thể (đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh) hoặc trên
diện rộng cả nước. Tác giả chưa thấy nghiê
n cứu nào về đầu tư trực tiếp nước ngoài
ở các vùng hoặc vùng kinh tế trọng điểm. Trong khi thời gian qua, nguồn vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào các vùng kinh tế này.
Trong đó không thể không kể đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là vùng luôn
chiếm tỉ trọng lớn trong thu hút đầu tư nước ngoài. Thiết nghĩ, việc tìm hiểu sự
chuyển biến về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng ki
nh tế trọng điểm này có
tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài “Chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam” không ngoài mục đích trên.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài
phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương chính sau:
Chương 1: FDI đối với sự phát triển của cả nước và vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam.
Chương 2: Chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1 - FDI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CẢ NƯỚC
VÀ VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM
1.1.Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm FDI
Theo Qũy Tiền tệ Quốc Tế (International Monetary fund, IMF), Đầu tư trực
tiếp nước ngoài (Foreign Direst Investment, FDI) là một công cuộc đầu tư ra khỏi
biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp (derest investor) đạt được một
phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp (derest
invesment enterprise) trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối th
iểu phải là
10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI.
Theo Ủy ban Thương mại và Phát triển Liên Hợp Quốc (UNCTAD): “Đầu
tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của

một pháp nhân hoặc một thể nhân nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ
đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp F
DI hoặc chi
nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp)”
Quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam theo qui định tại
điều 2 chương I, Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi, bổ sung năm 2005 “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào việt Nam vốn bằng tiền
hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư t
heo qui định của luật
này”.
 Như vậy, FDI thực chất là sự đầu tư của tổ chức kinh tế hoặc cá nhân ở nước
ngoài nhằm mục đích thu được lợi nhuận cao hơn qua việc tổ chức hoạt động kinh
doanh tại nước đầu tư.
1.1.2. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu FDI
Cơ cấu kinh tế bao gồm các cơ cấu cơ bản l
à cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành
phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế - biểu hiện một phần các cơ cấu trên là cơ cấu
lao động, cơ cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu sản phẩm, cơ cấu vốn đầu tư…
Để hiểu khái niệm chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước hết
cần làm rõ khái niệm vốn đầu tư và khái niệm cơ cấu.
 Vốn đầu tư là vốn để thực hiện dự án đầu tư bao gồm vốn pháp định và vốn
vay. (Vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn ĐTNN là mức vốn phải có để
thành lập doanh nghiệp được ghi trong điều lệ doanh nghiệp –Luật Đầu tư nước
ngoài được sửa đổi, bổ sung năm 2005).
 Cơ cấu [37, tr.15,16]
-
Cơ cấu là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện chức năng chung tổng
thể.
- Là một phạm trù triết học, khái niệm cơ cấu được biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ
lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp t

hành của hệ thống. Cơ cấu được biểu hiện
như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ
thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của hệ thống.
- Cơ cấu biểu thị cấu trúc của một hệ thống, gồm nhiều bộ phận, có mối liên hệ
chặt chẽ với nha
u; cơ cấu biểu hiện mối quan hệ về tỷ trọng giữa các bộ phận hợp
thành so với tổng thể hoặc tỷ lệ giữa các bộ phận với nhau, bộ phận này tăng thì bộ
phận kia giảm và ngược lại.
 Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: là một phạm trù kinh tế, thể hiện tỷ
trọng của từng yếu tố vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo các tiêu thức khác nhau
trong tổng thể hoặc tỷ lệ của từng yếu tố so với một yếu tố khác đư
ợc tính bằng
phần trăm.
Cơ cấu vốn FDI thường thể hiện qua:
- Cơ cấu vốn FDI theo ngành.
- Cơ cấu vốn FDI theo hình thức đầu tư.
- Cơ cấu vốn FDI theo đối tác đầu tư.
- Cơ cấu vốn FDI theo lãnh thổ.
 Chuyển dịch cơ cấu vốn FDI là sự thay đổi q
ua thời gian về tỷ trọng vốn FDI
của từng bộ phận (các ngành, các hình thức đầu tư, các đối tác đầu tư và lãnh thổ)
trong tổng số dự án và vốn đầu tư theo một không gian, thời gian nhất định và diễn
ra theo xu hướng nào đó (tăng lên hoặc giảm đi …).
1.1.3. Khái niệm vùng kinh tế trọng điểm [38, tr.21]
Vùng kinh tế trọng điểm là một bộ phận lãnh thổ quốc gia, hội tụ các điều kiện
và yếu tố phát triển thuận lợi, có tiềm lực kinh tế lớn, giữ vai trò động lực, đầu tàu
lôi kéo sự phát triển chung của cả nước.
Vùng
kinh tế trọng điểm (hay vùng kinh tế động lực) là một trong những loại
vùng kinh tế - xã hội, được hình thành và phát triển ở nước ta từ đầu thập niên 90

