Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Hình tượng nhân vật nho sinh và phụ nữ trong “liêu trai chí dị” của bồ tùng linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.99 KB, 46 trang )

Hình tượng nhân vật Nho sinh và phụ nữ trong
“Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh
Posted by: nguvandhag on: Tháng Mười 29, 2011
• In: Luận văn | Luận văn cử nhân



Để lại phản hồi

Nho sinh và phụ nữ. Nguồn:

SVTH: Nguyễn Thị Thu Giang DH4C2
GVHD: Ths. Phùng Hoài Ngọc

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài………………………………………………………1
Mục đích nghiên cứu………………………………………………….2
Lịch sử vấn đề…………………………………………………………2
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………….3
Đóng góp của đề tài …………………………………………………..4
Phương pháp nghiên cứu………………………………………………4
Dàn ý của khoá luận…………………………………………………..5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Nhân vật trong tác phẩm văn học………………………………………7
2. Quan niệm nghệ thuật về con người – phạm trù trung tâm của thi pháp học hiện
đại……………………………………………………………………8
CHƯƠNG 2 : VÀI NÉT VỀ BỒ TÙNG LINH
VÀ “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”
1. Tác giả Bồ Tùng Linh…………………………………………………….10
2. Tác phẩm “Liêu trai chí dị”
2.1 Một số đặc điểm về thể loại của “Liêu trai chí dị”……………………12
2.1.1 Khái niệm “Chí quái truyện”, “Truyền kì”……………………..12
2.1.1.1 Chí qi truyện……………………………………………12
2.1.1.2 Truyền kì…………………………………………………12
2.1.2 “Liêu trai chí dị” – bộ truyện ngắn văn ngơn kế thừa chí quái truyện thời Ngụy Tấn và
truyền kì đời Đường cùng với những sáng tạo mới……………………………………………………………………………13


2.2 Vài nét về nội dung và nghệ thuật của “Liêu trai chí dị”……………..14
2.2.1. Nội dung………………………………………………………..14
2.2.2. Nghệ thuật………………………………………………………17
2.3. Sơ lược về những hình tượng nhân vật chủ yếu trong “Liêu trai chí
dị”…………………………………………………………………………19
CHƯƠNG 3: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NHO SINH VÀ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ
TRONG “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”
1. Hình tượng nhân vật nho sinh…………………………………………21
1.1 Những nhân vật nho sinh mải mê với hai chữ công danh…………21
1.1.1 Những chàng nho sinh lận đận trong nghiệp thi cử………….21
1.1.2 Những chàng nho sinh đỗ đạt, thực hiện được giấc mộng công
danh…………………………………………………………………………..25
1.2. Những nhân vật nho sinh “suy đồi – mất niềm tin”………………27

2. Hình tượng nhân vật phụ nữ…………………………………………..34
2.1. Nguồn gốc xuất thân………………………………………………34
2.2. Những người phụ nữ xinh đẹp, tài năng và sống có tình nghĩa, có bản lĩnh
………………………………………………………………………37
2.3. Những số phận phụ nữ bất hạnh………………………………….42
2.4 Khát khao hạnh phúc, dám đấu tranh cho tình yêu………………44
KẾT LUẬN………………………………………………50
PHỤ LỤC………………………………………………………………..52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………74
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhắc đến “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh là nhắc tới một tác phẩm đặc sắc của văn học Trung
Quốc nói chung, một trong tám bộ tiểu thuyết cổ điển hay nhất Trung Quốc nói riêng. Ðây là một
trong những tác phẩm xuất sắc của văn học Trung Hoa với những câu chuyện hư hư thực thực biểu
trưng cho một thế giới phương Ðơng thời trung đại, con người khơng có sự ngăn cách tuyệt đối giữa
cõi sống và cõi chết. Bằng sự say mê lượm lặt, ghi chép tích lũy từ những cốt truyện dân gian, sự
thăng hoa trong cảm xúc, ngịi bút sáng tạo tài hoa của ơng đã viết nên “Liêu trai chí dị”. Chính nhờ
tác phẩm này đã đưa Bồ Tùng Linh lên hàng một nhà văn kiệt xuất của thời Thuận Trị – Khang Hy và
cũng là một trong những cây bút đoản thiên tiểu thuyết hàng đầu của văn học Trung Hoa cổ điển.
Đã hơn ba thế kỉ trơi qua từ khi Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh xuất hiện. Qua bao thăng trầm của
cuộc sống, thời gian, bộ đoản thiên tiểu thuyết của ơng vẫn cịn mãi giá trị và sức sống trường tồn của
nó, mãi là niềm say mê, ham thích kỳ thú đối với độc giả mọi thời đại.
Bộ Liêu Trai được ông viết từ năm 31 tuổi (Năm Khang Hy thứ 9) đến năm 68 tuổi (năm 1707) mới
hoàn thành. Cuốn sách, do đó mang giá trị gần cả đời một con người tài hoa, bất đắc chí. Tư tưởng,
tình cảm đó quanh năm suốt tháng day dứt, thơi thúc ông căn cứ vào những điều tai nghe mắt thấy
cùng những chiêm nghiệm về con người, cuộc sống đương thời, thúc giục ơng tìm niềm vui trong sưu
tầm và sáng tác văn chương.
Đọc “Liêu trai chí dị”, một bộ đoản thiên tiểu thuyết mang phong cách dân gian với sự hấp dẫn, biến
hố kì ảo, chúng ta nhận thấy rằng bên cạnh tính truyền kì đã làm nên sự hấp dẫn riêng biệt ấy cho
Liêu trai thì một phương diện khác cũng góp phần khơng nhỏ làm nên nét đặc sắc của tác phẩm này

đó chính là nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Thế giới nhân vật trong Liêu trai vô cùng phong phú và đa dạng. Trong cái thế giới đông đúc đầy rẫy
hồ li, chồn tinh, đạo sĩ, những con người phàm trần, , những anh chàng nho sinh nho sĩ, những nàng
tiên nữ con nhà trời . . . ấy, chúng ta chợt nhận ra rằng, những anh chàng nho sinh của Liêu trai sao
mà “lạ” quá! Những đứa con của “cửa Khổng sân Trình” trong Liêu trai, đa phần họ không xuất hiện
trong tư thế của những con mọt sách, nơi phòng văn thanh tịch để ôn luyện đèn sách dùi mài kinh sử,
mà ở đây, công danh đối với họ đã giảm đi sức hấp dẫn, họ mải mê chạy theo những bóng hồng xinh


đẹp, những cô nàng hồ li, chồn tinh, những hồn ma, những cô tiểu thư, những nàng tiên nữ . . .Và
bên cạnh những anh chàng nho sinh “đặc biệt” ấy, những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai cũng mang
một sức sống mới, được khắc hoạ với một bút pháp sáng tạo, góp phần cùng với hình tượng nho sinh,
làm nên những giá trị độc đáo và mới mẻ cho bộ “Liêu trai chí dị” .
Từ những điều nêu trên, chúng tơi cảm nhận rằng tìm hiểu hình tượng nhân vật nho sinh và hình
tượng nhân vật phụ nữ trong Liêu trai là một vấn đề rất thú vị.
Chúng tơi muốn đi sâu khám phá để có những hiểu biết đúng đắn về các giá trị độc đáo của Liêu trai
một cách toàn diện, cũng như khẳng định được tài năng của nhà văn Bồ Tùng Linh. Hy vọng rằng đề
tài này sẽ giúp cho bạn đọc có thể tiếp cận tác phẩm một cách dễ dàng hơn và trọn vẹn hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Hình tượng nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ trong “Liêu trai chí
dị” của Bồ Tùng Linh” chúng tôi hướng vào những mục tiêu sau:
– Nghiên cứu nghệ thuật xây dựng nhân vật của Bồ Tùng Linh trong việc xây dựng hình tượng nhân
vật nho sinh và phụ nữ.
– Khám phá được tài năng văn chương của Bồ Tùng Linh trong việc xây dựng hình tượng nhân vật
nho sinh và phụ nữ để thấy được nét sáng tạo trong văn chương của ông.
– Phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu văn học Trung Quốc trong nhà trường.
3. Lịch sử vấn đề
3.1 Những nghiên cứu ở nước ngồi
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Liên Xơ phần lớn đứng dưới góc độ xã hội học và giai cấp luận để
đánh giá về nội dung và nghệ thuật của Liêu Trai. Từ quan điểm xuất phát đó, họ chỉ ra tư tưởng tiến

bộ cũng như hạn chế của nhà văn họ Bồ. Họ phân chia tác phẩm thành nhiều loại chủ đề khác nhau :
loại chuyện làng nho, những truyện vạch trần và đả kích chế độ chính trị đen tối, tham quan ơ lại,
truyện xoay quanh đề tài tình u và hơn nhân . . .Có nhóm nghiên cứu Liêu trai dưới góc độ diễn
tiến của thể loại để chỉ ra sự sáng tạo độc đáo của Bồ Tùng Linh ( Tôn Cúc Viên, Lỗ Tấn, Chương Bồi
Hoàn). Trong các bài viết, họ chỉ ra sự sáng tạo cốt truyện dân gian và truyện chí quái truyền kì của
Bồ Tùng Linh ( Lỗ Tấn, Chương Bồi Hồn, Giáo trình lịch sử văn học Trung Quốc tập 2, M. Uxtin). Có
người lại tìm hiểu Liêu trai bằng cách phân chia thành những cặp phạm trù đối lập trong việc so sánh
Liêu trai với các tác phẩm khác nhằm đề cập đến tiếng nói đa nghĩa và sức biểu hiện nghệ thuật
phong phú của Liêu trai ( Phùng Trấn Loan). Có người lại nghiên cứu riêng về hình tượng nhân vật ở
khía cạnh nguồn gốc văn hố và quá trình phát triển của hình tượng hồ ly từ văn học dân gian đến
sáng tác của Bồ Tùng Linh ( B.Alếchxâyev).
3.2 Những nghiên cứu ở Việt Nam
Những nghiên cứu ở ViệtNamcó thể chia thành hai thời kì trước và sau 1989. Trước 1989, việc nghiên
cứu “Liêu trai chí dị” ở ViệtNam mới chỉ dừng lại ở phương pháp tiếp cận xã hội học. Các bài viết trên
báo, tạp chí cho đến các giáo trình, chuyên luận chủ yếu nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của tác phẩm, chứ
chưa xuất phát từ những biểu hiện nghệ thuật độc đáo và mới mẻ của tác phẩm. Tiêu biểu cho khuynh
hướng nghiên cứu này là Trần Xuân Đề, Lương Duy Thứ, Nguyễn Huy Khánh, các tác giả Giáo trình
Văn học Trung Quốc tập 2. Cũng có một số ít người nghiên cứu Liêu trai chịu ảnh hưởng của phương
pháp thẩm văn truyền thống mà tiêu biểu là Tản Đà và Chu Văn.
Sau 1989, với những bài viết của Nguyễn Huệ Chi, Lê Từ Hiển, Lê Nguyên Cẩn đã cho thấy một bước
tiến trong việc nghiên cứu Liêu trai trong khoảng thời gian gần đây. Điểm nổi bật của các bài viết này
là đã cố gắng tiếp cận tác phẩm từ chính những yếu tố cấu thành nghệ thuật. Cách làm của giáo sư
Nguyễn Huệ Chi và Lê Từ Hiển là xác định hệ qui chiếu của tác phẩm qua nhân vật trung tâm nhằm
chỉ ra tư tưởng tình cảm, tài năng nghệ thuật bậc thầy của nhà văn Bồ Tùng Linh.
Trên đây là một số cơng trình nghiên cứu về “Liêu trai chí dị” của các nhà nghiên cứu nước ngồi và
ViệtNam. Chúng tơi nhận thấy chưa có cơng trình nào chun đi sâu nghiên cứu phương diện hình
tượng nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ trong Liêu trai dưới góc độ thi pháp nhân vật.
Với tinh thần học tập không ngừng, với thái độ tôn trọng và cầu thị, chúng tơi sẽ kế thừa và tiếp thu
có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu, những ý kiến bổ ích từ các bài nghiên cứu của những người



1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

đi trước để đi sâu tìm hiểu hai loại hình tượng nhân vật này trong một số truyện ngắn được tuyển
chọn theo chủ đề một cách cụ thể, có hệ thống theo một quan điểm mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là bộ đoản thiên tiểu thuyết “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tơi khơng có điều kiện tìm tồn bộ tuyển tập truyện
ngắn của Bồ Tùng Linh được thống kê khoảng trên bốn trăm truyện. Đề tài khảo sát của chúng tôi chủ
yếu dựa trên văn bản “Tuyển tập Liêu Trai chí dị” của Nhà xuất bản Văn học, ấn hành năm 2003 gồm
có 119 truyện.
5. Đóng góp của đề tài
Bộ “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh đã hấp dẫn biết bao thế hệ độc giả ở mọi thời đại. Những tài
liệu nghiên cứu về Liêu trai khá nhiều nhưng chủ yếu là tiếp cận tác phẩm từ góc độ xã hội học hoặc
xoay quanh những yếu tố “kỳ”, “dị” trong các thiên truyện ngắn, đặc trưng thẩm mỹ của nhân vật kỳ
hình . . . mà chưa có cơng trình nào nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng hai loại nhân vật nho sinh và
phụ nữ trong Liêu trai. Do đó đến với đề tài này, trong những thiên truyện ngắn được tuyển chọn từ
bộ đoản thiên tiểu thuyết của Bồ Tùng Linh, chúng tơi muốn bước đầu tìm hiểu nghệ thuật xây dựng
hai loại nhân vật nói trên để thấy được tài năng độc đáo của nhà viết truyện ngắn bậc thầy họ Bồ.
Nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng hai loại nhân vật nho sinh và phụ nữ trong Liêu trai, đề tài sẽ giúp
cho người đọc nói chung và người làm khố luận nói riêng có đựơc cái nhìn đúng đắn, sâu sắc và tồn
diện hơn về nội dung tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của Bồ Tùng Linh.
Ở một phạm vi nhất định, đề tài hi vọng sẽ cung cấp thêm một tài liệu để tham khảo cho những ai yêu
thích bộ truyện ngắn này, phục vụ cho việc học tập và giảng dạy và nghiên cứu Liêu trai nói riêng,

văn học Trung Quốc nói chung.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp hệ thống
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã tuyển chọn bảy mươi chín thiên truyện ngắn viết về đề tài nho
sinh và phụ nữ trong tuyển tập “Liêu Trai chí dị” của Nhà xuất bản Văn học ấn hành 2003. Do đó, để
việc nghiên cứu được thuận lợi, chúng tơi đã chọn phương pháp hệ thống. Phương pháp này giúp
chúng tôi hiểu bao quát các tác phẩm một cách dễ dàng để thấy được sự gắn kết của chúng, đồng thời
cũng thấy được mối liên hệ giữa các nhân vật.
6.2. Phương pháp liệt kê
Chúng tôi tiến hành liệt kê, ghi lại những dẫn chứng cần thiết trong các bản dịch và nhiều tài liệu khác
có liên quan để dẫn chứng phù hợp với từng đề mục của khoá luận.
6.3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Chúng tơi tiến hành phân tích các dẫn chứng nhằm làm nổi bật các luận điểm cần triển khai. Sau đó
thâu tóm, khái quát chúng lại.
7. Dàn ý của khố luận
Đề tài : Hình tượng nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ trong “Liêu trai chí dị”
của Bồ Tùng Linh.
PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Lịch sử vấn đề
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đóng góp của khố luận
Phương pháp nghiên cứu
Dàn ý của khoá luận
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận
I – Nhân vật trong tác phẩm văn học
II – Quan niệm nghệ thuật về con người – phạm trù trung tâm của thi pháp học hiện đại



Chương 2: Vài nét về “Liêu trai chí dị”
I. Tác giả Bồ Tùng Linh
II. Tác phẩm “Liêu trai chí dị”
1. Một số đặc điểm về thể loại của “Liêu trai chí dị”
1.1. Khái niệm “tiểu thuyết chí quái”, “tiểu thuyết truyền kì”
1.1.1. Tiểu thuyết chí qi
1.1.2 Tiểu thuyết truyền kì
1.2. Liêu trai chí dị – sự kế thừa tiểu thuyết chí qi Ngụy Tấn và truyện truyền kì đời Đường cùng với
những sáng tạo mới
2. Vài nét về nội dung và nghệ thuật của “Liêu trai chí dị”
2.1. Nội dung
2.2. Nghệ thuật
3. Sơ lược về những hình tượng nhân vật chủ yếu trong “Liêu trai chí dị”
Chương 3: Hình tượng nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ trong “Liêu
trai chí dị”
I. Hình tượng nhân vật nho sinh
1. Những nhân vật nho sinh mải mê với hai chữ công danh
2. Những nhân vật nho sinh “suy đồi – mất niềm tin”
II. Hình tượng nhân vật phụ nữ
1. Nguồn gốc xuất thân
2. Những số phận phụ nữ bất hạnh
3. Những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật phụ nữ
3.1. Những người phụ nữ tài năng và sống có tình nghĩa, có bản lĩnh
3.2. Khát khao hạnh phúc, dám đấu tranh cho tình yêu
PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN NỘI DUNG
*****
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÍ LUẬN
I – NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC

“Nhân vật văn học” là một thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu
hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật
văn học có khi cịn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc
điểm giống với con người.
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, khơng thể bị đồng nhất với con
người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật.
Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người; nó có thể được xây
dựng chỉ dựa trên cơ sở quan niệm ấy. Ý nghĩa của nhân vật văn học chỉ có được trong hệ thống một
tác phẩm cụ thể.
Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một
khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Những nét chung về nhân vật văn học có thể cho
phép nêu lên những hiện tượng văn học như : văn học về “con người thừa” ( ở văn học Nga thế kỉ
XIX), văn học về “thế hệ mất mát” (ở văn học thế kỉ XX). . .Những nhân vật văn học trở nên nổi
tiếng, được biết đến rộng rãi chính là những hình tượng vĩnh cửu văn học thế giới như : Prômêtê,
Fauxt, Đông Joăng. . .
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra một kết luận : con người trong tác phẩm văn học
chính là nhân vật văn học hoặc các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường nhưng mang
những đặc điểm giống với con người và nhân vật ấy là đứa con tinh thần của nhà văn, là máu thịt của
nhà văn để thể hiện quan niệm thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về cuộc đời và con người.
Các nhà lí luận cũng nhấn mạnh đến tính nghệ thuật, tính ước lệ của nhân vật văn học. Nhân vật văn
học khơng hồn tồn giống như con người thật ngồi đời vì chúng có những đặc trưng nghệ thuật và


được thể hiện trong tác phẩm bằng các phương tiện văn học thơng qua lăng kính của nhà văn, nhưng
khơng vì thế mà chúng kém phần chân thật. Đã là tác phẩm văn học thì khơng thể thiếu nhân vật văn
học.
Như vậy, nhân vật văn học là hình thức cơ bản để qua đó nhà văn miêu tả đời sống một cách hình
tượng. Bản chất của văn học là một quan hệ với đời sống, nó chỉ tái hiện đời sống qua những chủ thể
nhất định, đóng vai trị tấm gương phản chiếu cuộc sống. Nhân vật văn học vì thế là đơn vị nghệ thuật
đầy tính ước lệ, khơng thể đồng nhất với con người có thật trong cuộc đời.

