Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Bàn về vai trò và công trạng của các chúa chúa Nguyễn trong dòng chảy lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.6 KB, 8 trang )

CÔNG TR Ạ
NG C Ủ
A CÁC CHÚA NGUY Ễ
N VÀ V ƯƠ
N G TRI Ề
U NGUY Ễ
N
Kể từ những năm 70 của thế kỷ XX tr ở về tr ước, ở nhiều góc độ khác nhau, V ương triều Nguyễn
từng bị phê phán gay gắt và th ời kỳ này cũng t ừng bị xem là th ời kỳ chuyên chế phản động nhất
trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Khuynh hướ ng này vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay, mặc dù
về sau này, trong giới Sử học n ướ c nhà đã có nh ững chuyển biến tích c ực về mặt nhận th ức. Biểu
hiện rõ nét nhất cho khuynh h ướng này là nội dung trong nh ững bộ s ử dành cho học sinh cấp II và
cấp III. Tôi đã đặt thử một câu hỏi cho các em học sinh cấp II, cấp III rằng: “Theo các em, Nguyễn
Huệ và Nguyễn Ánh, ai m ới là anh hùng dân tộc?”. Và hầu nh ư tất cả học sinh đều xem Nguyễn
Huệ là anh hùng dân tộc và không công nhận nh ững gì mà Nguyễn Ánh đã làm cho đất n ước. Rõ
ràng, một câu hỏi nhỏ cũng đã phản ánh một s ự bất công bằng khi đánh giá về Nguyễn Ánh nói
riêng và Vươ ng triều Nguyễn nói chung.
Sự lên án triều Nguyễn trong gi ới Sử học n ước nhà được biểu hiện qua nh ững “chỉ khống” nh ư:
Chia cắt đất nướ c, cầu viện Tư bản Pháp, hành động cầu viện quân Xiêm để “cõng rắn cắn gà
nhà”… Những “chỉ khống” đó đã kết thúc s ự đánh giá của các nhà nghiên c ứu về triều đình này
bằng cụm từ: “Triều đại bán nước”.
Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh th ực tiễn tình hình chính trị của đất n ước trong giai đoạn tr ước (đặc
biệt là từ năm 1945 đến những năm tr ướ c 1975), ta có thể hiểu được. Đây là giai đoạn mà cả n ước
đang ráo riết tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất n ước. Điều này đồng
nghĩa với một thực tiễn: Độc lập dân tộc là quan trọng nhất; bất kỳ hành động nào trong quá kh ứ
xúc phạm hay đi ngượ c lại v ới chân lý đó đều bị phê phán kịch liệt. Tôi không phủ định triều Nguyễn
đã có những động thái đi ngược lại v ới chân lý đó. Nh ưng, lịch s ừ phải công minh, lịch s ử càng phải
là sự thật. Mà sự thật thì v ới nh ững gì đã làm được cho đất n ước, triều Nguyễn đã có nh ững đóng
góp hết sức to lớn cho dân tộc. Đấy là sự thật mà ta không thể phủ định !
Tội trạng của triều Nguyễn có hay không ? Xin th ưa là “Có”. Thậm chí tr ước đây, ở trong bối cảnh
lịch sử như vậy, tội trạng của vươ ng triều này có lẽ còn được nghiên c ứu kỹ h ơn so v ới công trạng,


mà do vậy, khi may mắn được tiếp cận quyển Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chúa Nguyễn và V ương
triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX”cá nhân tôi vô cùng phấn kh ởi. Hội
thảo này đã minh chứng cho việc xem xét V ương triều Nguyễn trong dòng chảy lịch s ử dân tộc ở
một cách tiếp cận khách quan hơn.
Nhân cơ hội được đọc những bài tham luận của các học giả trong và ngoài n ước, tôi xin được mạn
phép chia sẻ đôi điều về những công trạng của v ương triều này thông qua một vài tham luận của
những nhà nghiên cứu đã được in trong quyển Kỷ yếu này. Cũng xin được khẳng định, đây không
phải là vấn đề mới. Hội thảo này đã được tổ chức ngót nghét 10 năm, do vậy mà tham vọng của tác
giả chỉ dừng lại ở mức tổng h ợp những quan điểm của các chuyên gia đầu ngành về vấn đề này. S ự
góp nhặt này hi vọng sẽ có ích cho ngườ i đọc.
***
Vươ ng triều Nguyễn chính thức thành lập vào năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh đánh bại triều Tây
Sơn và lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long. Có thể nói, bên cạnh nh ững yếu tố khách quan, bản thân
Nguyễn Ánh cũng là một ngườ i có tài. Trước đây, khi đánh giá về Nguyễn Ánh, v ới góc nhìn chủ
quan và đơn chiều, các nhà nghiên c ứu xem ông là một con ng ười hẹp hòi vì đã có nh ững hành
động báo thù đối v ới những ng ười của nhà Tây S ơn. Tuy nhiên, nói một cách khách quan, nh ững
hành động mà như chính Gia Long đã nói: “Trẫm vì chín đời mà báo thù” cũng phát xuất t ừ chính