của thế kỷ XX cho đến nay.
Về nguyên tắc, vùng kinh tế trọng điểm phải là vùng hội tụ đầy đủ nhất các
nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội và đóng vai trò quyết định đối với nền ki
nh
tế cả nước. Lãnh thổ được gọi là vùng kinh tế trọng điểm phải đảm bảo được các
yêu cầu chủ yếu sau đây (Ngô Doãn Vịnh, 2003):
- Hội tụ đầy đủ các thế mạnh về vị trí địa lí, về tự nhiên, kinh tế - xã hội, tập trung
tiềm lực mạnh về kinh tế và có khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư.
- Có đóng góp lớn trong cơ cấu G
DP của đất nước và tạo ra tốc độ tăng trưởng
nhanh cho các vùng khác nếu được đầu tư thỏa đáng.
- Có thể có được tích lũy đầu tư để tái sản xuất mở rộng, tạo nguồn thu ngân sách
lớn cho Nhà nước.
- Có khả năng thu hút các ngành mới về công nghiệp, dịch vụ để từ đó nhân rộng
ra các vùng khác và cả nước.
Về lãnh thổ, vùng kinh tế trọng điểm b
ao gồm phạm vi nhiều tỉnh, thành phố.
Ranh giới của nó tất nhiên không phải bất biến, mà có sự thay đổi theo thời gian. Số
lượng cũng như phạm vi của vùng thay đổi theo yêu cầu chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ lịch sử. Vùng kinh tế trọng điểm là đối
tượng trọng điểm về đầu tư nhằm tạo ra “cú híc
h” cho toàn bộ nền kinh tế của cả
nước.
1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài [44, tr.22, 23]
Các chủ ĐTNN phải đóng góp một số tối thiểu vào vốn pháp định theo qui định
của từng quốc gia. Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam qui định chủ đầu tư nước
ngoài phải đóng góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
- Quyền quản lí, điều hành các doa
nh nghiệp (DN) tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn.

Nếu góp 100% vốn thì đối tượng đầu tư hoàn toàn do chủ ĐTNN điều hành quản lý.
- Lợi nhuận của các chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh và được phân chia theo tỉ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi nộp thuế và
trả lợi tức cổ phần.
- FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng DN mới, mua lại toàn bộ ha
y từng
phần của DN đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các DN
với nhau.
- FDI không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn liền với chuyển giao công
nghệ, chuyển giao kiến thức, kinh nghiệm quản lí và tạo ra thị trường mới cho cả
phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
- FDI hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của công ty đa quốc
gia
1.2.
2. Phân loại FDI [8, tr.62,63]
Có hai cách phân loại FDI: theo dạng và theo mục đích.
1.2.2.1. Phân loại theo dạng
- Đầu tư mới (Greenfield Investment)
 Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài được sử dụng để xây dựng các doanh nghiệp
mới hoặc phát triển thêm các doanh nghiệp có sẵn trong nước. Đây
là phương thức
các quốc gia nhận FDI thích nhất vì tạo thêm được công ăn việc làm cho người
trong nước, nâng cao sản lượng, chuyển giao kỹ thuật cao cấp, đồng thời tạo được
mối liên hệ trao đổi với thị trường thế giới.
 Những mặt yếu của đầu tư mới là có thể “bóp nghẹt” sản xuất trong nước vì nhờ
khả năng cạnh tranh cao hơn về kỹ thuật và hiệu qủa kinh tế, đồng thời làm khô cạn
tài
nguyên trong nước. Ngoài ra, một phần lợi nhuận sẽ chảy ngược về công ty mẹ.
- Sáp nhập và tiếp thu (Mergers and acquisitions)
 Xảy ra khi tài sản của một doanh nghiệp trong nước đư