Tác phẩm văn học nào cũng là một hệ thống chỉnh thể của những hệ thống nhỏ hơn. Các nhân vật
trong các tác phẩm cũng thực sự tạo thành một hệ thống hồn chỉnh, chúng liên quan với nhau, móc
nối với nhau khơng chỉ bằng tiến trình các sự kiện miêu tả, mà suy cho cùng còn bằng logic của nội
dung nghệ thuật của nhà văn.
Hệ thống nhân vật đem lại cho hệ thống nghệ thuật của tác phẩm sự thống nhất về tính chỉnh thể,
đồng thời quan hệ giữa các nhân vật trong mỗi hệ thống ít hay nhiều đều phản ánh mối quan hệ xã
hội hiện thực của con người. Vì vậy tìm hiểu hệ thống nhân vật trong Liêu Trai thực chất là tìm hiểu
mối liên quan giữa các nhân vật không chỉ trong mỗi truyện mà còn trong mối liên hệ giữa các truyện
trong cùng một chủ đề.
2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI – PHẠM TRÙ TRUNG TÂM CỦA THI PHÁP HỌC
HIỆN ĐẠI
Theo GS. Trần Đình Sử trong giáo trình “Dẫn luận thi pháp học”(Nxb Giáo dục 1998) thì “Quan niệm
nghệ thuật về con người là nguyên tắc lí giải, cảm thụ và miêu tả con người trong nghệ thuật”. Quan
niệm nghệ thuật là cách cắt nghĩa, lí giải về con người trên cơ sở hấp thu các yếu tố thế giới quan
nhất định của thời đại, tạo ra một quan niệm của mình về thế giới và con người. Văn học là nhân học,
là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả
thần linh, ma quỷ, miêu tả đồ vật, hoặc giản đơn là miêu tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con
người. Mặt khác, người ta không thể miêu tả về con người, nếu như không hiểu biết, cảm nhận và có
các phương tiện, biện pháp nhất định. Mặt thứ hai này tạo thành chiều sâu, tính độc đáo của hình
tượng con người trong văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm
thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người
trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó.
Quan niệm nghệ thuật về con người hướng người ta cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của
chủ thể, là nguyên tắc cảm thấy, hiểu và miêu tả con người trong văn học và các nguyên tắc đó có cơ
sở sâu xa trong thực tế lịch sử, nó là một sản phẩm của lịch sử và cũng đồng thời là sản phẩm của văn
hoá, tư tưởng và quan niệm nghệ thuật về con người cũng mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ sỹ,
gắn liền với cái nhìn nghệ sỹ.
Trong các thể loại văn học khác nhau, do chức năng và hệ thống phương tiện biểu hiện khác nhau,
quan niệm nghệ thuật cũng có sự khác nhau quan trọng.
Một nền nghệ thuật mới bao giờ cũng ra đời cùng với con người mới, quan niệm con người tạo thành

cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật. Quả
là sự vận động của thực tế làm nảy sinh những con người mới và miêu tả những con người ấy sẽ làm
văn học đổi mới. Đổi mới cách giải thích và cảm nhận con người cũng làm cho văn học đổi thay căn
bản. Trong lịch sử văn học, việc sử dụng lại các đề tài, cốt truyện, nhân vật truyền thống là rất phổ
biến nhưng cách giải thích và cảm nhận của họ là mới, tạo thành tiếng nói nghệ thuật mới. Cũng vẫn
là con người đã biết, nhưng hơm qua được nhìn ở một góc độ, hơm nay nhìn sang góc độ mới cũng tạo
thành sáng tác văn học mới.
Quan niệm nghệ thuật về con người không phải là bất cứ cách cắt nghĩa, lí giải nào về con người mà là
cách cắt nghĩa có tính phổ quát, tột cùng mang ý vị triết học, nó thể hiện cái giới hạn tối đa trong việc
miêu tả con người. Do đó người ta có thể tiến hành so sánh các tác phẩm văn học khác nhau trên giới
hạn tối đa mà hiểu được mức độ chiếm lĩnh đời sống của các hệ thống nghệ thuật.
Quan niệm nghệ thuật về con người luôn hướng vào con người trong mọi chiều sâu của nó, cho nên
đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn vốn có của văn học. Nghệ sỹ là người


suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người, do đó càng
khám phá nhiều quan niệm nghệ thuật về con người thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ,
càng đánh giá đúng thành tựu của họ.
Quan niệm nghệ thuật về con người biểu hiện trong toàn bộ cấu trúc của tác phẩm văn học, nhưng
biểu hiện tập trung trước hết ở nhân vật, bởi “nhân vật văn học là con người được miêu tả, thể hiện
trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học”. Nhân vật văn học biểu hiện cách hiểu của nhà văn về con
người theo một điểm nhất định và qua các đặc điểm mà anh ta lựa chọn. Nhân vật văn học chính là
mơ hình về con người của tác giả. Muốn tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người phải xuất phát
từ các biểu hiện của nhân vật, thông qua các yếu tố tạo nên nó.
CHƯƠNG II : VÀI NÉT VỀ “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”
I – TÁC GIẢ BỒ TÙNG LINH
Bồ Tùng Linh sinh năm 1640 ( năm thứ 13 Sùng Trinh đời Minh ), mất năm 1715 ( năm thứ 54 Khang
Hy đời Thanh ), tự Lưu Tiên, cũng có tự là Kiếm Thần, biệt hiệu Liễu Tuyền Cư Sĩ, người Tri Xuyên
( nay là Tri Bác, thuộc tỉnh Sơn Đông). Ông xuất thân trong một gia đình thế gia suy sụp đã lâu, là
một gia đình thương nhân, địa chủ nhỏ. Thân sinh là Bồ Bàn Canh do lận đận trên đường khoa cử, đi

thi không đỗ nên bỏ nho học chuyển sang làm thương nhân, nhưng vẫn không phục hồi được gia thế
như mong muốn, gia đình trước sau vẫn khơng thốt khỏi vận nghèo.
Từ ngày cịn nhỏ, Bồ Tùng Linh đã chịu sự giáo dục nghiêm khắc của gia đình. Ơng theo cha đi học và
nhiệt tình say sưa với công danh khoa cử. Đến năm 19 tuổi ( 1658 ) , Tùng Linh dự lớp thi đồng sinh
thì ba lần được chọn là “Đệ nhất bổ bác sĩ đệ tử sinh viên” ( là những người học giỏi được vào học ở
Thái học ) ở ba cấp : huyện, phủ, đạo, và được quan học sứ Thi Nhuận Chương khen ngợi. Từ đó ơng
nổi tiếng về văn chương, và tự đánh giá mình rất cao. Lúc đầu thuận buồm xi gió, gặp nhiều may
mắn là thế, nhưng càng về sau thì Bồ Tùng Linh càng gặp nhiều cảnh éo le, đường khoa cử lắm phen
lận đận, luôn gặp trắc trở. Con đường khoa hoạn của ông khá long đong, nhiều phen đến TếNamthi
hương đều bị hỏng, có những cuộc thi vì ốm, phải bỏ dở nửa chừng. Đi thi mãi đến năm 60 tuổi mà
vẫn không đỗ đạt được gì. Đến năm 71 tuổi ơng được ban cho một danh nghĩa khơng có ý nghĩa gì là
“Tuế Cống Sinh”. Nỗi lịng của ơng trước sau vẫn lắm bi ai, đau xót. Ơng thường tự ví mình như Biện
Hồ, người ơm ngọc ba lần dâng cho ba vua ( Lệ, Vũ và Văn vương ), nhưng hai lần bị chặt cụt chân.
Bồ Tùng Linh tiếc tài năng của mình khơng được nhà cầm quyền biết đến.Vợ khun nhủ ông mới chịu
buông bỏ ảo tưởng theo con đường sĩ hoạn. Về sau ông chuyên đi dạy tư thục tại các gia đình quan
viên, lấy đó làm nghề ni sống .Trên con đường lận đận mấy mươi năm trong việc khoa cử, có một
thời gian ngắn ơng từng đi làm chức mạc tân ( thư kí văn thư trong cơ quan quân sự ). Con đường
khoa hoạn luôn luôn làm ơng bất đắc chí, lịng đầy uất ức. Do đó ông đã viết nên những thiên truyện
ngắn bất hủ về đề tài này.
Không những con đường khoa cử gặp nhiều đều bất đắc ý, mà cuộc sống của ông cũng khó khăn vơ
cùng. Suốt đời ở nơng thơn làm thầy giáo dạy tư, ông nghèo đến nỗi “nhà không vách khơng phên,
cây cối um tùm, gai góc”, mười năm trời bệnh tật nghèo đói “ra cửa khơng có lừa để cưỡi”, suốt năm
khơng được ăn miếng thịt. Chính cuộc sống ngày càng sa sút nơi nơng thơn hẻo lánh đó, làm cho ông
hiểu được phần nào đời sống, tư tưởng và tình cảm cua quần chúng nhân dân. Ơng đã viết một số bài
thơ, tản văn nói thay tiếng nói của nhân dân. Ông viết một số sách thuộc loại thông tục phổ cập
như Nhật dụng tục tự, Nông tang kinh . . Một số bài trong “Liêu trai chí dị” biểu hiện tình cảm chân
thật đáng q của ơng đối với người nơng dân chất phác hiền lành. Vì thế tác phẩm của ông không
thuần túy chỉ kể lại nỗi băn khoăn thắc mắc và lòng phẫn nộ bi ai của kẻ thất thế, mà đã phản ánh
mâu thuẫn xã hội và tư tưởng nguyện vọng của nhân dân.
Bồ Tùng Linh vốn là người có khiếu văn thơ từ nhỏ và sáng tác từ khá sớm tuy không chuyên. Đại để

bắt đầu tuổi trung niên, ông vừa dạy học vừa sáng tác quyển Liêu Trai Chí Dị, mãi cho tới tuổi già mới
xong. Sách chưa được in nhưng trong các bạn bè đã chuyền nhau đọc và được lãnh tụ thi đàn thời bấy
giờ là Vương Sĩ Chân tán thưởng. Trong lời tựa viết lấy, ông tâm sự : “ Mặc dù khơng có tài như Can
Bảo ( viết bộ Sưu thần ký) nhưng rất thích sưu tầm chuyện thần ma, tâm tình giống như người xưa ở
Hàng Châu ( Tơ Thức bị biếm trích về Hàng Châu ) thích nghe chuyện quỷ. Nghe đến đâu là đặt bút


ghi chép đến đấy, lâu ngày thành sách .” Ông là tấm gương về một nhà giáo nông thôn biết tìm niềm
vui trong việc sưu tầm và sáng tác”. Ngồi bộ Liêu Trai Chí Dị, ơng cịn viết khá nhiều thi ca ( sau in
thành Thi tập, 6 quyển); từ, văn ( sau in thànhVăn tập 12 quyển), và những bài hát dân gian, 14
thiên hí khúc và 3 vở tạp kịch . . . Người đời nay đã tập hợp những sáng tác đó vào bộ “Bồ Tùng Linh
tập”. Về thơ, mọi người nhận xét thơ ông là loại thơ không chú tâm gọt đẽo mà viết tự đáy lịng nên
chân thực và hồn hậu, là tiếng nói trữ tình của một con người từng nếm trải đủ mọi đắng cay chua
chát của đời, đó là do ảnh hưởng từ cuộc sống khắc khổ của ông. Sau này ông có cơ hội nghiên cứu
kinh sử, triết lý, văn chương và rất hứng thú với các môn : thiên văn, nông trang, y dược… Năm 1980
Bồ Tùng Linh được UNESCO kỉ niệm như một danh nhân văn hoá thế giới.
– Các sáng tác :
+ Liêu trai chí dị ( tập hợp khoảng 448 truyện ngắn )
+ Liêu trai văn tập (12 quyển)
+ Liêu trai thi tập (6 quyển với hơn 1000 bài thơ, 170 bài từ, 14 vở ca khúc dân gian và 3 vở tạp
kịch)
– Thể loại sáng tác:
+ Truyện ngắn
+ Tiểu thuyết
+ Thơ
II – TÁC PHẨM “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”
1.MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ THỂ LOẠI CỦA “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”
1.1.KHÁI NIỆM “TIỂU THUYẾT CHÍ QUÁI”, “TIỂU THUYẾT TRUYỀN KÌ”
1.1.1 TIỂU THUYẾT CHÍ QI
Một thể loại văn xi tự sự trong văn học Trung Quốc, thường ghi chép những chuyện li kì quái đản,

xuất hiện và phát triển vào thời Lục Triều từ đầu thế kỉ III đến cuối thế kỉ VI. Tiểu thuyết chí quái tiếp
tục phát triển truyền thống của thần thoại, ngụ ngôn, dã sử, tạp sử các thời đại trước nhưng có căn
nguyên sâu xa trong điều kiện lịch sử thời Lục triều ( 281 – 598), một giai đoạn cực kì hỗn loạn, đầy
rẫy những đau thương chết chóc, lan tràn rộng rãi đủ mọi thứ mê tín, tơn giáo.
Nội dung rất phức tạp, có loại ghi những chuyện kì lạ về các mặt địa lí, động vật thực vật như Bác vật
chí, Thần dị chí, có loại mang tính chất dã sử như Hán Vũ Đế nội truyện, Thập dị kí, có loại chuyên kể
những chuyện thần quái như Liệt dị truyện, Oan hồn chí . . .Gạt bỏ bộ áo hoang đường, loại nào
cũng có những chuyện có giá trị hiện thực song đáng chú ý hơn cả là những mẩu chuyện dân gian
được cải biên ghi lại trong Sưu thần ký của Can Bảo. Tiểu thuyết chí quái đã chuẩn bị cho sự ra đời
của tiểu thuyết truyền kì đời Đường và có ảnh hưởng nhiều mặt đối với kịch, tiểu thuyết các thời đại
sau.
1.1.2.TIỂU THUYẾT TRUYỀN KÌ
Một hình thức văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, vốn bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau được các
nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, sử dụng những mơtip kì qi hoang đường, lồng trong
một cốt truyện có ý nghĩa trần thế, nhằm gợi hứng thú cho người đọc. Gọi là tiểu thuyết nhưng tiểu
thuyết truyền kì có dung lượng ngắn và kết cấu không theo kiểu truyện dài thu ngắn – phần nào đã có
dáng dấp của thể loại truyện ngắn cận hiện đại. Sự tham gia của yếu tố thần kì vào câu chuyện cũng
khơng phải là do những lực lượng tự nhiên được nhân hóa như kiểu thần thoại, hoặc những nhân vật
có phép lạ như kiểu trời, bụt, thần tiên . . . trong truyện cổ tích thần kì mà phần lớn ở ngay hình thức
“phi nhân tính” của nhân vật ( ma quỉ, hồ li, vật hóa người. . .) .Tuy nhiên, trong truyện bao giờ cũng
có những nhân vật là người thật, và chính những nhân vật mang hình thức “phi nhân” thì cũng chỉ là
sự cách điệu, phóng đại của tâm lí, tính cách một loại người nào đấy; vì thế truyện truyền kì vẫn mang
rất đậm yếu tố nhân bản, có giá trị nhân bản sâu sắc.
1.2. LIÊU TRAI CHÍ DỊ – BỘ TRUYỆN NGẮN VĂN NGÔN KẾ THỪA TIỂU THUYẾT CHÍ
QUÁI NGỤY TẤN VÀ TRUYỆN TRUYỀN KỲ ĐỜI ĐƯỜNG CÙNG VỚI NHỮNG SÁNG TẠO MỚI
“Liêu trai chí dị” là bộ tiểu thuyết đoản thiên ra đời trên cơ sở kế thừa thành tựu của nền văn học
truyền thống và các sáng tác dân gian. Cội nguồn trực tiếp ảnh hưởng đến sáng tác “Liêu trai chí dị” là


những câu chuyện dân gian và truyện chí quái Lục Triều, truyền kì đời Đường. Ảnh hưởng văn học dân