những hành động gay hấn trướ c đó của Quang Trung đối v ới tổ tiên và cha mẹ của Nguyễn Ánh. Do
đó, bỏ qua những hành động mang tính báo thù đó, Gia Long cũng được xem là một nhân vật xuất
chúng đương th ời. Nguyễn H ữu Hiếu trong bài viết “Tiếp cận nh ững yếu tố giúp Nguyễn Ánh thành
công trong việc xây dựng V ươ ng triều Nguyễn” đã có nh ững phân tích lý giải nguyên nhân thành
công của Nguyễn Ánh. Theo đó, việc đánh bại nhà Tây S ơn theo Nguyễn H ữu Hiếu là bắt nguồn t ừ
hai nhóm nguyên nhân: Chủ quan và khách quan. Trong đó, nh ững yếu tố chủ quan mà ông đề cập
bao gồm: Phẩm chất của con ngườ i Nguyễn Ánh, phát động cuộc chiến phục thù đúng th ời c ơ, khai
thác triệt để các yếu tố địa l ợi và nhân hòa. Về yếu tố khách quan, ông cho rằng: Hoàn cảnh xã hội
của Gia Định góp phần vào thắng l ợi của Nguyễn Ánh, việc đánh giá sai lầm vai trò của Nam Bộ
trong lịch sử đã dẫn đến việc quản lý Gia Định lỏng lẻo của chính quyền Tây S ơn, Nguyễn Huệ bận
đối phó với quân Thanh trong khi Nguyễn Nhạc bỏ r ơi thành Gia Định, tình trạng cát c ứ của nhà Tây

Sơn. Để lý giải cho từng nguyên nhân trên, hiển nhiên cần có thêm dẫn giải, nh ưng trong phạm vi
bài viết, tôi không đi sâu lý giải chúng. S ở dĩ đề cập đến nguyên nhân thành công của Nguyễn Ánh
trong việc đánh bại nhà Tây S ơn để lập nên V ương triều Nguyễn ngay trong bài viết này b ởi vì cá
nhân tôi muốn nhấn mạnh một nhận thức sai lầm của gi ới S ử học ngày tr ước, đó là việc ch ưa nhận
định được những nguyên nhân khách quan (yếu tố khách quan trong bài viết của Nguyễn H ữu Hiếu)
trong việc đánh giá năng lực của Nguyễn Ánh. Và v ới vai trò là ng ườ i sáng lập V ương triều Nguyễn,
sự đánh giá chủ quan về ông, theo tôi, có lẽ là tiền đề để nh ững ng ười nghiên c ứu tiếp tục lún sâu
vào con đường đánh giá tiêu cực triều Nguyễn. Và tôi th ực s ự hoan nghênh nh ững nhìn nhận khách
quan mà Nguyễn H ữu Hiếu đã chỉ ra để lý giải s ự thành công của Nguyễn Ánh trong việc m ở đầu
triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc.
Trong tổng số 90 bài tham luận được in trong Kỷ yếu, bằng ph ương pháp tổng h ợp, cá nhân tác giả
xin phép được tổng kết lại những công trạng mà các nhà nghiên c ứu, các học giả đã nhìn nhận và
công nhận các Chúa Nguyễn và V ươ ng triều Nguyễn đã làm được cho đất n ước. Cụ thể, tôi tập
trung vào 4 đóng góp l ớn của nhà Nguyễn trong việc củng cố và phát triển đất n ước: Thống nhất và
mở rộng lãnh thổ – Xác lập chủ quyền tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Tr ường Sa – Phát triển nền văn
hóa dân tộc v ới việc để lại nh ững di sản văn hóa – Hình thành nh ững cảng thị có vai trò quan
trọng.Cũng cần nói thêm, “9 ngườ i 10 ý” mà do vậy, s ự tổng h ợp ở đây của cá nhân tác giả mang
tính chủ quan vì tôi cho rằng, 4 đóng góp này là ý ngh ĩa nhất mà các Chúa Nguyễn và V ương tri ều
Nguyễn đã làm cho dân tộc. Nói nó ý nghĩa vì nh ững việc làm này của các Chúa Nguyễn và triều
Nguyễn đã tác động đến cả thực tại, hay nói cách khác là nh ững đóng góp ấy vẫn còn giá trị đến
ngày nay.
Thứ nhất, thống nhất và mở rộng lãnh thổ:Ngườ i ta cứ bảo nhau rằng Nguyễn Ánh “rước voi về giày
mã tổ”, “cõng rắn cắn gà nhà” khi cầu viện quân Xiêm. Nh ưng xét lại lịch s ử, năm 1801, Cảnh Thịnh
cũng cầu viện quân Thanh. Nếu khi đấy, quân Thanh kéo sang xâm l ược n ước ta thì nh ư thế nào ?
Như vậy, đặt trong tình thế khi ấy, Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm cũng là lẽ th ường tình. Hoàng
Tuấn Phổ trong tham luận “Nguồn gốc Gia Miêu Ngoại Trang và nh ững đóng góp của dòng họ
Nguyễn trong lịch sử dân tộc” đã có một nhận xét rất xác đáng: “…Cái ng ười x ưa gọi là “khí số”
chính là vai trò lịch sử. Khi nhà Tây S ơn hết vai trò lịch s ử, lịch s ử tất phải chọn ai đó, không ng ười
này thì ngườ i khác, đứng ra dọn dẹp đống đổ nát để xây dựng trên nền tảng quốc gia ngôi nhà m ới.
Và lịch sử đã chọn Nguyễn Ánh. Lịch sử có thể chọn nhầm ai đó, nh ưng v ới Nguyễn Ánh, là nhân

