Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.17 KB, 21 trang )

BÀI LÀM:
A/ LỜI NÓI ĐẦU:
Chiết khấu giấy tờ có là nghiệp vụ cấp tín dụng tương đối cổ
điển của tổ chức tín dụng . Nghiệp vụ này được các ngân hàng ở
Châu âu áp dụng lần đầu tiên vào thế kỉ thứ 13 mà đối tượng chiết
khấu lúc ấy chỉ là các phiếu nợ thương mại (thương phiếu) do các
thương nhân châu Âu phát hành nhằm xác nhận quan hệ mua bán
chịu hàng hóa giữa họ với nhau. Trải qua thời gian, nghiệp vụ chiết
khấu ngày càng phát triển với đối tượng chiết khấu ngày càng
phong phú, đa dạng hơn, không chỉ là các thương phiếu như thuở
sơ khai của nghiệp vụ này mà còn bao gồm cả các giấy tờ có khác
như tín phiếu hay các khoản cho vay ngắn hạn, thậm chí là cả giấy
tờ có giá dài hạn.
Xét trên phương diện pháp lý, chiết khấu giấy tờ có giá ở một
tổ chức tín dụng là giao dịch thương mại thể hiện mối quan hệ mua
bán giấy tờ có giá. Hình thức pháp lý của quan hệ mua bán này
chính là một hợp đồng - hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Ở nhiều nước trên thế giới, nghiệp vụ chiết khấu cũng như
các hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng thường
được quy định rất cụ thể và rõ ràng trong các đạo luật và các văn
bản dưới luật và được áp dụng rất rộng rãi. Còn ở Việt Nam dù đã
được thừa nhận nhưng hoạt động này vẫn chưa được triển khai do
chính các ngân hàng cũng như khách hàng chưa hiểu rõ bản chất
pháp lý của nghiệp vụ này.
Bài viết sau đây xin trình bày một số vấn đề pháp lý về
khái niệm, đặc điểm, nội dung, các loại hợp đồng chiết khấu giấy
tờ có giá… cũng như trình tự, thủ tục tiến hành giao kết một hợp
đồng chiết khấu nhằm tiếp cận một cách tổng quát về các loại hợp
đồng chiết khấu giấy tờ có giá. Qua đó đánh giá được những điểm
còn hạn chế trong quy định của pháp luật về hợp đồng chiết khấu
giấy tờ có giá này để có những phương hướng hoàn thiện tốt hơn,


tạo điều kiện thuận lợi trong việc áp dụng luật vào hoạt động
nghiệp vụ ngân hàng của các tổ chức tín dụng.
Vì đề tài bài viết tương đối rộng và khá phức tạp, nên trong
quá trình nghiên cứu, em không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
1


mong cô và các bạn có ý kiến nhận xét để bài viết của em được
hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

B/ PHẦN NỘI DUNG:
I/ Khái quát chung:
1.Khái niệm hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá:
1.1 Khái niệm giấy tờ có giá:
Giấy tờ có giá nói chung, được hiểu là chứng chỉ hoặc bút toán
ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định
(tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với chủ thể khác.
Giấy tờ có giá có 3 thuộc tính: (1) Xác nhận quyền tài sản của
một chủ thể xác định; (2) Trị giá được bằng tiền; và (3) Có thể
chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao lưu dân sự.
Theo quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức
tín dụng ban hành kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN của
Ngân hàng Nhà nước: Giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát
hành là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động
vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một
thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác
giữa tổ chức tín dụng và người mua ( khoản 1 Điều 4 Quy chế phát
hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng)
Giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành gồm: Giấy tờ có
giá ngắn hạn (thời hạn dưới 1 năm bao gồm: kỳ phiếu, chứng chỉ

tiền gửi ngắn hạn tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác) và
giấy tờ có giá dài hạn (có thời hạn từ 1 năm trở lên, bao gồm: trái
phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và giấy tờ có giá dài hạn khác).
Các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành có thể thể hiện
dưới hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ, có thể là loại giấy tờ có ghi
danh hoặc không ghi danh.
2


1.2 Khái niệm chiết khấu giấy tờ có giá:
Chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng là một nghiệp vụ tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng thỏa
thuận mua giấy tờ có giá của khách hàng trước hạn thanh toán.
Khởi thủy, hoạt động chiết khấu của các ngân hàng chủ yếu
nhằm vào đối tượng là các thương phiếu do các thương nhân sở
hữu. Đây cũng là cách để các ngân hàng có thể tài trợ vốn cho giới
thương nhân trong các thương vụ buôn bán, nhất là các thương vụ
quốc tế. Cùng với thời gian, sự phát triển đa dạng của các loại giấy
tờ có giá trong đời sống dân sự và thương mại đã khiến cho đối
tượng chiết khấu tại ngân hàng cũng ngày cảng trở nên đa dạng
hơn.
Ngày nay, hoạt động chiết khấu của các ngân hàng trên thế
giới đều hướng tới việc mua bán các loại giấy tờ có giá còn thời
hạn thanh toán ngắn (dưới 1 năm) như hồi phiếu, tín phiếu, trái
phiếu, kì phiếu… do các tổ chức, cá nhân hoặc Chính phủ phát
hành và đang được phép lưu thông trên thị trường. Vì thế, hoạt
động chiết khấu giấy tờ có giá đã trở thành một công cụ tín dụng
hỗ trợ đắc lực cho các nhà kinh doanh trong quá trình hoạt động
nghề nghiệp của mình.
Xét từ góc độ kinh tế, hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của