ợc chuyển giao cho một
doanh nghiệp nước ngoài. Hình thức chuyển giao có thể là một sự sáp nhập (merge)
giữa một công ty trong nước và một công ty nước ngoài để tạo thành một doanh
nghiệp với một tư cách pháp nhân mới. DN mới này bắt đầu có tính cách đa quốc
gia. Trường hợp sáp nhập với công ty nước ngoài, phần FDI được tính là phần tài
trợ mà công ty trong nước được nhận từ bộ phận mà công ty nước ngoài rót vào.
 Hình thức chuyển giao thứ hai là
bán đứt công ty trong nước cho công ty nước
ngoài. Trong trường hợp này, FDI được tính là những khoản đầu tư từ công ty mẹ
qua cho công ty con trong nước.
 Theo nhiều ý kiến, FDI qua hình thức sáp nhập và chuyển nhượng không có lợi
nhiều cho quốc gia sở tại bằng hình thức đầu tư mới. Lý do thứ nhất là thông
thường, tiền DN trong nước hưởng khi bán cơ sở được trả bằng cổ phiếu của
công ty nước ngoài, do đó không có tác dụng xoay vòng thúc đẩy kinh tế nga
y
lập tức. Thứ hai là toàn bộ lợi nhuận sẽ chuyển về công ty mẹ. Quốc gia sở tại
chỉ được hưởng phần tạo công ăn việc làm cho dân, một ít nghĩa vụ thuế và tạo
việc làm cho các kỹ nghệ ngoại vi (externalities).
- FDI hàng ngang (horizontal FDI)
Công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp cùng ngành nghề.
Ví dụ: Công ty Intel đầu tư nhà máy sản xuất chip điện tử giống như ở bê
n Mỹ.
- FDI hàng dọc (Vertical FDI)
Đây là trường hợp công ty nước ngoài đầu tư nhằm cung cấp hàng hoá cho công
ty trong nước (backward vertical FDI) hay bán các sản phẩm công ty trong nước
làm ra (forward vertical FDI).

1.2.2.2.Phân loại theo mục đích
- Tìm tài nguyên và lao động rẻ tiền
Đây là dạng FDI tiêu biểu nhất nhằm vào các quốc gia đang phát triển như

Trung Đông, Châu Phi, Đông Âu và các nước Đông Nam Á mà Việt Nam là một
trong những mục tiêu quan trọng.
Tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ tiền là những “mặt hàng” các công ty
nước ngoài rất “mê” ở các quốc gia đang phát triển với mức sinh hoạt còn thấp.
- Tìm thị trường tiêu thụ
Là những đầu tư trực tiếp nước ngoài nhắm
vào việc mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm của công ty chủ quản. Điển hình nhất là đầu tư FDI của công ty Coca –
Cola và Pepsi – Cola vào Trung Quốc, Ấn Độ hay Việt Nam.
- Tìm hiệu qủa kinh doanh
Đây là một dạng FDI thường thấy ở các quốc gia đã phát triển, chẳng hạn như
cộng đồng các quốc gia Châu Âu. Lúc này, nguồn đầu tư FDI nhằm nâng cao hiệu
qủa kinh tế và trao đổi khoa học kỹ thuật lẫn nha
u.
1.2.3. Các hình thức đầu tư [30, tr.10 -13; 41 – 53]
FDI được thực hiện chủ yếu qua 3 hình thức cơ bản:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Doanh nghiệp liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Tuỳ theo điều kiện từng quốc gia, các hình thức đầu tư trên được áp dụng ở mức
độ khác nhau.
1.2.3.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Cooperation contract)
Đây là một loại hình đầu tư, trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết thỏa
thuận để tiến hà
nh một hoặc nhiều hoạt động sản xuất – kinh doanh ở nước nhận
đầu tư, trên cơ sở qui định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm
và phân chia kết qủa kinh doanh cho các bên tham gia.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp
doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thỏa thuận và được cơ
quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.