gian đối với Liêu trai thể hiện ở việc nhào nặn, vận dụng các mơtip thần thoại cổ tích nhuần nhuyễn
tới mức nói đến “khơng khí Liêu trai”, “Thế giới Liêu trai” là người ta liên tưởng ngay đến thế giới của
những câu chuyện cổ tích, thần thoại. Những motip tái sinh, đầu thai, sinh đẻ kì lạ, biến hình, người
mang lốt. . . đầy rẫy trong các truyện ngắn của bộ Liêu trai.
Khi đánh giá về nghệ thuật Liêu trai, Lỗ Tấn trong “Trung Quốc tiểu thuyết sử lược”, chương 25 có viết
: “Dùng phương pháp truyền kỳ để chép chuyện chí quái, biến ảo khác thường mà như xảy ra trước
mắt”. Liêu trai đã kế thừa tinh hoa nghệ thuật của chuyện chí quái thời Ngụy Tấn và truyền kì đời
Đường, đồng thời nâng cao thành tựu nghệ thuật của hai thể loại này lên một tầm cao mới. So với chí
qi thì Liêu Trai miêu tả tường tận, tỉ mỉ hơn; so với truyền kì thì cơ đọng và hàm súc hơn. Cách viết
của Liâu trai có nhiều chỗ phát triển và sáng tạo. Ngoài cách miêu tả nhân vật ta cịn thấy rõ điều đó
ở các tình tiết. Khi lựa chọn tài liệu và khi hạ bút, tác giả ln chú ý những tình tiết éo le thú vị và ra
sức thay đổi cách viết để hấp dẫn người đọc. So sánh các truyện truyền kì đời Đường với các truyện
trong Liêu trai của Bồ Tùng Linh ta có thể thấy sự đồng dạng về mặt mơtip cốt truyện, song về mặt bố
cục, tổ chức sắp xếp sự kiện, nhân vật, tình tiết thì rõ ràng truyện của Bồ Tùng Linh gây được hiệu
quả nghệ thuật mạnh mẽ hơn.
Do tiếp thu truyền thống của chí quái và truyền kì, Liêu trai khai thác tồn chuyện lạ ( dị ) đặc biệt là
chuyện chung sống giữa người và hồ ly tinh. Sức tưởng tượng huyền diệu của tác giả tạo nên màu sắc
kỳ ảo của Liêu trai. Cảnh tượng dương gian và âm phủ xen kẽ nhau hầu như khơng có gì ngăn cách.
Con người và u tinh biến hố hằng ngày, như là một sự thực bình thường. Mặc dù nói chuyện ma
quỷ, tác phẩm khơng gây ấn tượng rùng rợn mà ngược lại có phần gần gũi, thân thiết. Điều đó bắt
nguồn từ việc quan sát cuộc sống, nhận thức hiện thực sâu sắc và thấu đáo của tác giả. Mặt khác còn
do khuynh hướng lãng mạn tích cực của tác phẩm. Cũng giống như thần thoại, yêu quái ở đây đã giúp
con người chiến thắng thiên tai nhân họa. Lỗ Tấn viết : “Các sách chí quái cuối Minh đại để đều sơ
lược, lại lắm điều hoang đường, quái đản. Chỉ có Liêu trai là tường tận mà bình dị thấm đượm tình
người, khiến cho người ta đọc chuyện các loài hoa yêu quái, chuyện hồ ly tinh mà khơng hề nghĩ rằng
đó là giống khác”. Nhưng xét cho cùng, sức hấp dẫn của Liêu trai chí dị khơng phải ở đề tài qi lạ với
những yếu tố kì ảo mà vẫn là ở tính chân thật bắt nguồn từ chân lý cuộc sống. Truyền kì, chí qi mở
ra thế giới tâm linh, siêu thực, cho phép con người cá nhân có dịp biểu hiện nhiều mặt hơn.
Truyện ngắn văn ngôn đã trải qua các thời từ chí quái của Lục triều đến truyền kí đời Đường rồi phát
triển đến thời Tống – Nguyên đã uể oải dần để đi vào suy kiệt nhưng Bồ Tùng Linh với “Liêu trai chí dị”

, một đỉnh núi lạ nhô lên, đạt thành tựu cao nhất của thể loại truyện ngắn văn ngơn. Cả bộ có gần 500
truyện ngắn, tả hết mọi bất bình của nhân gian, ca ngợi những mối tình đẹp đẽ, gửi gắm nỗi căm uất
lẻ loi của một đời không gặp cơ hội thi thố tài năng. Ơng lập ý mới mẻ, thơng minh, li kì, sắc sảo, ngụ
ý thấm thía sâu xa.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng Bồ Tùng Linh đã tiếp thu, kế thừa những nguyên mẫu thần thoại, cổ
tích và truyền thống văn học chí qi, truyền kì Trung Quốc. Đó là một sự kế thừa xuất sắc. Bằng tài
năng và sự sáng tạo độc đáo, ơng đã chuyển hố cốt truyện dân gian, sáng tạo lại những cốt truyện
truyền kì, chí qi thành những tác phẩm văn học mẫu mực, đem lại cho nó hơi thở mạnh mẽ của thời
đại.
2.VÀI NÉT VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”
2.1. NỘI DUNG
Liêu trai tập hợp hơn 400 truyện ngắn viết về nhiều đề tài, đề cập đến nhiều nội dung khác nhau
nhưng chung quy có thể chia làm ba loại chính như sau :
Loại thứ nhất : vạch trần chế độ chính trị đen tối, đả kích tham quan ô lại, cường hào ác bá, bênh
vực những người lương thiện bị oan ức, bị chà đạp, bị bức hại. Tiêu biểu cho loại này có các
truyện : Xúc chức, Tịch Phương Bình, Hướng Cảo . . . .Ngồi ra cịn có thể kể các truyện : Hồng
Ngọc, Thạch Thanh Hư, Đậu thị, Vương Giả, Tục Hoàng Lương . . . Truyện Xúc chức ( con dế )
mặc dù mang một kết thúc có hậu kiểu chuyện kể dân gian nhưng vẫn thể hiện đầy đủ số phận bi
thảm của những người dân hiền lành, chất phác dưới nanh vuốt của vua quan phong kiến. Nguyên


nhân dẫn đến cái chết oan uổng của đứa con trai nhân vật chính Thành Danh là thói đam mê chọi dế
của nhà vua ( Tuyên Đức nhà Minh). Vua thích chọi dế, bắt dân nộp dế dâng lên. Khó khăn lắm Thành
Danh mới bắt được dế, nhưng thằng con trai chín tuổi sơ ý để dế chạy mất, khi bắt lại được thì dế đã
lịi ruột. Thằng bé sợ q bỏ nhà trốn đi. Bố mẹ nó tìm khắp nơi và cuối cùng thấy xác nó nằm dưới
giếng! Thú vui của kẻ thống trị tối cao được đổi bằng mạng một đứa trẻ! Rồi, để cứu gia đình, hồn
thằng bé liền hoá thành một con dế thật hay, chọi thi thắng cuộc được đem tiến cung và được ban
thưởng rất hậu. Có thể nhà văn mượn kết thúc có hậu này để bày tỏ lịng đồng tình với số phận bi
thảm của những người dân lương thiện, khích lệ họ tin tưởng vào cuộc sống, an ủi họ bởi triết lí “ở
hiền gặp lành”. Nhưng về khách quan chi tiết này cịn có ý nghĩa tố cáo sự tàn bạo của kẻ thống trị :

chúng không chỉ giày xéo người dân ở kiếp này mà còn lăng nhục họ ở cả kiếp sau, dồn đuổi họ đến
chỗ khơng cịn con đường nào khác ngoài việc biến thành đồ chơi mua vui cho chúng.
Nếu trong “Xúc chức”, nhà văn trực tiếp đả kích kẻ thống trị tối cao thì trong“Tịch Phương Bình”,
ơng lại phê phán bộ máy quan lại tham ô tàn bạo. Cha Tịch Phương Bình là Tịch Liêm, chỉ chống lại
tên tài chủ họ Dương mà bị hãm hại. Tên này mua hết quan lại sai nha dưới âm phủ để đày đoạ Tịch
Liêm xuống âm ti. Khi Phương Bình hai lần bất chấp nguy hiểm, xuống âm ti tìm cha thì chúng lại cấu
kết với ma quỷ tìm cách hãm hại anh ta. Ở đây hồn tồn khơng có cơng lý, khơng có chính nghĩa,
đồng tiền chi phối tất cả. Lời buộc tội của Quán Khẩu nhị lang rất có ý nghĩa : “Ánh sáng của vàng bạc
bao trùm mặt đất cho nên điện Diêm Vương tối tăm, hơi đồng tanh tưởi ngút trời làm cho trong thành
khơng ngày nào là khơng có kẻ chết oan”. Bình phải chịu nhiều nỗi khổ nhục. Truyện không chỉ miêu
tả cảnh tượng ở âm ti mà còn gợi cho người đọc thấy được những cảnh tượng ở dương gian.
Hình ảnh nhân vật Tịch Phương Bình hiên ngang bất khuất truớc quân thù tàn bạo, hoàn toàn vượt ra
ngoài phạm trù “trung hiếu”. Nó tượng trưng cho ý chí đấu tranh của những người bị áp bức. Những
nhân vật phản diện trong truyện“Tịch Phương Bình” từ Minh vương cho đến cả lũ cai ngục đều tác
oai tác quái làm mọi điều gian ác. Bạo lực thay cho công lý, đồng tiền thay cho chính nghĩa.
Quan lại sai nha sở dĩ dám làm càn, làm bậy là vì trên thì có triều đình che chở, dưới thì có địa chủ
cường hào giúp sức. Chúng cấu kết với nhau thành thiên la địa võng để bóc lột áp bức người dân,
chẳng hạn như các truyện : Hồng Ngọc, Thạch Thanh Hư ( Đá quý ở động Thanh Hư ) , Đậu thị
Nếu câu chuyện “Tịch Phương Bình” nói về chốn diêm gian nhưng chẳng khác gì hệ thống quan liêu
trong xã hội hiện thực, thì câu truyện “Hồng Ngọc”kể về cuộc sống thực tế ở trần gian, nói về nạn
cường hào gian ác cấu kết với bọn quan lại tham nhũng, làm đủ điều bỉ ổi xấu xa.
Truyện “Hồng ngọc” tả tên Ngự sử họ Tống quen ăn tiền của đút lót, bị cách chức về làng, “ở nơi
rừng vắng thả sức ra oai” cướp vợ Phùng Tương Như là nàng Hồng Ngọc xinh đẹp rồi hãm hại cả cha
nàng. Hắn đút lót cho bọn quan lại địa phương, khiến Tương Như bó tay khơng biết kêu oan vào đâu
được. Chỉ vì hắn mà Phùng Tương Như tan cửa nát nhà, cha của Phùng thổ máu tươi chết, vợ chàng bị
làm nhục. Tác giả phải nhờ đến lực lượng siêu nhân trừng phạ bọn ác bá địa chủ, đồng thời cũng cảnh
cáo bọn quan lại : “Chúng bay hãy coi chừng, đừng có ỷ thế hiếp người, nếu khơng thì sẽ chịu lấy
thảm họa như gia đình họ Tống kia”. Điều đó cũng dễ hiểu, vì sống trong bể ải trầm luân đầy tang tóc,
đau thương, quần chúng nhân dân ước ao xuất hiện lực lượng siêu hình đủ tài đủ sức, chống cường
quyền, trừ bạo lực và bảo vệ cuộc sống yên lành cho nhân dân.

Truyện “Thạch Thanh Hư” ( Đá quý ở động Thanh Hư ) tuy muốn đề cập đến tư tưởng “vật quí lại
về người tri kỉ” nhưng trong phần đầu miêu tả sinh động cảnh tên ác bá sai bọn ác ơn trắng trợn cướp
viên đá của Hình Vân Phi. Truyện “Đậu thị” ( Người con gái họ Đậu ) tả một tên địa chủ lường gạt
con gái nơng dân, có con rồi bỏ, bức nàng phải chết . . . Dưới ngòi bút điêu luyện của tác giả, bộ mặt
nanh ác không từ thủ đoạn nào của bọn chúng được phơi bày. Tác giả cho người đọc thấy sự cấu kết
giữa vua quan và địa chủ cường hào thực sự tạo thành một thiên la địa võng chăng bủa khắp nơi, dồn
người dân lương thiện vào đường cùng ngõ cụt.
Nhưng con giun xéo lắm cũng quằn! Mặc dù không đề cập trực tiếp sự phản kháng đấu tranh của nhân
dân nhưng Liêu trai đã xây dựng được những hình tượng phục thù có sức thuyết phục : Tịch Phương
Bình, Hướng Cảo, Đậu thị . . . Bất chấp mọi hình phạt tàn bạo như cưa xương chẻ thịt và những lời dụ
dỗ lừa phỉnh của Diêm phủ, để minh oan cho cha, Phương Bình hai lần xuống âm phủ, kiên trì đấu


tranh không hề khuất phục, cũng không bị lừa bịp bởi miếng mồi “giàu có trăm vạn, sống lâu trăm
tuổi”. Bình ngang nhiên nói : “Oan này chưa rửa, chết cũng không thôi”. Anh ta đấu tranh đến cùng
cho cha được cứu sống, kẻ hãm hại cha bị xử tội mới thôi. Cuối cùng được thần thánh phù hộ, cha của
Bình được cứu sống và quân thù bị xử tội . Cịn Hướng Cảo lại chính là hình tượng thể hiện nguyện
vọng trả thù của nhân dân bị áp bức. Chi tiết Hướng Cảo biến thành hổ để trả thù trở thành biểu
tượng của một khát vọng. Cuối truyện, tác giả viết : “Nhưng trong thiên hạ, những điều làm cho người
ta căm giận thì nhiều lắm, mà kẻ oan khuất thường chỉ là người chứ đâu được tạm thời làm cọp! Thật
đáng buồn!”
Nói chung, từ những góc độ khác nhau, Bồ Tùng Linh đã phơi bày bộ mặt tàn nhẫn ghê gớm của giai
cấp thống trị. Thái độ yêu ghét của tác giả hết sức rõ ràng. Tuy Bồ Tùng Linh chưa nhận ra được bản
chất của sự áp bức giai cấp trong xã hội phong kiến, nhưng ông đã nhìn thấy nguyên nhân của sự
thống khổ của nhân dân. Ông căm thù đến xương tủy bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị phong
kiến. Ông nhờ những lực lượng siêu hình để trừng phạt chúng cũng như thơng qua những chi tiết giàu
màu sắc thần bí, ca ngợi tinh thần đấu tranh và những kết quả tốt đẹp mà quần chúng đã giành được.
Đó là tấm lịng của tác giả đối với những người bị áp bức, bị chà đạp, nó chứng tỏ người thuật truyện
khơng đứng ngoài cuộc, bởi thế sự phục thù ở đây cho dù cịn mang tính chất ảo tưởng nhưng vẫn
đem đến một cảm giác khoái trá thật sự !

Loại truyện thứ hai đề cập đến một đề tài gần như “Chuyện làng nho” của Ngơ Kính Tử với những tệ
hại của chế độ khoa cử, đả kích việc dùng văn bát cổ để chọn nhân tài, như các truyện : Vương Tử
An, Tư Văn Lang, Giả Phụng Chi, Tam sinh . . .
Loại truyện thứ ba xoay quanh đề tài tình yêu và hôn nhân. Cũng giống như Vương Thực Phủ trong
vở tạp kịch “Tây Sương ký”, Bồ Tùng Linh là loại tác giả hiếm hoi, được đào tạo theo giáo lý Khổng
Mạnh mà lại nhiệt tình ca ngợi tình yêu trai gái, coi nó là hạnh phúc chính đáng của thanh niên, cổ vũ
họ đấu tranh vượt qua mọi chướng ngại để giành lấy tình u tự do và hơn nhân tự chủ.
Coi tình u say đắm là chính đáng, tác giả nhiệt tình ca ngợi những người đang yêu, dựng dậy những
hình tượng rạng rỡ, mạnh mẽ và trong sáng của nam nữ thanh niên trong đời sống yêu đương.
Ngồi ba loại truyện chủ yếu nói trên, Liêu trai còn đề cập đến hàng loạt vấn đề như : cảnh giác đối
với kẻ thù ( Chuyện sói ), có rèn luyện mới có hưởng thụ( Đạo sĩ Lao Sơn ), ca ngợi tình bạn ( Kiều
Na ), ca ngợi thế giới đào nguyên ngoài đời ( Vương Giả ) . . .
Tóm lại, Liêu trai khơng đơn thuần là chuyện quái lạ để giải trí lúc nhàn rỗi mà là một tập truyện đem
đến nhiều bài học bổ ích trong việc nhận thức xã hội, hiểu biết cuộc đời, đấu tranh cho một cuộc sống
tốt đẹp hơn.
2.2. NGHỆ THUẬT
Bộ Liêu trai chí dị là kiệt tác của Bồ Tùng Linh, đó cũng là một đỉnh cao của truyện ngắn cổ điển
Trung Quốc, trong truyện sử dụng thủ pháp nghệ thuật truyện truyền kỳ đã đạt đến mức hoàn chỉnh,
tất cả các mơtíp truyền kỳ truyền thống đều được nhà văn vận dụng tài tình làm cho các truyện trở
nên kỳ ảo.
Hầu hết các truyện trong “Liêu trai chí dị” đều được xây dựng theo kết cấu truyền thống. Nó không
nhằm mục tiêu miêu tả đời sống theo kiểu xén ngang mà thường là kể chuyện có đầu có đi, các số
phận được miêu tả một cách trọn vẹn, các sự việc có gốc gác, q trình, kết thúc. Nhưng khác với các
bộ tiểu thuyết trường thiên thường lấy đối tượng phản ánh là những biến cố lịch sử, những vận động
biến đổi của các triều đại, dòng họ, tức là phản ánh hiện thực trên bình diện rộng cả về không gian và
thời gian, Liêu trai miêu tả những lát cắt của cuộc sống phức tạp, những mảng mẩu của cuộc sống ở
phạm vi hẹp hơn.
Đứng ở góc độ kết cấu chỉnh thể của một tác phẩm thì các truyện ngắn trong Liêu trai đã là một chỉnh
thể nghệ thuật trọn vẹn. Nhưng từng truyện riêng lẻ lại không bao qt được tồn bộ mà nó chỉ đề
cập đến những phần rất nhỏ của cuộc sống. Nhưng dưới góc độ kết cấu siêu văn bản thì “Liêu trai chí

dị là một chỉnh thể nghệ thuật nguyên vẹn mà các truyện là các chương, các phần của chỉnh thể đó”
( Lê Ngun Cẩn ). Ở mặt này thì có thể nói sức phản ánh hiện thực của Liêu trai khơng hề thua kém
bất kỳ một bộ tiểu thuyết trường thiên nào.