tổ chức tín dụng có bản chất là một nghiệp vụ tín dụng, bởi vì, khi
chiết khấu giấy tờ có giá của khách hàng, tổ chức tín dụng phải
ứng trước cho khách hàng một số tiền nhất định để họ sử dụng.
Sau một thời gian nhất định, tổ chức tín dụng đòi lại số tiền này từ
người có nghĩa vụ trả nợ theo giấy tờ có giá, với tư cách là chủ sở
hữu mới của giấy tờ có giá. Với các thuộc tính này, hoạt động chiết
khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng chẳng khác nào một
nghiệp vụ tín dụng truyền thống, với đầy đủ các thuộc tính vốn có
của hoạt động tín dụng như sự ứng trước và sự hoàn trả một số tiền
nhất định; sự tín nhiệm của người cho vay đối với người đi vay và
cam kết trả lãi cho việc sử dụng vốn của tổ chức tín dụng.
Xét từ góc độ pháp lí, hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của
tổ chức tín dụng có bản chất là một hợp đồng mua bán giấy tờ có
giá, với đầy đủ các thuộc tính của hợp đồng mua bán như: các chủ
3


thể tham gồm bên bán và bên mua; đối tượng mua bán là giấy tờ
có giá được chiết khấu; giá cả mua bán là số tiền mà tổ chức tín
dụng phải trả cho khách hàng sau khi đã khấu trừ đi phần lợi tức
chiết khấu; có thỏa thuận chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá
từ người bán (khách hàng) sang cho người mua (tổ chức tín dụng
nhận chiết khấu).
1.3 Khái niệm của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá:
1.3.1. Định nghĩa của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá :
Giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá được xác lập và thực hiện
giữa tổ chức tín dụng với khách hàng thông qua hình thức pháp lí
là hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá là thỏa thuận bằng văn
bản giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, theo đó tổ chức tín dụng

cam kết mua giấy tờ có giá của khách hàng trước hạn thanh toán,
với điều kiện khấu trừ ngay một số tiền nhất định tính theo tỷ lệ
phần trăm (%) trên mệnh giá của giấy tờ có giá được chiết khấu,
tái chiết khấu trong thời gian chiết khấu.
Xét về khía cạnh kinh tế, do hợp đồng chiết khấu có giá được
xác lập và thực hiện vì nhu cầu cấp tín dụng cho khách hàng nên
nó mang ý nghĩa kinh tế như một hợp đồng tín dụng. Còn nếu xét
về khía cạnh pháp lí thì hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá thực
chất là một hợp đồng mua bán giấy tờ có giá, với nội dung thỏa
thuận chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ người bán sang
cho người mua theo giá cả thỏa thuận.
Theo qui định hiện hành, hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá
phải được lập thàng văn bản và có các nội dung phù hợp với pháp
luật cũng như phù hợp với hợp đồng mẫu do Hiệp hội ngân hàng
ban hành.
1.3.2. Phân loại hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá:
a. Căn cứ vào phương thức chiết khấu:
+>Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá toàn bộ thời hạn:
Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá toàn bộ thời hạn là sự
thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng về việc mua hẳn
các giấy tờ có giá, trong đó khách hàng phải chuyển giao ngay

4


quyền sở hữu các giấy tờ có giá đó khi được tổ chức tín dụng chấp
nhận chiết khấu.
Kể từ thời điểm khách hàng hoàn thành thủ tục chuyển giao
quyền sở hữu giấy tờ có giá đó, tổ chức tín dụng là chủ sở hữu hợp
pháp đối với các giấy tờ có giá được hưởng toàn bộ quyền lợi phát

sinh từ giấy tờ có giá. Tổ chức tín dụng có thể tái chiết khấu tại các
tổ chức tín dụng khác hoặc tại ngân hàng nhà nước vào bất cứ thời
điểm nào trước khi các giấy tờ có giá đó đến hạn thanh toán mà
không vi phạm các điều khoản của hợp đồng.
Khi tiến hành trả tiền cho khách hàng, số tiền mà tổ chức tín
dụng sẽ trả bằng mệnh giá ghi trên giấy tờ có giá – lãi chiết khấu
và các chi phí khác. Lãi chiết khấu được tính tương ứng toàn bộ
thời hạn còn lại của giấy tờ có giá kể từ khi được tổ chức tín dụng
chấp nhận chiết khấu cho đến ngày đáo hạn.
+> Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá có thời hạn:
Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá có thời hạn là thỏa thuận
bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và khách hàng về việc mua các
giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán, trong hợp đồng có điều
kiện cam kết khách hàng sẽ mua lại giấu tờ có giá đã được chấp
nhận chiết khấu trong một thời hạn nhất định trước khi nó đến hạn
thanh toán với giá cả do các bên thỏa thuận trước. Thời hạn này
được gọi là thời hạn chiết khấu.
Theo khoản 4 Điều 3 Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu, thời
hạn chiết khấu là khoảng thời gian tính từ ngày giấy tờ có giá được
tổ chức tín dụng nhận chiết khấu đến ngày khách hàng có nghĩa vụ
thực hiện cam kết mua lại giấy tờ có giá đó.
Như vậy, theo điểm b khoản 2 Điều 8 Quy chế chiết khấu, tái
chiết khấu, tổ chức tín dụng chỉ trở thành chủ sở hữu hợp pháp đối
với các giấy tờ có giá khi hết thời hạn cam kết trong hợp đồng mà
khách hàng không thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá đó.
Nếu tổ chức tín dụng muốn chuyển giao các giấy tờ có giá đó trong
thời hạn chiết khấu thì quyền ưu tiên mua sẽ thuộc về khách hàng,
sau đó đến các tổ chức tín dụng khác.
Để phù hợp với bản chất của hoạt động chiết khấu giấy tờ có
giá, theo đó tổ chức tín dụng sẽ được quyền sở hữu các giấy tờ có