vật xứng đáng nhất vì ông đã thành công nhất. Nếu không chọn Nguyễn Ánh, lịch s ử chọn ai bây
giờ ? Điểm mặt các anh hùng, hào kiệt nổi lên buổi ấy, không còn ai h ơn Nguyễn Ánh hay b ằng


Nguyễn Ánh…” [10: 631]. Vấn đề ở đây tôi muốn đề cập là ta đã t ừng đánh đồng th ời kỳ chúa
Nguyễn và Vươ ng triều Nguyễn v ới những gì mà bản thân Nguyễn Ánh đã làm.
Nếu lượ ng hóa vấn đề “cõng rắn cắn gà nhà” và vấn đề “thống nhất và m ở rộng lãnh thổ” và đem
chúng lên bàn cân để xem xét, thiết nghĩ việc thống nhất và m ở rộng lãnh thổ là đáng quan tâm
hơn. “…Chưa đầy hai thế kỷ tính từ th ời điểm mở đất Phú Yên, chúa Nguyễn đã vượ t qua được một
quãng đường dài suốt mấy trăm năm mà th ời Lý, Trần, Hồ, Lê th ực hiện. So v ới quá trình m ở mang
lãnh thổ của các triều đại tr ướ c, thì công cuộc m ở đất của chúa Nguyễn tiến hành v ới tốc độ nhanh
hơn, quyết liệt hơn…” [9: 307].
Đặt trong mục tiêu của bài viết là chỉ rõ công trạng “thống nhất và m ở rộng lãnh thổ” của các Chúa
Nguyễn và Vươ ng triều Nguyễn, tôi sẽ cụ thể hóa tiến trình đó bằng nh ững mốc th ời gian chính để
ngườ i đọc dễ hình dung [4: 82 – 85]:
Từ thế kỷ IX đến XVI, vùng đất Nam Bộ còn th ưa th ớt dân c ư, đất đai ch ưa được khai phá.
Từ đầu thế kỷ XVII, cư dân ngườ i Việt t ừ Thuận – Quảng đến vùng đất Mô Xoài, Đồng Nai khai
hoang,
lập
ấp.
Năm 1620, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái cho vua Chân Lạp Chey Chetta II.
Năm 1623, Chúa Nguyễn cho lập s ở thu thuế ở Sài Gòn và Bến Nghé, c ử quan quân đến đóng đồn
trấn giữ.
Năm 1679, cựu thần nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Th ượng Xuyên t ới xin c ư trú. Chúa
Nguyễn
cho
vào
khai
phá
vùng

Lôi
Lạp,
Bàn
Lân.
Năm
1698,
Chúa
Nguyễn
Phúc
Chu
cho
đặt
phủ
Gia
Định.
Năm
1732,
Chúa
Nguyễn
lập
châu
Định
Viễn

dinh
Long
Hồ.
Năm 1757, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên mất, chúa Nguyễn đưa Nặc Ông Tôn lên ngôi. Để tạ ơn,
Nặc
Ông

Tôn
cắt
đất
cho
chúa
Nguyễn
để
tạ
ơn.
Năm
1790,
Nguyễn
Ánh
cho
xây
thành
Gia
Định.
Ngày 15/6/1801, Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân và lên ngôi trong năm sau.
Năm
1804,
đặt
quốc
hiệu

Việt
Nam.

Như vậy, về cơ bản, kể từ năm 1802, cương v ực của Việt Nam đã tr ở thành một chỉnh thể thống
nhất cho đến tận ngày nay (không kể s ự thay đổi về việc phân chia hành chính qua các giai đoạn