Trong khi miêu tả, cố gắng làm cho sự việc thêm éo le, ly kỳ, khúc chiết. Về mặt này, nó phát huy
được đặc điểm truyền thống của truyện ngắn Trung Quốc. Truyện “Vụ án tình si” ( Yên Chi ) là một
ví dụ, truyện chỉ trên dưới hai nghìn chữ mà miêu tả tỉ mỉ quá trình phức tạp của một vụ án mạng từ
khi còn là một âm mưu cho đến lúc xử án. Hay như truyện “Đạo sĩ núi Lao Sơn”chưa đầy một nghìn
chữ mà khắc hoạ rõ nét tính cách một anh chàng lười, chưa luyện tập mà đã ước thành tài để hưởng
thụ. Nhìn chung tác giả dụng công dàn dựng để mỗi truyện một khác. Thi sĩ Tản Đà khi dịch “Liêu trai
chí dị” có nhận xét : “Truyện Kiều bao nhiêu câu lục bát mà không câu nào giống câu nào; Liêu trai
bao nhiêu truyện lớn nhỏ mà không truyện nào phảng phất truyện nào”.
Cốt truyện Liêu trai phần lớn đều rất ngắn gọn với lối triển khai nhanh, kết thúc gọn. Đặc điểm dễ
nhận thấy ở truyện ngắn Bồ Tùng Linh là cốt truyện đơn tuyến và sự giảm thiểu tối đa sự kiện và nhân
vật. Lối khai triển của truyện Bồ Tùng Linh là nhanh chóng đưa độc giả xâm nhập ngay vào bối cảnh
của sự kiện sau vài lời khơi dòng mạch truyện rất ngắn gọn, giới thiệu sơ lược về nhân vật : tên là gì?
quê ở đâu, làm nghề gì? và ngồi những điều đó ra thì độc giả khơng biết gì hơn về số phận, tính cách
của nhân vật. Lối khai triển như vậy tạo nên một ấn tượng rõ nét, khác với những lời dẫn truyện tỉ mỉ
dài dịng của truyện truyền kì đời Đường. Ở Liêu trai, sau những lời dẫn truyện sơ lược, tác giả chuyển
ngay điểm nhìn trần thuật sang nhân vật. Do đó mà những lời đối thoại chiếm tỉ lệ rất cao. Sự thay
đổi điểm nhìn trần thuật, các đoạn đối thoại được móc nối rất sống động làm cho cốt truyện được mở
ra rất nhanh.
Nếu như lối khai triển nhanh của cốt truyện có tác dụng đưa người đọc thâm nhập trực tiếp nhanh
chóng vào bối cảnh câu chuyện, thì lối kết thúc truyện lại bất ngờ và logic. Cách kết thúc bất ngờ và
logic của truyện ngắn Bồ Tùng Linh tạo được dư âm trong lòng người đọc và chứa đựng những ý nghĩa
triết lí sâu sắc về cuộc đời.
Văn Liêu trai thuộc loại cổ văn hết sức điêu luyện chứng tỏ tác giả có sự tu dưỡng rất cao về văn
chương và sáng tác với biết bao công phu, tâm huyết. Ngôn ngữ kể chuyện trong tiểu thuyết là loại
văn ngôn đẹp lại nhã, gãy gọn, rõ ràng. Riêng về những câu đối thoại của nhân vật, cũng dùng văn

ngơn là chính nhưng dễ hiểu hơn. Thỉnh thoảng, tác giả còn khéo léo đưa thành phần bạch thoại vào,
vừa không làm hỏng phong cách ngôn ngữ trên tổng thể, lại khắc phục được ở mức độ nhất định mà
tiểu thuyết văn ngơn thường gặp phải là khó miêu tả tinh thần và lời nói của nhân vật. Đấy là một
thành tựu rất hiếm có. Như trong truyện “Mặc áo lá cây” ( Phiên Phiên ), những lời đối đáp mang
tính hài hước giữa Hoa Thành Nương Tử và tiên nữ Phiên Phiên hết sức linh động. Đối với những độc
giả tương đối có trình độ văn hố thời bấy giờ, đọc lên khơng có gì khó hiểu. Do kết hợp từ nhiều mặt
nên “Liêu trai chí dị” đã xúc tiến nghệ thuật văn ngôn tiến lên một bước. Từ đó trở về sau, mặc dù có
nhiều tác phẩm tương tự ra đời nhưng đều khơng có tác phẩm nào bì kịp.
Dùng thủ pháp “Vẽ rồng chấm mắt” hoặc thông qua hành động, ngôn ngữ của nhân vật để biểu hiện
tính cách nhân vật, khơng cần giới thiệu dài dòng, hoặc dùng lối châm biếm nêu bật tư tưởng chủ đề
của tác phẩm . . .là những thành công của “Liêu trai chí dị” và cũng là đặc điểm dân tộc truyền thống
của truyện ngắn Trung Quốc.
“Liêu trai chí dị” ra đời đến nay đã trên ba thế kỉ. Nó đem đến cho người đọc một phong cách mới mẻ,
hấp dẫn. Người đọc có được niềm vui nhờ sự hố thân kì diệu trong chốc lát để thốt khỏi những cảnh
đời ngang ngược, để thực hiện những ước mơ.
3. SƠ LƯỢC VỀ NHỮNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT CHỦ YẾU TRONG “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”
Thế giới nhân vật trong “Liêu trai chí dị” vơ cùng phong phú và đa dạng. Đó là những tên tham quan
ơ lại, cường hào ác bá trong những truyện ngắn vạch trần chế độ chính trị đen tối, lên án các thế lực
chà đạp, ức hiếp những người dân lương thiện. Đó là những chàng nho sinh, nho sĩ và chế độ khoa cử
trong những mẩu chuyện “làng nho”. Đó là hàng loạt hình tượng thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, yêu
đương say đắm và rất mực chung tình trong những truyện ngắn xoay quanh đề tài tình u và hơn
nhân. Ngồi ra trong những truyện ngắn khác còn xuất hiện các nhân vật đạo sĩ, thần tiên . . . Thế
giới nhân vật phong phú ấy được miêu tả vô cùng sinh động, tạo nên một thế giới nghệ thuật Liêu trai
đầy kì ảo nhưng cũng chẳng khác gì mấy so với thế giới hiện thực đời thường.


Trong phần nghiên cứu này chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu hình tượng nhân vật nho sinh và hình tượng
nhân vật phụ nữ trong những truyện ngắn được tuyển chọn từ tuyển tập “Liêu trai chí dị” gồm có 119
truyện của Nhà xuất bản Văn học 2003.
Chương III : HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NHO SINH VÀ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ

TRONG “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”
I.
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NHO SINH
1.NHỮNG NHÂN VẬT NHO SINH MẢI MÊ VỚI HAI CHỮ CÔNG DANH
1.1. NHỮNG CHÀNG NHO SINH LẬN ĐẬN TRONG NGHIỆP THI CỬ
Đó là những chàng nho sinh , nho sĩ vì hai chữ “cơng danh” mà trở nên mê muội, mất hết trí sáng
suốt. Một phần vì họ bị nhồi nhét khát vọng cơng danh phú q, mặt khác vì chế độ thi cử thối nát bất
cơng : quan chấm thi rặt một lũ dốt nát và vô trách nhiệm, thi cử bằng thơ văn cổ sáo rỗng chỉ cần thí
sinh học như con vẹt chẳng cần sáng tạo. Do đó, bọn giám khảo “đánh hỏng người tài, chọn kẻ tầm
thường”. Chế độ khoa cử thời ấy gây biết bao thảm họa, chính tác giả đã từng nếm mùi cay đắng.
Những chàng nho sinh suốt đời lận đận trong nghiệp thi cử trong Liêu trai như chàng thư sinh họ
Diệp trong truyện “Chàng thư sinh họ Diệp” hay chàng Vương Tử An trong “Giấc mộng đắc
chí”, chàng Vương trong “Oan nghiệt trường văn”. . .
Chàng thư sinh họ Diệp miền Hồi Dương có tài văn chương trội nhất đương thời nhưng số phận lận
đận long đong trong trường công danh. Có ơng Đinh Thừa Hạc đến làm quan ở ấp ấy, xem văn chương
của chàng, cho là kì tài, ông rất bằng lòng, cho chàng đến ở trong dinh thự, cơm nước, đèn sách cấp
cho đầy đủ. Đến kì sơ thí ( kì thi sơ bộ trước khoa thi hương để chọn những thí sinh khá) ơng hết sức
tán dương văn tài của chàng trước mặt quan học sứ, rồi đó chàng đỗ đầu hàng xứ. Ơng trơng mong
vào chàng rất tha thiết; sau khi vào trường thi hương, cho lấy văn của chàng để xem, ngợi khen
không ngớt. Ngờ đâu thời vận neo người, văn chương ghen mệnh, bảng vàng đã treo mà chàng lại
hỏng tuột. Vì quá đau buồn, trở về chàng choáng váng tê mê, thân hình gầy rộc như bộ xương cịn
đứng, người ngây ra như tượng gỗ. Chẳng bao lâu chàng lâm bệnh rồi chết. Khi đã hoá thành một hồn
ma chàng Diệp mới có thể đạt được cái giấc mộng đỗ đạt của mình : đỗ cử nhân.
Cịn chàng Vương Tử An – một danh sĩ trầy trật mãi trong sự lều chõng – bị cái nghiệp thi thư và ước
mong thi cử đỗ đạt ám ảnh mãi, tấc lịng ngổn ngang mn nỗi cho nên mới có chuyện đáng buồn
cười mà cũng vô cùng đáng thương xảy ra : bị quỉ hồ cười trộm đã lâu, mới nhân khi Vương bị say mà
đùa trêu tạo nên giấc mộng cơng danh đắc chí đỗ đạt. Trong giấc mơ “y như thật ấy”, Vương đậu tiến
sĩ, qua tam trường, được bổ vào viện Hàn Lâm. . . Thế là quên phắt thân y đang nghèo xác nghèo xơ,
vội nảy ra ý nghĩ là phải ra oai với hàng xóm. Y thét gọi ban trưởng. Nhưng đáp lại lời gọi của y là
tiếng trả lời lạnh nhạt của người vợ : “Trong nhà chỉ có bà già giúp việc, làm gì có ban trưởng”.Tỉnh ra

mới biết tất cả chỉ là mộng ảo mà thôi! Phải là người có thể nghiệm sâu sắc về sự được mất trên con
đường khoa cử mới có thể giễu cợt thấm thía như thế. Văn học truyền thống Trung Quốc có hẳn một
truyền thống dùng mộng để phản ánh. Lấy mộng để nói thực, cái thực được chiết xạ qua mộng càng
làm tăng thêm sức phản ánh hiện thực sâu sắc. Mộng là đế nói thực và mỗi khi mộng, con người
không bị khống chế bởi ý thức nên sống thật với ý nghĩ của mình. Là kẻ sĩ ơm giấc mộng công danh,
Vương Tử An bị quỉ hồ cười trêu, mộng mà y như thật! Tỉnh mộng, quay trở về đối diện với thực tại
càng thêm chua xót phũ phàng.
Về cuối truyện, tác giả dùng mấy nét châm biếm khắc họa sâu sắc và sinh động hình tượng “lơi thôi sĩ
tử” trong và sau cuộc thi. Các tú tài vào trường thi thì có bảy cái “giống”. Khi mới bước vào trường thi,
chân đi đất, tay cầm ống quyển, giống thằng ăn mày. Khi xướng danh thì quan chửi, lệ mắng giống
thằng tù. Đến lúc về buồng thi thì tìm lỗ thủng mà ngó cổ ra nhìn, nằm thì thò chân ra khỏi cửa
buồng, giống đàn ong cuối thu. Khi ra khỏi trường thi thì tinh thần hốt hoảng, trời đất đổi màu, giống
chim ốm được thả ra khỏi lồng. Khi mong tin báo thì cây cối đều giật mình, mơ mộng liên miên : lúc
thì mơ đắc chí, phút chốc sẽ có gác tía lầu hồng; lúc lại mơ thất chí, nháy mắt mà xương khơ tủy rữa.
Những lúc ấy đi đứng khó khăn giống con vượn bị trói. Vụt có người phi ngựa đến báo, trong giấy
khơng có tên mình thì tinh thần tiều tụy, trơng như người chết rồi, giống như con ruồi hút phải chất
độc, ai trêu cũng chẳng biết gì. Tác giả dùng lời bình luận của Dị Sử Thị để khái quát về việc những


người tú tài trước và sau khi vào trường thi, khi đợi yết bảng, lúc chờ xướng danh, bỗng tưởng tượng
mình thi đỗ nên phát điên, hoặc nghĩ tới bị thi rớt nên chán nản muốn chết, tâm trạng hết sức hoang
mang, làm cho người đọc không khỏi bùi ngùi. “Tình cảnh đến như vậy, người trong cuộc khóc thương
tưởng chết mà người ngồi cuộc đứng nhìn chỉ thấy thật là đáng cười!”, lời bàn của tác giả làm cho
chúng ta không chỉ thấy đáng cười cho số phận của những chàng sĩ tử mà còn thấy họ thật là đáng
thương biết bao nhiêu!
Trong truyện “Oan nghiệt trường văn”, đó là chàng Vương Bình Tử tài năng mà bị đánh hỏng bởi
các quan chấm thi đều …. “mù” cả, lại cịn có cả một hồn ma chàng Tống bất đắc chí vì cái mộng cơng
danh khơng thành. Câu chuyện kể về ba chàng nho sinh : Vương Bình Tử – một người học rộng tài
cao, Dư Hàng sinh – người học trò ở đất Dư Hàng và chàng họ Tống, cả ba người cùng ở trọ trong một
ngôi chùa nọ. Vương và Dư Hàng là hai anh học trò đi thi cịn chàng Tống thì được giới thiệu là “khơng

có chí bay nhảy” như họ. Dư Hàng tính vốn kiêu ngạo, văn tài khơng giỏi giang gì lắm, bất tài nhưng
lại hay khoác lác. Vương kết thân với Tống sớm tối bàn chuyện kinh sử, nhờ Tống chỉ bảo trong việc
học hành, đưa văn thơ của mình cho Tống duyệt đọc. Có lần Vương và Dư theo lời Tống, đưa văn
chương của mình cho một bậc kì nhân là Tư Văn Lang, một ơng già có khả năng thẩm văn – vị sư
mù làm nghề bán thuốc có tài dùng mũi ngửi mà phân biệt văn hay hay văn dở – xem, Vương Bình
Tử đốt văn của mình trước, hồ thượng liền bảo : “ Văn anh vừa học ở các đại gia, tuy chưa giống hẳn
nhưng cũng đã tương tự, đi thi chắc sẽ đỗ”. Rồi đến Dư Hàng sinh đốt văn của mình thì hồ thượng
bỗng ngăn lại : “Thơi! Thơi! Ngửi khơng được, bắt ngửi thì sẽ tắt thở! Đốt tiếp thì sẽ nơn oẹ ra mất!.
Văn của Dư bị đánh giá thấp còn văn của Vương thì được đánh giá cao. Thế mà kì thi năm ấy Dư đỗ
hương cống cịn Vương thì trượt. Hai người đến chất vấn nhà sư mù nguyên do là tại sao thì nhà sư
bảo : “Ta tuy mù mắt nhưng mũi khơng mù. Cịn các vị khảo quan đều mù cả hai”. Một lát sau, người
học trò Dư Hàng nghênh ngang đi đến, đắc ý cười nhạo nhà sư mù. Nhà sư chọc y : “Ta bình luận chất
lượng văn chương chứ không xem mệnh ngươi, không tin ngươi cứ việc mang văn chương các khảo
quan đến đây, ta không ngửi cũng biết một vị trong số đó là thầy ngươi! Người học trị Dư Hàng và
Vương Bình Tử đi lấy văn chương về. Đốt đến văn của vị thứ sáu, nhà sư mù đột nhiên quay úp mặt
vào tường nôn thốc tháo, đánh rắm liên tục, nghe như sấm rền. Mọi người cười rộ lên. Nhà sư bảo
chàng học trị Dư Hàng : “Đó là thầy ngươi mà! Mới đầu không dè chừng xớn xác ngửi đại một miếng,
lỗ mũi hứng không nổi nên luồn tuốt vào bụng, bàng quang chứa không được tống thẳng lên, thế là
không sức nào kìm được”.Thì ra Dư Hàng là học trị của một ơng quan chấm thi kì thi năm ấy nên đã
được chấm đỗ.
Mượn nhà sư mù để mắng đám khảo quan “có mắt như mù”, cơng kích lũ quan chấm thi kể cũng hả
dạ cho “chàng”cống sinh đỗ muộn ở tuổi 71 Bồ Tùng Linh, đồng thời còn khẳng định rằng đã là văn
hay thì đốt ra tro cũng vẫn cịn hay, và văn dở thì dù đốt ra tro cũng còn làm người ta tởm lợm. Một
nhận định hơi “thâm” của Bồ Tùng Linh gợi cho ta nhiều suy nghĩ : đó là, muốn thi đỗ thì cứ việc. . .
trộn văn của tác gia tên tuổi vào văn mình, tha hồ “qua mặt” những kẻ “mù cả mắt lẫn mũi”.Tác giả
đã giễu cợt một cách sâu cay sự dốt nát của những kẻ thay mặt triều đình để lựa chọn nhân tài cho
quốc gia dân tộc! Thử hỏi, loại quan chấm thi có mắt như mù đó làm thế nào để có thể lựa chọn
những người tài đức kiêm tồn? Cho nên, hàng loạt những người có chân tài, thực học không thể
không lận đận và chịu mọi sự bi thảm của cuộc đời. Chàng Vương về tiếp tục ơn luyện cho kì thi năm
sau nhưng vì phạm quy vì bị đánh hỏng. Tống hay tin bạn lại bị hỏng thì khóc lớn và thú thực mình là

