Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận cao học Đảng bộ tỉnh bến tre lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.53 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN
Đề tài :

ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Hà Nội., Tháng 10 năm 2011


2

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẢNG
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI................................................................2
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại........................................2
1.2. Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại trong 25 năm đổi mới.......................3
1.3. Nội dung Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay...6
1.4. Nguyên tắc Đảng lãnh công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay..............8
1.5. Phương thức Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay.......9
Chương 2 ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐỐI
NGOẠI CỦA TỈNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...................................12
2.1. Khái quát về Bến Tre............................................................................12
2.2. Thực trạng Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác đối ngoại
trong giai đoạn hiện nay..........................................................................................13
2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân của sự hạn chế trong công tác đối
ngoại tỉnh Bến Tre trong thời gian qua....................................................................20
2.4. Một số giải pháp nhằn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Bến Tre đối với công tác đối ngoại của tỉnh....................................................22


KẾT LUẬN............................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................25


3

MỞ ĐẦU

Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã thu được những thành tựu rất đáng
khích lệ. Một trong những nguyên nhân cơ bản của những thắng lợi đó là do Đảng
Cộng sản Việt Nam đã có những chính sách đối nội và đối ngoại đúng đắn. Kế tục
tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và truyền thống đối ngoại của dân
tộc, ngoại giao của Việt Nam trong 25 năm đổi mới đã vượt qua nhiều khó khăn,
thử thách, tiếp tục “được mùa” trong những năm đầu của thế kỉ XXI, đóng góp
quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Trong tình hình hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính
sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với các nước trên thế giới, trung
thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội
chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các lực lượng tiến bộ đấu tranh
cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đồng thời phát triển quan
hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới.
Trên cơ sở những định hướng về đối ngoại của Trung ương và thực tế tình
hình địa phương Đại hội Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ IX (2010) đã đề ra đường
lối đối ngoại trong giai đoạn hiện nay là “Tăng cường công tác đối ngoại, hợp tác
giao lưu văn hóa, du lịch với các tổ chức quốc tế và một số vùng, địa phương nước
ngoài tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế, du lịch, giao lưu văn hóa…”.1
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì công tác đối ngoại của
Việt Nam nói chung và của tỉnh Bến Tre nói riêng vẫn còn một số tồn tại cần được
khắc phục. Để công công cuộc đổi mới đất nước ta tiếp tục đạt được những thành

tựu và nâng cao vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế thì công tác đối ngoại là
một trong những ngành phải đi đầu chính vì vậy tôi đã chọn vấn đề “Đảng bộ tỉnh
Bến Tre lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài tiểu
luận của mình.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lẫn thứ XI. Nxb.
Chính trị quốc gia, HN. 2011, Tr 235.


4

NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẢNG
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại
Hòa bình, hợp tác và phát triển luôn là nội dung xuyên suốt của ngoại giao
Việt Nam. Hòa bình, độc lập tự chủ để phát triển và phát triển nhằm bảo vệ hòa
bình, độc lập tự chủ là khát khao cháy bỏng và là mục tiêu của sự nghiệp đấu tranh
anh dũng của dân tộc Việt Nam với sự hy sinh xương máu của biết bao thế hệ
người Việt. Dưới thời đại Hồ Chí Minh, Người đã phát triển đường lối đối ngoại vì
hòa bình, hợp tác và phát triển lên tầm cao mới.
Hồ Chí Minh đã khẳng định đa dạng hóa quan hệ quốc tế, làm bạn với tất cả
các nước dân chủ. Một phần quan trọng trong đường lối đối ngoại của Hồ Chí
Minh là hợp tác với các nước láng giềng ở châu Á. Đặc biệt, Người hết sức chú
trọng đến quan hệ với các nước láng giềng có chung đường biên giới như Trung
Quốc, Lào và Campuchia.
Bằng trí tuệ ưu việt và tài năng ngoại giao xuất chúng, Hồ Chí Minh đã viết
nên một chương mới đặc sắc cho lịch sử bang giao giữa hai nước láng giềng mà ở
giai đoạn này được Người khái quát một cách chính xác “vừa là đồng chí, vừa là
anh em”. Với Lào và Campuchia, Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện chính sách

dân tộc tự quyết và tăng cường đoàn kết giữa ba nước Đông Dương nhằm đấu
tranh chống kẻ thù chung. Nước Việt Nam độc lập do Người làm Chủ tịch khẳng
định: “đặc biệt đối với nhân dân bạn Khmer và Lào, nước Việt Nam đặt mối quan
hệ dựa trên nguyên tắc dân tộc tự quyết”. Trong ứng xử với các nước lớn, Người
luôn dựa trên cơ sở các nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ, tranh thủ hợp tác quốc
tế, vừa hợp tác, vừa đấu tranh và bảo đảm lợi ích chính đáng của dân tộc.


5

Trong hoạt động ngoại giao, Hồ Chủ tịch căn dặn: “Người ta cương thì
mình phải nhu, phải khôn khéo lấy nhu thắng cương thì mới là biết mình biết
người” và “phải hiểu cả hai bên mới có thể làm tròn nhiệm vụ”.
Đường lối đối ngoại vì hòa bình, hợp tác và phát triển giữa các dân tộc của
Hồ Chí Minh có sức sống vượt thời gian. Trên con đường phát triển của mình,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đường lối đối ngoại Hồ Chí Minh
vì hòa bình, hợp tác và phát triển bởi lẽ đường lối ấy có lợi cho Việt Nam, có lợi
cho các dân tộc ở khu vực và trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại tiếp tục là kim chỉ nam dẫn đường cho
cách mạng Việt Nam nói chung và sự nghiệp đối ngoại của Việt Nam nói riêng.
Trong mỗi bước tiến của dân tộc, những người chiến sĩ trên mặt trận đối ngoại lại
tìm được những triết lý và chỉ dẫn quý báu từ Tư tưởng Hồ Chí Minh và càng nhận
thức sâu sắc hơn kho tư tưởng đó, để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ đối ngoại được
Đảng, Bác Hồ và Nhà nước giao phó.
1.2. Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại trong 25 năm đổi mới
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc, do chủ quan, nóng
vội, duy ý chí và sự yếu kém của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp,
đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Đời sống nhân dân hết
sức khó khăn, trong khi đất nước rơi vào tình thế bị bao vây, cấm vận nặng nề.
Trên cơ sở phân tích một cách khoa học tình hình thế giới với thái độ nhìn thẳng