5


giá ngay sau khi khách hàng hoàn thành thủ tục chuyển nhượng
giấy tờ có giá đó cho mình. Việc này dẫn đến hệ quả: tổ chức tín
dụng có quyền định đoạt (trong đó có quyền chuyển nhượng giấy
tờ có giá đó cho người khác).
b. Căn cứ vào nội dung: Ngoài căn cứ vào phương thức thì
người ta còn căn cứ vào nội dung hợp đồng chiết khấu giấy tờ có
giá mà chia ra hợp đồng về thương phiếu, kì phiếu, tín phiếu, trái
phiếu…
Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng ngắn hạn
của ngân hàng thương mại được thực hiện dưới hình thức khách
hàng sẽ chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn
thanh toán cho ngân hàng để nhận một khoản tiền thấp hơn mệnh
giá của thương phiếu. Số tiền chênh lệch giữa mệnh giá thương
phiếu so với số tiền khách hàng nhận được gọi là lãi chiết khấu và
phí hoa hồng.
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu
thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền
xác định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu gồm có 2
loại là hối phiếu và lệnh phiếu.
+>Theo Pháp lệnh thương phiếu của Việt Nam, Hối phiếu là
chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát
thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu
hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ
hưởng. Trong thương mại hối phiếu do người xuất khẩu ký phát để
đòi tiền người trả tiền, có thể là người nhập khẩu hoặc ngân hàng
phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu.
+>Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người phát hành lập,

cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có
yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho
người thụ hưởng.
2. Cơ sở khoa học:
2.1 Cơ sở pháp lí về hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá:
Chiết khấu giấy tờ có là nghiệp vụ cấp tín dụng tương đối cổ
điển của tổ chức tín dụng . Nghiệp vụ này được các ngân hàng ở
Châu âu áp dụng lần đầu tiên vào thế kỉ thứ 13 mà đối tượng chiết
6


khấu lúc ấy chỉ là các phiếu nợ thương mại (thương phiếu) do các
thương nhân châu Âu phát hành nhằm xác nhận quan hệ mua bán
chịu hàng hóa giữa họ với nhau. Trải qua thời gian, nghiệp vụ chiết
khấu ngày càng phát triển với đối tượng chiết khấu ngày càng
phong phú, đa dạng hơn, không chỉ là các thương phiếu như thuở
sơ khai của nghiệp vụ này mà còn bao gồm cả các giấy tờ có khác
như tín phiếu hay các khoản cho vay ngắn hạn, thậm chí là cả giấy
tờ có giá dài hạn. Ở nhiều nước trên thế giới, nghiệp vụ chiết khấu
của các tổ chức tín dụng thường được qui định trong các đạo luật
về ngân hàng và sau đó có thể được Chính phủ và Ngân hàng
Trung ương qui định cụ thể bằng các văn bản dưới luật để thi hành.
Còn ở Việt nam, nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá tuy đã được
pháp luật thừa nhận bằng một số qui định chung trong Luật các tổ
chức tín dụng nhưng trên thực tế nghiệp vụ này vẫn chưa được các
tổ chức tín dụng triển khai áp dụng một cách triệt để.
Sự thật, trong một thời gian khá dài, các qui định về pháp
luật về loại hình giao dịch này tỏ ra quá ít ỏi, tản mát, chưa đầy đủ
và chưa nhất quán. Thực vậy, ngoài một vài điều khoản trong Luật
tổ chức tín dụng (khoản 14,15 điều 57) được sửa đổi bổ năm 2004

sung qui định trực tiếp hay gián tiếp về nghiệp vụ chiết khấu của tổ
chức tín dụng với các giấy tờ có giá của khách hàng, tại khoản 6
điều 15 Nghị định số 32/2001/ NĐ-CP ngày 05/07/2001 của Chính
phủ về việc hướng dẫn chi tiết thực hiện Pháp lệnh Thương phiếu
cũng có đề cập đến giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá là thương
phiếu nhưng cũng chỉ là những qui định có tính dẫn chiếu đến pháp
luật ngân hàng. Các qui định rất cơ bản trong các văn bản qui
phạm pháp luật này suy cho cùng cũng chỉ là thừa nhận tính hợp
pháp của các giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá của các tổ chức tín
dụng đối với khách hàng, thiếu những qui định về chủ thể cũng
như điều kiện của họ khi tham gia quan hệ chiết khấu giấy tờ có
giá, về trình tự thủ tục tại các ngân hàng. Cuối cùng, sau hơn 5
năm kể từ ngày Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành, cho
đến gần đây Ngân hàng nhà nước mới ban hành một văn bản riêng
để qui định cụ thể và chi tiết về qui chế pháp lí dành cho nghiệp vụ
chiết khấu của tổ chức tín dụng, đó là Qui chế chiết khấu giấy tờ
7


có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành kèm
theo Quyết định số 1325/2004/ QĐ-NHNN ngày 15/10/2004 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số
điểm bất cập như Qui chế không qui định việc chiết khấu thương
phiếu… Như vậy, việc chiết khấu thương phiếu được công nhận
trong Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín
dụng không có những qui định cụ thể để điều chỉnh trên thực tế.
Để khắc phục những điểm bất cập, năm 2005, Quốc hội ban hành
Luật các công cụ chuyển nhượng nhằm điều chỉnh các quan hệ
công cụ chuyển nhượng trong việc phát hành, chấp nhận, bảo lãnh,
chuyển nhượng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán, truy đòi, khởi kiện

đối với các công cụ chuyển nhượng trong đó có hối phiếu.Tuy
nhiên, cũng giống như Pháp lệnh thương phiếu ban hành năm
1999, Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005 cũng chỉ dừng
lại ở việc qui định các nguyên tắc chung về chuyển nhượng hối
phiếu chứ không có qui định riêng về việc chuyển nhượng hối
phiếu giữa khách hàng sở hữu hối phiếu với ngân hàng bằng
phương thức chiết khấu. Như vậy, tuy Qui chế chiết khấu giấy tờ
có giá vẫn còn một số điểm chưa hợp lí nhưng có thể nhận thấy
văn bản này đã giải quyết một số điểm bất cập liên quan đến pháp
luật điều chỉnh giao dịch chiết khấu của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng.
2.2 Cơ sở thực tiễn về hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá:
Hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá có vai trò quan trọng
trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.
+ Đối với tổ chức tín dụng:
- Nghiệp vụ chiết khấu có quy trình đơn giản, nhanh chóng,
tốn ít chi phí giao dịch cho các bên và đặc biệt là cho các tổ chức
tín dụng. Trong khi đó, hoạt động cho vau của tổ chức tín dụng
phải thẩm định hồ sơ xin vay của khách hàng với nhiều thao tác
phức tạp, nhất là việc thẩm định giá trị hoặc tính hợp pháp của tài
sản bảo đảm.
- Nghiệp vụ chiết khấu là nghiệp vụ hạn chế rủi ro tín dụng
cho tổ chức tín dụng. So với hoạt động cho vay, chiết khấu có sự
đảm bảo trả nợ từ người mắc nợ theo chứng từ và được đảm bảo từ
8


