Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Sự cần thiết của hoạch định tổng hợp cho các mặt hàng nông sản tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.02 KB, 19 trang )

Mục lục

1


MỞ ĐẦU
Sự cần thiết của hoạch định tổng hợp cho các mặt hàng nông sảntại Việt Nam

Hoạch định tổng hợp là một trong những chức năng quan trọng trong quản
trị sản xuất/tác nghiệp. Phạm vi ứng dụng của hoạch định tổng hợp rất rộng từ
những doanh nghiệp sản xuất đến các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ như bệnh
viện, ngân hàng, trường học…ở Việt Nam, hoạch định tổng hợp đang được các nhà
quản trị quan tâm đặc biệt trong lĩnh vực hàng nông sản xuất khẩu. Do đặc điểm
nước ta là một nước nông nghiệp, lượng lao động trẻ và dồi dào, công nghệ kĩ
thuật đang từng bước tiếp cận với khu vực nhưng vẫn chịu ảnh hưởng bởi khí hậu
nhiệt đới gió mùa…trong khi đó chỉ số phát triển năng lực cạnh tranh khu vực
kinh tế tư nhân giảm; không có cải thiện đáng kể trong thu hút đầu tư nước ngoài;
năng lực cạnh tranh hàng hóa nông sản vẫn chưa cao; năng lực cạnh tranh của các
DN trong khu vực về sản phẩm còn thấp hơn sản phẩm cùng loại của nhiều nước
trong khu vực châu Á và thế giới.
Khi môi trường kinh doanh hiện đại với áp lực cạnh tranh ngày một gia tăng
buộc doanh nghiệp luôn tìm kiếm giải pháp cung cấp sản phẩm và dịch vụ tới
khách hàng nhanh hơn, rẻ hơn, và tốt hơn đối thủ. Để vươn tới mục tiêu này, doanh
nghiệp sản xuất đang nỗ lực hoàn thiện công tác quản lý để sử dụng hiệu quả nhất
các nguồn lực trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Bài phân tích sau sẽ đóng góp một phần nào đó giúp chúng ta có cái nhìn
tổng quát hơn về hoạch định tổng hợp để từ đó các nhà quản trị có hướng đi đúng
đắn cho doanh nghiệp mình.

2



I.

Khái quát về hoạch định tổng hợp.
1. Bản chất của hoạch định tổng hợp
Hoạch định tổng hợp là xác định số lượng sản phẩm và phân bố thời gian sản
xuất cho một tương lai trung hạn, thường từ 3 tháng đến 3 năm.
Thực chất là việc nhà quản trị phải làm sao tìm ra cách tốt nhất, hợp lý nhất với
chi phí thấp nhất để thực thi đáp ứng nhu cầu trung hạn đã được dự báo.
Có 3 loại kế hoạch ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, trong đó trung hạn là hạt nhân
của hoạch định tổng hợp:

Kế hoạch
Kế hoạch dài hạn

Kế hoạch trung hạn

Nội dung
Thời gian

Trên 1 năm

Từ 6 tháng đến 3 năm

Căn cứ
xây dựng

Thuộc về chiến lược của
doanh nghiệp


Nội dung
kế hoạch

- Nghiên cứu, phát triển
sản phẩm mới
- Định vị doanh nghiệp
- Đầu tư thiết bị

Kết quả

- Tạo sản phẩm mới,
công nghệ mới
- Công suất còn thay đổi

Người lập

Tổng (phó) giám đốc

Kế hoạch ngắn hạn

Dưới 6 tháng
Căn cứ vào kế hoạch dài
Được xây dựng sau khi
hạn, thường là kế hoạch
đã có kế hoạch dài hạn
ngày, tuần, tháng, quý
- Sắp xếp nhân lực
- Điều độ sản xuất
- Kế hoạch bán hàng, dự - Đặt hàng
trữ

- Lập lịch trình sản xuất
- Thay đổi giờ làm, thuê - Nhu cầu nguyên vật
gia công ngoài
liệu
Công suất không thay
Phân công, bố trí, ưu
đổi, nhiều cách để sử
tiên
dụng tốt nhất công suất
Giám đốc, trưởng
Quản đốc, tổ trưởng
phòng

Theo cách tiếp cận thời gian như trên, hoạch định tổng hợp là quá trình lập kế
hoạch, phân bổ và bố trí các nguồn lực có thể huy động được cho thời kì trung hạn
(từ 6 tháng đến 3 năm) nhằm cân bằng khả năng sản xuất của doanh nghiệp sao
cho phù hợp với nhu cầu sản xuất dự kiến và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Mục tiêu của HĐTH: Mục tiêu của hoạch định tổng hợp là phát triển kế hoạch
sản xuất hiện thực và tối ưu.
Tính hiện thực của kế hoạch thể hiện ở chỗ các kế hoạch phải nhằm vào việc
đáp ứng nhu cầu khách hàng mà đơn vị muốn phục vụ trong khả năng của họ.
Tính tối ưu là bảo đảm việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực của đơn vị.
3


Tính tối ưu mặc dù rất khó đạt được, song hoạch định tổng hợp ít nhất cũng
phải đảm bảo sử dụng hợp lý đến mức có thể được và giữ các khoản chi phí ở mức
thấp nhất.
Vai trò của HĐTH:
-Hoạch định là công cụ đắc lực trong việc phối hợp nỗ lực của các thành viên