vào sự thật, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã phân tích một cách khách
quan những sai lầm, khuyết điểm và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng và đi đến
quyết định lịch sử là tiến hành đổi mới đất nước một cách toàn diện, trước hết là
đổi mới về kinh tế. Về đối ngoại, Đại hội VI nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là "...
tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc"... và " cần hoà bình để phát triển kinh tế" 1. Nghị quyết của Đại
hội VI và các nghị quyết của Trung ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở theo đường lối đổi mới của Đảng, nhiệm vụ
hàng đầu của ngoại giao lúc này là phải phá cho được "tảng băng" bao vây, cấm vận.
1. Nguyễn Trọng phúc. Các Đại hội Đại biểu toàn quốc từ 1930 – 2006. Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2007. Tr.111.


6

Đại hội VI, Đảng ta đã chính thức tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng đàm phán
với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường
hoá quan hệ giữa hai nước. Đến năm 1991 hai nước đã bình thường hóa quan hệ
với nhau. Quan hệ giữa hai Đảng cũng đã được phục hồi trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau.
Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI) tháng 5-1988 là mốc khởi đầu
của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta. Nghị
quyết nhận định rằng, tình trạng kinh tế yếu kém, tình thế bị bao vây về kinh tế và
cô lập về chính trị sẽ thành nguy cơ lớn đối với an ninh và độc lập dân tộc. Hội
nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), Hội nghị Trung ương 7 (tháng 8-1989) và Hội
nghị Trung ương 8 (tháng 3-1990) của khóa VI với "các nguyên tắc cơ bản cần
được quán triệt trong quá trình đổi mới" và các nghị quyết "Một số vấn đề cấp
bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay", "Tình
hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ

cấp bách của Đảng ta" đã tập trung đánh giá tình hình thế giới liên quan đến
những biến động xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đề ra
các quyết sách đối phó với những tác động phức tạp từ diễn biến của tình hình thế
giới đối với nước ta và công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Trên tinh thần đó, trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội" và "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm
2000" tiếp tục khẳng định mục tiêu chiến lược nhất quán là "tiếp tục sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, ngoại giao Việt Nam đã tỏ ra năng
động và sáng tạo hơn, đẩy mạnh các hoạt động nhằm góp phần vào việc phá vỡ thế
bao vây cô lập. Kết quả là ngày 3-2-1994 Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận kinh tế đối với
Việt Nam và ngày 11-7-1995 Tổng thống B.Clintơn tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh
cấm vận, chính thức đặt dấu mốc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt


7

Nam. Việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ đã giúp ta khai thông quan hệ với
Liên minh châu Âu(EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, gia nhập Tổ chức Hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương(APEC) và các tổ chức quốc tế khác. Quan hệ giữa ta
với các nước bạn bè cũ ở Đông Âu được xác định lại trên cơ sở mới. Ngày 28-71995, chúng ta đã gia nhập ASEAN, ta đã nhanh chóng tham gia Hiệp định
Thương mại tự do ASEAN (AFTA).
Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết chuyên
đề về công tác đối ngoại. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
(tháng 1-1994) và Đại hộiVIII (tháng 6-1996) của Đảng ta đã chính thức khẳng
định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ với tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta tiếp

tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ hơn và
một tâm thế chủ động hơn bằng tuyên bố "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" 1.
Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh
vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực" 2.
Tính đến năm 2010, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 179 nước trên
thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, ta có quan hệ bình thường và đầy đủ với tất cả
các nước lớn G-8, trong đó nhiều nước đã trở thành đối tác chiến lược của ta. Đồng
thời, ta trở thành thành viên tích cực của Liên hợp quốc, Phong trào Không liên
kết, ASEAN, APEC, Cộng đồng Pháp ngữ v.v.. Mặt khác, cơ quan đại diện của ta
ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán,
4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hoá
1, 2. Nguyễn Trọng Phúc. Các Đại hội Đại biểu toàn quốc. Nxb. Chính trị quốc gia.
Hà Nội, 2007. Tr. 629, 714.


8

kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
của hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa..." và
"Việt Nam là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới" .
Sau hơn 11 năm chuẩn bị và đàm phán, tháng 11-2006 Việt Nam được kết nạp làm
thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Hiện nay ta có quan
hệ đầu tư với khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các chuyến thăm nước ngoài
của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta với nội dung kinh tế phong phú đã tạo những
bước đột phá lớn trong việc thiết lập khuôn khổ hợp tác kinh tế, đưa quan hệ giữa

nước ta với các đối tác lên tầm cao mới; đồng thời làm cho thế giới có những đánh
giá tích cực về triển vọng phát triển của kinh tế Việt Nam.
Như vậy, nhờ sự điều chỉnh đúng đắn đường lối đối ngoại, trên cơ sở nhận
thức sâu sắc những biến chuyển của thời cuộc, chúng ta đã đạt được thành tựu
bước đầu quan trọng là phá bỏ sự bao vây cấm vận, gỡ bỏ những trở ngại trong
quan hệ quốc tế và khu vực, khơi thông dòng chảy hội nhập, bước vào trường quốc
tế với một tư cách, vị thế và hình ảnh mới, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của
ngoại giao Việt Nam trong 25 năm đổi mới.
1.3. Nội dung Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra khi đất nước ta bước vào thập
niên thứ hai của thế kỷ 21. Ðại hội Ðảng đã thông qua ba văn kiện quan trọng:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa X tại Ðại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Ðảng.
Ba văn kiện quan trọng này đã nêu nội dung cơ bản chỉ đạo cả lâu dài, trung
hạn và ngắn hạn về đường lối đối ngoại, tạo thành một thể thống nhất. Chiến lược
cụ thể hóa đường lối đối ngoại nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2011 - 2020.