sau). Hình hài của nước Việt Nam v ới hình ch ữ S nh ư ngày nay có s ự góp s ức rất nhiều của các
Chúa Nguyễn và Vươ ng triều Nguyễn.
Những sự kiện chính yếu mà tôi đã thống kê ở trên cho phép ta nhìn nhận s ự linh hoạt trong vấn đề
mở rộng lãnh thổ của đất nước dướ i thời các Chúa Nguyễn. Trong đó, m ở rộng lãnh thổ bằng con
đường hôn nhân là một phương thức quen thuộc mà lịch s ử dân tộc đã ch ứng kiến không d ưới một
lần. Đó là mối hôn nhân gi ữa Công n ữ Ngọc Vạn – con của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (sau
này là Hoàng hậu Ang Cuv) v ới quốc v ương Chân Lạp là Chey Chetta II vào năm 1620. Một cuộc
hôn nhân chính trị đã diễn ra v ới viễn cảnh đôi bên v ừa có l ợi: Chân Lạp có thể d ựa vào thế l ực của
Chúa Nguyễn để chống đỡ với Xiêm La, các Chúa Nguyễn có thể d ựa vào mối quan hệ này để đưa
lưu dân vào khai phá và định c ư tại vùng đất Nam Bộ. Nh ững b ước đi đầu tiên này chính là tiền đề
vững chắc để Vươ ng triều Nguyễn có thể gầy dựng và phát triển đất nướ c sau này.
Nói tóm lại, Quang Trung – Nguyễn Huệ và triều Tây S ơn đã có công trong việc củng cố và hoàn tất
việc thống nhất đất nướ c sau bao năm nội chiến và chia cắt đất n ước, đồng th ời cũng đã đập tan
âm mưu đánh chiếm nướ c ta của các thế lực ngoại bang. Tuy nhiên, Gia Long – Nguyễn Ánh m ới là


ngườ i đã tiếp nối sự thống nhất đó v ới việc phát triển đất n ước. Hai con ng ười của hai triều đại này
đã có những hành động theo mối quan hệ t ương hỗ lẫn nhau để giúp đất n ước thống nhất và phát
triển. Nhìn nhận được mấu chốt này m ới gọi là đánh giá khách quan và công bằng. Và nh ững động
thái khôn khéo dưới th ời các Chúa Nguyễn là bàn đạp v ững chắc để sau này Gia Long có c ơ s ở
phát triển đất nướ c.
Thứ hai, xác lập chủ quyền tại 2 quần đảo Hoàng Sa, Tr ường Sa: Ngày 1/5/2014, báo chí trong
nướ c đồng loạt đưa tin về việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải D ương 981 vào lãnh hải của n ước
ta, gần với quần đảo Hoàng Sa và mạnh dạn tuyên bố đây là vùng biển thuộc chủ quyền của mình.
Từ ngày 2/5/2014 đến 27/5/2014, vị trí của giàn khoan chỉ cách đảo Lý S ơn (Quảng Ngãi) 120 hải lý
về phía Đông. Động thái này cho thấy tham vọng nuốt trọn biển Đông của Trung Quốc, đồng th ời
Trung Quốc cũng muốn chiếm trọn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tr ước tình
hình đó, giới nghiên cứu trong n ướ c đã tìm lại rất nguồn s ử liệu, bằng ch ứng lịch s ử để ch ứng minh
đây là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Trong quá trình ch ứng minh cho quan điểm “Hoàng Sa,
Trườ ng Sa là của Việt Nam”, gi ới S ử học đã tìm thấy nh ững minh ch ứng về chủ quyền lãnh thổ của

dân tộc thông qua các tư liệu nh ư: “Thiên Nam T ứ Chí Lộ Đồ Th ư” (1686) trong Hồng Đức Bản Đồ,
“Toản Tập An Nam Lộ” trong Thiên Hạ Bản Đồ hay trong Phủ Biên tạp Lục (1776) của Lê Quý Đôn.
Tất cả những tài liệu đó đều có đề cập ở những mức độ khác nhau về hoạt động xác lập chủ quyền
trên hai quần đảo này dướ i th ời các Chúa Nguyễn (là các Chúa Nguyễn ch ứ không phải ch ờ đến
Vươ ng triều Nguyễn). “…Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam t ừ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ
Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa là Vạn Lý Trường Sa trong c ương v ực của Việt Nam…” [8: 154]. Theo
đó, “Trước năm 1909, Trung Quốc cũng như các nước Đông Nam á không có bằng ch ứng nào minh
chứng họ quan tâm đến việc xác lập chủ quyền của nhà n ước trên quần đảo Hoàng Sa và Tr ường
Sa. Trong khi đó, suốt ba thế kỷ t ừ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, một tổ ch ức dân binh Việt Nam,
đội Hoàng Sa đã hoạt động tại Hoàng Sa và Trường Sa, v ừa có nhiệm vụ kiểm soát, v ừa khai thác
tài nguyên ở các hải đảo thuộc Hoàng Sa, Trường Sa…” [8: 155]. Và điều quan trọng h ơn, đội
Hoàng Sa được thành lập vào đầu th ời Chúa Nguyễn. Thậm chí, cả khi Chúa Nguyễn chạy vào đất
Gia Định để tránh sự truy đuổi gắt gao của nhà Tây S ơn thì khi đó, đội Hoàng Sa vẫn đặt d ưới
quyền kiểm soát của Tây S ơn. Trong tham luận của mình, Nguyễn Nhã đã dẫn ra rất nhiều dẫn
chứng trong các tài liệu lịch s ử của n ước ta mà tôi đã dẫn ra ở trên để minh ch ứng cho hoạt động
vô cùng “nhộn nhịp” của chính ng ười Việt ta trên hai quần đảo này. Điều này cho thấy, các Chúa
Nguyễn được xem như những ngườ i mở cõi ra vùng biển l ớn cho dân tộc ta.
Cũng theo Nguyễn Nhã, nhà Nguyễn về sau vẫn tiếp tục s ử dụng đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải để khai
thác và quản lý biển Đông. Cụ thể, V ương triều Nguyễn đã có nh ững hành động nh ư cho tiến hành
đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ, cắm cột mốc ở hai quần đảo Hoàng Sa và Tr ường Sa, cho xây d ựng
chùa miếu và trồng cây tại Hoàng Sa và Trườ ng Sa, v.v…
Như đã đề cập, công việc xác lập chủ quyền v ới hai quần đảo Hoàng Sa và Tr ường Sa mặc dù đã
được tiến hành ngay từ th ời các Chúa Nguyễn, thế nh ưng, dấu ấn của một cá nhân trong cả một
giai đoạn lịch sử đó vô cùng nổi bật mà ta không thể không nhắc đến chính là Vua Minh Mạng – vị
vua thứ hai của nhà Nguyễn. Trong tập Kỷ yếu này, trong cả hai bài tham luận của Nguyễn Nhã và
Vu Hướ ng Đông khi viết về chuyên đề này, cả hai nhà nghiên c ứu đều nhiều lần nhấn mạnh đến
vua Minh Mạng. Những động thái kịch liệt của ông về việc chỉ đạo các hoạt động khai thác và cắm
mốc chủ quyền tại hai hòn đảo này đã được dẫn ch ứng rất chi tiết. Điều này cho phép tác giả đồng
ý với quan điểm của nhà nghiên cứu người Trung Quốc Vu H ướng Đông: Ý th ức về biển của Minh
Mạng là rất mạnh! Đây là c ơ s ở vững chắc để các tài liệu s ử học ghi chép lại và là bằng ch ứng rõ