Trong các loại hình FDI, hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng, không đòi
hỏi vốn lớn, các bên tham gia hợp đồng vẫn là những pháp nhân riêng, thời hạn hợp
đồng thường ngắn. Các nhà ĐTNN có ít tiềm lực thường t
hích loại này.
1.2.3.2. Doanh nghiệp liên doanh (Join Venture Company)
Do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng
hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỉ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành
lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật
pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với
DN liên doanh trong phạm vi phần vốn của mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ góp
vốn của bên nước ngoài ha
y của các bên nước ngoài do các bên liên doanh thỏa
thuận (Theo Luật ĐTNN của Việt Nam, vốn góp của bên nước ngoài không thấp
hơn 30% vốn pháp định của DN liên doanh và trong quá trình hoạt động không
được giảm vốn pháp định. Đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng tại các vùng
kinh tế - xã hội khó khăn, các dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, các dự
án trồng rừng tỷ lệ này có thể thấp hơn 20% nhưng phải đư
ợc cơ quan cấp giấy
phép đầu tư chấp thuận).
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình được nước chủ nhà ưa chuộng vì có điều
kiện để học tập kinh nghiệm quản lí, đào tạo lao động, nhanh chóng có chỗ đứng
trên thị trường thế giới. Tuy nhiên áp dụng hình thức này đòi hỏi DN của nước chủ
nhà phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quản lý DN với người nước
ngoài thì nước chủ nhà mới đạt được hiệu qủa mo
ng muốn.
1.2.3.3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Là DN thuộc sở hữu của nhà ĐTNN (Tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài)
do nhà ĐTNN thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết
qủa sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp của

nước chủ nhà.
Đặc điểm chủ yếu của loại hình này là:
- Chủ ĐTNN bỏ ra toàn bộ vốn đầu tư đủ để duy trì sản xuất kinh doanh tại Việt
Nam (kể cả phần xây dựng cơ sở vật chất ban đầu).
- Chủ đầu tư thuê đất của chính phủ Việt Nam.
- Chủ đầu tư thuê và trả lương cho các chuyê
n gia Việt Nam và nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lúc đầu không được người nước ngoài ưa
thích vì họ muốn chia sẻ rủi ro với nước chủ nhà, còn nước chủ nhà cũng không
thích vì muốn chia sẻ lợi ích, học tập kinh nghiệm quản lý được hoạt động của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, hình thức này ngày càng được các chủ đầu tư ưa thích vì
được tự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do kết qủa đầu tư tạo ra (Chủ đầu tư phải
làm
tròn nghĩa vụ tài chính với nước chủ nhà) còn nước chủ nhà không phải lúc nào
cũng có thể tham gia góp vốn thành lập DN liên doanh. Vì vậy đối với những dự án
đầu tư vốn lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu, độ mạo hiểm cao và không đòi hỏi tham
gia quản lý sát sao quá trình vận hành các kết qủa đầu tư (như dự án dầu khí, các dự
án xây dựng hạ tầng cơ sở kỹ th
uật) thì thường buộc phải để nhà ĐTNN đầu tư
100%.
1.2.3.4. Các hình thức đầu tư khác: hợp đồng xây dựng, khai thác,
chuyển giao BOT, BTO, BT . . .
Ngoài ba hình thức trên, các nước chủ nhà còn áp dụng các hình thức khác
như: Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (B.O.T), xây dựng – chuyển
giao – kinh doanh (B.T.O) và xây dựng – chuyển giao (BT).
Hình thức B.O.T (Built – Operate – Transfer): các chủ đầu tư chịu trách nhiệm
xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ công trình sẽ được chuyển giao cho
nước chủ nhà mà không thu bất kỳ một khoản tiền nào.
Hình thức B.T.O (Built– Transfer– Operate): Sau khi xây dựng xong, nhà đầu