trong doanh nghiệp. Lập kế hoạch cho biết hướng đi của doanh nghiệp.
-Hoạch định giảm được sự chồng chéo và những hoạt động lãng phí. Tạo mục
tiêu và phương hướng rõ ràng, không lãng phí tài nguyên khi đi chệch quỹ đạo.
-Hoạch định là quá trình định hướng và điều khiển theo sự định hướng sản xuất
theo quy luật tái sản xuất mở rộng ở mọi cấp của nền kinh tế.
-Đối với nhà quản trị, hoạch đinh-chính là yếu tố quan trọng nhất phản ánh
trình độ năng lực, nó quyết định rằng anh ta có điều khiển được hay không.
Hoạch định tổng hợp là chìa khóa cho sự thay đổi quản lý quan trọng trong
quản trị sản xuất, do sự thay đổi nhu cầu của khách hàng và những kế hoạch cung
cấp nguồn lực sản xuất thích ứng với những thay đổi này.
2. Các chiến lược trong hoạch định tổng hợp.
a) Chiến lược thay đổi mức dự trữ
Tăng mức dự trữ trong giai đoạn có nhu cầu thấp, để dành cung cấp cho
thời kỳ có nhu cầu cao hơn mức sản xuất
- Ưu điểm:
• Quá trình sản xuất được đảm bảo ổn định, không có những biến
đổi bất thường.
• Kịp thời thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
• Dễ dàng cho việc điều hành sản xuất.
- Nhược điểm:
• Tăng chi phí lưu kho, bảo hiểm, chi phí quản lý, thiệt hại do bị
hư hỏng mất mát, tăng vốn đầu tư vào dự trữ cao hơn mức bình
thường.
• Không thể áp dụng đối với một số mặt hàng.
b) Chiến lược thay đổi nhân lực theo mức cầu:
- Ưu điểm:
• Tránh được rủi ro do sự biến động quá bất thường của nhu cầu.
• Giảm được nhiều chi phí như chi phí dự trữ hàng hóa, chi phí
làm thêm giờ.
-Nhược điểm:

4


• Cho thôi việc và thuê thêm nhân công đều làm tăng thêm chi phí.
• Doanh nghiệp có thể mất uy tín do thường xuyên cho lao động
thôi việc.
• Giảm năng suất lao động do cho lạo động thôi việc, nhân công có
tâm lý lo lắng, mệt mỏi.
c) Chiến lược điều chỉnh thời gian làm việc của nhân viên.
- Ưu điểm:
• Giúp doanh nghiệp đối phó kịp thời với những biến động của nhu
cầu thị trường. Giảm được chi phí có liên quan đến học nghề, học
việc.
• Ổn định được nguồn nhân lực
• Tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho lao động.
- Nhược điểm:
• Chi phí trả cho người làm thêm giờ thường cao.
• Công nhân dễ mệt mỏi do làm việc quá sức.
• Nguy cơ không đáp ứng được nhu cầu luôn thường trực vì nhân
viên quá mệt mỏi, kiệt sức vì những chiến dịch làm thêm giờ quá
dài
d) Hợp đồng phụ
Thuê gia công ngoài khi nhu cầu sản phẩm vượt quá khả năng của công ty
mà công ty không muốn tăng thêm lao động và các điều kiện khác. Nhận hợp đồng
từ bên ngoài về làm tại công ty khi thừa khả năng nhằm tận dụng các phương tiện,
lao động dư thừa.
-

-


-

Ưu điểm (đối với thuê gia công)
• Tạo sự linh hoạt trong điều hành.
• Đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng trong lúc nhu cầu tăng.
• Không cần tăng thêm công nhân và đầu tư thêm máy móc thiết bị
Nhược điểm( đối với thuê gia công)
• Tạo cơ hội cho đối thủ cạnh tranh tiếp xúc với khách hàng, dễ
mất khách hàng.
• Chia sẻ lợi nhuận cho bên hợp đồng phụ.
• Không kiểm soát được chất lượng và thời gian cũng như quy
trình thực hiện các công việc
• Các hợp đồng phụ thường có chi phí cao
Ưu điểm (đối với nhận gia công)
• Tận dụng máy móc và giảm bớt thời gian nhàn rỗi của người lao
động.
• Tăng nguồn thu cho doanh nghiệp.
5


-

Nhược điểm( đối với nhận gia công).
• Bị phụ thuộc vào các yêu cầu của đơn hàng.
e) Chiến lược sử dụng nhân công làm việc bán thời gian, lao động tạm
thời.
- Ưu điểm:
• Giảm bớt thủ tục, trách nhiệm, hành chính phiền hà trong việc sử
dụng lao động.
• Tăng được sự linh hoạt trong điều hành để thỏa mãn tốt nhu cầu.

• Giảm được những chi phí liên quan đến sử dụng lao động chính
thức, không phải trả bảo hiểm lao động.
- Nhược điểm:
• Chịu sự biến động lao động rất cao.
• Chịu chi phí hướng dẫn đối với nhân viên mới.
• Họ dễ dàng bỏ doanh nghiệp ra đi khi có lời mời chào hấp dẫn
hơn, vì họ không có sự ràng buộc về trách nhiệm.
• Năng suất lao động, chất lượng sản phẩm có thể sụt giảm hoặc
không cao.
• Điều động khó.
f) Chiến lược tác động đến cầu.
Khi cầu thấp doanh nghiệp có thể tác động đến cầu bằng các công cụ
như:Tăng cường quảng cáo, khuyến mãi. Tăng số nhân viên bán hàng, mở rộng
hình thức bán hàng, áp dụng chính sách bán hàng theo khối lương mua. Giảm
giá, gái bản theo thời điểm, mùa vụ....
- Ưu điểm:
• Cho phép sử dụng công suất tốt hơn.
• Tăng số lượng khách hàng và số lượng nhu cầu của công ty.
• Tăng khả năng cạnh tranh của công ty.
- Nhược điểm:
• Nhu cầu thường không chắc chắn và thường xuyến khó dự báo
chính xác. Giảm giá nhiều có thể làm mất lòng khách hàng
thường xuyên.
• Nhiều trường hợp không thể áp dụng hình thức này.
g) Chiến lược nhận đặt trước ( thực hiện đơn hàng chịu).
Đối với những sản phẩm hoặc dịch vụ có nhu cầu cao mà doanh nghiệp
chưa thể đáp ứng được khách hàng ngay lập tức thì có thể nhận đặt cọc trước.
nhận đặt trước phải thỏa mãn nhu cầu của khách hàng theo đúng yêu cầu vào
những thời điểm xác định đã được thỏa thuận thống nhất giữa các bên.
-


Ưu điểm:
6


-

• Duy trì công suất sản xuất ở mức ổn định.
• Tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho doanh nghiệp.
Nhược điểm:
• Khách hàng có thể bỏ doanh nghiệp đi tìm nơi khác dễ đáp ứng
hơn.
• Khách hàng có thể phật lòng khi nhu cầu của họ không được thỏa
mãn.
• Nhiều trường hợp, nhiều lĩnh vực không thể áp dụng chiến lược
này.
h) Chiến lược sản xuất sản phẩm theo mùa.