hồn quỷ phiêu bạt, từ nhỏ tuổi ơm ý khí tài danh, khơng được đắc chí nơi trường ốc. Gặp Vương,
chàng Tống muốn giúp cho bạn đạt được cái ước nguyện mà bản thân mình chưa đạt được. Nhưng nay
bạn mình cũng khơng thốt cái tai ách của nghiệp văn tự.
Những nhân vật nho sinh lận đận trong nghiệp thi cử kể trên là những nhân vật trong các thiên
truyện ngắn chỉ thuần túy viết về đề tài nho sinh được tuyển chọn trong số 110 truyện của tuyển tập
Liêu trai mà luận văn nghiên cứu, còn trong những truyện ngắn về các đề tài khác, chẳng hạn như đề
tài người phụ nữ chẳng hạn, ta cũng bắt gặp nhiều hình ảnh của các nhân vật nho sinh loại này. Đó là
những chàng nho sinh trầy trật mãi trong chuyện thi cử. Chẳng hạn như chàng Châu Dục Sinh học
giỏi, đẹp trai lấy vợ đạo cô trong truyện “Phan Trần đùa mà hơn thực” ( Trần Vân Thê ), thi đi thi


lại mà vẫn không đỗ, chàng Mỗ trong truyện “Vợ thi hộ chồng” đi thi khoa nào cũng rớt, chàng Nhạc
Vân Hạc trong truyện “Lên chơi trên trời” ( Lôi Tào ), tuy học hành tấn tới nhưng thi cử thì khoa
nào cũng rớt. . .
Nhưng nhìn chung, có ý nghĩa nhất trong loại những nhân vật nho sinh lận đận trong nghiệp thi cử
chính là hình tượng những anh chàng nho sinh trong những thiên truyện ngắn thuần túy viết về đề tài
nho sinh. Qua các truyện viết về những anh chàng nho sinh lận đận trong đường công danh này,
chúng ta có thể rõ ràng nhận ra sự “giam cầm và đục khoét tâm hồn của chế độ khoa cử đối với giới
trí thức” [8;125]; “các thí sinh bị hành hạ dữ dội về tinh thần, tâm hồn bị bẻ cong” [6;606] Chế độ
khoa cử đã thâm nhập vào tận tâm linh của những phần tử trí thức, khiến tinh thần của họ cứ luôn
vẩn vơ ám ảnh mãi cái giấc mộng cơng danh. Bởi vì trong một thời kì lịch sử lâu dài của xã hội phong
kiến Trung Quốc, chế độ khoa cử đã từng là con đường lựa chọn nhân tài duy nhất cho quốc gia dân
tộc. Tình trạng mê muội khổ sở như vậy của sĩ tử một phần do bản thân họ bị đầu độc bởi tư tưởng
cơng danh phú q, nhưng một phần khác lại do chế độ khoa cử thối nát gây ra. Quan chấm thi rặt
một lũ thối nát và vô trách nhiệm. Thi cử lại dùng văn bát cổ, một thứ văn chương sáo rỗng, chỉ địi
hỏi thí sinh học thuộc lịng như con vẹt, khơng cần suy nghĩ, sáng tạo. Bồ Tùng Linh đã chỉ ra những
cái thối nát hủ lậu của chế độ khoa cử, đó là một việc làm rất có ý nghĩa. Về mặt này, Bồ Tùng Linh là
một tác giả có đóng góp rất đáng kể.
1.2. NHỮNG CHÀNG NHO SINH ĐỖ ĐẠT, THỰC HIỆN ĐƯỢC GIẤC MỘNG CƠNG DANH
Ngồi những nhân vật nho sinh với giấc mộng cơng danh bất đắc chí, trong “Liêu trai chí dị” cịn có

những nhân vật nho sinh đỗ đạt, thực hiện được giấc mộng cơng danh. Có thể kể đến chàng học
trị đi thi trong truyện “Ba ơng tiên”, chàng vào thi ở Kim Lăng, lạc vào động “Ba vị tiên”, trong động
có ba con : cua, rắn và ễnh ương rất thiêng. Chàng may mắn được sự giúp đỡ của ba vị tiên, vào
trường thi, được ba bài đều trúng với ba bài tiên làm cho mà được đỗ đầu trong kì thi. Hoặc như anh
chàng Tinh Nhi “con trời”trong truyện “Lên chơi trên trời” ( Lôi Tào) thi đỗ tiến sĩ, chàng Mộng Tiên
con của người phàm trần và tiên nữ trong truyện “Con gái nhà trời”
( Bạch Vu Ngọc ) đậu thi
hương rồi hàn lâm cũng có những yếu tố của phép lạ ( xuất thân kì lạ ). Cịn anh chàng nho sinh trong
truyện “Thay tim đổi mặt” nhờ có phép thần kì thay tim, có được trái tim sáng suốt hơn cộng với sự
giúp sức trong việc học hành của một người bạn – một vị thần – mà đã thi đỗ đầu bảng. Câu chuyện
kể về chàng Châu Nhĩ Đán tính hào phóng nhưng kém thông minh. Tuy học siêng năng nhưng chưa
được nổi tiếng, làm bạn với phán quan họ Lục – một vị thần ở đền thờ Thập Vương. Có người bạn cõi
âm giúp sức trong việc học hành, lại giúp cho chàng có một trái tim khác sáng suốt hơn, từ đó văn
chương tấn tới, trí nhớ vượt bậc. Nhờ vậy mà chàng thi đỗ đầu bảng Hiếu liêm ( cử nhân).
Ở vào loại nho sinh đỗ đạt này cũng có thể kể thêm trường hợp của của chàng nho sinh trong
truyện “Vợ thi hộ chồng”, chàng nho sinh họ Mỗ tính đần độn, mãi mười bảy tuổi đầu mới viết chữ
thành hàng lối thi đỗ là do người vợ giỏi giang và tài năng thi hộ, và không những đỗ mà còn đỗ rất
cao : cử nhân, tiến sĩ. Cũng có cả những kẻ bất tài khốc lác nhưng lại được chấm đỗ như anh chàng
Dư Hàng trong truyện “Oan nghiệt trường văn” vì chàng ta là học trị của một ơng quan chấm thi kì
thi năm ấy.
Qua những hình tượng nhân vật nho sinh đỗ đạt, thực hiện được giấc mộng công danh vừa kể trên,
chúng ta dễ dàng nhận ra có một ngun nhân vơ cùng quan trọng góp phần biến giấc mơ đỗ đạt của
các sĩ tử trở thành hiện thực đó là có sự trợ giúp của các yếu tố thần kì với những phép lạ “thay tim
đổi mặt”, sự chỉ bảo, trợ giúp của các vị thần tiên trong việc học hành, hoặc nhân vật nho sinh đỗ đạt
là một nhân vật có nguồn gốc xuất thân đặc biệt như cậu Tinh Nhi – “con trời”. Họ đỗ đạt trong thi cử
phần lớn là do có sự hỗ trợ của các yếu tố phép màu, các vị thần tiên và đặc biệt hơn là có sự trợ giúp
của . . . phụ nữ chứ không phải là do thực lực của họ. Phải chăng trong cuộc sống thực của mình Bồ
Tùng Linh là một sĩ tử long đong lận đận trên đường công danh, con đường khoa hoạn ln làm cho
ơng bất đắc chí mà ông đã gởi gắm vào trong những thiên truyện ngắn viết về đề tài nho sinh của
mình những giấc mộng công danh đỗ đạt và những giấc mơ ấy thấm đẫm tính chất lãng mạn, những

nhân vật nho sinh đỗ đạt ln có sự trợ giúp của những yếu tố phép màu, thần kì. Mặc dù tác giả có
gởi gắm những ước mơ cơng danh đỗ đạt đầy tính lãng mạn của mình qua một số thiên truyện ngắn


viết về đề tài nho sinh nhưng khơng phải vì tính chất lãng mạn mà những truyện ngắn này kém đi tính
chất hiện thực. Qua những giấc mộng cơng danh đã được trở thành hiện thực ấy, người ta có thể dễ
dàng nhận ra nhiều vấn đề có tính hiện thực sâu sắc, tạo nên giá trị tố cáo mạnh mẽ cho những thiên
truyện ngắn về đề tài nho sinh : chế độ khoa cử bất công thối nát, bọn quan lại chấm thi “đánh hỏng
người tài, chọn kẻ tầm thường”, các thí sinh đỗ đạt thì nếu khơng phải là bọn bất tài mà khoác lác
như anh chàng Dư Hàng thì cũng là những kẻ đạt được danh vọng nhờ công của kẻ khác, nhờ sự trợ
giúp của các thế lực thần thánh với những phép màu kì lạ.
Như vậy, qua việc tìm hiểu loại nhân vật nho sinh “mải mê với hai chữ cơng danh”, chúng ta có thể
thấy rằng, họ chính là những đứa con ngoan của chế độ phong kiến, với tư tưởng Nho giáo chính
thống. Có những giấc mộng cơng danh trở thành hiện thực và cũng có cả những khát vọng cơng danh
khơng thành. Họ gắn cuộc đời mình nơi cửa Khổng sân Trình, mong đạt được giấc mộng cơng danh,
mong ước tên mình được ghi trên bảng vàng, để có chút bổng lộc về sau mà vang danh với thiên hạ.
Nhưng hỡi ôi, cái nghiệp văn tự biết bao nhiêu là cay đắng, nhọc nhằn và cả những điều phi lý bất
công : kẻ bất tài thì đỗ đạt mà bậc tài danh thì ơm mãi mối hận bất đắc chí.
Trong lịch sử phát triển của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Bồ Tùng Linh là người đã đề cập đến vấn
đề khoa cử một cách rộng rãi. Ông vạch trần bộ mặt tinh thần của phần tử trí thức, sự lừa lọc gian dối
nơi chốn trường thi nhằm phê phán một cách toàn diện sự ruỗng nát suy đồi của chế độ khoa cử. Quả
thật bản thân Bồ Tùng Linh đã từng nhịn đắng nuốt cay, chịu mọi nỗi ê chề bởi chế độ khoa cử. Ông
hiểu sâu sắc cái ấm ức, hậm hực, thậm chí đến mức bất bình căm phẫn của người cử tử. Do đó, ơng
trút tất cả những điều mắt thấy tai nghe vào những thiên truyện ngắn trong Liêu trai.
Những nhân vật nho sinh “mải mê với hai chữ cơng danh” này, họ tìm mọi cách để mở rộng đường
công danh nhưng mục tiêu của họ không phải là nhằm hiểu biết kho tàng kiến thức phong phú của
nhân loại mà để đạt phú quí vinh hoa, cơng danh, bổng lộc.
Có thể xem việc phê phán những hiện tượng đen tối của chế độ khoa cử trong “Liêu trai chí dị” là
bước đầu của việc đả kích một cách toàn diện chế độ khoa cử trong “Nho lâm ngoại sử”. Điều đó cũng
là lẽ tất nhiên khi tác giả của nó chưa nhận thức một cách tồn diện sự dối trá đến mức phản động

của chế độ khoa cử, thậm chí qua một số thiên cịn để lộ mộng tưởng của tác giả đối với chế độ khoa
cử, xem việc đỗ đạt làm quan là lí tưởng phấn đấu của thanh niên.
Những hình tượng nho sinh mải mê với nghiệp khoa cử, ôm ấp giấc mộng công danh không phải là
đến Bồ Tùng Linh, với bộ “Liêu trai chí dị” mới xuất hiện mà ngay từ khi chế độ phong kiến hình thành
với tư tưởng Nho giáo chi phối mạnh mẽ đời sống tinh thần của con người trong xã hội thì đồng thời
trong văn học cũng xuất hiện những mẫu người nho sinh như thế. Đó là khi xã hội phong kiến đang
trong thời kì thịnh hành, vẫn cịn giữ được những giá trị tích cực của nó đối với xã hội. Lý tưởng của
những kẻ sĩ trong thời đại bấy giờ là “tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ”. Mục đích cao cả
hàng đầu của cuộc đời họ là cơng danh đỗ đạt, được ghi tên vào bảng vàng, thăng quan tiến chức,
đem cái tài của mình ra phụng sự quốc gia, lưu lại tiếng thơm muôn thuở.
Đến Bồ Tùng Linh, với những thiên đoản thiên tiểu thuyết trong “Liêu trai chí dị”, vẫn là những hình
tượng nho sinh ấy, nhưng với một cuộc đời đầy bất đắc chí trong con đường khoa cử, Bồ Tùng Linh
hiểu rõ hơn ai hết những tệ lậu của chế độ khoa cử và những nỗi thất vọng, đau đớn ê chề khi giấc
mộng cơng danh tan vỡ và do đó ơng đã viết nên những thuyên truyện ngắn bất hủ về đề tài này. Khi
nói đến đề tài nho sinh và nghiệp khoa cử, ngồi “Nho lâm ngoại sử” của Ngơ Kính Tử, người ta không
thể không nhắc đến những thiên truyện ngắn của Bồ Tùng Linh.
Thế nhưng, những thiên truyện ngắn viết về loại nho sinh mải mê với khát vọng công danh, phú q
này chiếm số lượng khơng nhiều mà đa phần trong hàng loạt các thiên truyện ngắn, ta đều có thể
nhận thấy sự xuất hiện của loại nhân vật nho sinh thứ hai : những nhân vật nho sinh “suy đồi – mất
niềm tin”. Loại nhân vật này đã thể hiện rõ nét nhất sự sáng tạo độc đáo và mới mẻ của Bồ Tùng Linh
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
2.
NHỮNG NHÂN VẬT NHO SINH “SUY ĐỒI – MẤT NIỀM TIN”
Loại nhân vật này chiếm số lượng rất lớn trong bộ “Liêu trai chí dị”. Có thể tìm thấy hầu như trong
bất kì truyện nào hình ảnh của loại nhân vật nho sinh “đặc biệt” này – “những đứa con hư của chế độ


phong kiến”. Họ khơng say mê nghiệp đèn sách tìm kiếm công danh bằng con đường khoa cử như
những nho sinh đã xếp vào loại kể trên, mà họ mải mê say sưa với những cuộc tình duyên say đắm
với những cô nương xinh đẹp.

Họ xuất hiện trong những thiên truyện ngắn của Liêu trai với hình ảnh của những chàng cơng tử si
tình. Như chàng Vương Quế Am trong truyện cùng tên. Trong cuộc dạo chơi ngoạn cảnh trên một
chuyến du thuyền, tình cờ chàng gặp một cơ nương xinh đẹp. Thế là từ đó chàng cứ ngẩn ngơ mong
nhớ. Lúc bấy giờ khơng có gì quan trọng hơn đối với chàng bằng việc tìm gặp cho được cơ nương xinh
đẹp ấy. Chàng ta tìm đủ mọi cách để gặp lại mĩ nhân, mải mê yêu đương mà không màng gì đến việc
khoa cử, đèn sách.
Truyện “Bành Hải Thu” kể về chàng nho sinh Lai Châu là Bành Hiếu Cổ, học ở cơ ngơi khác cách nhà
khá xa, trung thu không về, cùng chàng họ Khâu và chàng Bành Hải Thu chuyện trò đối ẩm. Chàng
Hải Thu mời một nàng danh kỹ xinh đẹp như tiên, tuổi khoảng đôi tám từ Tây Hồ xa ngàn dặm tên là
Quyên Nương đến hát khúc hát “Chàng bạc tình” giúp vui. Lúc chia tay nàng, chàng Bành bịn rịn bồi
hồi, từ đấy không sao quên được Quyên Nương. Ba năm sau, trong một chuyến đi thăm người anh rể,
vào bữa tiệc có nhiều con hát đàn ca, tình cờ chàng gặp lại Quyên Nương. Lúc này Bành mới biết nàng
là con hát số một Quảng Lăng. Hai người vui mừng khôn xiết. Bành bỏ ra ngàn vàng chuộc thân cho
nàng rồi đưa nhau về q.
Cịn chàng Tơn Tử Sở – một danh sĩ sinh ra có ngón tay chẽ, người Việt Tâytrong truyện “Cơ Bảo”
( Cơ Bảo ) – thì có thể xếp vào hàng những kẻ si tình bậc nhất trên thế gian. Chàng Tơn tính vẩn vơ
lẩn thẩn, nhà lại nghèo, tương tư nàng A Bảo con nhà dòng dõi q phái, có nhan sắc tuyệt trần, cậy
mối đến hỏi nàng làm vợ. Nàng biết được việc ấy mới nói bỡn rằng : “Nếu chàng ta bỏ được ngón tay
chẽ đi thì tơi về với ngay”, chàng nói : “Cái đó khó gì” rồi liền đó lấy búa chặt đứt ngón tay chẽ, đau
thấu ruột, máu phụt chảy ra lênh láng, suýt chết, qua mấy ngày mới ngồi dậy được. Ngày tiết Thanh
Minh, tình cờ gặp được nàng A Bảo, về đến nhà hồn của chàng Tơn lìa khỏi xác, bay đến nhà cơ Bảo.
Sau đó thì chàng ta bị một trận ốm tương tư, mê man không ăn uống gì, rồi hồn của chàng lại hố
thành một con vẹt để bay đến nơi nàng A Bảo. Cuối cùng, tấm chân tình thành thực, si mê của chàng
Tơn cũng làm động lòng nàng A Bảo xinh đẹp, nàng đồng ý về làm vợ chàng Tơn Tử Sở si tình.
Cịn trong truyện “Hồng Ngọc”, đó là chàng nho sinh Tương Như, một đêm ngồi dưới bóng trăng,
thấy người con gái láng giềng bên phía Đơng từ trên tường nhịm sang, nhan sắc vơ cùng xinh đẹp thì
trong lịng đã cảm mến. Hai người ăn nằm với nhau, chàng rất yêu và xin cùng nàng kết duyên lâu
dài. Chàng Hoàng Sinh trong truyện “Hương Ngọc” khơng chỉ si tình mà cịn rất mực chung tình!
Hồnh Sinh u Hương Ngọc và Giáng Tuyết là do hoa mẫu đơn trắng và hoa nại đông biến thành. Khi
biết Hương Ngọc là tinh hoa mẫu đơn trắng, bị họ Lam ở Tức Mặc đem đi nơi khác, Hồng Sinh thương