9

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác
và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ
quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực,
giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động

tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế.
Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ
chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.
Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích
quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương
Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc.
Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc
đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi
khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên
quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại
mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, việc xác
định ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt
công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác
cùng phát triển.
Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước
láng giềng có chung biên giới. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các
nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối


10

tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á Thái Bình Dương.
Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng
cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc
lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; mở rộng tham gia các cơ
chế, diễn đàn đa phương ở khu vực và thế giới. Coi trọng và nâng cao hiệu quả của
công tác ngoại giao nhân dân.

Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối
ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; thường
xuyên bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với
ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
1.4. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Về nguyên tắc của Đảng lãnh đạo đối ngoại, văn kiện Ðại hội XI nêu: "Vì
lợi ích quốc gia, dân tộc”. Cùng với lợi ích quốc gia, dân tộc, Ðại hội XI cũng đặt
nguyên tắc đối ngoại là "vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh".
Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở
cơ bản để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp lợi ích quốc gia dân tộc và là
điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó.
Lần đầu tiên, nguyên tắc đối ngoại "vì lợi ích quốc gia, dân tộc" được nêu rõ
trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo Chính trị tại Ðại hội Ðảng. Nói
như vậy không có nghĩa Ðảng ta chưa từng xác định mục tiêu đối ngoại là vì lợi
ích quốc gia, dân tộc. Từ khi Ðảng ra đời, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn luôn là
mục tiêu phấn đấu của Ðảng ta. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI đã khẳng
định "lợi ích cao nhất của Ðảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa


11

bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế". Nghị quyết Trung ương 8,
khóa IX nhấn mạnh "bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc" là một trong những nguyên
tắc then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong
văn kiện Ðại hội XI của Ðảng có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định rõ hơn định

hướng: Ðảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích
quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của
giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc
Đảng lãnh đạo đối ngoại cũng có nghĩa là Ðại hội đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là
nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích
quốc gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao
Nhà nước, đối ngoại Ðảng đến ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ.
1.5. Phương thức Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Về phương thức của đường lối đối ngoại, các văn kiện của Ðại hội
khẳng định: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Ðiểm mới trong phương thức đối ngoại của
Ðại hội XI là "hội nhập quốc tế" và "thành viên có trách nhiệm".
Về hội nhập quốc tế, Ðại hội XI chuyển từ chủ trương "Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên
các lĩnh vực khác" được thông qua tại Ðại hội X sang "chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế". Với chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp
trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính
trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội...
Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mang đến cho chúng ta nhiều
cơ hội, nhất là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực bên ngoài.
Cùng với hội nhập kinh tế, hội nhập trong các lĩnh vực khác sẽ tạo cơ hội


12

lớn hơn trong tiếp cận tới tri thức tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ
đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất nước trở thành bộ phận hữu cơ của
khu vực và thế giới, chiếm vị trí ngày càng cao trong nền kinh tế, chính trị

và văn hóa toàn cầu. Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực cũng tạo cho chúng
ta khả năng tận dụng được sự tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau giữa hội
nhập trong từng lĩnh vực. Tuy nhiên, từ hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng
hợp tác trong các lĩnh vực khác chuyển sang hội nhập quốc tế trên tất cả các
lĩnh vực đặt ra cho chúng ta một số thách thức mới. Tác động tiêu cực từ các
diễn biến bên ngoài sẽ gia tăng. Những bất ổn không chỉ về kinh tế mà cả về
an ninh, chính trị, xã hội từ bên ngoài sẽ nhanh chóng tác động tới nước ta;
các loại tội phạm xuyên biên giới như: Buôn bán ma túy, rửa tiền, thâm
nhập tiền giả, tài liệu phản động, văn hóa phẩm không lành mạnh và các
thách thức an ninh phi truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt của
an ninh quốc gia, từ an ninh kinh tế đến an ninh chính trị xã hội. Phạm vi và
tốc độ lây lan của các cú sốc từ bên ngoài cũng gia tăng. Ðồng thời, yêu cầu
bổ sung và hoàn thiện thể chế; cải cách và hiện đại hóa nền hành chính quốc
gia, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, v.v... sẽ
ngày càng lớn.
Theo đó, để giảm các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các cơ hội
từ hội nhập quốc tế, nội hàm và lộ trình của hội nhập trong các lĩnh vực
chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội cần phải được xác định
phù hợp với thế, lực của đất nước và bối cảnh tình hình đất nước sao cho hội
nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu phát triển, bảo vệ Tổ quốc Xã
hội chủ nghĩa và vị thế quốc gia.
Từ đường lối đối ngoại trên cơ sở tuyên bố "muốn là bạn" (Ðại hội
Ðảng lần thứ VII, lần thứ VIII), "là bạn, là đối tác tin cậy" (Ðại hội Ðảng
lần thứ IX), Ðại hội Ðảng lần thứ XI hoàn chỉnh và bổ sung thêm cụm từ là
"thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế". Nội hàm này thể hiện
bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích


13


cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế tổ chức, diễn đàn
khu vực, đa phương và toàn cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng cố,
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả
cho ngoại giao song phương. Nội hàm mới này là một trong những cơ sở để
xác định một trong những ưu tiên đối ngoại trong thời gian tới là "xây dựng
Cộng đồng ASEAN vững mạnh". Tuy vậy, trách nhiệm bao gồm những gì và
thực hiện trách nhiệm như thế nào luôn luôn cần được tính toán kỹ trên cơ
sở lợi ích quốc gia dân tộc, năng lực thực hiện của ta trong từng vấn đề,
từng giai đoạn. Trách nhiệm cần được xác định theo các cấp độ: Trách
nhiệm đối với dân tộc của mình; trách nhiệm đối với khu vực của mình;
trách nhiệm đối với những vấn đề chung của nhân loại.