Doanh nghiệp có thể thực hiện kết hợp sản xuất các loại sản phẩm theo mùa
vụ khác nhau, bổ sung cho nhau.
-

Ưu điểm:
• Tận dụng được các nguồn lực của doanh nghiệp
• Ổn định được nguồn nhân lực.
• Giữ được khách hàng thường xuyên.
• Tránh được ảnh hưởng của mùa vụ
- Nhược điểm:
• Doanh nghiệp có thể vấp phải những vấn đề vượt khỏi tầm
chuyên môn của mình.

• Việc điều độ phải hết sức linh hoạt, nhạy bén.
3. Các phương pháp hoạch định tổng hợp.
a. Hoạch định tổng hợp theo phương pháp trực quan.
Là phương pháp định tính, dùng trực giác cảm quan để lập kế hoạch. Là
phương pháp kém khoa học nhất ít được doanh nghiệp mong muốn sử dụng nhưng
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn sử dụng vì họ được trang bị các kiến thức cần
thiết nên họ có thể kinh doanh bằng trực quan, kinh nghiệm.
Phương pháp này phát huy tác dụng đối với các doanh nghiệp đã có ít nhiều
uy tín, nhu cầu của thị trường rất lớn, ổn định. Tuy nhiên phương pahps này
thường đi theo lối mòn, tốn nhiều chi phí do không phân tích thường xuyên để
thay đổi chiến lược.
b. Phương pháp biểu đồ và phân tích chiến lược.
Dễ áp dụng và có hiệu quả cao do phân tích tỷ mỉ các chi phí, từ đo chọn ra
phương án có chi phí thấp và nhiều ưu điểm, ít nhược điểm.

7


Nhìn chung khá đơn giản nên rất phù hợp với các nhân viên văn phòng và
họ thương áp dụng vào trong hoạch định tổng hợp.
c. Phương pháp cân bằng tối ưu.
Cân bằng giữa cung và cầu trên cơ sở huy động tổng hợp các nguồn lực,
khả năng khác nhau với mục tiêu làm thế nào để chi phí tổng hợp là thấp nhất.
Khá tổng quát và có hiệu quả vì nó khá đơn giản và cho phép áp dụng một
cách tổng hợp các nguồn khác nhau. Tuy nhiên bất lợi nếu thời gian hoạch định
càng dài thì bản cân đối càng dài, người quản lý rất dễ bị nhầm lẫn giữa kế hoạch
sản xuất tổng hợp với kế hoạch bán hàng.
Phương pháp cân bằng tối ưu ứng dụng phương pháp vận tải trên nguyên
tắc cơ bản là tạo sự cân bằng giữa cung và cầu trong trong từng giai đoạn theo
nguyên tắc ưu tiên sử dụng các nguồn lực có chi phí từ thấp đến cao.

II.

Một số chiến lược hoạch định tổng hợp cho các mặt hàng nông sản Việt Nam.
1. Đặc điểm ngành nông sản.
Hoạch định tổng hợp là điều chỉnh tốc độ sản xuất, số lượng công nhân,
mức độ tồn kho, thời gian làm thêm giờ và lượng hàng đặt gia công bên ngoài với
mục đích là giảm thiểu chi phí sản xuất hoặc giảm sự biến động nhân lực hay mức
độ tồn kho trong suốt giai đoạn kế hoạch. Tức là có một chuỗi sự việc liên kết với
nhau cần được lên kế hoạch rõ ràng khi có cầu thay đổi.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất
thường hoạch định kế hoạch trung hạn (từ 6 tháng đến 3 năm). Bởi nước ta là
nước đang phát triển trên thế giới, lao động nhiều và chi phí thuê nhân công không
cao, dân số đông và nhu cầu thị trường biến động, hơn nữa nằm trong vùng có
khí hậu nhiệt đới gió mùa…nên các hoạt động dự trữ, thay đổi thời gian lao động,
tác động đến cầu sản xuất.. phải luôn được lên kế hoạch rõ ràng để không bỏ sót
cơ hội kinh doanh.
Các doanh nghiệp sản xuất hàng nông sản xuất khẩu : đối với nghề trồng
điều thì hầu hết các doanh nghiệp ngành điều có quy mô nhỏ, nguồn vốn kinh
doanh chủ yếu là vốn vay, chiếm 85%, các doanh nghiệp bán hàng thô hoặc chỉ sơ
chế nên giá bán không cao, đầu ra hoàn toàn phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu
nước ngoài cho nên doanh số cao mà lực không mạnh. Tương tự, các mặt hàng hồ
tiêu, cao-su cũng mới xuất khẩu thô là chính, nên lợi nhuận mang lại chưa tương
xứng với kim ngạch xuất khẩu. Công nghệ chế biến hàng nông sản còn lạc hậu, vì
8


vậy chưa thể đa dạng hóa khâu chế biến, khiến mặt hàng đơn điệu, bao bì chưa bắt
mắt. Chưa nói đến việc hàng nông sản thường bán qua các đầu mối trung gian,
chưa trực tiếp làm ăn với các nhà nhập khẩu lớn. Việc xuất khẩu nông sản với số
lượng lớn đang trở thành động lực thúc đẩy nền nông nghiệp nước ta phát triển,

góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, hình thành các vùng chuyên canh
hàng hóa lớn. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay khi xu thế bảo hộ hàng hóa
trong nước với những rào cản kỹ thuật trên thế giới ngày càng tăng, đòi hỏi ngành
chức năng và các doanh nghiệp phải xác định lại chiến lược cạnh tranh hàng nông
sản, bằng việc tập trung đầu tư chiều sâu cho những ngành hàng xuất khẩu chủ
lực, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
2. Một số chiến lược hoạch định tổng hợp cho các mặt hàng nông sản VN
Để có thể thực hiện được mục tiêu chiến lược mà các doanh nghiệp đã đặt
ra, các nhà quản trị đặc biệt chú trọng đến giải pháp hoạch định tổng hợp đối với
những mặt hàng nông sản. Một số chiến lược điển hình với mặt hàng này được lựa
chọn phân tích do đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a. Thay đổi mức dự trữ.
Chiến lược này cũng được nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam áp dụng.tức là
doanh nghiệp sẽ duy trì mức sản xuất bình thường trong giai đoạn cầu thấp và sẽ
tăng mức dự trữ để cung cấp cho thị trường giai đoạn cầu cao. Để thấy rõ vấn đề
này chúng ta hãy xem xét tác động của dự trữ đến giá cà phê thông qua thông tin
sau:
Trong khoảng thời gian giữa năm 2007, giá cà phê trong nước giảm mạnh,
xuống còn 23 triệu đồng/tấn.Tuy vậy, mức giá đó vẫn cao hơn giá thành sản xuất
là 5 triệu đồng/tấn. Nguyên nhân của việc giá cà phê giảm mạnh trong thời gian đó
được xác định chủ yếu là do các nhà đầu cơ lũng đoạn thị trường, dìm giá để kết
thúc hợp đồng. Giá cà phê giảm mạnh còn do Brazil và Việt Nam (2 nước XK cà
phê hàng đầu thế giới) đã bán ra một lượng rất lớn trong 6 tháng đầu năm 2009.
Tình hình này dẫn đến nhu cầu mua dự trữ giảm, tất yếu giá cà phê phải sụt giảm
theo. Vì vậy, để giá cà phê tăng trở lại theo đúng quy luật cung cầu, người nông
dân và các doanh nghiệp sản xuất cà phê đã tiến hành dự trữ, hạn chế bán hàng ra
trong thời điểm đó.( và nếu giá cà phê tiếp tục sụt giảm xuống dưới mức giá thành
18 triệu đồng/ tấn thì các doanh nghiệp sẽ phải xây dựng phương án dữ trữ và trình
chính phủ). Do đó chùng ta thấy hạn chế của doanh nghiệp theo đuổi chiến lược
này đó là mức độ rủi ro cao và phát sinh thêm nhiều chi phí (chi phí bảo quản cafe

từ ảnh hưởng từ thời tiết, chi phí quản lý,chi phí lưu kho…)

9


Tiếp đó giá cà phê trong những tháng đầu năm 2012 giảm mạnh. Giá cà phê
giảm nhưng triển vọng nguồn cung bị thắt chặt, các nhà phân tích dự báo giá sẽ
phục hồi vào cuối năm 2012.
Bên cạnh đó, dự trữ cà phê toàn cầu đã bị suy giảm đáng kể do hoạt động
xuất khẩu mạnh mẽ trong năm 2011. Theo các thông tin từ các thành viên ICO,
khối lượng dự trữ cà phê đầu kỳ tại các quốc gia xuất khẩu trong niên vụ 2011/12
đạt khoảng 17,4 triệu bao, là mức dự trữ thấp kỷ lục. Mức giá tương đối cao trong
vòng 2 năm gần đây đã khuyến khích hoạt động xuất khẩu và làm giảm dự trữ
Ở Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát trển Nông thôn vừa đưa ra dự báo,
khối lượng xuất khẩu cà phê của năm 2012 có thể đạt mức 1,15 triệu tấn với trị giá
khoảng 2,36 tỷ USD, giảm 7,2%về khối lượng và giảm 13,1% về giá trị xuất khẩu
so với năm 2011 do hạn chế về nguồn cung trong nước.
Không chỉ cafe mà gạo, mía cũng là một mặt hàng có thời gian sản xuất
dài, quy mô sản xuất mỗi lần lớn…phù hợp để các doanh nghiệp sản xuất áp dụng
chiến lược dự trữ .
Tính đến 9/4/2012, các doanh nghiệp đã thu mua tạm trữ được 800.000 tấn
gạo. Theo ông Đoàn Xuân Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến, thương mại, nông
lâm thủy sản và nghề muối (Bộ NN&PTNT), kế hoạch thu mua tạm trữ 1 triệu tấn
gạo sẽ hoàn thành trong tháng 4/2012. Theo ông Hòa, việc mua tạm trữ gạo là một
chủ trương đúng của Chính phủ và tác động tích cực của chủ trương này đã thể
hiện qua việc tăng giá bán lúa cho nông dân. Giá lúa và giá gạo ở đồng bằng sông
Cửu Long đã tăng khoảng 200 - 300 đồng/kg. Trước khi có chủ trương mua tạm
trữ, có lúc giá lúa đã ở mức 4.800 - 4.900 đồng/kg. “Với giá bán lúa hiện tại,
người nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long có lãi 30%”, ông Hòa khẳng định.
Niên vụ 2011 - 2012, sản lượng mía cả nước đạt khoảng 15 triệu tấn. Theo

tính toán của các nhà máy đường, trong nước sản xuất được khoảng 1,4 triệu tấn
đường. Hiện nay, khả năng lưu thông vốn của các nhà máy đường rất khó khăn.
Năm 2012, tiêu thụ mặt hàng đường hạn chế hơn nhiều so với năm trước. Những
nhà máy dùng đường làm nguyên liệu sản xuất chỉ mua đường với lượng nhỏ giọt
theo từng tháng khi có nhu cầu, không dự trữ đường cả quý như mọi năm. Việc
chậm lưu thông như thế khiến lượng đường tồn ở các kho của nhà máy rất lớn.
Cuối tháng 3/2012, lượng đường tồn kho của các nhà máy khoảng 400.000 tấn.
“Khó khăn như thế nên doanh nghiệp chật vật trong việc thanh toán tiền mua mía
10