ràng nhất về chủ quyển biển đảo của n ước ta. Vậy, ý th ức về biển của Minh Mạng mạnh đến m ức
nào? Nó thể hiện trên những ph ươ ng diện gì? Và nh ững chỉ đạo của ông về việc cắm mốc chủ
quyền và khai thác tại hai hòn đảo này có tác động như thế nào v ới Việt Nam đương đại?
Trong tham luận “Ý thức về biển của vua Minh Mệnh” cho rằng khoảng th ởi gian 21 năm trị vì của
Minh Mạng là đỉnh cao của sự phát triển nền hàng hải thuyền buồm và xây d ựng hải quân của Việt
Nam. Vua Minh Mạng luôn theo dõi việc đóng tàu thuyền và nâng cao kỹ thuật hàng hải; vì theo ông,
sự phát triển của thủy quân phải gắn chặt v ới s ự phát triển của nh ững con tàu, ngoài kỹ thuật thì
đây là phương tiện đắc lực quyết định chất lượng thủy quân. Ngoài ra, việc xây d ựng l ực l ượng hải
quân biển nhằm mục tiêu chống cướ p biển, giữ gìn an ninh hàng hải, thúc đẩy hoạt động hàng hải ở
hải ngoại, … Những việc làm trên cho ta thấy được tầm nhìn của vị vua này trong việc nhận định
tầm quan trọng của hải đảo nướ c ta. Ngoài những hoạt động mang tính thúc đẩy kinh tế và bảo vệ
tổ quốc, bên cạnh đó, những chỉ đạo của ông về ph ương diện văn hóa tinh thần cũng rất đáng l ưu
ý. Đó là việc thờ các vị thần Biển v ới mong ước cầu cho m ưa thuận gió hòa, bình yên trong hoạt
động biển… Theo quan điểm của bản thân, tác giả nghĩ rằng đây cũng là một điểm nhấn trong dòng
chảy lịch sử văn hóa của dân tộc mà rõ nét nhất chính là tín ng ưỡng th ờ Cá Ông mà hiện nay c ư
dân biển vẫn còn giữ được tập tục ấy. Ngoài những biểu hiện ấy, có một đặc điểm cũng khá thú vị
dù không nói lên tất cả, thế nh ưng một trong 9 chiếc vạc (C ửu Đỉnh) đặt trong Kinh thành Huế cũng
phản ánh ý thức về biển của vị vua này. “… Nh ững hình vẽ phản ánh về l ực l ượng quân s ự trên vạc
Cửu Đỉnh chủ yếu là hỏa khí và tàu thuyền, nh ững hình vẽ về tàu thuyền chủ yếu bao gồm các tàu
thuyền trên biển…” [3: 276].
Những biểu hiện trên chứng minh một nhận th ức về biển nói chung của Minh Mạng là rất l ớn. Về
phía hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ngay t ừ d ưới th ời vua Gia Long (bắt đầu t ừ năm 1815)
đã bắt đầu tiến hành đo đạc hải trình nhằm giúp cho các tàu thuyền di chuyển an toàn trên biển. Tuy
nhiên, đến thời vua Minh Mạng, công việc này càng được chú trọng. Việc ban th ưởng và giáng tội
đã được thực hiện một cách nghiêm túc. Bên cạnh đó, l ực l ượng thủy quân – một l ực l ượng đặc
nhiệm nhận sự chỉ đạo trực tiếp t ừ vua Minh Mạng (sau này có vua Thiệu Trị cũng nh ư vậy) hằng
năm theo định kỳ đều đặn ra Hoàng Sa, Trường Sa để “… đi vãng thám, đo đạc thủy trình, cắm cột
mốc, dựng bia chủ quyền, và các hoạt động khác trên quần đảo Hoàng Sa và Tr ường Sa…” [8:

163].
Nói tóm lại, các Chúa Nguyễn và V ươ ng triều Nguyễn (mà trong đó đáng kể nhất là vua Minh Mạng)
đã có những bước đi đầu tiên cực kỳ quan trọng trong việc giúp n ước ta s ớm xác định chủ quyền
trên biển Đông nói chung và tại hai quần đảo Hoàng Sa, Tr ường Sa nói riêng. Nh ững động thái mà
Trung Quốc đã làm trong tình hình diễn biến thế gi ới đang theo chiều h ướng ph ức tạp nh ư hiện nay
là vô nghĩa, vì những bằng ch ứng trong các nguồn tài liệu ghi chép về hai quần đảo này d ưới th ời
các Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn đã đi ng ược lại hoàn toàn nh ững gì mà Trung Quốc đã nói. Tôi
đánh giá đây là đóng góp hết sức to l ớn mà Vương triều Nguyễn đã làm cho đất n ước mà ta cần
nhìn nhận một cách thực sự nghiêm túc.
Thứ ba, phát triển nền văn hóa dân tộc v ới việc để lại những di sản văn hóa:
Đánh giá về văn hóa của Vương triều Nguyễn trong lịch s ử dân tộc, cố giáo s ư Trần Văn Giàu t ừng
nhận định: “Không th ời nào văn hóa phát triển nh ư th ời Nguyễn. Nh ững nhà t ư t ưởng của th ời
Nguyễn cao hơn những nhà t ư t ưởng tr ước, những nhà văn cao h ơn nh ững nhà văn tr ước, nh ững
nhà làm sử cũng giỏi h ơn những nhà làm s ử tr ước. Có thể nói, s ự phát triển văn hóa d ưới th ời
Nguyễn tươ ng đương v ới sự thống nhất của quốc gia. S ự thống nhất về chính trị thúc đẩy s ự phát


triển về văn hóa rất nhiều”. L ời bình của cố giáo sư Trần Văn Giàu cho ta thấy một đỉnh cao văn hóa
dướ i thời nhà Nguyễn.
Đóng góp to lớn thứ ba của Vương triều Nguyễn cho dân tộc được thể hiện qua tham luận “Đôi điều
cảm nhận về văn hóa và di sản văn hóa Vươ ng triều Nguyễn” của Phạm Mai Hùng được đăng trong
Kỷ yếu. Ai cũng biết, nội hàm khái niệm “văn hóa” hiện nay được chấp nhận trong gi ới nghiên c ứu
chỉ ở mức độ tươ ng đối vì tiếp cận ở các góc độ khác nhau. Bài viết này không xây d ựng nền tảng
cơ sở lý luận về văn hóa và do vậy, tác giả không dám đưa ra cái nhìn toàn diện và đầy đủ về cái
gọi là văn hóa triều Nguyễn. Song, ở một mức độ mà tôi cho rằng chấp nhận được, bài viết này gi ới
thuyết nội hàm khái niệm văn hóa ở hai lĩnh vực: Vật chất (vật thể) và tinh thần (phi vật thể).
Về văn hóa vật chất của triều Nguyễn, tại phiên họp lần th ứ 17 của Ủy ban Di sản Thế gi ới tại
Colombia (từ ngày 6 – 11/12/1993), UNESCO đã công nhận Quần thể Di tích Cố đô Huế là Di sản
Văn hóa Thế giới. Để đạt được danh hiệu cao quý này, Quần thể Di tích Cố đô Huế đã đạt được
những tiêu chí sau đây [13: 107, 108]:

Tiêu biểu cho những thành tựu nghệ thuật độc đáo, nh ững kiệt tác do bàn tay con ng ười lao động.
Có giá trị to l ớn về mặt kỹ thuật xây d ựng, nghệ thuật kiến trúc trong một kế hoạch phát triển đô thị
hay một chươ ng trình làm đẹp cảnh quan tại một khu v ực văn hóa của thế gi ới.
Quần
thể
kiến
trúc
tiêu
biểu
cho
một
th ời
kỳ lịch
sử
quan
trọng.
Kết hợp chặt chẽ v ới các sự kiện trọng đại, nh ững t ư t ưởng hay tín ng ưỡng có ảnh h ưởng l ớn, hay
v ới
các
danh
nhân
lịch
sử.
Như vậy, rõ ràng là trong xu thế phát triển du lịch trên quy mô toàn cầu nh ư hiện nay, nh ững giá trị
văn hóa (trong đó bao gồm giá trị về mặt kiến trúc, điêu khắc, mỹ thuật, phong thủy, …) tại đây th ực
sự là một kho tàng văn hóa nghiên c ứu đa dạng và đầy thú vị. Đất n ước ta đã thống nhất, hòa bình
đã 40 năm; những giá trị văn hóa vật thể mà V ương triều Nguyễn để lại còn rất nhiều, nh ưng cá
nhân tôi chỉ nêu ra công trình Quần thể Di tích Cố đô Huế để minh ch ứng cho s ự thịnh v ượng một
thời của Vươ ng triều này. Đóng góp này theo tác giả nghĩ, đây không chỉ là một công trình mang
yếu tố cảm quan, mà ẩn trong đó còn khắc họa đậm nét yếu tố lịch s ử – V ương triều Nguyễn đã