xót vơ cùng. Chàng làm đến 50 bài thơ để khóc hoa. Cảm lịng thành của Hồng Sinh, thần hoa cho
Hương Ngọc tái sinh và trở về với chàng. Cuối cùng, để được hôm sớm gần nhau, khi chết Hoàng Sinh
biến thành một mầm đỏ mọc lên cạnh cây mẫu đơn.
Truyện “Anh Ninh” kể về chàng Vương Từ Phục thông tuệ rất mực, mười bốn tuổi đã vào học nhà
phán. Gặp tiết thượng nguyên, cùng người con nhà cậu đi chơi thì tình cờ gặp nàng Anh Ninh tay cầm
một cành hoa mai, nhan sắc tuyệt vời, nụ cười xinh tưởng có thể vốc được, chàng nhìn đăm đăm đến
nỗi quên cả ý tứ. Chàng nhặt lấy cành hoa mà nàng bỏ xuống đất, về đặt hoa dưới gối, gối đầu lên mà
ngủ, khơng nói cũng khơng ăn rồi lủi thủi cuốc bộ một mình, lặn lội đường sá xa xơi vào núi sâu mong
tìm được người con gái ấy rồi cuối cùng cũng lấy được nàng về làm vợ.
Chàng thư sinh họ Hạ tài danh nức tiếng đã lâu mà gia tư chỉ vào bậc trung, ngưỡng mộ nàng Thụy
Vân – một danh kỹ của đất Hàng – trong truyện “Thụy Vân”, cố gắng hết sức để sắm chút lễ mọn,
chỉ mong một phen nhìn ngắm mặt hoa. Được nàng tặng cho một bài thơ, chàng mừng rỡ như cuồng.
Về nhà, đem bài thơ ra ngắm nghía, ngâm nga, tơ lịng vương vít. Được một hai ngày, cầm lịng khơng
đậu, lại phải sắm sửa lễ vật rồi trở lại. Rồi sau đó chàng ta may mắn cưới được nàng Thụy Vân về làm
vợ.
Cịn có thể kể ra đây những chàng nho sinh si tình trong hàng loạt các thiên truyện ngắn khác : chàng
Vương Đỉnh trong truyện “Ngũ Thu Nguyệt”, chàng Cảnh Khứ Bệnh trong truyện “Thanh Phượng”,


chàng An tính chuộng nghĩa, thích phóng sinh chim thú trong truyện “Hoa Cô Tử”, chàng Dương trong
truyện “Liên Toả”, thư sinh họ Hoàng trong truyện “Hương Ngọc”, chàng Phong Vân Đình trong truyện
“Cơ gái họ Mai” ( Mai nữ ), chàng Khổng Tuyết Lạp trong truyện “Mĩ nhân cứu mạng” ( Kiều Na ),
chàng Cao trong truyện “Vợ dữ hơn cọp” ( Giang Thành ), chàng Kiều sinh trong truyện “Cắt thịt vì
tình” ( Liên Thành ), chàng Quảng Bình Phùng trong truyện “Cơ Tân thứ mười bốn” ( Tân thập tứ
nương ), chàng Hoắc sinh đa tình trong truyện “Cậu bé đa tình”( Thanh Nga ) . . .
Hay đó là chàng Thường Đại Dung trong truyện “Yêu hoa đâu dễ biết hoa”.Chàng ta rất mê hoa
Mẫu Đơn, làm cả một trăm bài thơ tứ tuyệt với đề tài “Mong nhớ mẫu đơn” ( thay vì dành thời gian ôn
luyện đèn sách ). Đi dạo trong vườn hoa, gặp một cô gái nhan sắc xinh đẹp là “người đẹp tinh hoa
mẫu đơn”, chàng liền say đắm sắc đẹp của nàng.
Cũng có thể xếp vào loại nhân vật nho sinh này anh chàng An Đại Nghiệp trong truyện “Lấy vợ công

chúa”. Là một chàng trai thông minh học giỏi, khi thi đậu chàng An khoe với vợ nhưng nàng khơng
mừng mà trái lại tỏ vẻ buồn rầu, cho đó là thứ danh vọng hảo, là vương phải tục lụy. Chàng nghĩ lời
vợ nói phải nên từ đó khơng muốn học hành thi cử gì hơn nữa. Chuyện thi cử đối với chàng An khơng
cịn quan trọng nữa, chàng cảm thấy bằng lịng với cuộc sống hiện tại, bên cơ vợ cơng chúa xinh đẹp
và cảm thấy những lời nói của nàng là vơ cùng có lí. . .
Tình u say mê của các chàng nho sinh này cũng đã thể hiện một quan niệm mới trong tình u và
hơn nhân, đó là mong muốn tự do trong yêu đương, tự lựa chọn người u cho mình. Những chàng
cơng tử si tình của Liêu trai, khi đã yêu là họ yêu say đắm và quyết đấu tranh vượt qua mọi chướng
ngại để lấy cho được các nàng về làm vợ. Trong xã hội phong kiến việc hôn nhân đại sự của các chàng
công tử thường do cha mẹ định đoạt, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, sao cho môn đăng hộ đối.
Nhưng tình yêu của những chàng nho sinh trong Liêu trai là tình u tự do, khơng bị cản trở bởi lễ
giáo phong kiến.
Và khi đã “yên bề gia thất”, họ mới nghĩ đến chuyện thi cử, lập chút cơng danh. Như chàng Tơn Tử Sở
si tình trong truyện “Cô Bảo” ( A Bảo ), sau khi đã cưới được nàng A Bảo xinh đẹp về làm vợ, chàng
ta mới nghĩ đến việc thi cử .
Chúng ta cũng có thấy tác giả đề cập đến việc khoa cử của họ, nhưng thường là ở cuối câu chuyện,
sau khi các chàng đã có vợ đẹp, con ngoan. Chẳng hạn như trong truyện “Vạn lý tầm thu” ( Cung
Mộng Bật ), ở phần cuối của truyện, nhân vật Hoà sau khi lấy được cô gái họ Huỳnh về làm vợ thì
“quyết chí lập lấy cơng danh để khơng phụ lịng tốt của chú Cung” và sau đó là một thơng báo ngắn
gọn về kết quả việc thi cử của chàng “ . . . sau đó chàng đậu thi hương”. Có thể nói, việc khoa cử đối
với chàng ngay từ đầu truyện khơng phải là mục đích cao nhất của cuộc đời Hồ, chỉ sau khi Hồ có
được người vợ đẹp và tìm thấy trong căn nhà nghèo xơ xác của mình có cả một kho của cải mà Cung
Mộng Bật để lại cho khi ra đi thì Hồ mới chợt nảy ra ý định làm một việc gì đó để khơng phụ lịng tốt
của ân nhân và lúc bấy giờ Hồ mới nghĩ đến việc “lập cơng danh”.
Cịn có thể kể đến khá nhiều truyện có mơ-tip tương tự : sau khi đã cưới được các cô nàng xinh đẹp
về làm vợ, ở cuối truyện, nhân vật nam chính được đỗ đạt, làm quan, sau đó được hưởng bổng lộc và
trở nên giàu sang phú quí mặc dù từ đầu câu truyện, chúng ta khơng hề bắt gặp hình ảnh những anh
chàng thư sinh này “sôi kinh nấu sử” hay “dùi mài mến nghiệp thi thư” như những nhân vật nho sinh
“mải mê với hai chữ công danh” kể trên.
Có thể nói việc đỗ đạt khoa cử trong trường hợp này chỉ góp phần tạo nên một kết thúc có hậu cho

câu chuyện chứ khơng đóng vai trị chính yếu trong cuộc đời của các nhân vật nho sinh này. Chẳng
hạn như kết thúc của truyện “Cô Bảo” (A Bảo), hai vợ chồng cô Bảo và chàng Tôn “vẩn vơ lẩn thẩn”
được sum họp vì Diêm Vương cảm động trước người vợ tiết nghĩa, dám vì chồng mà toan chết đi nên
đã cho chàng Tôn dưới âm ty được hoàn dương trở lại làm người. Bên cạnh cái kết thúc có hậu đó,
chàng Tơn cịn được “đỗ đạt và ra làm quan”. Tương tự là các truyện như : truyện “Hồng Ngọc”, kết
thúc truyện chàng Tương Như thi cử đỗ đạt, phú quí, cuộc sống ấm no; truyện “Thanh Mai”, kết thúc
chàng thư sinh họ Trương “đỗ kì thi Hương, thi Hội, làm quan tư lý”; chàng Phong Vân Đình trong
truyện “Cơ gái họ Mai” ( Mai nữ ) kết thúc truyện cũng theo môtip trên : “sau chàng cũng thi cử rất
đỗ đạt”; chàng Cao sinh tên là Phồn trong truyện “Vợ dữ hơn cọp” ( Giang Thành ) và chàng Ngư


Dung trong truyện “Hoá quạ lấy vợ thần” ( Trúc Thanh ) đều thi đậu cử nhân; chàng Mạnh An
Nhân trong truyện “Háo sắc lụy mình”
( Phong Tam Nương ) sau thi đậu cả hương lẫn hội,
được bổ chức vào Hàn Lâm.
Theo triết lí Nho giáo chính thống, là kẻ nam nhi thì phải “tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ”.
Mẫu người nho sinh theo Khổng giáo thì trước hết phải “tu thân”, lập nên được công trạng vẻ vang ở
đời rồi kế đến mới là “tề gia”. Nho giáo rất đề cao sự rèn luyện cá nhân – “tu thân”. Và trong cái xã
hội lúc bấy giờ, muốn “tu thân” thì phải theo đeo đuổi nghiệp đèn sách, học thuộc những câu chữ
trong sách thánh hiền, những bài thơ văn cổ của cổ nhân, con đường để lập nên cơng trạng chính là
con đường công danh khoa cử. Cho nên nho sinh là những con người có nhiệm vụ dùi mài kinh sử, học
thuộc lòng “Tứ thư”, “Ngũ kinh”, “Kinh thi”…những bài thơ văn cổ của cổ nhân, đêm ngày đọc sách
thánh hiền, “song huỳnh án tuyết”, “kham khổ nằm chưng trường ốc”, “dùi mài mến nghiệp thi thư”
để có thể đỗ đạt trong khoa cử, thực hiện được giấc mộng công danh, tạo nên công trạng để đời, vang
danh trong thiên hạ. Thế nhưng bên cạnh những thiên truyện ngắn viết về những “đứa con ngoan của
chế độ phong kiến” – những nho sinh mải mê với nghiệp đèn sách, khoa cử – mẫu người nho sinh theo
Khổng giáo – thì trong “Liêu trai chí dị” cịn có khá nhiều truyện viết về những nhân vật nho sinh
“suy đồi – mất niềm tin”. Những nhân vật nho sinh này được miêu tả hoàn tồn xa lạ với loại nho sinh
chính thống, họ mải mê say đắm trong những câu chuyện tình yêu, đã yêu là yêu đến si mê, đến ốm
tương tư và đối với họ lúc bấy giờ khơng gì quan trọng hơn là cưới các nàng về làm vợ, như lời của

chàng Cảnh Khứ Bệnh trong truyện “Thanh Phượng”: “Cưới được cơ em thì ngơi vua cũng khơng đổi”.
Sau khi đã “tề gia”, những anh chàng nho sinh này mới nghĩ đến chuyện “tu thân”, lập chút công
trạng bằng con đường khoa cử.
Những chàng nho sinh “suy đồi – mất niềm tin” trong Liêu trai không coi trọng việc khoa cử cơng
danh, đây chính là một nét mới lạ, sáng tạo của hình tượng nhân vật nho sinh. Giấc mộng cơng danh
đối với họ không phải là điều đáng quan tâm nhất, giờ đây, đối với họ chỉ có giấc mộng ái tình ! Trong
xã hội phong kiến, vấn đề khoa cử công danh vốn là một vấn đề hết sức quan trọng đối với “chí làm
trai”, đời Thanh, nó trở thành một thứ bệnh dịch, ấy vậy mà nho sinh Liêu trai thì trái ngược hẳn!
Phần lớn nho sinh trong Liêu trai mất niềm tin vào việc học hành, thi cử. Cơng danh đối với họ khơng
cịn sức hấp dẫn nữa, như lời nói của cha chàng Mã Tuấn trong truyện “Phiên chợ giữa biển” ( La
Sát hải thị ) : “Mấy quyển sách không thể nấu mà ăn khi đói, khi rét khơng thể may mà mặc”. Ơng
khun con nên nghỉ học làm thương mại. Sau đó chàng cưới cơng chú con của Long Vương, chẳng
màng gì đến việc học hành thi cử. Hay cha của chàng thư sinh họ Mộ, khuyên con : theo đuổi nghề
văn chỉ viễn vông, bắt chàng bỏ học theo nghề buôn. . . . Vì cơng danh đã khơng cịn lí tưởng của cuộc
đời các chàng nho sinh, cho nên chỉ có một sức mạnh có thể thúc đẩy các chàng học hành, ơn luyện
thi cử, đó là tình u. Truyện “Tấm gương hiện hình” kể về chàng Lưu Xích Thủy, người Bình Lạc,
thuở trẻ vừa thông minh vừa đẹp trai, mười lăm tuổi đã vào học trường huyện. Cha mẹ mất sớm, anh
ta mải mê chơi bời bỏ học. Sau đó cưới được nàng Phượng Tiên xinh đẹp, vốn là hồ ly. Có dịp tình cờ
đến nhà nàng, trong buổi tiệc, nàng cảm thấy buồn tủi vì cha mình có vẻ khơng xem trọng chàng Lưu,
vì chàng ta thân phận nghèo hèn, khơng phải là bậc quan lại giàu có như người anh rể của nàng.
Nàng tặng cho Lưu một tấm gương và dặn chàng, chỉ khi nào chàng chăm chỉ đèn sách bài vở thì mới
thấy được mặt nàng trong gương. Cứ thế, mỗi khi nhớ nàng, chàng ta phải chăm chỉ ơn luyện thì hình
ảnh nàng trong gương mới hiện ra, cho nên hai năm sau, chàng đi thi thì đỗ luôn, được bổ làm quan,
mùa xuân năm sau thi hội, đỗ ln tiến sĩ.
Có thể thấy rằng nho sinh Liêu trai thì phần lớn lo “tề gia”, rồi mới “tu thân”. Như vậy với việc xây
dựng hình tượng nhân vật nho sinh “suy đồi – mất niềm tin” vô cùng xa lạ và đối lập hoàn toàn với
mẫu người nho sinh theo Khổng giáo “Tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ”, Liêu trai đã phản
ánh nhu cầu giải phóng cá nhân, tự do tình ái, nhu cầu vượt lễ giáo cả nam và nữ. Mặt khác họ coi
học thi là một gánh nặng, lí tưởng mất sức kêu gọi, công danh giảm sức hấp dẫn. Bên cạnh đó, do
chế độ hà khắc, con người buộc phải tìm cho mình những cách giải thốt để lấy lại sự cân bằng cho

cuộc đời. Đây là những anh chàng nho sinh khơng cịn ý thức “hữu trách” với thiên hạ, khơng cịn chí
với đạo, chỉ cịn biết thoả mãn với thú vui hình hài, trăng gió. Nói cách khác, lí tưởng nhà nho đối với


họ đã hồn tồn mất ý nghĩa, khơng đáng để hi sinh cả cuộc đời. Những hình tượng nhân vật nho sinh
này đã đi ngược lại với tư tưởng Nho giáo khn phép vốn đã có từ lâu đời và tồn tại “thâm căn cố đế”
trong tinh thần của con người phương Đông bao thời đại.
Như vậy, qua những thiên truyện ngắn viết về những nhân vật nho sinh “suy đồi – mất niềm tin”, Bồ
Tùng Linh đã thể hiện quan niệm mới trong tình u và hơn nhân, đó là tình u tự do và hơn nhân tự
chủ. Bên cạnh đó, sự sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Bồ Tùng Linh là ở chỗ
đã xây dựng nên những hình tượng nhân vật nho sinh hoàn toàn khác biệt với mẫu nho sinh theo đạo
Khổng . Các chàng nho sinh của Bồ Tùng Linh thất vọng về sự học hành, không mấy tin vào đạo
Khổng. Niềm tin vào sự học hành khoa cử của họ giảm sút trầm trọng nên họ quay sang tìm niềm vui
trong tình u.
II – HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ
1.
NGUỒN GỐC XUẤT THÂN
Các nhân vật phụ nữ trong Liêu trai chí dị chiếm một số lượng “áp đảo” hơn hẳn so với các nhân vật
là nam giới. Trong thế giới nhân vật phụ nữ đông đảo và đa dạng ấy, nếu xét về nguồn gốc xuất thân
thì có thể chia thành hai hệ thống lớn: hệ thống nhân vật hư ảo ( phi thực ) có nguồn gốc xuất
thân kì lạ ( ma quỉ hồ li, chồn tinh, tinh hoa, tinh mộc; hoặc từ chim, ong cá hoá thân thành người,
những nhân vật có xuất thân từ trên tiên giới, là tiên nữ trên trời hoặc công chúa con nhà trời. . .)
và hệ thống nhân vật trần thực.
Chiếm một số luợng không nhỏ trong Liêu trai là các nhân vật phụ nữ thuộc hệ thống nhân vật hư
ảo ( phi thực ) : ma quỉ, hồ li, hoa tinh, mộc tinh ; cây cỏ, ong, chim cá hoá thân thành
người.
Những người phụ nữ có số phận bất hạnh, bị chết yểu hoặc chết oan hoá thành những hồn ma như
nàng Ngũ Thu Nguyệt trong truyện cùng tên, nàng Liên Toả xinh đẹp nhưng mới mười bảy tuổi bỗng
bị bạo bệnh chết đã hơn hai mươi năm trong truyện cùng tên; Chương A Đoan, cô gái xinh đẹp chết
yểu xác chôn trong khu nhà nọ trên hai mươi năm trong truyện “Cởi truồng rượt ma” ( Chương A