những người khác có liên quan tới chứng từ: người bảo lãnh, người
ký phạt, người chuyển nhượng chứng từ.
Đặc biệt, trường hợp đối tượng chiết khấu là hối phiếu thì

pháp luật về hối phiếu còn cho phép người thụ hưởng có quyền
truy đòi đối với những người liên đới trách nhiệm khác theo quy
định của pháp luật.
- Chiết khấu không làm đóng băng vốn của tổ chức tín dụng ,
tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng sử dụng vốn hiệu quả và
linh hoạt hơn nhờ khả năng chiết khấu lại (tái chiết khấu) các giấy
tờ có giá ở ngân hàng trung ương hoặc ngân hàng thương mại
khác. Sự ứng dụng vốn trong nghiệp vụ chiết khấu sẽ tạo ra tiền
gửi – nguồn vốn của ngân hàng. Khi thực hiện chiết khấu, số tiền
cấp cho khách hàng có thể được chuyển sang tài khoản tiền gửi của
khách hàng mà không rút ngay bằng tiền mặt. Số tiền gửi này có
thể chưa sử dụng ngay toàn bộ, từ đó tạo nguồn vốn mới cho ngân
hàng để cho vay
+ Đối với khách hàng: Hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá
đem lại cho họ những lợi ích sau:
- Khách hàng có thể sử dụng kỹ thuật chiết khấu như một
hình thức lưu hoạt hóa nguồn vốn kinh doanh của mình, ngay cả
khi họ có nhu cầu thu hồi vốn tức thì nhưng không thể đòi tiền
trước hạn từ người mắc nợ. Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố
cạnh tranh dẫn đến sự hình thành các thỏa thuận về việc bán chịu
hàng hóa có thời hạn trả tiền cho nên người có hối phiếu, lệnh
phiếu chưa đến hạn thanh toán nhưng lại cần tiền.
Vì vậy, chiết khấu sẽ giải quyết được mâu thuẫn này, biến
các khoản nợ thành tiền, giúp khách hàng kịp thời giải quyết nhu
cầu về vốn, từ đó để người mua thực hiện hoạt động kinh doanh
của mình và có khả năng thanh toán nợ cho khách hàng.
- Trong quan hệ chiết khấu, người xin chiết khấu không bị
ràng buộc với nghĩa vụ sử dụng vốn đúng mục đích. Khách hàng
muốn sử dụng khoản tiền do NH trả cho việc bán chứng từ có giá
vào mục đích nào, việc đó do họ quyết định và đó là ưu thế của kỹ

thuật chiết khấu so với hình thức vay vốn của tổ chức tín dụng.

9


Trong nghiệp vụ cho vay, khách hàng vay thì phải sử dụng vốn
vay đúng mục đích như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
II. Đặc điểm, trình tự kí kết và thực hiện hợp đồng chiết
khấu giấy tờ có giá:
1. Đặc điểm của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá:
1.1. Đặc điểm chung:
Xét từ góc độ pháp lí, hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của
tổ chức tín dụng có bản chất là một hợp đồng mua bán giấy tờ có
giá, nên hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá có những đặc điểm
chung của một hợp đồng mua bán dân sự thông thường đó là:
- Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá là hợp đồng song vụ
- Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá là hợp đồng có đền bù.
- Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá là hợp đồng nhằm mục
đích chuyển giao quyền sở hữu đối với giấy tờ có giá từ bên bán
sang bên mua.
1.2. Đặc điểm riêng:
Về chủ thể: Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá có một bên
chủ thể là tổ chức tín dụng – bên nhận chiết khấu, bên kia là tổ
chức, cá nhân – bên đề nghị chiết khấu. Các bên chủ thể phải thỏa
mãn những điều kiện do pháp luật quy định.
Về đối tượng: Đối tượng của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có
giá là các GTCG chưa đến thời hạn thanh toán được các bên thỏa
thuận mua bán và ghi rõ trong hợp đồng. Cái mà các bên hướng tới
là trái quyền (quyền đòi nợ) của người sở hữu các GTCG đó đối
với người thụ trái (người phải trả) khi GTCG đến hạn thanh toán.

Về hình thức pháp lý: Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá
HĐCKGTCG phải được lập thành văn bản.
Về cơ chế thực hiện quyền & nghĩa vụ: Trong hợp đồng chiết
khấu giấy tờ có giá, nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu các giấy tờ
có giá của khách hàng cho tổ chức tín dụng bao giờ cũng được
thực hiện trước, sau đó tổ chức tín dụng trả một số tiền cho khách
hàng bằng tiền mặt hoặc chuyển sang tài khoản tiền gửi của họ.
Kể từ thời điểm được chuyển giao quyền sở hữu đối với giấy
tờ có giá, tổ chức tín dụng chính thức được thế vào vị trí của người
có quyền – khách hàng để thực hiện quyền yêu cầu – quyền đòi
10