từng phát triển cực thịnh trong một th ời gian dài; b ởi vì Quần thể Di tích Cố đô Huế đã minh ch ứng
cho sự phát triển đỉnh cao cả về kinh tế và văn hóa, nh ư chính cố giáo s ư Trần Văn Giàu đã nhận
xét.
Về văn hóa phi vật thể của triều Nguyễn,V ương triều Nguyễn không phải là cái nôi hình thành nên
âm nhạc cung đình b ởi vì“Nó mang trong mình tất cả nh ững tinh hoa của dòng nhạc cung đình Việt
đã hình thành và phát triển trên một nghìn năm” [13: 288]. Nền tảng ban đầu của Âm nhạc Cung
đình Huế phát xuất và manh nha phát triển t ừ thế kỷ XVII d ưới th ời các Chúa Nguyễn khi vào Đàng
Trong. Sự “di chuyển” của thể loại âm nhạc này đã ghi nhận công lao rất l ớn của Đào Duy T ừ khi
chính ông là ngườ i đã đem chúng vào Đàng Trong khi theo phò tá Chúa Nguyễn. Trải qua bao sóng
gió, những giá trị nổi bật của thể loại âm nhạc này nh ư: Thể hiện s ự giao l ưu và tiếp biến văn hóa
Hoa, Chăm và những ảnh hưở ng của Phật giáo và Nho giáo; đã hình thành hệ thống lý luận âm
nhạc, được xây dựng theo vụ trụ quan cổ đại, thể hiện tính bác học, … đã được ghi nhận v ới việc
UNESCO công nhận Âm nhạc, Nhã nhạc cung đình Huế là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản Văn hóa
phi vật thể của nhân loại vào ngày 7 tháng 11 năm 2003.
Tác giả ngay từ đầu đã cho rằng v ới gi ới thuyết nội hàm khái niệm “văn hóa” trong một bài viết là rất
khó khăn, do đó, những di sản văn hóa mà triều Nguyễn để lại chắc chắn sẽ còn nhiều h ơn hai di
sản mà bài viết đã đề cập. Nghiên cứu và biến nh ững giá trị di sản văn hóa đó thành một hệ giá trị
trong một triều đại hiển nhiên cũng sẽ vô cùng khó khăn. Tôi chỉ xin phép được tạm dẫn ra hai giá trị


văn hóa ở trên để minh chứng cho luận điểm của mình. Nh ững giá trị đó là kết tinh của văn hóa dân
tộc; vì vậy, sẽ là thiếu sót nếu ta xem việc bảo tồn chúng là của Nhà n ước, các c ơ quan ch ức năng.
Mỗi cá nhân cùng cần hiểu được nh ững đóng góp về ph ương diện văn hóa nói chung của v ương
triều này để có cái nhìn khách quan h ơn cho nhà Nguyễn; chính đấy cũng là góp phần vào bản tồn
văn hóa. Tôi cho là vậy!
Thứ tư, hình thành những cảng thị có vai trò quan trọng:
Những đóng góp của các Chúa Nguyễn và V ương triều Nguyễn cho lịch s ử dân tộc không đơn
thuần chỉ có 4 yếu tố mà bài viết đề cập. Tác giả chỉ muốn liệt kê và hệ thống lại 4 yếu tố mang tính
quá trình nhất, tức là chúng có ảnh h ưởng đến ngày nay. Và đóng góp th ứ t ư này mang yếu tố quá
trình sâu sắc.