cho nông dân”. Sản xuất của nhà máy đường và việc tiêu thụ mía của nông dân
đều gặp khó khăn.
Trước tình hình đó, theo ông Hòa, Bộ NN&PTNT đã trình Thủ tướng
Chính phủ cho phép xuất khẩu 100.000 tấn đường để doanh nghiệp đỡ khó khăn.
Bộ NN&PTNT chủ trương nếu trong nước tiêu thụ chậm thì phải xuất khẩu. Việc
xuất khẩu cũng kích thích các doanh nghiệp trong nước phải mua đường dự trữ, từ
đó ổn định được giá đường, bảo đảm giá mua mía cho nông dân”. .
Như vậy nhìn chung, chiến lược dự trữ này tác động rất mạnh đến giá cả
các mặt hàng nông sản, ảnh hưởng lớn đến đời sống người lao động. Để giảm tình
trạng thiếu hụt cà phê trên thị trường trong nước, quốc tế, các quốc gia, doanh
nghiệp cần phải có chiến lược dữ trữ hợp lý trong giai đoạn cầu biến động để đáp
ứng được nhu cầu của thị trường.
Một số giải pháp cho chiến lược thay đổi dự trữ trên là:
• Theo Quyết định số 57/2010/QĐ-TTg ngày 17/09/2010 của Thủ
tướng Chính phủ: kho tạm trữ cà phê theo quy hoạch được miễn tiền
thuê đất, được Nhà nước hỗ trợ 20% kinh phí giải phóng mặt bằng,
30% kinh phí hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào và
được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm đầu đi vào hoạt
động và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo.

• Chình phủ tăng cường xuất khẩu trong điều kiện phù hợp để tăng dự
trữ cho nông dân, từ đó ổn định giá cả
• Giá nông sản trong và ngoài nước biến động thất thường. Để hỗ
trợ các doanh nghiệp có vốn mua nông sản dự trữ, đồng thời góp
phần giữ giá cho mặt hàng nông sản xuất khẩu, một số ngân
hàng đã cho các doanh nghiệp kinh doanh chế biến nông sản vay
theo nhiều hình thức, kể cả cho vay tín chấp hoặc khi chưa có
hợp đồng xuất khẩu, cho vay ưu đãi tín dụng với lãi xuất thấp,
khoanh nợ quá hạn không phải trả lãi…
• Các doanh nghiệp cần có kế hoạch xây dựng xong phương án dự trữ
hàng nông sản, chủ động đáp ứng cầu khi có biến động trong nước
và trên thế giới, xây dựng nhà máy chế biến gắn với vùng nguyên
liệu…
b. Chiến lược sử dụng công nhân làm bán thời gian, công nhân tạm
thời.
Việc sử dụng một số nguồn lực thuê bên ngoài (dịch vụ quản lý hệ
thống lương, quản lý nhân viên, cho thuê và quản lý nhân sự…) có thể giúp
11


doanh nghiệp hạ thấp chi phí, cải tiến chất lượng sản phẩm và giảm thiểu rủi ro và
không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh.Hình thức này có thể áp dụng với rất nhiều
nghành kinh doanh, đặc biệt là các loại hình kinh doanh mà yêu cầu về nhân lực
không có trình độ, lao động phổ thông…
Thông thường chiến lược này sẽ làm cho doanh nghiệp phát sinh nhiều chi
phí cho việc đào tạo tay nghề, học việc đối với lao động mới tuyển dụng. Khi cho
lao động thôi việc, doanh nghiệp phải gánh chịu nhiều khoản chi phí có liên quan
đến bảo hiểm, tiền trả cho người lao động trong thời gian chờ tìm việc theo luật
định.
Đối với việc thay đổi lao động khi vào mùa vụ là rất khó bởi ngành nông

sản nước ta đang gặp khó khăn với tình trạng thiếu hụt công nhân đặc biệt
nghiêm trọng:
Đối với vùng Tây Nguyên- nơi mà có lượng nông sản được trồng lớn nhất
cả nước, nhân công lao động phổ thông chủ yếu là những người các tỉnh phía Bắc
giờ đây không thích vào Tây Nguyên làm thuê như trước mà muốn đi làm ở Hà
Nội hoặc các thành phố gần đó cho gần, tiện đi lại; hơn nữa nhu cầu thuê người
làm ở các tỉnh phía Bắc tăng lên nhiều. Họ chỉ có thể làm những công việc mang
tính chất thời vụ, 2-3 tháng trong lúc nông nhàn, đến mùa vụ họ trở về quê để lo
công việc mùa màng, không thích đi xa vì đi lại khó khăn và tốn kém.
 Với cây cà phê
Trung bình 1 ha cà phê cần từ 300 – 400 công lao động, trong đó riêng
công thu hái chiếm tới trên 50%. Trước đây vào thời kỳ thu hoạch cà phê thường
có hàng ngàn lao động từ các tỉnh ven biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu
long đến vùng Tây nguyên để tham gia thu hái cà phê, nhưng bắt đầu từ một hai
năm trở lại đây số lao động ở các vùng này đến Tây nguyên vào mùa thu hoạch cà
phê đã giảm đi rõ rệt.
Tại huyện Ia Grai (Gia Lai), nơi tập kết nhiều lao động đi thu hái càphê, lao
động đâu không thấy, chỉ thấy người trồng đứng đón, tìm người hái. Anh Nguyễn
Hùng lo lắng: “Tôi đang đợi hai người từ Thanh Hóa vào, nhưng từ sáng đến giờ
vẫn chưa thấy”. Gia đình anh Hùng có 5ha càphê đang vào vụ thu hoạch, cần
khoảng 17 người hái, nhưng đến thời điểm này anh mới tìm được 8 người, số còn
lại đang nhờ người quen giới thiệu.