14

Chương 2

ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI
CỦA TỈNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Khái quát về Bến Tre
Tỉnh Bến Tre là một trong 13 tỉnh nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long, có diện tích tự nhiên là: 2.315 km2, được hình thành bởi các cù lao An Hoá,
cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ mà thành
(gồm sông Tiền dài 83 km, sông Ba Lai 59 km, sông Hàm Luông 71 km, sông Cổ
Chiên 82 km).
Địa hình của Bến Tre bằng phẳng, Phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía nam
giáp tỉnh Trà Vinh, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Long, phía đông giáp biển Đông, với
chiều dài bờ biển là 65 km. Những con sông lớn nối từ biển Đông qua các cửa
sông chính (cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên), ngược về phía
thượng nguồn đến tận Campuchia; Từ Bến Tre, tàu bè có thể đến thành phố Hồ

Chí Minh và các tỉnh miền Tây. Ngược lại, tàu bè từ thành phố Hồ Chí Minh về
các tỉnh miền Tây đều phải qua Bến Tre. Song song với giao thông thủy, ở Bến
Tre, hệ thống giao thông đường bộ cũng có một vị trí rất đặc biệt. Từ thành phố
Bến Tre đi thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận trong vùng rất thuận lợi.
Đầu năm 2009 Cầu Rạch Miễu, và đầu năm 2010 cầu Hàm Luông công trình
thế kỷ và là niềm mong ước của bao thế hệ người dân Bến Tre đã được khánh
thành nối hai bờ sông Tiền, giúp Bến Tre thoát khỏi thế cô lập về giao thông, rút
ngắn khoảng cách giữa Bến Tre với các tỉnh có nền kinh tế phát triển trong khu
vực và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong tương lai khi cầu Hàm Luông nối liền cù
lao Bảo, cù lao Minh sẽ cùng với hệ thống cầu đường nội tỉnh, ba dải cù lao An
Hoá - Bảo - Minh thông thương là điều kiện giúp cho những tiềm năng kinh tế văn hoá - xã hội của Bến Tre được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ.


15

2.2. Thực trạng Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác đối ngoại trong
giai đoạn hiện nay
2.2.1. Những thành tựu về đối ngoại của tỉnh Bến Tre dưới sự lãnh đạo
của Đảng
Bước vào thời kỳ đổi mới cả nước nói chung tỉnh Bến Tre nói riêng đã có
bước chuyển biến trên lĩnh vực kinh tế xã hội. Trong năm 2010 tốc độ tăng trưởng
kinh tế năm 2010 ước đạt 10,19% vượt 0,19% so với kế hoạch, tăng 2,96% so với
cùng kỳ năm 2009. Về môi trường và hoạt động thu hút đầu tư có sự cải thiện
manh mẽ. Cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông được khánh thành, rồi đường cao tốc
rút ngắn khoảng cách từ thành phố Hồ Chí Minh đến các tỉnh miền Tây góp phần
thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhà đầu tư.
Ngoài các yếu tố về nguồn nhân lực đa dạng, nhà đầu tư biết đến Bến Tre
như một điểm dừng chân mới khi so sánh với các tỉnh trong khu vực động lực kinh
tế phía Nam và các tỉnh Đồng bằng song Cửu Long. Đảng bộ tỉnh Bến Tre cũng đã
rà soát và ban hành nhiều chính sách ưu đãi đầu tư khá tốt trong thẩm quyền, giải

quyết linh hoạt các thủ tục trong cấp phép và triển khai thực hiện sau giấy phép của
nhà đầu tư. Trong những năm qua, vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối đối ngoại
của Đảng và Nhà nước vào điều kiện thực tế của địa phương, Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân tỉnh Bến Tre đã thu được nhiều thành tựu to lớn, góp phần xây dựng
thành công một mô hình tỉnh đồng bằng, biên giới biển với quan hệ hợp tác quốc tế
mở rộng, nền kinh tế - xã hội phát triển và tình hình an ninh – chính trị ổn định.
Bến Tre có mạng lưới giao thông thủy và hệ thống giao thông đường bộ
cũng có một vị trí rất đặc biệt. Thành phố Bến Tre nối liền với thành phố Hồ Chí
Minh và các tỉnh, thành ở Đồng bằng sông Cửu Long. Với trị trí là cầu nối, nằm
trên tuyến hành lang kinh tế ven biển Thành phố Hồ Chí Minh – Tiền Giang – Bến
Tre và trên bộ là Bến Tre - Vĩnh Long – Cần Thơ – Ang Giang tỉnh Bến Tre có
nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biên mậu, kinh tế biển, xuất nhập khẩu....


16

Thực hiện chủ trương quan trọng của Đảng về công tác đối ngoại trong giai
đoạn hiện nay đó là: Mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển, bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế
của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, tỉnh Bến Tre đã quan tâm chú trọng công
tác đối ngoại. Đặc biệt, đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc nội dung
của Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng về “Coi trọng và nâng cao hiệu quả
của công tác ngoại giao nhân dân. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến
lược, tham mưu về đối ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ chủ chốt
các cấp. Đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị, ngoại

giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh”.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX về công tác đối ngoại “Tăng
cường công tác đối ngoại, hợp tác giao lưu văn hóa, du lịch với các tổ chức quốc
tế và một số vùng, địa phương nước ngoài tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh
tế, du lịch, giao lưu văn hóa…”.
Về hợp tác đầu tư:
Bám sát đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng trong tình hình mới, với
chức năng là cơ quan chuyên môn Ủy ban Nhân dân tỉnh thống nhất quản lý các
hoạt động đối ngoại trên địa bàn tỉnh, các sở, ban, ngành trong tỉnh Bến Tre đã
tham mưu tích cực cho Ủy ban Nhân dân tỉnh Bến Tre vận dụng linh hoạt các biện
pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh để tổ chức nhiều hoạt động đối ngoại
thiết thực, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh biên
giới trên biển của tỉnh và thực hiện tốt các vai trò chủ yếu của công tác đối ngoại
như: Mở đường, tham mưu, hỗ trợ, đôn đốc thực hiện các thỏa thuận, cam kết đã