Cùng với quá trình m ở rộng lãnh thổ về ph ương Nam mà tổ tiên đã làm được, đến th ời V ương triều
Nguyễn, các vua Nguyễn đã làm cho ý nghĩa của vùng đất Nam Bộ này càng được thể hiện rõ nét;
vai trò của chúng càng được chú trọng khi mà nh ững cảng thị quan trọng đã dần được hình thành
và phát huy vai trò của chúng. Nh ững tác phẩm nh ư “Gia Định Thành Thông Chí”, “Đại Nam th ực
lục”, “Đại Nam nhất thống chí” đã có nh ững ghi chép về diện mạo của các cảng thị Cù Lao Phố, Mỹ
Tho Đại phố, Hà Tiên và Sài Gòn; bên cạnh đó còn có nh ững ghi chép về các đô thị th ương c ảng
của những ngườ i nướ c ngoài trong giai đoạn này. Trong số nh ững cảng thị l ớn ấy, cho đến ngày
nay chỉ còn duy nhất Sài Gòn còn gi ữ được vai trò của nó, các cảng thị khác chỉ còn trong quá kh ứ,
sự biến mất ấy chủ yếu là do nguyên nhân chiến tranh. Tuy đã lụi tàn, thế nh ưng chính chúng đã
từng tạo nên một diện mạo sống động trong đời sống của cư dân tại vùng đất m ới này mà trong đó,
dấu ấn của các Chúa Nguyễn và Vươ ng triều Nguyễn là rất đậm nét.
Với cảng thị Bến Nghé – Sài Gòn, kh ởi điểm vốn là n ơi quần c ư của cộng đồng ng ười Việt. S ự phát
triển của n ơi đây được đánh dấu v ới sự kiện năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho Nguyễn
Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất ở ph ương Nam; vùng đất này đã tr ở thành một đơn vị hành chính
của chính quyền Đàng Trong và nhanh chóng tr ở thành một trung tâm buôn bán, quần tụ trên sông
Bến Nghé. “Từ một điểm tụ cư, trạm thu thuế, tr ở thành trung tâm hành chính – quân s ự, trung tâm
kinh tế – văn hóa, vùng Bến Nghé – Sài Gòn – Ch ợ L ớn phát triển h ơn cả, dần dần tr ở thành một đô
thị tiêu biểu của Nam Bộ. Thành lũy,đường sá phục vụ yêu cầu hành chính, quân s ự, góp phần tạo
điều kiện cho hoạt động thương mại…” [11: 702].
Đánh giá về sự hình thành phát triển cũng nh ư vai trò của các cảng thị Nam Bộ, Trần Thị Thanh
Thanh trong tham luận “Góp thêm ý kiến về vai trò của các Chúa Nguyễn và V ương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam” đã nhận xét: “Nh ư vậy, có thể nhận xét rằng trong các thế kỷ XVII – XVIII,
các chúa Nguyễn đã để lại những dấu ấn quan trọng cho quá trình đô thị hóa ở Nam Bộ. Các chúa
Nguyễn đã tạo điều kiện cho việc quần c ư tụ dân, phát triển kinh tế, m ở mang hệ thống giao thông,
giao thươ ng, chọn đặt và tổ chức xây dựng lập trấn, làm nên các trung tâm hành chính – quân s ự,
kinh tế – văn hóa, hình thành nên các cảng thị, nền móng và diện mạo ban đầu cho các đô thị này”
[11: 702].
Nhà thơ Nguyễn Duy từng nói: “Lịch s ử có cách đi của nó. Cho đến bây gi ờ, nhiều ng ười biết rằng
nhà Nguyễn có công lớn đối v ới nướ c nhà, nh ưng không hiểu tại sao và t ừ lúc nào, lại bị biến dạng,
bị hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch s ử và văn hóa. Cho đến nay, [tháng 7 năm 2008

– HTP] đã có 10 hội thảo về nhà Nguyễn, nh ưng chỉ là hội thảo khu v ực, để nhìn nhận về một góc
của vấn đề lịch sử th ời ấy… nếu không công tâm v ới lịch s ử thì sẽ không th ực thi được công bằng
xã hội… Minh bạch v ới quá khứ là phẩm chất tối thiểu của đạo lý”. L ời đánh giá ấy là một cuộc trả
lời phỏng vấn của nhà th ơ Phạm Duy v ới nhà báo Minh Thi. Sau Hội thảo Khoa học được tổ ch ức


vào năm 2008, nhận thức về V ươ ng triều Nguyễn đã có s ự chuyển biến theo chiều h ướng tích c ực.
Song, điều này không đồng nghĩa v ới việc tất cả mọi ng ười đều đã có cái nhìn “công tâm” h ơn v ới
Vươ ng triều Nguyễn. B ởi lẽ, nếu mọi ngườ i đã hoàn toàn có cái nhìn “công tâm” v ới v ương triều này
thì có lẽ, tác giả bài viết đã không nói lên trăn tr ở của bản thân qua bài viết này. Tác giả không ph ải
một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, cũng chẳng phải một ng ười uyên thâm lịch s ử n ước nhà,
nhưng với sự phấn kh ởi khi có được tài liệu quý là quyển Kỷ yếu Hội thảo, và càng phấn kh ởi h ơn
khi lịch sử đã và đang một phần nào đó công minh h ơn v ới V ương triều Nguyễn, tôi mạo muội viết
bài viết này để trướ c hết là thử tập h ợp nh ững quan điểm của các học giả tham d ự Hội thảo về
phươ ng diện những đóng góp của nhà Nguyễn v ới dân tộc, sau là để th ử năng l ực của bản thân ở
mảng Sử học khi phải đọc và tổng hợp những quan điểm ấy.
Cuối cùng, “thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý” nên xin phép được d ừng bút ở đây. Song, có một chân
lý không bao gi ờ thay đổi: Triều Nguyễn mãi mãi là một phần trong dòng chảy của lịch s ử dân tộc!



×