12


Hay tại công ty Cổ phần Cà phê Thái Hoà (huyện Mường Ảng, tỉnh Điện
Biên) cũng gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động: Mỗi một ngày Công ty
của chúng tôi cần gần 1.000 lao động, chúng tôi đã thông báo tuyển dụng lao
động về các xã đã gần 5 tháng nay nhưng chỉ tuyển được 7 lao động. Nếu vào đợt

hái cà phê mà người lao động không đi làm thì cà phê của chúng tôi rụng hết”ông
Lê Năng Trí, Giám đốc Công ty phát biểu.
Trước sức ép về thiếu hụt lao động và chi phí ngày công tăng cao, để giảm
chi phí công thu hái người nông dân có xu hướng giảm số lần thu hái xuống còn
một đến 2 lần dẫn đến chất lượng cà phê bị giảm sút do thu hái quả xanh và thiếu
hụt điều kiện phơi xấy-> ảnh hưởng đến chất lượng và lợi nhuận doanh nghiệp.
 Cây điều
Ngành điều: Bà Rịa - Vũng Tàu: Sản xuất nông nghiệp - Thiếu hụt nguồn
lao động phổ thông
Hiện nay, nguồn lao động trong sản xuất nông nghiệp ngày càng khan
hiếm. Tình trạng này đã làm ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất cũng như việc thu
hoạch nông sản của bà con nông dân, nhất là vào những ngày cao điểm của thời
vụ.Mỗi khi bước vào vụ thu hoạch nhiều hộ nông dân trong tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu lại tất tả với việc tìm nhân công. Giá thuê công lao động nông nghiệp hiện
tăng khoảng 30 - 40% so với năm 2010, nhưng nhiều hộ nông dân vẫn không
thuê được nhân công, nhất là những công việc nặng nhọc.
Ông Nguyễn Xuân Vinh, ở xã Bàu Chinh (huyện Châu Đức) cho biết, vụ
thu hoạch tiêu vừa qua, để mướn được nhân công, ngoài việc tăng giá thuê, ông
còn cho mượn tiền trước, nhưng với hơn 2 ha đất trồng tiêu cả vụ ông cũng chỉ
thuê được 2 người hái. “Vào những ngày tiêu chín rộ, thu hoạch không xuể nên
hạt tiêu bị rụng, làm hao hụt nhiều. Tiêu hái tới đâu phải được phơi và trông coi
cẩn thận, nhưng do thiếu người nên việc phơi phóng không bảo đảm dẫn tới chất
lượng bị sụt giảm” - ông Vinh nói.
 Cây mía
Do nhiều nơi thu họach rộ dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhân công đốn mía
trầm trọng. Giá đốn 1 công mía tăng vọt lên từ 600.000đ- 700.000đ/công, nhưng
thuê người rất khó khăn. Điều nghịch lý là giá nhân công đốn mía tăng cao thì giá
mía ở ĐBSCL liên tục giảm mạnh. Nhiều hộ trồng mía nợ ngân hàng, công lao
động, vật tư vì… không tiền trả.
13



Nguyên nhân của tình trạng trên có thể thấy rõ qua một số đặc điểm sau:
• Quá trình canh tác, chăm sóc và thu hoạch cây cà phê đòi hỏi rất
nhiều công lao động. Để thực hiện các khâu chăm sóc làm cỏ, bón
phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh hại, vun gốc cà phê, đến vụ thu
hoạch thì đi thu hái cà phê… v.v…hay Chăm sóc điều mất nhiều
công sức: phun thuốc bảo vệ thực vật, tưới nước, thu hái tiêu, điều…
• Hiện nay, giá thuê ngoài lao động cho một mùa cafe dao động trong
khoảng 60 nghìn đồng/ 1 ngày/ 1 lao động, làm đủ 8 tiếng. Đây là
mức giá tương đối thấp. Còn đối với cây điều thì để thuê được nhân
công phụ việc làm cho đúng mùa vụ, các hộ phải trả tiền công tới
100.000 - 120.000 đồng/người/ngày. Nhưng do khan hiếm lao động
nên đây cũng là một bài toán khó giải.
• Vẫn công việc đó, nếu người lao động vào làm công nhân cho công
ty thì mức lương tối thiểu 2,2 triệu đồng/công nhân, được đóng bảo
hiểm, mỗi tháng làm 26 ngày (được nghỉ ngày chủ nhật), đi làm có
trang thiết bị bảo hộ (găng tay, dụng cụ đi lao động, nhà ở) nhưng
người dân địa phương vẫn không muốn làm công nhân. Vấn đề đặt
ra là: Mặc dù lương thấp, người dân vẫn thích làm việc tự do, trả
lương theo ngày, không chịu sự quản lý. Còn vào làm công nhân
“chuyên nghiệp”, lương cao hơn, ổn định hơn, hưởng nhiều chế độ
ưu đãi hơn người dân lại không thích làm vì họ không thích chịu sự
quản lý trực tiếp từ công ty, cuối tháng mới được nhận lương, chỉ
muốn nhận tiền ngay
 Cây cao su
Ngược lại với ngành cà phê, mía hay điều cây Cao su đang hút nhân công,
đặc biệt là lao động nữ:
Một số công ty đã khoán trắng cho công nhân nên thu hút nhiều lao động
địa phương. Nhiều người tranh thủ đi làm từ sớm đến tối mịt, có người kiếm được

gần 400 nghìn đồng/ngày. Vợ chồng anh Nguyễn Thắng (xã Ia Blứh) có ngày thu
vào gần 1 triệu đồng nhờ nhận khoán làm cỏ cao su.
Xã Ia Blứh có 5 doanh nghiệp được giao đất trồng cao su. Các doanh
nghiệp này đang gấp rút triển khai dự án nên cần nhiều lao động. Hầu hết lao
động làm cao su được thuê theo thời vụ, tùy vào nhu cầu từng đợt: đào hố, trồng,
bón phân, làm cỏ… Hiện là thời vụ làm cỏ của cây cao su. Mỗi ngày công làm cỏ
dao động từ 70 đến 80 nghìn đồng.
Ngành điều thu hút được nhiều công nhân hơn đặc biệt là lao động nữ vì
công việc đơn giản, không mất nhiều công sức…hơn nữa mức lương lại phù hợp.
14