17

được ký kết giữa tỉnh với các đối tác nước ngoài. Qua đó, công tác đối ngoại của
tỉnh Bến Tre đã đạt nhiều kết quả tích cực như:
Đối với hai tỉnh Kandal và Takeo (Vương quốc Campuchia), đây là hai tỉnh
nước bạn được đánh giá là giàu tiềm năng hợp tác; tuy tỉnh Bến Tre không có
chung đường biên giới với Campuchia nhưng hai tỉnh này là thị trường tiêu thụ về
hàng nông sản đặc biệt là trái cây và kẹo dừa của Bến Tre rất lâu đời. Tỉnh Bến Tre
đã tổ chức nhiều hoạt động đối ngoại nhằm thắt chặt mối quan hệ và ký kết các
Biên bản hợp tác đầu tư phù hợp với điều kiện phát triển của tỉnh. Trong thời gian
2005-2010, lãnh đạo cấp cao hai tỉnh đã chính thức ký kết hơn 10 Biên bản hợp tác
toàn diện với nhiều nội dung quan trọng, thiết thực làm cơ sở để các ngành, các địa
phương hai tỉnh triển khai hiệu quả, góp phần đẩy mạnh phát triển nền kinh tế - xã
hội hai bên; trong đó có Biên bản được ký kết giữa Bí thư tỉnh ủy hai tỉnh Bến Tre

và Kadal (tháng 8/2009), đây là Biên bản hợp tác đầu tiên được ký kết giữa các
nhà lãnh đạo Đảng cấp cao của hai tỉnh, ghi nhận một bước tiến mới trong quan hệ
hợp tác, hữu nghị giữa Bến Tre và Kadal (Campuchia).
Phát huy vị trí cầu nối trong tuyến hành lang kinh tế Kadal – An Giang –
Cần Thơ – Vĩnh Long – Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã chủ động, sáng kiến đề xuất tổ
chức Hội nghị hợp tác hành lang kinh tế 5 tỉnh, thành phố là Thành phố Hồ Chí
Minh – Tiền Giang – Bến Tre – An Giang (Việt Nam) và Kadal (Campuchia). Đây
là Hội nghị được tổ chức luân phiên hàng năm để đánh giá kết quả hợp tác phát
triển giữa các tỉnh nằm trong hành lang kinh tế và ký kết những nội dung hợp tác
mới cũng như những cam kết của các bên để cùng ứng phó với khủng hoảng, thách
thức và hợp tác nghiên cứu chiến lược phát triển chung....
Trong khuôn khổ hợp tác giữa các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long với các
tỉnh phía Nam - Campuchia, Bến Tre đã chủ động xây dựng các chương trình hoạt
động đối ngoại thiết thực, phù hợp với điều kiện phát triển của khu vực; đã ký
Thỏa thuận thành lập Nhóm công tác liên hợp giữa các tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long và các tỉnh phía Nam - Campuchia và tổ chức thành công Phiên họp Nhóm
công tác liên hợp đầu tiên tại tỉnh Bến Tre vào tháng 9/2008 tạo tiền đề cho các


18

Phiên họp luân phiên tiếp theo. Đây là mô hình hợp tác mới, với quy mô lớn trong
đó có sự liên kết giữa các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và Campuchia để thống
nhất thực hiện nhiều nội dung hợp tác quan trọng nhằm xây dựng một khu vực hợp
tác hòa bình, hữu nghị, ổn định và cùng phát triển.
Để tăng cường hợp tác phát triển kinh tế, tỉnh Bến Tre đã chủ động xây dựng
và ký kết Đề án Khu hợp tác kinh tế Giao Long với một số nước thuộc tiểu vùng
sông Mekông để mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đã có rất nhiều doanh
nghiệp nước ngoài như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Đài
Loan...đầu tư vào Bến Tre. Đề án có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt và lâu

dài; có ý nghĩa thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội Bến Tre nói riêng và
Việt Nam nói chung; đồng thời đóng góp tích cực vào việc xây dựng và phát triển
Hành lang kinh tế ven biển thành phố Hồ Chí Minh – Long An –Tiền Giang – Bến
Tre..., khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và hợp tác Tiểu vùng sông
Mêkông mở rộng (GMS).
Đặc biệt, Bến Tre là tỉnh đã có quan hệ lâu đời đối với tỉnh Chêrêwoara
(Cuba). Hai tỉnh đã có nhiều văn bản ký kết về hợp tác về nhiều mặt. Bến Tre đã
xuất khẩu nhiều hàng nông, thủy sản sang Cuba và ngược lại. Các phái đoàn ngoại
giao hai tỉnh cũng thường thăm hỏi lẫn nhau.
Về xuất nhập khẩu:
Bằng hàng loạt những chương trình, dự án hợp tác, phát triển nêu trên, Bến
Tre đã tạo dựng, nắm bắt nhiều cơ hội để phát triển kinh tế. Qua đó, kim ngạch
xuất khẩu tăng bền vững qua các năm. Với nỗ lực của các doanh nghiệp, sự hỗ trợ
của các cơ quan quản lý nhà nước, thị trường xuất khẩu của Bến Tre từng bước
được mở rộng.
Nhìn lại chặn đường mười năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội
chung của tỉnh, hoạt động xuất khẩu của Bến Tre phát triển không ngừng. Năm
2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 32 triệu USD, xuất khẩu sang 23 nước và vùng lãnh
thổ. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt 95 triệu USD, thị trường được mở rộng


19

sang 58 nước và vùng lãnh thổ. Đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đã đạt 230
triệu USD, sản phẩm của Bến Tre có mặt trên 80 nước và vùng lãnh thổ.
Hàng xuất khẩu của Bến Tre vào thị trường châu Á tập trung ở các nước khu
vực Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc). Trong đó, Trung Quốc là thị
trường truyền thống có điều kiện tự nhiên thuận lợi, là thị trường dễ tính không yêu
cầu chất lượng hàng hóa cao, mẫu mã đẹp, giá cả cũng dễ thỏa thuận, chi phí vận
chuyển thấp, có thể áp dụng phương thức mua bán linh hoạt.