Đoan ); nàng Công Tôn cửu nương, vốn là ma, con gái của một nhà dòng dõi bị sa sút trong
truyện “Một đêm lấy ma”
( Công Tôn cửu nương ); nàng Lý trong truyện “Chồn quỷ tranh
chồng”
( Liên Hương ). . . Các nhân vật phụ nữ là hồ như : nàng Hồng Ngọc – cô gái láng giềng
của chàng Tương Như – trong truyện cùng tên; nàng Anh Ninh có tính hay cười vốn do hồ sinh ra lại
được bà mẹ ma nuôi nấng, sống ở nơi núi rừng hẻo lánh; nàng Tiểu Thúy trong truyện cùng tên cũng
là con của hồ; nàng Hoa Cô Tử trong truyện cùng tên ; hai chị em hồ trong “Cô tư họ Hồ” ( Hồ Tứ
Thư ), nàng hồ hay đùa trong truyện “Hồ hài”, nàng Hằng Nương nói năng nhẹ nhàng dễ ưa trong
truyện cùng tên; nàng Thanh Mai là con gái của người và hồ trong truyện cùng tên; nàng hồ li trong
truyện “Nàng ba hoa sen” ( Hà hoa tam nương tử ). Các nhân vật phụ nữ là chồn : nàng Thanh
Phượng trong truyện cùng tên vốn là một con chồn, cùng cô chú và người anh họ sống trong một căn
nhà hoang củ một gia đình thế gia sa sút; người thiếu phụ là chồn hoá thân trong truyện “Con người
quốc sắc”, nàng Nha Đầu trong truyện “Một nhà đĩ chồn” ( Nha Đầu ), nàng chồn tinh Kiều Na
trong truyện “Mĩ nhân cứu mạng”( Kiều Na); người thiếu phụ là chồn hoá thân trong truyện “Con
người quốc sắc” ( Mao Hồ ); cô Tân thứ Mười bốn trong truyện cùng tên
( Tân thập tứ
nương ); nàng Phong Tam Nương trong truyện “Háo sắc luỵ mình” ( Phong Tam Nương ); nàng
Tề A Hà trong truyện “Báo ứng trước mắt” ( A Hà )
Loại “tinh hoa” như nàng Hoàng Anh trong truyện “Tinh cúc – nghề hoa” ( Hoàng Anh ) vốn là
tinh cúc ( tinh của hoa cúc); cô gái nhan sắc xinh đẹp là tinh hoa mẫu đơn trong truyện “Yêu hoa
đâu dễ biết hoa” (Cát Cân). Loại“tinh mộc” như nàng Hương Ngọc là cây bạch mẫu đơn, Giáng
Ngọc là cây nại đông trong truyện “Hương Ngọc”.
Nàng A Anh trong truyện “Tình nghĩa với chim” là chim anh vũ, Liên Hoa cơng chúa chính là cơng
chúa của một “vương quốc ong” trong truyện “Kết duyên với ong” ( Liên Hoa cơng chúa ); cơ gái
có giọng hát khẽ như tiếng nhặng, váy dài mềm mại xinh xắn trong truyện “Cơ gái áo xanh” chính là
một con ong xanh; nàng Bạch Thu Luyện trong truyện cùng tên chính là một con cá ngựa trắng trong
hồ; bà chúa Tây Hồ là một con thuồng luồng trong truyện cùng tên .



Nàng Nhan Như Ngọc từ trong sách bước ra trong truyện “Mê sách” ( Thư sĩ ); cô gái nhan sắc
tuyệt trần, có tấm lịng nhân hậu trong truyện “Gái thần” ( Thần nữ ) ; nàng tiên nữ áo tím trong
truyện “Con gái nhà trời” ( Bạch Vu Ngọc ); nàng Vân Thúy Tiên trong truyện “Duyên lỡ người
tiên” ( Vân Thúy Tiên ); nàng công chúa Vân La trong phủ Thánh Hậu mình nhẹ như trẻ thơ trong
truyện “Lấy vợ công chúa” ( Vân La công chúa).
Ấn tượng đầu tiên của độc giả khi tiếp xúc với thế giới nghệ thuật kỳ ảo của Liêu trai là cả một thế giới
nhân vật kỳ lạ, đặc biệt là hồ ly, yêu ma có nguồn gốc xuất thân kỳ dị nhưng lại mang bản chất người
rất đậm. Hình tượng nhân vật kỳ ảo trong Liêu trai vô cùng phong phú, đa dạng có nguồn gốc xuất
thân từ các lồi khác nhau nhưng trong thế giới nhân vật kỳ ảo ấy thì hồ ly, chồn tinh và yêu ma xuất
hiện nhiều nhất và thực sự trở thành tiếng nói nghệ thuật sâu sắc. Dù là hồ ly, hồn ma, chồn tinh hay
tinh hoa, tinh mộc, ong, chim ,cá . . .thì những hình tượng nhân vật có xuất thân kì ảo này luôn xuất
hiện dưới “lốt” của các thiếu nữ xinh đẹp, có nhan sắc đẹp tuyệt trần. Hầu hết các nàng ma, nàng hồ,
chồn tinh, tinh hoa, tinh mộc…. trong Liêu trai đều có một sức hấp dẫn bí ẩn tốt ra từ dung nhan lộng
lẫy, ma mị của mình. Nhan sắc xinh đẹp có phần kì ảo ấy đã làm đắm say những chàng cơng tử si
tình, những anh học trò – nho sinh – nho sĩ chỉ trong lần đầu gặp gỡ.
Ma quỉ, hồ ly, chồn tinh . . vốn có nguồn gốc từ quan niệm tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng tơn
giáo vốn từ lâu đã tồn tại trong đời sống tinh thần của người dân. Quan niệm, tín ngưỡng, tơn giáo đó
đã đi vào các sáng tác văn học một cách tự giác và không tự giác. Bồ Tùng Linh đã kế thừa và nâng
vao chúng lên thành những hình tượng nghệ thuật có sức hấp dẫn, cuốn hút mới. Ma, hồ vì thế trở
thành những ẩn dụ nghệ thuật, được xem là biểu tượng của cái đẹp, trở thành một phương tiện nghệ
thuật. Không chỉ mang vẻ ngoài xinh đẹp của những thiếu nữ – vẻ ngoài của con người – mà các nhân
vật có nguồn gốc xuất thân hư ảo, phi thực trong Liêu trai cịn mang tính người rất đậm, rất “con
người”, y như con người thật bởi vẻ đẹp tâm hồn bên trong, cách suy nghĩ, hành động, nói năng, có
những số phận khác nhau với những khát khao yêu thương và những phẩm chất tốt đẹp . . . Đây là
những điểm làm cho nhân vật hồ, ma của Bồ Tùng Linh gần gũi với con người.
Trong hệ thống những nhân vật phụ nữ trần thực, đầu tiên có thể kể đến, đó là những tiểu thư
xinh đẹp sắc nước hương trời, con nhà khuê các quyền quí. Chẳng hạn như : nàng Thụy Vân trong
truyện cùng tên, một danh kỹ đất Hàng, nhan sắc và tài nghệ có một, lừng tiếng đã lâu, các bậc đại
thương, giới quyền quí, ngày ngày nối gót nhau vào cửa; nàng A Bảo, một cô gái tuyệt sắc trong
truyện “Cô Bảo”, đến tuổi kén duyên, con cái các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ đến giạm; cơ gái

họ Huỳnh trong truyện “Vạn Lý Tầm Thu” ( Cung Mộng Bật ); cô gái con quan Thái Sử trong
truyện “Con gái nhà trời”( Bạch Vu Ngọc ); cô Mười một họ Phạm con quan tế tửu trong
truyện “Háo sắc lụy mình” ( Phong Tam Nương ); nàng Liên Thành – con gái yêu của ơng cử nhân
Hiếu Liêm trong truyện “Cắt thịt vì tình” ( Liên Thành ); cơ con gái người Triết Giang cha làm quan
Tư Mã trong truyện “Cái đầu kẻ thù” ( Hiệp nữ ). Hoặc có khi họ cũng chỉ là những cơ con gái con
nhà bình dân như người con gái tên Cừu Đại Nương đầy bản lĩnh trong truyện cùng tên; cô gái họ Mai
trong truyện “Mai nữ”; nàng “sư tử Hà Đông” Giang Thành trong truyện “Vợ dữ hơn cọp”; nàng
Thương Tam Quan tuổi vừa trăng tròn lẻ trong truyện “Gái báo thù cha”; nàng Kiều thị trong
truyện “Xấu người đẹp nết” ( Kiều nữ ); nàng Mạnh Vân Nương xinh đẹp tuyệt trần trong
truyện “Vương Quế Am”; nàng Canh Nương xinh đẹp hiền đức vợ của chàng Kim Đại Dụng trong
truyện“Đào mả cô canh”( Canh Nương ); nàng Yên Chi – con gái của một người làm nghề chữa
bệnh cho trâu trong truyện “Vụ án tình si” ( Yên Chi ).
Như vậy, dù những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai có nguồn gốc xuất thân kì lạ, hư ảo, phi thực hay
có nguồn gốc xuất thân là những con người trần thực thì chúng ta cũng khơng cảm thấy có một sự
khác biệt nào quá lớn lao giữa hai loại nhân vật này. Dù họ có là những cơ nàng hồ ly, chồn tinh, tinh
hoa, tinh mộc, ong, chim, cá hoá thân thành người hay những hồn ma chết yểu, chết oan . . .. hoặc
những cô tiểu thư con nhà thế gia, quan lại giàu có hay chỉ là con nhà bình dân có xuất thân hèn kém
. . . thì khơng ai có thể phủ nhận một điều rằng, họ là những con người gần gũi hơn bao giờ hết, họ
đều được miêu tả có một dung mạo và vẻ ngồi xinh đẹp và đi cùng với vẻ ngoài xinh đẹp ấy là vẻ
đẹp bên trong của thế giới tâm hồn. Vẻ đẹp bên ngoài của họ ẩn chứa những vẻ đẹp bên trong. Họ có


những số phận khác nhau, khơng ít người có những số phận bất hạnh rất đáng thương. Và đặc biệt,
nhà văn họ Bồ đã đem đến cho họ – những hình tượng nhân vật phụ nữ của Liêu trai – một sức sống
mới, với việc khắc hoạ những nhân vật phụ nữ khao khát hạnh phúc, rạo rực những khát khao yêu
đương và dám hi sinh, dám đấu tranh cho tình yêu.
2.
NHỮNG SỐ PHẬN PHỤ NỮ BẤT HẠNH
Nàng Ngũ Thu Nguyệt trong truyện cùng tên vô cùng xinh đẹp nhưng mệnh số không thọ, năm mười
lăm tuổi, chết yểu, liền đào huyệt ở phía Đơng gian gác của chàng Vương Đỉnh hiện thời mà chôn

bằng, mộ không đắp nấm, cũng khơng có mộ chí, duy chỉ đặt bên quan tài một phiến đá, đề rằng :
“Gái Thu Nguyệt, chết không mồ, ba mươi năm sau gả về Vương Đỉnh”. Hay nàng Liên Toả xinh đẹp
trong truyện cùng tên mới mười bảy tuổi bỗng bị bạo bệnh chết đã hơn hai mươi năm, đêm đến hồn
ma của nàng cứ ngâm nga mãi hai câu thơ sầu ốn : “Gió lạnh xoay chiều giữa bóng đêm. Đóm bay
trong cỏ, đậu lên rèm”. Nàng Chương A Đoan, cô gái xinh đẹp sinh thời lấy phải thằng chồng lêu lổng
chơi bời, hung dữ bất nhân đánh đập thẳng tay khiến nàng buồn rầu mà chết yểu, xác chôn trong khu
nhà nọ trên hai mươi năm trong truyện “Cởi truồng rượt ma” ( Chương A Đoan ) hay nàng Vân
Thuý Tiên trong truyện “Duyên lỡ người tiên”, vốn khơng phải là người phàm trần, vì nghe lời mẹ mà
về làm vợ chàng Lương Hữu Tài, một kẻ ham mê cờ bạc rượu chè, chơi bời tráo trở, lại muốn bán vợ
cho người ta để có tiền nhậu nhẹt cờ bạc; cô gái trẻ “chẳng phải là người, nhưng thật cũng là người”,
nguyên là con gái của một ông quan trấn nhậm ở đấy, bị chồn làm chết, xác chôn trong vườn được lũ
chồn làm phép cho sống lại, cũng có khả năng biến hố như chồn trong truyện “Vợ bé là chồn”.
Thanh Mai – cô gái xinh đẹp là con của người và hồ – cơ gái mồ cơi, sống với chú, chú phóng đãng
vơ hạnh, đem bán nàng đi làm con hầu để kiếm lợi trong truyện cùng tên.
Nàng Ái Khanh trong truyện “Cô gái họ Mai” ( Mai nữ ) vốn là vợ kế của một tên quan Điển Sử, vì
chồng nàng là một tên quan gian ác ăn của đút lót hại người, cha mẹ dưới âm ty kêu xin cho hắn ta
và phải đưa con dâu quí là nàng Ái Khanh vào lầu xanh để trả món nợ tham nhũng của hắn.
Hồn ma của cô gái họ Mai trong truyện “Mai nữ” mãi khơng siêu thốt được vì năm xưa nhà của nàng
đang đêm bị một tên trộm lẻn vào, cô bắt được giải lên quan. Tên quan tham lam, độc ác bất nhân
nhận tiền của tên trộm, vu cho nàng tội tư thông với tên trộm và toan bắt nàng lên tra khám. Nàng
nghe tin thắt cổ chết. Về sau, hồn ma của nàng hiện về nhờ chàng Phong Vân Đình chặt cây xà ngang
nơi nàng treo cổ khi xưa đem đốt đi.
Xinh đẹp, tài năng và giỏi giang, đáng ra họ phải là những người được hưởng hạnh phúc, thế nhưng họ
phải chịu số phận bất hạnh. Họ gặp phải những bất hạnh trong cuộc sống cũng có một nguyên do là
xuất phát từ nguồn gốc xuất thân của họ : truyện “Tiểu Thúy”, khi biết rõ về nguồn gốc xuất thân
của Tiểu Thuý và cũng do cái tính hay cười hay đùa lại có vẻ kì dị của nàng mà cha mẹ chồng sinh ra
hiểu lầm rồi mắng nhiếc nàng thậm tệ khiến nàng Tiểu Thuý đáng thương buồn tủi mà bỏ đi. Sự khác
biệt về loài giữ một bên là người và một bên là hồ, chồn tinh , hồn ma . . . chính là một trong những
nguyên nhân khiến cho họ không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn mà phải chia lìa mỗi người mỗi ngả.
Kết thúc các câu truyện, hình ảnh những người phụ nữ ôm con ra đi hoặc để lại cho người chồng một

đứa con còn ẵm bồng trên tay mà ra đi mãi không trở lại khiến cho người đọc không khỏi bùi ngùi cảm
thương. Câu truyện“Phòng Văn Thục” kể về cơ gái tên là Phịng Văn Thục nhan sắc tuyệt đẹp nhưng
không phải là người, cảm mến chàng Đặng làm nghề chép thuê ở nhờ trong một ngôi chùa nọ. Cầm
sắt hoà hợp dài lâu, nàng sinh cho chàng Đặng một đứa con trai, nhưng một đêm nàng bế con ra đi,
mãi biệt tăm không thấy nàng quay trở lại. Nàng A Tiêm, vợ của chàng ba trong truyện ngắn cùng tên
phải chịu những lời xì xầm bàn tán của những người trong gia đình chồng vì nàng khơng phải là người,
họ đều cho nàng là yêu quái khiến nàng vơ cùng đau buồn, lấy cớ về chăm sóc mẹ già bị bệnh rồi đi
hơn một năm, vắng bặt tin tức. Truyện “Tình nghĩa với chim” ( A Anh ) kể về nàng A Anh – một con
chim anh vũ – về làm vợ cậu Giác, rồi bị người anh chồng nghi ngờ mình là u tinh, nàng nói rõ mọi
sự rồi bay đi mất. Hay như câu chuyện tình buồn thương của một nàng ma xinh đẹp tên là Công Tôn
Cửu Nương trong truyện “Một đêm lấy ma” và chàng học trò người huyện Lai Dương. Âm dương
cách trở, dù có dun với nhau cũng khơng thể gắn bó lâu dài, chàng phải trở về cõi trần thế rồi từ đó
khơng có dịp gặp lại nàng Cửu Nương nữa.