Trong những giai đoạn có nhu cầu thấp, doanh nghiệp để cho nhân viên
nghỉ ngơi, đó là một gánh nặng. Doanh nghiệp chỉ có thể chịu được gánh nặng đó
khi nó không lớn lắm. Giải pháp tăng thêm thời gian lao động làm thêm để giúp
cải thiện thu nhập cho người lao động sẽ làm nghèo kiệt sức lao động của người
lao động hiện tại và sẽ trở thành vấn đề áp lực cho xã hội trong tương lai. Chúng
ta sai lầm ở chỗ đáng ra phải tính lại vấn đề tiền lương tối thiểu quá thấp nên dù
làm cật lực, tiền lương của người lao động cũng chỉ hơn mức tối thiểu quy định
một chút.
Do đó giải pháp cho tình trạng thiếu lao động khi vào mùa của các ngành
trên là:
• Doanh nghiệp cần có chính sách thu hút và tạo điều kiện cho các đối
tác bên ngoài vào thu mua sản phẩm để tăng sự cạnh tranh, nâng cao
giá cả.
• Sử dụng chính sách tiền lương linh hoạt, như tăng lương, tăng tiền
các chế độ hỗ trợ theo lương, gồm phụ cấp xăng, nhà trọ… nhằm thu
hút và giữ chân lao động. Cố gắng giải quyết đầy đủ các chế độ cho
công nhân theo quy định của Luật Lao động, đồng thời thực hiện tốt
các chế độ như thăm hỏi, mừng sinh nhật…

• Mở các lớp đào tạo nghề trồng, chăm sóc, hái và chế biến hàng nông
sản cho lao động, từ đó giảm thiểu rủi ro thiếu lao động khi vào mùa.
Đồng thời xây dựng phương án bố trí, phân bổ lao động thu hái và
chế biến cây nông sản cho phùa hợp.
Những điều cần lưu ý khi sử dụng lực lượng thuê ngoài:
Để sử dụng hiệu quả các nguồn lực thuê bên ngoài, nhiều chuyên gia về
nhân sự cho rằng doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố liên quan đến nhà cung
cấp dịch vụ như giấy phép kinh doanh, cam kết bảo mật thông tin doanh nghiệp,
tình trạng tài chính, uy tín trong ngành… Trên thực tế, đã có một số dịch vụ giới
thiệu việc làm (chỉ có chức năng môi giới lao động, không được ký hợp đồng với
người lao động) kiêm luôn chức năng cho thuê và quản lý nhân sự dẫn đến chuyện
vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho doanh nghiệp về uy tín, thương hiệu, rò rỉ
thông tin mật…
Một điều cần lưu ý nữa là, doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với đơn vị
cung ứng trong quá trình sử dụng dịch vụ, để thường xuyên phản hồi và đánh giá
chất lượng làm việc của nhân viên thuê ngoài hay dịch vụ cho từng công việc.
15


Tiêu chí đánh giá phải dựa trên năng suất của từng vị trí công việc. Ở một số
doanh nghiệp gặp trường hợp nguồn nhân viên thuê bên ngoài chưa nhận thức
đúng đắn về phạm vi công việc, dẫn đến mức độ trung thành, thái độ tiếp thu học
hỏi trong công việc chưa cao. Vì thế, doanh nghiệp rất khó khăn khi huấn luyện và
đào tạo công việc cho các nhân viên này.
c. Tác động đến cầu.
Chiến lược tác động đến cầu được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng rất
nhiều. Đây là chiến lược mà có thể áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh bất kỳ một sản phẩm dịch vụ gì. Đây là chiến lược hoạch định tổng hợp
được sử dụng nhiều nhất và mang lại hiệu quả mong đợi
 Tác động tới cầu Cà phê bằng quảng bá văn hóa cà phê:

Ngày 29/11, Tuần lễ Văn hóa cà phê 2007 do UBND tỉnh Đắk Lắk tổ chức
đã được khai mạc tại Hà Nội, khởi đầu cho Tuần lễ Văn hoá cà phê 2007 lần đầu
tiên được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 29/11 - 2/12/2007 và tại TP. Hồ Chí Minh từ
ngày 13 - 16/12/2007.
Bên cạnh việc giới thiệu và xúc tiến thương mại sản phẩm của 30 DN hàng
đầu trong ngành cà phê, tuần lễ còn có nhiều hoạt động để giới thiệu về quá trình
sản xuất, chế biến và phong cách thưởng thức cà phê... hướng tới xây dựng một
phong cách văn hóa cà phê của người Việt Nam. Còn có các hoạt động trình
diễn thời trang lấy cảm hứng từ cà phê, giao lưu với những chuyên gia cà phê, các
nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu văn hóa, các nông dân trồng cà phê… đêm rock cà
phê...
UBND tỉnh Đắk Lắk hy vọng, thông qua hoạt động của “Tuần lễ Văn hoá
cà phê 2007” nhằm:
• Nâng cao hiểu biết của xã hội về vai trò của cà phê đối với thương
mại, kinh tế và đời sống nông dân, cũng như tác động của cà phê
đến sinh hoạt và sức khỏe của mỗi người.
• Cung cấp những thông tin cơ bản và chuyên sâu về ngành cà phê
cho các đối tượng công chúng, tạo ra một cơ chế để những người
đam mê cà phê cùng chia sẻ và hành động vì cà phê Việt Nam.
• Là cơ hội để các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà phê trong và
ngoài nước xúc tiến thương mại, quảng bá chất lượng và thương
16