tiền đối với người có nghĩa vụ phải thanh toán cho giấy tờ có giá,
khi nó đến hạn thanh toán.
Tùy từng loại giấy tờ có giá mà xác định người trả tiền là ai,
có thể là: người phát hành, người bị ký phát, người chuyển
nhượng, người bảo lãnh.
1.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng
chiết khấu giấy tờ có giá:
1.3.1 Quyền và nghĩa vụ của bên nhận chiết khấ:.
Do bên nhận chiết khấu vừa đóng vai trò là người cho vay,
vừa có tư cách là người mua giấy tờ có giá nên cấu trúc quyền và
nghĩa vụ của chủ thể này sẽ bao gồm:
Thứ nhất, tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu khách hàng phải
làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá được chiết
khấu cho tổ chức tín dụng theo đúng trình tự luật định đối với từng
loại giấy tờ có giá. Quyền năng này nhằm đảm bảo cho tổ chức tín
dụng thiết lập được quyền chủ nợ đối với người thứ ba – người
mắc nợ theo giấy tờ có giá để sau đó đòi tiền từ người này khi giấy

tờ có giá đến hạn thanh toán.
Thứ hai, tổ chức tín dụng phải thanh toán tiền mua giấy tờ có
giá cho người bán là khách hàng mà hai bên đã thỏa thuận trong
hợp đồng chiết khấu (chẳng hạn như chuyển tiền vào tài khoản tiền
gửi cho khách hàng, trả bằng tiền mặt hay phát hành séc giao cho
khách hàng là người thụ hưởng…), sau khi đã khấu trừ phần lợi
tức triết khấu và các khoản phí dịch vụ khác theo thỏa thuận trong
hợp đồng chiết khấu.
Thứ ba, tổ chức tín dụng có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại vật
chất đã xảy ra cho khách hàng do hành vi có lỗi của mình gây ra
trong khi thực hiện hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên được chiết khấu:
Chủ thể này có nghĩa vụ phải chuyển giao quyền sở hữu giấy
tờ có giá cho tổ chức tín dụng để nhận được tiền bán giấy tờ có giá
do phía tổ chức tín dụng thanh toán. Kể từ khi chuyển giao xong
quyền sở hữu giấy tờ có giá cho tổ chức tín dụng, khách hàng được
xem như đã giải thoát khỏi mấy quan hệ pháp lí ràng buộc với món
nợ ghi trên giấy tờ có giá, trừ trường hợp đối tượng chiết khấu là
11


hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ thì khách hàng vẫn có thể bị
truy đòi bởi tổ chức tín dụng theo các quy định của pháp luật về
công cụ chuyển nhượng.
Mặt khác, khách hàng cũng có quyền yêu cầu bên nhận chiết
khấu trả tiền mua giấy tờ có giá theo giá cả thỏa thuận trong hợp
đồng chiết khấu; quyền khiếu nại và khởi kiện với bên nhận chiết
khấu về các hành vi vi phạm hợp đồng của chủ thể này để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước pháp luật.
2. Kí kết và thực hiện hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá:

2.1. Kí kết hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá:
Quá trình kí kết hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá vừa thể
hiện những đặc điểm chung của việc kí kết một hợp đồng mua bán
thông thường, đồng thời cũng phản ánh những đặc điểm riêng có
tính chất kĩ thuật nghiệp vụ của quan hệ chiết khấu giấy tờ có giá.
Theo nguyên lí thông thường, sự bày tỏ ý chí của các bên
trong quá trình kí kết hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá bao gồm
các giai đoạn sau đây:
- Đề nghị giao kết hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng có thể là khách hàng
hoặc tổ chức tín dụng. Trong thực tiễn pháp lí, bên đưa ra lời đề
nghị giao kết hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá thường là khách
hàng mà bằng chứng là hành vi gửi đến tổ chức tín dụng bộ hồ sơ
xin chiết khấu, tái chiết khấu gồm các tài liệu như đơn xin chiết
khấu, bảng kê giấy tờ có giá kèm theo, bản gốc các giấy tờ có giá
xin chiết khấu; các giấy tờ khác chứng minh năng lực chủ thể của
người xin chiết khấu…
Trên nguyên tắc, tùy thuộc vào các tài liệu giao dịch trong hồ
sơ xin chiết khấu có hội đủ các điều khoản chủ yếu của hợp đồng
cần giao kết là hợp đồng chiết khấu hay không mà người ta có thể
khẳng định cá tài liệu giao dịch đó sẽ được xem như là bản đề nghị
hợp đồng chiết khấu và có giá trị ràng buộc đối với bên đưa ra đề
nghị là khách hàng xin chiết khấu hay không. Thông thường, một
lời đề nghị sẽ có giá trị bắt buộc đối với khách hàng nếu như nó thể
hiện ý chí tự nguyện của khách hàng, trong hồ sơ xin chiết khấu có
đầy đủ những nội dung như xác định đối tượng bán (tức là các giấy
12


tờ có giá xin chiết khấu), số lượng cá giấy tờ đó (có kèm theo danh

sách), phương thức thanh toán. Đề nghị giao kết hợp đồng có thể
được thay đổi nội dung hoặc rút lại trong những trường hợp sau:
1. Trong lời đề nghị đó nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc
rút lại.
2. Bên được đề nghị chưa nhận được lời đề nghị.
3. Bên được đề nghị nhận được lời đề nghị nhưng chưa có
quyết định cuối cùng về việc chấp nhận chiết khấu hay không.
Trong trường hợp tổ chức tín dụng không chấp nhận vô điều
kiện việc chiết khấu giấy tờ có giá mà sửa đổi bổ sung hồ sơ xin
chiết khấu thì hình thành một lời đề nghị giao kết hợp đồng mới.
Lúc này, tổ chức tín dụng sẽ trở thành bên đưa ra lời đề nghị giao
kết hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
- Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chiết khấu giấy tờ có
giá.
Sau khi nhận được bộ hồ sơ xin chiết khấu do khách hàng gửi
đến, tổ chức tín dụng tiến hành thẩm định các điều kiện của giấy tờ
có giá được chiết khấu. Công việc này được thực hiện thông qua
hành vi thẩm định của các nhân viên ngân hàng chuyên nghiệp mà
kết quả cuối cùng của giai đoạn thẩm định là cho ra đời một báo
cáo kết quả thẩm định. Bản báo cáo này được trình lên người đại
diện có thẩm quyền của pháp nhân tổ chức tín dụng (chẳng hạn
như Chủ tịch Hội đồng quản trị, tổng giám đốc hay giám đốc chi
nhánh được ủy quyền) và người đại diện này sẽ quyết định việc
chấp nhận hoặc từ chối chiết khấu.
Thông thường, hành vi chấp nhận đề nghị hợp đồng chiết
khấu sẽ được thực hiện bằng việc tổ chức tín dụng lập bảng kê
danh mục các giấy tờ có giá được chiết khấu và gửi cho khách
hàng, trong đó ghi rõ tổng số tiền được chiết khấu, số tiền bị tổ
chức tín dụng khấu trừ và số tiền còn lại mà khách hàng sẽ được
hưởng.