Những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai luôn khát khao hạnh phúc, khát khao yêu thương, yêu và được
yêu, họ mong muốn cùng người yêu hưởng hạnh phúc trọn vẹn, gắn bó dài lâu nhưng vấp phải sự cản
ngăn của những bậc cha chú trong gia đình – những kẻ đại diện cho lễ giáo phong kiến – nên đơi lứa
phải chia lìa. Những mối tình tự do, những mong muốn tự chủ trong hôn nhân luôn bị vấp phải những
rào cản. Thật là đau xót biết bao cho những mối tình tuyệt đẹp. Như câu chuyện về mối tình của
chàng Tương Như và cơ gái láng giềng tên là Hồng Ngọc trong truyện “Hồng Ngọc”, hai người lén lút
qua lại với nhau, được nửa năm thì cha chàng Tương Như biết được, la mắng cho như vậy là làm nhơ
nhuốc gia phong, là việc làm đáng xấu hổ. Nàng Hồng Ngọc chảy nước mắt mà nói rằng : “Thiếp với
chàng khơng có lời của mối lái, khơng có lệnh của cha mẹ, chỉ là trèo tường mà theo nhau, thì sao có
thể cùng nhau đầu bạc được?”. Hai người vì thế mà đành phải xa nhau. Cũng giống như mối tình của
chàng Tương Như và Hồng Ngọc là mối tình của chàng Cảnh Khứ Bệnh và nàng Thanh Phượng trong
truyện “Thanh Phượng”. Nàng Thanh Phượng vốn là một con chồn, cùng cô chú và người anh họ
sống trong một căn nhà hoang của một gia đình thế gia sa sút. Chàng Cảnh Khứ Bệnh là cháu của gia
đình thế gia ấy, vì tị mị, hiếu kì mà đến khu nhà nọ. Tình cờ chàng ta gặp và tương tư nàng Thanh
Phượng xinh đẹp rồi lân la dọn đến ở khu nhà đó. Chàng muốn cùng nàng Thanh Phượng sớm tối bên

nhau nhưng bị ông chú của nàng cản ngăn, cho như vậy là làm nhơ nhuốc danh giá của gia đình nên
hai người đành phải chia lìa nhau. Tác giả đã công khai lên án lễ giáo phong kiến cản trở tình u tự
do và hơn nhân tự chủ : dưới ngịi bút có khuynh hướng u ghét rõ rệt, người đọc cảm nhận được sự
bất bình của tác giả trước lời mắng chửi Thanh Phượng của ông chú Nho học, trước sự cản ngăn của
ông chú đối với nàng Hoa Cô Tử trong truyện cùng tên.
Bên cạnh sự cản ngăn của những người đại diện cho lễ giáo phong kiến, việc sinh con nối dõi cho
chồng cũng là một trong những nguyên do khiến cho những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai gặp phải
những bất hạnh trong cuộc sống hôn nhân. Duyên đôi lứa đang mặn nồng, tình cảm vợ chồng vơ cùng
thắm thiết nhưng nàng Tiểu Thúy trong truyện cùng tên vô cùng buồn phiền vì mình khơng thể sinh
con cho chàng Ngun Phong nên đã lo toan cưới vợ khác cho chồng, còn nàng thì đã quyết định ra đi
mãi mãi.
Những thiên truyện ngắn viết về những nhân vật phụ nữ xinh đẹp, tài hoa, có phẩm chất tốt đẹp
nhưng lại có số phận bất hạnh, khơng được hưởng hạnh phúc có giá trị tố cáo, phê phán những bất
công trong xã hội, cái xã hội không cho con người được sống hạnh phúc mà những người phụ nữ bao
giờ cũng là những nạn nhân đáng thương nhất trong xã hội.
3. NHỮNG PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP CỦA NHÂN VẬT PHỤ NỮ
3.1. NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ XINH ĐẸP, TÀI NĂNG, GIỎI GIANG VÀ SỐNG CÓ TÌNH
NGHĨA, CĨ BẢN LĨNH
Dù là ma hay là người, là hồ ly hay tiên nữ . . .thì tất cả các nhân vật phụ nữ trong Liêu trai đều được
miêu tả có dung mạo xinh đẹp. Do đặc điểm về thể loại, các câu truyện trong Liêu Trai có dung lượng
gói gọn chỉ trong một thiên truyện ngắn nên việc miêu tả sắc đẹp của những nhân vật phụ nữ cũng có
phần hạn chế, có phần sơ lược chứ khơng được tỉ mỉ như thiên tiểu thuyết có dung lượng nhiều hơn
như tiểu thuyết trường thiên chẳng hạn. Những câu văn miêu tả sắc đẹp của các thiếu nữ trong Liêu
trai rất ngắn gọn với vài nét vẽ ước lệ đơn sơ : nàng Thụy Vân vô cùng xinh đẹp, A bảo – cô gái tuyệt
sắc, vẻ xinh tươi yểu điệu có một khơng hai, nàng Anh Ninh nhan sắc tuyệt vời, nụ cười xinh tưởng có
thể vốc được, nàng Ngũ Thu Nguyệt tuổi vừa mười bốn mười lăm, thùy mị tình tứ, có vẻ đẹp như tiên,
nàng Tiểu Thúy khi nhoẻn miệng cười thì thật là tươi xinh, thật là phẩm tiên, nàng Thanh Phượng dáng
liễu yêu kiều, làn thu ba lóng lánh, trên đời dễ khơng ai đẹp bằng, nàng Hoa Cô Tử nhỏ tuổi mà xinh
đẹp như tiên, thiếu phụ Phòng Văn Thục nhan sắc tuyệt đẹp, cô Tư họ Hồ mặt đẹp như tiên, nàng
Thanh Mai có vẻ người thanh tú giống hệt như mẹ, nàng Bạch Thu Luyện tuổi mười lăm mười sáu, đẹp

nghiêng thành, nàng ong áo xanh váy dài mềm mại, xinh xắn không ai sánh được, A Tiêm tuổi chừng
mười sáu mười bảy, vô cùng xinh đẹp, nàng Kiều Na mới mười ba mười bốn tuổi, vẻ hoa lộng lẫy, vóc
liễu thướt tha, nàng Nha Đầu mới mười bốn tuổi, có vẻ đẹp thần tiên, nàng Phiên Phiên có dung mạo
như tiên . . .


Nhưng khơng chỉ xinh đẹp mà họ cịn là những người phụ nữ vừa có sắc vừa có tài. Đó là nàng Lâm
Tứ Nương trong truyện cùng tên, không chỉ xinh đẹp mà nàng lại còn rất giỏi âm nhạc, thường hay hát
những khúc hát thê lương làm người nghe bùi ngùi cảm thương. Truyện “Bạch Thu Luyện” kể về một
cô gái vốn là con cá ngựa trắng sống trong hồ rất am hiểu chữ nghĩa. Nàng Liên Toả trong truyện
ngắn cùng tên rất thích đọc sách, vơ cùng thơng minh linh lợi, am hiểu về thơ từ, cùng đàm đạo thơ
văn với chàng học trò Dương Vu Uý. Nàng thường ngồi dưới đèn chép sách cho Dương, nét chữ mềm
mại và ngay ngắn, lại tự chọn một trăm bài từ trong cung ( những bài thơ chuyên vịnh các việt lặt vặt
trong cung cấm, nhất là về số phận người cung nữ) chép riêng ra để đọc. Nàng bảo Dương sắm bàn
cờ, mua đàn tì bà, mỗi đêm thường dạy Dương đánh cờ, nếu khơng chơi cờ thì dạo khúc “Tiêu song
linh vũ” buồn đến não lòng hoặc chuyển qua chơi khúc “Hiểu uyển oanh thanh” làm tâm hồn con người
ta bất giác trở nên thanh thản.
Nhưng có lẽ cái tài của các nàng thiếu nữ xinh đẹp trong Liêu trai xếp vào hàng kiệt xuất bậc nhất thì
phải kể đến người con gái mồ cơi họ Nha, dịng dõi của một nhà học giỏi, vợ của anh chàng Mỗ đần
độn trong truyện “Vợ thi hộ chồng” (Nhan thị ). Khi người cha còn sống thường dạy nàng học, chỉ
đọc qua một lượt là nhớ thuộc lịng, ngồi mười bốn tuổi đã học làm thơ. Người cha nói : “Nhà ta có nữ
học sĩ tiếc khơng được đội mũ thôi”. Nàng giỏi giang, xinh đẹp nhưng lấy phải anh chồng đần độn,
mười bảy tuổi đầu mới viết chữ thành hàng lối. Thấy văn của chồng làm, nàng phì cười và từ đó sớm
hơm khun đốc chàng học. Tối đến, nàng châm đèn ngồi, tự cất tiếng ê a đọc trước để làm gương
cho chồng. Dạy chồng được hơn một năm, văn chương thi cử của chàng đã hơi thông nhưng đi thi
khoa nào cũng rớt. Nàng nói rằng : “Trời để cho mình làm đàn ơng thật uổng. Nếu để cho tôi bỏ khăn
yếm, thay đổi làm con trai thì tơi coi sự thi đỗ dễ như trị chơi vậy.” Nói là làm, nàng cải trang thành
nam nhi đi thi hộ chồng rồi đậu số một trong kì thi hạch tại tỉnh, rồi thi hương đậu cử nhân thứ tư, qua
năm sau đậu ln tiến sĩ. Triều đình bổ đi tri huyện, cai trị giỏi giang nên lần hồi được lên chức
Chưởng ấn Ngự sử, giàu có ngang bậc vương hầu. Trong một xã hội phong kiến vốn trọng nam khinh

nữ như thời đại của Liêu trai thì hình ảnh những thiếu nữ thông minh, xinh đẹp, tài năng lướt cả bậc
nam nhi như cô gái họ Nha đã khẳng định những khả năng của người phụ nữ. Họ không chỉ là những
cô gái xinh đẹp giỏi thêu thùa may vá, đàn ca, nội trợ, họ không phải là bậc nữ nhi thường tình mà
trong nghiệp khoa cử, họ chẳng kém cạnh các đấng nam nhi là mấy !
Họ cịn là những mỹ nhân thể hiện sự hài hồ giữa vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn. Vẻ đẹp hình
thức của họ ln được chiếu sáng bởi vẻ đẹp tuyệt vời của tâm hồn. Họ không chỉ có sắc, có tài mà
cịn sống có tình có nghĩa. Nàng Tề A Hà trong truyện “Báo ứng trước mắt” vốn là chồn hố thân,
có dung mạo xinh đẹp, muốn nương tựa vào chàng Cảnh sinh vì biết chàng được ghi tên vào bảng
vàng. Nhưng vì chàng Cảnh sinh phụ rẫy người vợ của mình một cách tàn nhẫn để đến với A Hà nên bị
thần thánh xử phạt rút tên ra khỏi bảng vàng. Biết Cảnh sinh là con người phụ tình, nàng A Hà đã lấy
chàng Trịnh là người thi đậu khoa thi năm ấy. Cảnh thì gia đạo sa sút, phải ăn nhờ ở đậu bạn hữu, có
lần ngẫu nhiên đến nhà Trịnh, nàng A Hà động lòng thương khuyên chồng giúp cho y manh quần tấm
áo lại đem hơn hai mươi đồng của riêng nàng để dành ra giúp cho chàng để đền đáp nghĩa cũ, lại
khuyên chàng tìm lấy một người tử tế làm vợ rồi sau này mở mày mở mặt cho con cháu mai sau.
Sống có tình, có nghĩa, họ rất coi trọng chữ “tín”, chẳng hạn như cơ con gái họ Huỳnh trong
truyện “Vạn Lý Tầm Thu” ( Cung Mộng Bật ) và cô con gái con quan Thái Sử trong truyện “Con
gái nhà trời” ( Bạch Vu Ngọc ).
Cô con gái họ Huỳnh vì gia đình đã có lời hứa gả cho chàng Hoà nhà họ Liễu, nay gia cảnh nhà Hồ
trở nên sa sút mà cha mình tuyệt Hồ khơng muốn gả nữa, nàng cho thế là quấy, khuyên cha mẹ
mình khơng được khinh bỏ người ta. Hai ơng bà khơng nghe, sau đó nhà họ Huỳnh bị cướp, gia cảnh
sa sút, hết cả của cải. Hai ơng bà vì ham tiền mà ép gả nàng cho nhà người ta. Nàng bỏ nhà, giả dạng
ăn xin trốn đi, tìm đến nhà Hồ, về làm vợ chàng Hồ nghèo khó nhưng sống rất đầm ấm và hạnh
phúc. Cịn cơ con gái quan Thái Sử thì chỉ vì một lời hứa làm vợ chàng Ngô Lang mà nguyện thuỷ
chung, một mực không chịu làm vợ người khác.
Kiều thị, người phụ nữ “xấu người đẹp nết” trong truyện “Kiều nữ” có tấm lịng nhân hậu, sống rất có
tình, có nghĩa. Kiều thị vừa đen vừa xấu, khuyết mũi, thọt chân, về làm vợ kế của chàng họ Mục goá


vợ, nhà nghèo. Sau khi sinh con trai ít lâu thì Mục chết, Kiều thị ở vậy chịu cực khổ nuôi con, quyết
giữ chữ Đức, không muốn mang tiếng là thờ hai chồng nên từ chối lời hỏi cưới của chàng Mạnh goá vợ

trong làng. Sau Mạnh bệnh chết, Kiều thị nhận nuôi đứa con nhỏ dại của Mạnh, coi nó như con ruột,
lại giúp lấy lại tài sản cho Mạnh khỏi rơi vào tay bọn vô lại trong thôn. Khi Kiều thị chết đi, đứa con
muốn hợp táng bà với ông Mạnh nhưng không được, sau phải hợp táng chung với phần mộ của ông
Mục.
Những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai cịn có tấm lịng nhân hậu, thương người, giàu lòng hi
sinh. Như nàng Hồng Ngọc trong truyện cùng tên, nhặt bé Phúc Nhi mang về nuôi nấng và xem nó
như là con ruột của mình.( bổ sung)Hay như cô tiểu thư nhan sắc đẹp tuyệt trần trong truyện “Gái
thần” ( Thần nữ ), là con gái của ông cụ họ Phó nhà cửa giàu có, là bậc thế gia, vì cảm thương cho
anh chàng thư sinh họ Mễ vướng phải tai ương mà gia sản bị tiêu tán hết, áo mũ nho sinh không lấy
lại được cho nên khó khăn cho việc thi cử mà tặng cho chàng một đố hoa bằng ngọc trai, sau lại cịn
giúp tiền cho chàng đi thi.
Những nhân vật phụ nữ giàu lịng hi sinh như nàng Hoa Cơ Tử trong truyện cùng tên vì cứu chàng An
mà tổn thất hết bảy phần sự nghiệp , trăm năm không được lên tiên. Hay như Trần thị – vợ của chàng
thư sinh họ Vương trong truyện “Bộ da vẽ” ( Họa bì), chồng nàng bị một con quỷ nanh ác, mặt xanh
lét, răng chơm chởm như răng cưa, khốc tấm da người có vẽ đầy đủ mắt mũi tay chân hãm hại, moi
ruột mà chết. Nàng mời đạo sĩ về tiếp tục trừ diệt yêu nghiệt, rồi theo lời đạo sĩ, chịu bao nhiêu là khổ
nhục, phải nuốt đờm dãi hôi thối của người điên ở chợ để cứu chồng sống lại nhờ vậy mà có được trái
tim cứu chồng sống lại.
Ngồi những phẩm chất tốt đẹp trên, nhân vật phụ nữ trong Liêu trai cịn có tấm lịng rất thủy chung.
Như người thiếp họ Hà trong truyện “ĐạiNam”. Khi chồng bỏ đi, nàng ở nhà bị Thân thị – người vợ kế
– ức hiếp, bắt phải tái giá. Hà ý chí khơng chút lung lay. Lại bị ép bán cho một lái buôn, đến đêm Hà
lấy dao cứa cổ. Lái buôn lại đem bán cho một người khác, Hà tự xẻ lồng ngực, lộ rõ phủ tạng.
Cái tình ở đây cũng bao gồm cả tình bạn. Đó là tình bạn giữ Phong Tam Nương và cô Mười Một họ
Phạm trong truyện “Háo sắc lụy mình”
( Phong Tam Nương ). Hai người là đơi bạn tri kỉ rất
tâm đầu ý hợp, tình cảm quyến luyến khơng muốn rời. Nàng Phong Tam Nương có tài nhìn người mà
đốn trước hậu vận về sau, biết được chàng tú tài Mạnh An Nhân về sau sẽ đỗ đạt nên muốn xe duyên
cho cô Mười Một. Rồi Phong Tam Nương dùng đủ mọi cách để ra sức vun vén cho mối lương dun này
: gia đình cơ Mười Một ép gả cô cho một ông quan nọ mà khơng đồng ý gả cho chàng Mạnh vì gia
cảnh của chàng quá nghèo. Hôm trước ngày cưới cô Mười Một đã tự vẫn, Phong Tam Nương dùng phép

thuật giúp cho cô Mười Một được hồi sinh nhờ vậy cuộc nhân duyên mới thành. Tình bạn giữa Phong
Tam Nương và cơ Mười Một là tình bạn giữa chồn tinh và người, một tình bạn khác lồi thân thiết
khơng thua gì tình bạn giữa người và người!
Trong “Liêu trai chí dị”, bên cạnh những nhân vật phụ nữ nhân hậu, ta cịn thấy xuất hiện nhiều hình
tượng nhân vật phụ nữ sống rất bản lĩnh. Truyện“Cái đầu kẻ thù” ( Hiệp nữ ) nói về cơ gái người
Triết Giang, cha làm quan tư mã, bị kẻ thù hãm hại, tịch thu ráo cửa nhà sản nghiệp. Nàng dẫn mẹ
già đi trốn, mai danh ẩn tích ba năm trời. Khi mẹ già qua đời, nàng đã ra tay chặt đầu kẻ thù báo thù
cho cha.
Có nội dung tương tự như câu chuyện “Hiệp nữ” kể trên là câu chuyện của cô gái Tam Quan báo thù
cho cha trong truyện “Gái báo thù cha”
( Thương Tam Quan). Tam Quan nhất định
không chịu tiến hành đám cưới chạy tang vì cho như vậy là không hiếu thuận với người cha vừa qua
đời. Tang cha vừa xong, ban đêm Tam Quan trốn nhà đi đâu khơng biết. Thì ra nàng đã cải trang
thành nam nhi xin vào một gánh hát để có dịp tiếp cận tên quan huyện hào đã giết hại cha mình khi
xưa trong dịp lễ mừng thọ của hắn. Tam Quan báo thù được cho cha xong thì cũng thắt cổ tự vẫn.
Canh Nương, một cô gái xinh đẹp và hiền đức, vợ của chàng Kim Đại Dụng trong truyện “Đào mả cô
canh”( Canh Nương ), cả gia quyến đều bị tên họ Vương hãm hại, nàng may mắn cịn sống sót và
một tay giết Vương trả thù cho chồng rồi nhảy xuống giếng tự tử. Sau nàng được hồi sinh, được đồn
tụ cùng người chồng cũng may mắn sống sót.


×