tư chuyển giao cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà dành cho nhà đầu tư
quyền kinh doanh công trình đó một thời gian nhất định để thu hồi đủ vốn đầu tư và
có lợi nhuận hợp lý.
Hình thức B.T (Built– Transfer): sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư chuyển
giao công trình đó cho nước chủ nhà, nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện cho nhà ĐTNN
thực hiện dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lí.
1.2.4. Vai trò của FDI
- Góp phần tăng trưởng kinh tế.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Giải quyết việc làm cho người lao động.
- Chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lí tiên tiến.
-
Mở rộng thị trường, giao lưu với quốc tế, tăng kim ngạch xuất khẩu
- Đóng góp vào ngân sách nhà nước…
1.3. Bối cảnh quốc tế và trong nước đối với việc thu hút FDI
1.3.1. Bối cảnh quốc tế
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ đã phá vỡ hàng rào ngăn
cách địa giới của các quốc gia. Sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia cùng
với sự phân công lao động quốc tế và sự ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế, tài
chính quốc tế như WTO
, IMF, WB …đã tác động đến sự điều chỉnh chính sách của
nhiều quốc gia theo chuẩn mực quốc tế.
Từ những năm 1990, xu hướng mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế đã chi phối
chính sách của mọi quốc gia. Hiện nay, hội nhập và liên kết kinh tế là một xu hướng

tất yếu mang tính thời đại.
Phạm vi hợp tác trong các hiệp định thương mại tự do ngày càng được mở rộng,
bao gồm cả những vấn đề tự do hoá đầu tư, hợp tác, chuyển giao công nghệ. Những
hình thức thương mại mới như thương mại điện tử sẽ trở nên phổ biến, làm thay đổi
những quan niệm truyền thống. Thị trường tài chính ngà

y càng được quốc tế hoá,
tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới được dự báo sẽ tăng lên
do ảnh hưởng của sự chuyển dịch các dòng vốn trên thế giới.
Xét trên phương diện đầu tư, luân chuyển vốn cho thấy nhu cầu mở rộng phạm
vi hoạt động và mở rộng khu vực đầu tư của các nhà đầu tư ở các nước phát triển
đang là mối quan tâm của nhiều quốc gia.
Nếu đầu thế kỷ XX, trên 70% vốn đầu tư tư bản đổ vào các nước chậm và đang
phát triển để khai thác tài nguyên của các nước này với tư cách là thuộc địa, thì sau
chiến tranh thế giới thứ hai, khu vực Tây Âu là nơi thu hút nhiều vốn đầu tư nhất.
Thời gian này, Tâ
y Âu thu hút đến 158 tỷ USD vốn đầu tư, trong đó ½ là vốn của
Mỹ nhằm khôi phục lại Châu Âu bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh thế giới. Ngày
nay, các nước công nghiệp phát triển vẫn là vùng thu hút vốn đầu tư nhiều nhất:
năm 1999, các nước công nghiệp phát triển chiếm 76,5% tổng số vốn đầu tư FDI

của thế giới, trong khi đó các nước đang phát triển chiếm ¾ dân số nhưng chỉ chiếm
23,5% vốn đầu tư FDI. Trong những năm gần đây và dự báo của những năm tới, tỷ
trọng FDI của các nước công nghiệp phát triển sẽ giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng
cao so với các nước đang phát triển.
Bảng 1.1: Tình hình và dự báo vốn đầu tư FDI vào
các nhóm nước trên thế giới
Tổng vốn FDI Đầu tư vào
các nước phát triển
Đầu tư vào
các nước đang phát triển


Năm
Tổng giá trị
(Tỷ USD)

Tỷ trọng
(%)
Giá trị
(Tỷ USD)
Tỷ Trọng
(%)
Giá trị
(Tỷ USD)
Tỷ Trọng
(%)
2004 801,7 100 485,6 60,57 316,1 39,43
2005 954,8 100 555,6 58,19 399,2 41,81
2006 1222,5 100 754,3 61,70 410,6 38,30
2007 1285,3 100 814,8 53,39 407,7 46,61
2008 1407,3 100 880,7 62,58 404,7 33,42
2009 1470,6 100 927,0 63,06 413,9 36,94
2010 1541,2 100 979,4 63,55 427,9 36,45