Trong nhiều năm qua, Bến Tre đã xuất khẩu sang Trung Quốc phần lớn các
sản phẩm dừa và trái cây, là thị trường trung gian chuyên mua nguyên liệu dừa của
Bến Tre để sản xuất ra các sản phẩm tiêu dùng trong nước và tái xuất khẩu.
Những năm gần đây, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành chính sách khuyến
khích sản xuất, các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, tạo ra nhiều
sản phẩm có giá trị gia tăng cao để xuất khẩu sang các thị trường khác, nên hàng
xuất khẩu của Bến Tre vào thị trường Trung Quốc có xu hướng giảm dần, năm
2000 chiếm tỷ trọng 66%, năm 2005 giảm còn 35% và đến năm 2010 giảm còn
18% kim ngạch xuất khẩu chung của tỉnh.
Kế đến là thị trường châu Âu tập trung vào thị trường chung EU bao gồm 27
nước thành viên, thị trường nầy có sức mua lớn giai đoạn 2000- 2005 tăng nhanh,
năm 2000 chiếm tỷ trọng 2%, năm 2005 chiếm tỷ trọng 20%, nhưng sau đó giảm
dần đến năm 2010 còn 14% kim ngạch xuất khẩu chung của tỉnh, do thị trường EU
đòi hỏi chất lượng hàng hóa cao, tiêu chuẩn quốc tế rất nghiêm ngặt, bao bì mẫu
mã đẹp, nhất là phải đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong những năm qua
Bến Tre đã xuất khẩu sang thị trường EU những sản phẩm như thủy sản đông lạnh,
các sản phẩm dừa và hàng may mặc.
Phát triển nhanh nhất là thị trường châu Mỹ, tập trung vào các nước khu vực
Bắc Mỹ như: Hoa Kỳ, Canada, Mexico, là thị trường lớn có nhiều tiềm năng đang
có xu hướng tăng nhanh. Năm 2000, thị trường này chiếm tỷ trọng 1%, năm 2005
chiếm tỷ trọng 6%, sau đó tăng nhanh đến năm 2010 chiếm tỷ trọng 20% kim


20

ngạch xuất khẩu của tỉnh. Các sản phẩm của Bến Tre đã xuất khẩu vào thị trường
châu Mỹ là thủy sản đông lạnh, các sản phẩm dừa, hàng may mặc và hàng thủ công
mỹ nghệ.
Thị trường châu Phi tập trung ở khu vực Trung Đông (Ai ập, Angieria,
Libya…) là thị trường mới có xu hướng tăng nhưng tốc độ còn chậm. Năm 2005,

thị trường này chiếm tỷ trọng 2%, đến năm 2010 tăng lên 5% kim ngạch xuất khẩu
của tỉnh. Các sản phẩm của Bến Tre đã xuất khẩu vào thị trường này là thủy sản
đông lạnh và các sản phẩm dừa.
Sau cùng là thị trường châu Đại Dương tập trung chủ yếu ở hai nước Australia
và New Zealand, tỷ trọng nhỏ, năm 2010 đạt khoảng 1%, hàng xuất khẩu của Bến Tre
vào thị trường này là các sản phẩm dừa nhưng còn rất hạn chế do sự cạnh tranh sản
phẩm đồng dạng của Trung Quốc và các nước lân cận trong khối ASEAN.
Nhìn chung, thị trường xuất khẩu của Bến Tre luôn được mở rộng, góp phần
tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh phát triển
theo hướng tích cực, tăng xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, giảm dần xuất
khẩu hàng thô, sơ chế, từng bước nâng cao giá trị hàng xuất khẩu. Cơ cấu thị
trường có sự chuyển dịch từ một số nước là thị trường trung gian ở châu Á sang thị
trường trực tiếp EU, châu Mỹ có nhiều tiềm năng.
Về Đối ngoại nhân dân:
Đối ngoại nhân dân là bộ phận cấu thành quan trọng của mặt trận ngoại giao
nước nhà, góp phần thực hiện nhiệm vụ, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta, phục vụ sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Qua hơn 17 năm thực hiện Chỉ
thị số 44-CT/TW, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Bến Tre công tác đối ngoại nhân
dân tỉnh đã có những chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả, góp phần
quan trọng vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, mở rộng quan hệ hữu
nghị, hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế và uy


21

tín của nước ta trên trường quốc tế, góp phần xây dựng lòng tin và hiểu biết lẫn
nhau giữa nhân dân Bến Tre nói riêng và Việt Nam nói chung với bạn bè quốc tế.
Lực lượng tham gia hoạt động đối ngoại nhân dân trong tỉnh không ngừng
được mở rộng, phát triển nhanh về số lượng và được nâng cao một bước về chất