Về nguyên tắc, tổ chức tín dụng phải có trách nhiệm đối với
lời chấp nhận đề nghị giao kết kể từ thời điểm gửi đi bảng danh
mục giấy tờ có giá được chiết khấu. Trong trường hợp từ chối chiết
khấu thì tổ chức tín dụng phải hoàn trả lại cho khách hàng những
13


giấy tờ có giá không được chiết khấu kèm theo văn bản trả lời có
ghi rõ lí do từ chối chiết khấu.
- Thời điểm xác lập hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Kể từ thời điểm văn bản chấp nhận đề nghị chiết khấu được
tổ chức tín dụng gửi đi, có thể xem như hợp đồng chiết khấu giấy
tờ có giá đã hình thành và phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lí
cho các bên tham gia giao dịch.
2.2. Thực hiện hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá:
Thực hiện hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá là giai đoạn kế
tiếp theo sau khi hợp đồng này được kí kết và phát sinh hiệu lực
pháp lí. Việc thực hiện hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá thường
được hiểu đồng nghĩa với việc các bên thực hiện những quyền và
nghĩa vụ của họ đã phát sinh từ hợp đồng. Điều đó cũng có nghĩa
là chỉ khi nào các bên đã thực hiện xong các quyền và nghĩa vụ của
họ thì khi đó hợp đồng chiết khấu hợp đồng chiết khấu giấy tờ có
giá mới được coi là thực hiện xong và do đó hợp đồng cũng được
xem là chấm dứt hiệu lực pháp lí.
Theo qui định của pháp luật hiện hành, việc thực hiện chiết
khấu giấy tờ có giá bao gồm những hành vi pháp lí chủ yếu sau
đây:
Khách hàng làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu các giấy
tờ có giá được chấp thuận chiết khấu cho tổ chức tín dụng. Theo
quy định của pháp luật, tùy thuộc vào loại giấy tờ có giá mà thủ tục

chuyển nhượng có thể khác nhau. Chằng hạn, đối với các giấy tờ
có giá có ghi tên người sở hữu thì việc chuyển nhượng bắt buộc
phải tuân theo các các thủ tục chặt chẽ do pháp luật qui định. Còn
đối với những giấy tờ có giá không ghi tên người sở hữu thì việc
chuyển nhượng có thể đơn giản hơn rất nhiều và cách chuyển
nhượng thông thường là trao tay trực tiếp cho người được chuyển
nhượng.
Riêng đối với việc chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ và hối
phiếu nhận nợ thì phải tuân theo các qui định đặc thù của Luật các
công cụ chuyển nhượng (năm 2005). Cụ thể, theo luật công cụ
chuyển nhượng thì việc chuyển nhượng hối phiếu phải là chuyển
nhượng toàn bộ số tiền ghi trên hối phiếu. Việc chuyển nhượng
14


một phần số tiền ghi trên hối phiếu hoặc chuyển nhượng hai người
trở lên là không có giá trị. Việc chuyển nhượng hối phiếu bao giờ
cũng là sự chuyển nhượng tất cả các quyền phát sinh từ hối phiếu
và bên chuyển nhượng không được phép đưa ra bất kì điều kiện
nào kèm theo việc chuyển nhượng (còn gọi là chuyển nhượng vô
điều kiện).
Tóm lại, kể từ khi khách hàng hoàn thành thủ tục chuyển
nhượng quyền sở hữu các giấy tờ có giá (trong đó có hối phiếu), tổ
chức tín dụng trở thành chủ sở hữu hợp pháp của các giấy tờ có giá
đó và được hưởng toàn bộ các quyền phát sinh từ giấy tờ có giá đó.
- Trên cơ sở các giấy tờ có giá đã được chuyển nhượng, tổ
chức tín dụng trả số tiền còn lại mà khách hàng được hưởng vào tài
khoản tiền của họ ở tổ chức tín dụng hoặc trả bằng tiền mặt hay
bằng séc theo yêu cầu của khách hàng.
- Khi đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá được chiết khấu,

tổ chức tín dụng xuất trình giấy tờ có giá một cách hợp lệ để đòi
tiền người mắc nợ theo giấy tờ có giá. Trong trường hợp giấy tờ có
giá không được thanh toán bởi người mắc nợ theo giấy tờ có giá
thì tổ chức tín dụng có quyền khiếu nại và khởi kiện chính người
mắc nợ đó và những người khác có nghĩa vụ liên đới với món nợ
trên giấy tờ có giá (nếu có) tại một cơ quan tài phán có thẩm quyền
theo luật định.
Riêng đối với hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ, nếu tổ
chức tín dụng (với tư cách là người sở hữu) đã xuất trình hợp lệ mà
vẫn không được thanh toán thì tổ chức tín dụng có quyền quay lại
truy đòi người xin chiết khấu và tất cả những người khác đã từng
đứng tên sở hữu hối phiếu hoặc đứng tên bảo lãnh trên hối phiếu.
Theo điều 49, 50 Luật các công cụ chuyển nhượng, trong trường
hợp hối phiếu bị từ chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán, tổ
chức tín dụng – với tư cách là người thụ hưởng phải thông báo
bằng văn bản cho người kí phát, người chuyển nhượng về việc từ
chối đó. Tổ chức tín dụng phải thông báo về việc hối phiếu bị từ
chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán trong thời hạn 4 ngày, kể
từ ngày bị từ chối.