hiệu cà phê của mình nhằm kích cầu trong nước và đẩy mạnh tiêu
thụ ở nước ngoài; cùng hành động để nâng cao giá trị và tầm quan
trọng của cà phê Việt Nam hướng đến phát triển một ngành cà phê
bền vững và từng bước xây dựng thương hiệu quốc gia.
Được biết, cùng với Tuần lễ Văn hóa cà phê sẽ được duy trì thường
niên, tỉnh Đắk Lắk đã chọn năm 2008 làm “Năm cà phê”. Kết hợp quảng bá sản

phẩm và thương hiệu qua các hoạt động văn hóa là một hướng đi nhằm thúc đẩy
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Đây là một trong các hoạt động
nhằm quảng bá và qui tụ, kết hợp các nguồn lực nhằm từng bước thực hiện kế
hoạch xây dựng thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột nói riêng và cà phê Việt Nam
nói chung.
 Đối với ngành điều:
Ngày 11/6/2011, tại TP HCM, Hiệp hội điều Việt Nam (Vinacas) tổ chức
hội thảo “Kích cầu tiêu dùng trong nước và dự báo thị trường điều quốc tế 2011”.
• Tại hội thảo, bà Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội bán lẻ Việt
Nam nhận định: Hầu như các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam
quá chú trọng vào thị trường xuất khẩu, bỏ ngỏ thị trường nội địa. Riêng
ngành điều, hiện mức tiêu thụ của thị trường nội địa chiếm tỷ lệ rất nhỏ,
chưa đến 5%, sản phẩm phục vụ người tiêu dùng đơn điệu về chủng
loại, chỉ dừng lại ở các sản phẩm như: hạt điều rang muối, điều nhân
mật ong, bánh, kẹo nhân điều…
• Nhằm kích cầu thị trường tiêu dùng hạt điều trong nước, doanh nghiệp
kiến nghị: Vinacas và các nhà sản xuất ngành điều nên có chiến lược
đầu tư đúng mức phục vụ cho nhu cầu người tiêu dùng trong nước, thực
hiện chiến dịch quảng bá thương hiệu và giá trị dinh dưỡng của hạt điều
đối với đời sống. Bên cạnh đó là phát triển chuỗi tiêu thụ bền vững qua
các hệ thống phân phối và bán lẻ để người dân dễ dàng tiếp cận sản
phẩm chất lượng, giá cả hợp túi tiền... góp phần nâng cao vị thế hạt điều
trong ẩm thực Việt./.
 Đối với ngành chè:
Cuối năm 2010 và đầu năm 2011, có Festival chè tại Bảo Lộc (Lâm Đồng)
và một số lễ hội chè do các địa phương tổ chức trong nước để tăng cường kích cầu
nội địa.Nhìn tổng thể trong năm 2010, lượng chè trong nước tiêu thụ cao hơn các
17



năm do có nhiều sản phẩm và mẫu mã hấp dẫn cũng như có nhiều lựa chọn hơn
cho khách hàng.
Vitas sẽ xúc tiến huy động nguồn vốn để làm một bộ phim tài liệu 10 tập
mang tên “Con đường chè Việt” phát sóng trên một số kênh truyền hình, đồng thời
tiến hành những nghiên cứu xung quanh uống chè tốt cho sức khoẻ người dân với
khẩu hiệu “uống chè là uống sức khoẻ” và sẽ đưa lên website của hiệp hội, khuyến
khích nhiều người uống chè hơn, kích cầu thị trường chè trong nước.
Bộ NN và PTNT cũng khuyến khích tăng cường các hoạt động xúc tiến
thương mại ở cấp khu vực (Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng,
Tây Nguyên...) thay vì chỉ chú trọng làm ở cấp quốc gia như trước.
Bên cạnh đó, kiến nghị Chính phủ hỗ trợ 70% kinh phí xúc tiến thương
mại cho các DN, cơ sở sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, gắn xúc tiến thương
mại với việc tìm kiếm hợp đồng, cam kết tiêu thụ nông sản cụ thể. Trong đó cố
gắng nắm rõ nhu cầu của các thị trường trong cả ngắn và dài hạn, cơ cấu sản
phẩm, nhất là yêu cầu về chất lượng sản phẩm... nhằm tăng cơ hội tiêu thụ nông
sản, giảm thiểu rủi ro cho nông dân, cũng như DN xuất khẩu.
Thông qua đổi mới này, hy vọng sẽ tạo ra kênh tiêu thụ nông sản hiệu quả
cho nông dân, DN.
III.

Kết luận.
Nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng nông sản ở Việt Nam đã sử dụng các
chiến lược hoạch định tổng hợp vào việc thực hiện các kế hoạch trung hạn của
doanh nghiệp mình tuy nhiên do phạm vi áp dụng của các chiến lược này là khác
nhau nên các chiến lược này được sử dụng ở mức độ nhiều hay ít tùy theo từng
chiến lược.
Do trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, giá cả nông sản ngày càng phụ
thuộc nhiều hơn vào các yếu tố kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ, sự cân bằng
ngân sách quốc gia, tỉ giá, các chính sách thương mại quốc tế và cả đầu tư nước
ngoài. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ khiến cho tất cả các quốc gia xem xét,

điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô và điều này sẽ lại làm cho giá cả xuất
nhập khẩu trở nên khó lường.Việc tiêu thụ nông sản cho nông dân gặp nhiều khó
khăn, nhất là đối với các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá tập trung: như lúa
gạo, mía đường, cà phê, chè…
Để khắc phục từng bước khó khăn đó, Nhà nước cũng như doanh nghiệp
nông sản tuy đã có nhiều chính sách, giải pháp vừa cơ bản vừa cấp bách, nhằm
18


khuyến khích phát triển thị trườngnhưng bài toán về tiêu thụ vẫn chưa có lời giải
thỏa đáng cho các nhà quản trị. Hoạch định tổng hợp chắc chấn sẽ là một chìa
khóa hữu hiệu để các doanh nghiệp nông sản Việt Nam tìm được con đường đi
đến thành công cho mình.

19



×