lượng. Từ 20 tổ chức vào năm 1994, đến năm 2010 có trên 50 đoàn thể và tổ chức
nhân dân trong tỉnh tham gia (nòng cốt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bến
Tre, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Liên đoàn lao động, Hội Cựu chiến
binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị
Việt Nam, v.v..) và nhiều tổ chức ở các địa phương tham gia.
Nội dung, phương thức, lĩnh vực, địa bàn hoạt động và đối tác quan hệ trên
kênh đối ngoại nhân dân ngày càng phong phú, đa dạng, góp phần hình thành và
từng bước mở rộng mạng lưới bạn bè thế giới, đối tác quốc tế; tranh thủ được
nguồn lực quốc tế, đóng góp vào việc phát triển kinh tế - xã hội, tuyên truyền,
quảng bá về đất nước và con người Bến Tre; tích cực tham gia cuộc đấu tranh trên
lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, chống âm mưu "diễn biến hòa
bình" của các thế lực thù địch; bày tỏ tình đoàn kết quốc tế với bạn bè truyền thống
và nhân dân thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Ngoài những chương trình, đề án mang tính chiến lược kể trên, Đảng bộ tỉnh
Bến Tre cho phép nhiều đoàn cán bộ các sở, ngành, các địa phương thuộc tỉnh
tham gia giao lưu hữu nghị, đàm phán, ký kết các nội dung hợp tác cụ thể trên các
lĩnh vực như giáo dục, y tế, công nghiệp, xây dựng, tư pháp....Ủy ban Nhân dân
tỉnh cũng đã làm tốt công tác theo dõi, đôn đốc các bên liên quan thực hiện nghiêm
túc và hiệu quả các nội dung đã ký kết góp phần nâng cao năng lực của công tác
ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế của tỉnh.
Về du lịch:
Tiềm năng du lịch Bến Tre khá phong phú, đa dạng. Ngoài du lịch sinh thái,
du lịch sông nước miệt vườn, cồn bãi ven sông, ven biển còn có các khu di tích văn


22

hóa lịch sử, du lịch văn hóa - lễ hội (Lễ hội Bến Tre Đồng khởi và đội quân tóc dài,
lễ hội Dừa, Lễ hội Lăng Nguyễn Đình Chiểu…). Các lợi thế đó đã góp phần rất lớn

thu hút du khách đến Bến Tre ngày càng đông, đặc biệt là du khách nước ngoài.
Từ năm 2000 trở đi, lượng khách đến Bến Tre mỗi năm khoảng 155.122
lượt, tốc đô tăng trưởng bình quân 11,23%/năm.
Năm 2008, hệ thống các tuyến điểm du lịch trong tỉnh đã hình thành và hoàn
thiện, thu hút 415.247 lượt du khách, trong đó, khách quốc tế 174.000 lượt, tăng
2,67 lần so năm 2000, tốc độ tăng trưởng bình quân 13,10%/năm.
Tính chung, giai đoạn 1996-2008 tốc độ tăng trưởng bình quân về khách du
lịch đến Bến Tre đạt mức 12,38%/năm. Riêng từ đầu năm 2011 đến nay toàn tỉnh có
318.221 lượt khách du lịch đến Bến Tre, trong đó khách quốc tế có 187.393 lượt.
2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân của sự hạn chế trong công tác đối
ngoại tỉnh Bến Tre trong thời gian qua
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì công tác đối ngoại của tỉnh vẫn tồn
tại một số hạn chế cần được khắc phục để sự lãnh đạo của Đảng với công tác đối
ngoại mang lại hiệu quả hơn.
Trước hết, tập trung tháo gỡ rào cản về giao thông để đẩy mạnh hơn nữa
quan hệ đặc biệt với một số tỉnh miền Nam Campuchia như Kaldal và Ta Keo.
Những năm gần đây, quan hệ giữa Bến Tre với một số tỉnh miền Nam Campuchia
ngày càng đi vào chiều sâu. Tuy vậy, kết quả hợp tác trên chưa thỏa đáng với tiềm
năng, lợi thế và tình cảm đặc biệt giữa đảng bộ, chính quyền và nhân dân hai tỉnh.
Một trong những nguyên nhân của sự phát triển hợp tác giữa hai địa phương chưa
tương xứng với tiềm năng là do cách trở về địa hình, giao thông đi lại giữa hai tỉnh
gặp nhiều khó khăn. Bến Tre muốn qua Capuchia phải đi qua một số tỉnh của vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, do đoạn đường xa và hạ tầng giao thông nhìn chung
còn kém nên còn gặp phải một số khó khăn. Vì vậy, Chính phủ hai nước cần quan
tâm chỉ đạo tập trung các nguồn lực, khẩn trương xây dựng hoàn thành hệ thống
giao thông và các công trình hạ tầng kỹ thuật khác như bến cảng, kho, bãi...


23


Thứ hai: Bên cạnh các thỏa thuận hợp tác được ký với các địa phương
của Campuchia, Trung Quốc, Đài Loan đã mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội nhất
định, các thỏa thuận hợp tác khác hầu như chỉ dừng lại ở mức độ tiềm năng, trao
đổi đoàn, thăm viếng lẫn nhau là chính. Trong khi đó, tiềm năng và cơ hội chuyển
hóa các nội dung đã được cam kết trong thỏa thuận hợp tác thành các chương trình,
dự án hợp tác cụ thể luôn rộng mở. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do việc
nghiên cứu, tìm hiểu về đối tác của cả hai bên còn chưa đầy đủ. Điều đó dẫn đến
việc khi xây dựng văn kiện thỏa thuận hợp tác, không xác định được nội dung hợp
tác cụ thể. Mặt khác,nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động nghiên cứu ban
đầu thấp làm hạn chế các biện pháp nghiên cứu và hiệu quả nghiên cứu.
Thứ ba: Dù Chỉ thị 44-CT/TW về mở rộng và đổi mới hoạt động đối ngoại
nhân dân của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) đã có… 17 năm trước
nhưng thực tế ở Bến Tre, đối ngoại nhân dân vẫn là một khái niệm khá xa lạ.
Trong khi đó, với tình hình trong nước và thế giới hiện nay, đối ngoại nhân dân
thật sự là một kênh quan trọng để quảng bá hình ảnh của quê hương với bạn bè thế
giới, là nhịp cầu kết nối với người Bến Tre xa quê hương. Trong các tổ chức thuộc
lĩnh vực đối ngoại nhân dân, Bến Tre chỉ duy nhất có Hội Liên lạc Việt kiều Bến
Tre của thành phố Bến Tre. Hoạt động của Hội này là tổ chức họp mặt bà con kiều
bào mỗi năm đúng một lần vào dịp Tết Nguyên đán, khi bà con về quê ăn Tết,
ngoài ra gần như không có hoạt động gì. Vì vậy, việc vận động người Bến Tre ở
nước ngoài hướng về Tổ quốc thời gian qua vẫn chưa được làm tốt.
Thứ tư, hiện nay ngành du lịch Bến Tre vẫn chưa thể khai thác hết tiềm
năng, thế mạnh của mình mặc dù điều kiện thiên nhiên có nhiều ưu đãi. có thể thấy
rằng tuy lượng khách đến Bến Tre có tăng qua từng năm nhưng thật sự còn rất thấp
so với các tỉnh trong khu vực, nhất là tỉnh chưa có điểm nào để giữ chân khách
nhiều ngày mà chủ yếu là du khách đến chỉ trong ngày rồi ra đi là chính. Vì thế,
làm cách nào để nâng cao chất lượng các tuyến, điểm du lịch để thu hút du khách
là vấn đề bức xúc đặt ra cho ngành du lịch Bến Tre.