15


III. Những hạn chế và một số kiến nghị để hoàn thiện về
pháp luật hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá:
1. Những hạn chế về hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Có thể khẳng định rằng sự ra đời của Qui chế chiết khấu giấy
tờ có giá của tổ chức tín dụng với khách hàng ban hành kèm theo
quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN của Ngân hàng nhà nước
đóng vai trò to lớn tạo ra khung pháp lí cho hoạt động về hợp đồng

chiết khấu giấy tờ có giá ở các tổ chức tín dụng. Những qui định
tại Qui chế này đã phần nào cụ thể hóa những nguyên tắc và những
qui định chung còn rất ít ỏi trong Luật các Tổ chức tín dụng về
hoạt động giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá nói chung và hợp
đồng chiết khấu giấy tờ có giá nói riêng ở các tổ chức tín dụng, tạo
điều kiện cho hoạt đọng này được triển khai và thực hiện trong
thực tế kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
Ở mức độ nhất định, văn bản qui phạm pháp luật này đã có
những qui định mới, tiến bộ, tập trung giải quyết được một số vấn
đề còn bất cập trong pháp luật điều chỉnh trong giao dịch cũng như
trong hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng với
khách hàng như: quy định về đối tượng hợp đồng trong nghiệp vụ
chiết khấu của tổ chức tín dụng đối với khách hàng; qui định về
điều kiện tham gia hợp đồng; các qui định về trình tự, thủ tục chiết
khấu; qui định về giới hạn an toàn trong hoạt động chiết khấu giấy
tờ có giá của tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, ngoài những điểm tích cực nêu trên, pháp luật nói
chung về qui chế chiết khấu hiện hành nói riêng vẫn còn thể hiện
một số điểm bất cập như sau:
- Thứ nhất, qui chế chiết khấu không qui định việc chiết khấu
giấy tờ có giá là hối phiếu (bao gồm hối phiếu đòi nợ và hối phiếu
nhận nợ). Trong khi đó, pháp luật về hối phiếu và điển hình là Luật
các công cụ chuyển nhượng năm 2005 cũng không hề có qui định
chi tiết về hoạt động này mà chỉ dừng lại ở việc dẫn chiếu ngược
trở lại với pháp luật ngân hàng. Rõ ràng tình trạng này cho thấy sự
“thiếu vắng” các qui định về chiết khấu hối phiếu hay nói cách
khác là sự “bỏ sót” đối tượng chiết khấu là hối phiếu trong qui chế
chiết khấu hiện hành. Tình trạng bất hợp lí này chắc chắn sẽ gây ra
16



rất nhiều khó khăn cho tổ chức tín dụng và khách hàng khi trong
thực tế họ có nhu cầu xác lập hợp đồng chiết khấu hối phiếu nhưng
không hề có cơ sở pháp lí trực tiếp để xác lập và thực hiện hợp
đồng đó.
- Thứ hai, tại khoản 2 – Điều 2 Qui chế chiết khấu giấy tờ có
giá, người làm luật chỉ qui định có tính chất liệt kê những khách
hàng chiết khấu giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng chứ hoàn toàn
không qui định các điều kiện pháp lí cụ thể mà chủ thể này phải
thỏa mãn khi tham gia vào hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá ở
các tổ chức tín dụng. Vì lẽ đó, trên thực tế khi tiến hành nghiệp vụ
chiết khấu giấy tờ có giá, hầu hết các tổ chức tín dụng đều phải áp
dụng các qui định chung theo thông lệ và tập quán giao dịch về
điều kiện đối với khách hàng xin chiết khấu mà ngân hàng thương
mại ở các nước vẫn áp dụng. Sự thiếu vắng các qui định này tuy
không gây hậu quả nghiêm trọng nhưng rõ ràng có thể khiến cho
các tổ chức tín dụng và khách hàng bị lúng túng khi cần áp dụng
pháp luật Việt Nam để xác lập giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá.
- Thứ ba, tại điểm b khoản 2 Điều 8 của Qui chế chiết khấu
giấy tờ có giá có qui định rằng: “trường hợp hết thời hạn chiết
khấu mà khách hàng không qui định không thực hiện việc mua lại
giấy tờ có giá thì tổ chức tín dụng là chủ sở hữu hợp pháp và được
hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ giấy tờ có giá đó”.
Qui định này áp dụng trong phương thức chiết khấu có thời
hạn (tức là chiết khấu có điều khoản cam kết mua lại giấy tờ có giá
sau một khoảng thời gian nhất định). Với qui định này, có thể hiểu
rằng trong khoảng thời gian từ khi tổ chức tín dụng nhận chiết
khấu đến ngày khách hàng có nghĩa vụ thực hiện cam kết mua lại
giấy tờ có giá đó, tổ chức tín dụng không phải là chủ sở hữu hợp
pháp và không được hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ giấy tờ

có giá đó.
Như vậy, qui định này đã đặt tổ chức tín dụng và khách hàng
vào tình trạng pháp lí giống như quan hệ cho vay có bảo đảm bằng
biện pháp cầm cố giấy tờ có giá, trong đó tổ chức tín dụng chỉ cầm
giữ giấy tờ có giá của khách hàng như vật bảo đảm mà không hề
có quyền sở hữu đối với giấy tờ có giá.
17