Nguồn: UNCTAD – World Investment Prospests to 2010 [40, tr.28]
Theo Tổ chức Thương mại và Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), đầu tư
nước ngoài giảm trong 3 năm đầu của thập kỷ mới nhưng đã tăng mạnh trở lại trong
những năm gần đây (năm 2005 tăng 19,1% so với năm 2004; năm 2006 tăng 28%
so với năm 2005). Mức vốn FDI trung bình hằng năm trên thế giới tăng từ 93,8 tỷ
USD những năm 80 tăng lên 388,3 tỷ USD trong những năm
90 và tăng lên 541,5 tỷ
USD trong nửa cuối những năm 90. Hiện nay, vốn FDI trên thế giới đã tăng lên
hàng ngàn tỷ USD. Dự kiến đến năm 2010 là 1541 tỷ USD. Cũng theo UNCTAD,
từ nay đến 2020, nguồn vốn đầu tư đang có xu hướng đổ vào các nước đang phát
triển nhất là những nền kinh tế mới nổi, có tốc độ tăng trưởng cao.
Thị trường mới nổi là thị trường của các nước đang phát triển, tiến hành công

nghiệp hoá và mở cửa
kinh tế để hội nhập với khu vực và thế giới. Ở châu Á, nước
có thị trường mới nổi là Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam…; Châu Mỹ Latinh:
Braxin, Achentina, Mêhicô…; Châu Âu: Nga, Thỗ Nhĩ Kỳ…Năm 2004, vốn FDI
vào thị trường mới nổi là 146,8 tỷ USD; năm 2005 là 185,7 tỷ USD. Những nước
mới nổi nhận được nhiều FDI nhất là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và
Việt Nam.
Giống như UNC
TAD, báo cáo của Viện Nghiên cứu Tài chính Quốc tế (IFF)
năm 2007 cũng khẳng định vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ gia tăng vào những
nền kinh tế đang nổi. Trong những năm tới, IFF cũng đưa ra những dự báo khả quan
rằng nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục gia tăng mạnh mẽ trong những năm
tiếp theo c
ùng với sự phát triển của thị trường vốn, mặc dù nền kinh tế toàn cầu
đang có xu hướng tăng trưởng chậm lại.
Năm 2008, kinh tế thế giới suy giảm mạnh, tốc độ tăng trưởng thấp. Theo IMF,
tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thế giới chỉ đạt 3,7% thấp hơn 1,3% so
với 5% năm 2007 và thấp hơn 1,4% so với mức tăng 5,1% năm
2006.
Năm 2009, các cơ quan nghiên cứu kinh tế trên toàn thế giới đều thống nhất
nhận định: kinh tế thế giới suy giảm nghiêm trọng, bức tranh kinh tế thế giới tiếp
tục ảm đạm. IMF đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2009 từ 3,9% trong
dự báo hồi tháng 7/2008 xuống còn 2,2% (con số của WB là 0,9%) mức thấp nhất
trong bảy năm qua. Cụ thể là tại các nước đa
ng phát triển, con số này sẽ giảm xuống
còn 5,0% và ở mức tăng trưởng âm tại các nước phát triển (kinh tế Mỹ giảm sâu:
âm 0,7%; Nhật Bản và EU âm khoảng 0,5%). Việc suy thoái kinh tế diễn ra mạnh
mẽ ở các nước có nền kinh tế phát triển, một số nước có nền kinh tế phát triển sẽ
tăng trưởng âm lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Cơ quan quốc gia
về nghiên cứu kinh tế (NBER) của Mỹ đã nhận định: nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy

thoái từ tháng 12/2007. Năm 2009, nền kinh tế Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới
tăng trưởng âm 0,7% thay vì mức tăng 0,1% đưa ra hồi tháng 10/2008.
Sự suy giảm của nền kinh tế thế giới đã tác động đến nền kinh tế các nước qua
các kênh thương mại, đầu tư nước ngoài. UNCTAD chỉ rõ: khủng hoảng kinh tế tài
chính thế giới khiến c
ho “làn sóng sáp nhập công ty” chững lại. Giá trị sáp nhập và
mua lại xuyên biên giới (M&A) giảm đáng kể, khoảng 30% đạt hơn 1.000 tỷ USD
so với 1.630 tỷ USD năm 2007. Điều này đã dẫn đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên thế giới năm 2008 suy giảm, đạt khoảng 1.600 tỷ USD, giảm 10% so với mức
1.833 tỷ USD năm 2007. Tăng trưởng kinh tế 2009 giảm mạnh ở các nước phát
triển cũng là cơ hội cho các nước đang phát t
riển thu hút FDI của thế giới trong năm
này, trong đó có Việt Nam.
1.3.2. Bối cảnh trong nước
Toàn cầu hoá là một xu thế lớn, một mặt cho phép nước ta tranh thủ được các
nguồn lực bên ngoài (đặc biệt là về vốn, công nghệ và thị trường), mặt khác đặc nền
kinh tế nước ta vào thế bị cạnh tranh quyết liệt bởi các nền kinh tế phát triển hơn
trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam bắt đầu tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực từ đầu
năm
1987 theo tinh thần “Nghị quyết đổi mới” của Đại hội VI Đảng Cộng Sản Việt
Nam (12 – 1986).
Với chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ với thế giới, Việt Nam đã
có những quan hệ hợp tác kinh tế với các khối, các trung tâm kinh tế mạnh như EU
,
Nhật Bản, quan hệ song phương với các nước Châu Á. Các nước đã từng là bạn bè
trước đây; với các tổ chức phi chính phủ vốn đang rất có uy tín trong giai đoạn toàn
cầu hoá (Câu lạc bộ Paris, diễn đàn Davos, Vancouver); với các tổ chức chính trị -
kinh tế - văn hoá – xã hội lớn của Liên Hợp Quốc (UNDP, UNESSCO, UNICEF,
UNCTAD, FAO…). Đến nay, Việt Nam chính thức là thành viên của ASEAN,

APEC, ASEM Và WTO. Đó là điều kiện t
huận lợi để mở rộng hợp tác quốc tế, xúc
tiến thương mại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đất nước đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH,
HĐH), xây dựng nền kinh tế tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Quá trình này đòi hỏi nguồn vốn rất lớn, không những từ trong
nước mà còn từ nước ngoài. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã
khẳng định, tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, trong đó có đề ra nhiệm
vụ “Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn
vốn đầu tư toàn xã hội
trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút
FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu
thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng,
hiệu qủa nguồn
FDI”.[19,tr.204, 205]
Chủ truơng hợp tác với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lí, thị trường xuất khẩu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đã
được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Văn bản pháp qui đầu tiên qui định về đầu tư nước ngoài là N
ghị định số 115/CP
ngày 14/4/1977 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Sau đó được nâng cấp lên thành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 1987. Qua hai lần sửa đổi và bổ sung năm 1990 và năm 1992, đến năm 1996
Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài mới tại Việt Nam, sau đó lại được
sửa đổi bổ sung năm 2000. Năm
2005, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư mới áp
dụng chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài. Sự thay đổi này một mặt thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Mặt khác, đó cũng là yêu cầu phù hợp với qui luật chung, nhằm đáp
ứng kịp thời, khác

h quan của tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc
tế trong từng thời kỳ, để tiến tới một đạo luật hoàn chỉnh phù hợp với xu thế hội
nhập nâng cao khả năng thu hút và sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tư nước ngoài.
Sau năm lần sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN của Việt Nam đã được cộng đồng
quốc tế đá
nh giá là một đạo luật thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với
thông lệ quốc tế. Vì vậy, ngay trong điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa
hoàn thiện, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu tư
thuận lợi ở Việt Nam mà không có sự khác biệt đáng kể so với các nước kinh tế thị
trường truyền thống.
Bằng chứng là hiện nay đã có 82 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam
với tổng vốn đăng ký trên 80 tỷ USD. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69,1%,
các nước thuộc EU chiếm 16,2%; các nước Châu Mỹ chiếm 11,8% (riêng Hoa Kỳ
chiếm 4%).
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTN
N được cấp phép đầu
tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (tính cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án
đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu
lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD.
Năm 2008, mặc dù nền kinh tế thế giới bị suy giảm nhưng dòng vốn FDI chảy
vào Việt Nam
không giảm mà lại gia tăng đột biến lên đến 71,7 tỷ USD, tăng hơn 3
lần so với năm 2007. Điều đó đã khẳng định vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được nâng cao.
Năm 2009, nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục suy giảm mạnh nhưng Việt Nam vẫn
được đánh giá là điểm đầu tư hấp dẫn của khu vực do Việt nam có nền c
hính trị - xã
hội ổn định, tốc tộ tăng trưởng kinh tế cao trong các năm qua (ngày 20/04/2009,
Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam – bà Victoria Kwakwa đã lên tiếng
công nhận Việt Nam có triển vọng phát triển kinh tế vững chắc và là điểm đầu tư