24

Thứ năn, thị trường xuất khẩu của Bến Tre phát triển mạnh về chiều rộng
nhưng chưa đi vào chiều sâu và thiếu bền vững. Tính đến nay, hàng hóa của Bến
Tre có mặt tại trên 80 nước và vùng lãnh thổ, nhưng thực chất chỉ duy trì được
thường xuyên khoảng 70 nước và vùng lãnh thổ, số còn lại chỉ xuất khẩu để chào
hàng hoặc do nhiều nguyên nhân đã làm mất thị trường.
Mặt khác, khủng hoảng tài chính toàn cầu làm giảm nhu cầu tiêu thụ tại các
thị trường chính, hiện nay tuy đã phục hồi nhưng còn chậm. Việc thâm nhập vào
các thị trường mới vẫn còn nhiều khó khăn, tiềm ẩn nhiều rủi ro do có sự cạnh
tranh sản phẩm cùng loại của các nước xuất khẩu. Đặc biệt là rào cản kỹ thuật để
bảo hộ sản xuất trong nước của các nước nhập khẩu ngày càng khắc nghiệt, thường
bị vướng các vấn đề như chống phá giá, truy xuất nguồn gốc hàng xuất khẩu, dư
lượng kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất xử lý bảo quản hàng hóa được
phép sử dụng. Trong thời gian tới tình hình quốc tế và trong nước sẽ có sự diễn
biến theo hướng thuận lợi và khó khăn đan xen, tác động lẫn nhau. Hội nhập kinh
tế quốc tế làm cho sự phụ thuộc giữa các nước tăng lên.
Biến động trên thị trường thế giới sẽ có tác động mạnh đến sản xuất hàng
hóa trong tỉnh cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do
đó, các cơ quan quản lý nhà nước phải thường xuyên phân tích, dự báo, thông tin
tình hình thị trường. Các doanh nghiệp phải năng động, phản ứng tích cực, nhanh
chóng trước những biến động của thị trường trong và ngoài nước. Do vậy, các
doanh nghiệp cần nghiên cứu nắm chắc tình hình thị trường, mạnh dạn đầu tư máy
móc thiết bị, đổi mới công nghệ, tổ chức lại sản xuất, lựa chọn tập trung sản xuất
những sản phẩm có giá trị gia tăng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường.
2.4. Một số giải pháp nhằn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Bến Tre đối với công tác đối ngoại
Thứ nhất, tích cực thực hiện chủ trương lớn của tỉnh Bến Tre là triển khai
đồng bộ, toàn diện các hoạt động đối ngoại. Theo đó, giải pháp lớn là phối hợp
chặt chẽ, hài hòa, hiệu quả ba trụ cột đối ngoại là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà

nước và đối ngoại nhân dân. Triển khai công tác đối ngoại trên bình diện rộng, với


25

yêu cầu kết hợp hài hòa đối ngoại chính trị với ngoại giao kinh tế, đối ngoại quốc
phòng, an ninh, văn hóa đối ngoại.
Thứ hai, một yêu cầu lớn đặt ra cho công tác đối ngoại nói chung và đối
ngoại đảng nói riêng là khi triển khai các hoạt động cụ thể phải luôn luôn “vì lợi
ích quốc gia, dân tộc” và “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”.
Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là đặt lợi
ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Để đạt
được mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ bao trùm của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường
hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước nói chung và
của tỉnh Bến Tre nói riêng;
Thứ ba, phải rất coi trọng công tác nắm diễn biến tình hình, phân tích sâu sắc tình
hình, dự báo sát những diễn biến trên thế giới và của các quốc gia, nhất là những đối tác
lớn để triển khai các hoạt động đối ngoại một cách chủ động, có tầm chiến lược, sớm xây
dựng chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế, xác định rõ mục tiêu, quan điểm, lộ trình,
lực lượng, v.v.. của hội nhập.
Thứ tư, tích cực đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại, theo đó cần
chú trọng thông tin cho bạn bè thế giới hiểu rõ, hiểu đúng về đường lối đổi mới, đường lối
đối ngoại của Bến Tre.
Thứ năm, trong lĩnh vực đối ngoại Đảng bộ Bến Tre, cần tiếp tục phát triển sâu
rộng quan hệ với các chính đảng trên thế giới; thúc đẩy quan hệ với các đảng cộng sản và
công nhân, các đảng cánh tả đi vào chiều sâu và thực chất hơn; mở rộng quan hệ với các
đảng cầm quyền, các đảng tham chính và các đảng khác ở các quốc gia, nhất là ở những
nước lớn, có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của ta; chủ động và tích cực hơn
trong việc tham gia các diễn đàn đa phương chính đảng ở khu vực và thế giới. Quan hệ

Đảng vừa cần mở rộng bình diện quan hệ, vừa đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm,
vừa đáp ứng quan hệ đối ngoại trước mắt, vừa linh hoạt thích ứng với những chuyển biến
hết sức nhanh chóng trên chính trường của các quốc gia trên thế giới.


×