Tính không hợp lí của qui định này thể hiện ở chỗ, nếu tổ
chức tín dụng không có được quyền sở hữu đối với giấy tờ có giá
kể từ khi được khách hàng chuyển giao thì họ “mua” giấy tờ có giá
đó để làm gì? Và những rủi ro vì không có được quyền sở hữu đó
sẽ được Nhà nước bảo đảm ra sao?
Hơn nữa, điều nghịch lí của qui định này còn thể hiện ở chỗ,
nếu tổ chức tín dụng không có quyền sở hữu đối với giấy tờ có giá
trong thời hạn chiết khấu thì làm sao họ có thể “bán lại” cho khách
hàng khi người này “mua lại” đúng như cam kết?
Bởi các lí lẽ phân tích trên đây, có thể khẳng định rằng qui
định này là không hợp lí và rõ ràng trái với bản chất của giao dịch
chiết khấu giấy tờ có giá – vố dĩ là một quan hệ mua bán giấy tờ có
giá.
- Thứ tư, qui chế chiết khấu hiện hành không hề có một điều
khoản nào đề cập đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp
đồng chiết khấu giấy tờ có giá. Sự thiếu vắng về các vấn đề này
tuy không ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng và số lượng
giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá nhưng rõ ràng đây là một thiếu
sót rất đáng kể của qui chế chiết khấu giấy tờ có giá.
2. Một số kiến nghị để hoàn thiện về pháp luật hợp đồng
chiết khấu giấy tờ có giá:

Trên cơ sở các nhận xét và đánh giá trên đây, em xin đề xuất
một số kiến nghị ban đầu nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng:
Một là, cần bổ sung đối tượng chiết khấu là hối phiếu vào
phạm vi điều chỉnh của Qui chế chiết khấu giấy tờ có giá hiện
hành. Việc bổ sung hối phiếu vào phạm vi của Qui chế này không
những đảm bảo tính thống nhất, toàn diện và đồng bộ của pháp
luật, mà còn góp phần tạo cơ sở pháp lí cụ thể cho việc xác lập
giữa việc giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng
với khách hàng.
Hai là, cần bổ sung qui định về các điều kiện pháp lí cụ thể
mà chủ thể này phải thỏa mãn khi tham gia vào giao dịch chiết
khấu giấy tờ có giá ở tổ chức tín dụng. Qui định này sẽ tránh cho
tổ chức tín dụng và khách hàng khỏi sự lung túng khi cần áp dụng
18


pháp luật Việt Nam để xác lập giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá,
đồng thời không bắt buộc họ phải áp dụng các qui định chung theo
thông lệ và tập quán giao dịch về điều kiện đối với khách hàng xin
chiết khấu mà ngân hàng thương mại ở các nước vẫn áp dụng.
Ba là, cần sửa đổi qui định tại Điểm b khoản 2 Điều 8 của
Qui chế chiết khấu giấy tờ có giá theo quan điểm coi tổ chức tín
dụng là chủ thể có quyền sở hữu kể từ thời điểm được khách hàng
– người bán chuyển giao giấy tờ có giá cho mình.
Theo hướng này có thể sửa đổi, bổ sung qui định trên như
sau: “trường hợp hết thời hạn chiết khấu mà khách hàng không
thực hiện việc mua lại giấy tờ có giá thì do đó họ mất quyền ưu
tiên mua lại và tổ chức tín dụng có quyền bán lại cá giấy tờ có giá
đó cho bất kì ai muốn mua, với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp của

giấy tờ có giá đó”.
Bốn là, cần bổ sung vào qui chế chiết khấu giấy tờ có giá
những qui định về quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
chiết khấu giấy tờ có giá.
Việc qui định về quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể có ý
nghĩa giúp cho họ biết được phạm vi giới hạn cụ thể những gì
mình được làm, được pháp luật bảo vệ cũng như những gì bị cấm
hoặc hạn chế. Như thế các chủ thể sẽ yên tâm hơn khi tham gia vào
giao dịch này bởi lẽ sự thiếu vắng các qui định này sẽ làm giảm
tính chặt chẽ trong việc tham gia hoạt động chiết khấu giấy tờ có
giá, gây khó khăn trong việc xác định đâu là hành vi vi phạm và
chế tài khi có hành vi vi phạm xảy ra.

19


C/ KẾT LUẬN:
Kết thúc bài viết, em xin nêu lên một số kết luận chung qua
việc nghiên cứu đề tài “các loại hợp đồng chiết khấu giấy tờ có
giá” như sau:
1/ Chiết khấu giấy tờ có giá vừa tồn tại với tư cách là một
hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng, lại vừa là một giao dịch
thương mại mà biểu hiện ra dưới hình thức pháp lí là hợp đồng
chiết khấu giấy tờ có giá (mua bán giấy tờ có giá). Do vậy, chiết
khấu vừa mang những nét đặc riêng của nghiệp vụ tín dụng ngân
hàng, vừa chứa đựng những nét đặc thù của một quan hệ mua bán
trong thương mại mà đối tượng là các giấy tờ có giá.
2/ Giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá được xác lập và thực
hiện giữa tổ chức tín dụng với khách hàng thông qua hình thức
pháp lí là hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá. Hợp đồng chiết khấu

giấy tờ có giá là thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng với
khách hàng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết mua giấy tờ có giá
của khách hàng trước hạn thanh toán, với điều kiện khấu trừ ngay
một số tiền nhất định tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên mệnh giá
của giấy tờ có giá được chiết khấu, tái chiết khấu trong thời gian
chiết khấu.
3/ Hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng chiết khấu giấy tờ
có giá của tổ chức tín dụng với khách hàng ngày càng được hoàn
thiện, tuy vậy vẫn còn những điểm còn tồn tại cần được khắc phục
và cần đưa ra những giải pháp tạo ra môi trường pháp lí minh
bạch, rõ ràng hơn trong giao dịch này.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, trường Đại học Luật
Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2008.
2. Nguyễn Thị Nhung - Khóa luận tốt nghiệp đề tài: Điều
chỉnh pháp luật đối với hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của tổ
chức tín dụng ở Việt Nam, năm 2006.
3. Luật các Tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX.
4. Luật Ngân hàng Việt Nam số 06/1997/QHX.
5. Nghị định số 32/2001/ NĐ-CP ngày 05/07/2001 của Chính
phủ về việc hướng dẫn chi tiết thực hiện Pháp lệnh Thương phiếu.
6. Quyết định số 1325/2004/ QĐ-NHNN ngày 15/10/2004
của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc ban hành Qui chế
chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối
với khách hàng.
7. Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005.


21



×