đầu triển vọng), các thị trường đang phát triển nhanh và đồng bộ, cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội được xây dựng ngày càng tốt hơn để đáp ứng nhu cầu phát triển.Sá
u
tháng đầu năm 2009, Việt Nam đã thu hút được 306 dự án đầu tư mới và tăng vốn
cho 68 dự án với tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 8.871,05 triệu USD.
Hơn hai mươi năm qua, FDI đã giữ vai trò trọng yếu trong công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt nam. Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước
và ngày càng khẳng định vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng vốn
đầu tư toàn xã hội, cải thiện cán cân thanh toán, góp phần tăng cường năng lực sản
xuất, đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm,
gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo
việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động trong nước. Vì thế, trong tương lai
Việt Nam cần có chính sách thu hút và sử dụng hợp lí hơn nguồn vốn này để thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước nhà để đến năm
2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
1.4. FDI đối với sự phá
t triển kinh tế của cả nước và vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam
1.4.1. FDI đối với sự phát triển kinh tế của cả nước [6, tr.15 – 19]
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong
nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.
Mặt tích cực
 Về mặt kinh tế
- FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư
ph
át triển xã hội và tăng trưởng kinh tế
Đóng góp của FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng
chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 30,4% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã

giảm dần trong giai đoạn 1996-2000 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu
vực (năm 2000 chiếm 18%). Trong 5 năm 2001-2005 tỷ trọng vốn đầu tư tr
ung bình
của khu vực FDI chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; năm 2006 chiếm
khoảng 16%; năm 2007 đạt 24,8%.
Bảng 1.2: Tỷ trọng vốn đầu tư khu vực FDI/ Tổng vốn
đầu tư phát triển của cả nước
Năm Tổng vốn đầu tư

(Tỷ đồng)
Vốn đầu tư từ
khu vực FDI
(Tỷ đồng)
Tỷ trọng vốn đầu tư khu
vực FDI/ Tổng vốn đầu tư
(%)
1995 72.447 22.000 30.4
1996 87.394 22.700 26.0
1997 108.370 30.300 28.0
1998 117.134 24.300 20.8
1999 131.171 22.671 17.3
2000 151.183 27.172 18.0
2001 170.496 30.011 17.6
2002 200.145 34.795 17.4
2003 239.246 38.300 16.0
2004 290.927 41.342 14.2
2005 343.135 51.102 14.9
2006 404.712 65.604 16.2
2007 521.700 129.300 24.8
Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2007 [48]

Vốn FDI đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-
2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%,
trong đó: 5 năm 1996-2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây
dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm
trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990; 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt
7,5% (nông lâm
ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng
7%); Năm 2006 đạt 8,17% (nông - lâm – ngư nghiệp tăng 3,4%; công nghiệp xây
dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29%) và năm 2007 đạt 8,48% (nông - lâm – ngư
nghiệp tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%).
- FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao
năng lực sản xuất công nghiệp
Trong 20 năm qua FDI đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền
kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước trở thành
nguồn đầu tư quan trọng của quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp
và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành
đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư,
nhiều công trình trọng điểm làm cơ sở
cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các
công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu...
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn FDI cao hơn mức
tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH - HĐH, tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn FDI
trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 43,7% năm
2004 và 2005, 44,2% năm 2006).
FDI đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều
ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép,
điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm
, da giày, dệt

may… Hiện FDI đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp (dầu
khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng điện tử, 76%
dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng may
mặc.
FDI đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại
hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai k
ém màu mỡ.
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn FDI trong các năm qua
tăng liên tục. Năm 1996 chiếm 26,5% đến năm 2000 đạt 41,3%. Trong 5 năm từ
2001 - 2005 chiếm trung bình 42,7% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ
thể tỷ trọng trên tăng từ 41,5% vào năm 2001 lên 43,7% vào năm
2005; năm 2006

×