Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Các loại hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.99 KB, 9 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động không thể thiếu cho nên kinh tế của một đất nước và có sự
ảnh hưởng to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống con người. Bản thân hoạt động này luôn tiềm ẩn những
rủi ro, đặc biệt đối với các Tổ chức tín dụng, Nhà nước luôn có những chính sách ưu đãi và đảm bảo cho
các loại hình này được giảm thiểu rủi ro và cân bằng vốn lưu động trong ngày, nâng cao khả năng thanh
toán. Hiện pháp luật Ngân hàng Việt Nam qui định không chỉ riêng Ngân hàng Nhà nước mà các tổ chức
tín dụng cũng được phép thực hiện các hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá. Hiện nay vai trò của hoạt động
này ngày càng được thể hiện rõ nét. Bản thân nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá là một nghiệp vụ có qui
trình đơn giản nhanh chóng và tốn ít chi phí giao dịch cho các bên, đồng thời nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ
có giá là một hoạt động hạn chế rủi ro cho các tổ chức pháp nhân thực hiện các hoạt động ngân hàng,
hoạt động này không những không làm đóng băng vốn của các ngân hàng mà còn giúp các ngân hàng sử
dụng có hiệu quả và linh hoạt hơn nguồn vốn của mình. Hơn nữa sự cung ứng vồn trong hoạt động chiết
khấu sẽ tạo ra nguồn tiền gửi- một nguồn vốn mới cho khách hàng để cho vay, đây chính là lí do mà các
ngân hàng hoặc các tổ chức có hoạt động ngân hàng rất chú trọng thực hiện hoạt động chiết khấu giấy tờ
có giá hơn các kỹ thuật tín dụng khác. Đồng thời đối với bên được chiết khấu cũng nhận được những lợi
ích rõ ràng khi tham gia vào hoạt động này. Quyền lợi mà bên nhận chiết khấu có thể nhận được từ hoạt
động này đó là họ có thể sư dụng hình thức chiết khấu giấy tờ có giá như một hình thức lưu hoạt hóa
nguồn vốn kinh doanh của mình, chiết khấu sẽ giúp họ có thể biến những khoản nợ trên giấy tờ thành tiền
trước thời hạn thanh toán, giúp họ giải quyết kịp thời nhu cầu vốn, đồng thời bên nhận chiết khấu không bị
ràng buộc bởi mục đích sử dụng số tiền chiết khấu như những hoạt động tín dụng khác. Như vậy hoạt
động chiết khấu giấy tờ có giá không những mang lại cho cả các bên tham gia chiết khấu những lợi ích
không thể phủ nhận được.
Hiện nay pháp luật ngân hàng cũng như pháp luật khác liên quan đã có những qui định khá cụ thể
và chi tiết về qui chế thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, đặc biệt là việc ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2010 và Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì đã kịp thời khắc phục, bổ sung những hạn
chế của các qui định của pháp luật cũ. Hiện pháp luật có qui định về hình thức của hoạt động chiết khấu
giấy tờ có giá là phải bằng hợp đồng và thể hiện bằng văn bản nhưng hiện vẫn chưa có một qui định cu
thể nào về các loại hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá. Bài luận của em dưới đây sẽ đi vào phân tích, làm
rõ vấn đề “Các loại hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá”.
I ) KHÁI QUÁT CHUNG.
1. Chiết khấu giấy tờ có giá .


Theo qui định tại khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 thì : “ giấy tờ có giá
là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có
giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và điều kiện khác”. Theo
qui định trên ta thấy giấy tờ có giá thực chất là một chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận
quyền tài sản của một chủ thể nhất định (tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể
khác và trong đó có ghi nhận rõ về điều kiện trả lãi cũng như nghĩa vụ trả nợ của hai bên với nhau. Giấy tờ
có giá bao gồm cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, công trái, sổ tiết kiệm.. Như ta
đã biết theo pháp luật Việt Nam thì chủ thể có quyền phát hành giấy tờ có giá đó là Ngân hàng Nhà nước
và các Tổ chức tín dụng, do đó việc chiết khấu giấy tờ có giá cũng như hợp đồng chiết khấu ở các chủ thể
khác nhau cũng sẽ mang những màu sắc, đặc trưng riêng và khi xem xét về hoạt động này chúng ta sẽ
xem xét dưới sự ảnh hưởng của cả hai qui định của hai chủ thể trên.
Theo qui định tại khoản 19 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “ Chiết khấu là việc mua
có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người
thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán”. Các công cụ chuyển nhượng được nhắc đến trong điều luật trên
bao gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc.. Hiện trong lĩnh vực ngân hàng thì hoạt động chiết
khấu giấy tờ có giá thường được biết đến với hai loại hình nghiệp vụ có mục đích khác nhau, do hai chủ
thể trên tiến hành, đó là: nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá do ngân hàng Nhà nước thực
hiện với khách hàng tổ chức tín dụng và chủ thể thứ hai đó là nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ
có giá do tổ chức tín dụng thực hiện đối với khách hàng là tổ chức, cá nhân. Trong hai loại hoạt động này
có những sự khác biệt khá cơ bản, đó là: đối với ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái
chiết khấu giấy tờ có giá với mục đích nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia là nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia, còn hính thức còn lại tức là hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ
chức tín dụng với các khách hàng là tổ chức, cá nhân là nhằm mục tiêu kinh doanh thu lợi nhuận. Từ nhận
định trên em nhận thấy loại hình thứ hai sẽ có số lượng lơn hơn và nhu cầu cao hơn do chủ thể thông
thoáng hơn, và các trình tự thủ tục có phần đơn giản hơn trên thực tế. Do đó trong bài này em sẽ chủ yếu
dựa trên các qui định của Tổ chức tín dụng về Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá để giải quyết vấn đề.
Hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá là một hoạt động cấp tín dụng vì bên nhận chiết khấu sẽ phải
ứng trước một khoản tiền để thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và chỉ thu hồi được sau một khoảng thời gian
nhất định, đồng thời nghiệp vụ chiết khấu phải dựa trên sự tín nhiệm của khách hàng, và mọi hoạt động
trong lĩnh vực này đều chịu sự điều chỉnh của phap luật ngân hàng, ngoài ra việc thực hiện chiết khấu chỉ

dựa chủ yếu trên cơ sở nguồn vốn là tiền gửi( đối với các tổ chức tín dụng) hoặc ngân sách Nhà nước
( đối với Ngân hàng Nhà nước).
Đối tượng của chiết khấu giấy tờ có giá là những giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán, và lưu ý
giá bán của các giấy tờ có giá bao giờ cũng thấp hơn giá trị của giấy tờ có giá được mua.
Đồng thời theo qui định trong cả Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 và Luật các Tổ
chức tín dụng thì việc chiết khấu giấy tờ có giá đều phải thể hiện dưới hính thức văn bản và phải thực
hiện dưới hình thức hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá. Mọi hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của các
chủ thể trên đều phải tuân theo những nguyên tắc chung của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá và chịu
sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng.
2. Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá
2.1.Khái niệm về Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Hiện nay hiện chưa có một văn bản pháp lí nào qui định cụ thể “thế nào là hợp đồng chiêt khấu giấy
tờ có giá” nhưng xuất phát từ những đặc trưng chung của hợp đồng cũng như bản chất của hoạt động
chiết khấu giấy tờ có giá mà em sẽ khái quát thành một khái niệm bao quát như sau: Hợp đồng chiết khấu
giấy tờ có giá là là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên nhận chiết khấu( ngân hàng nhà nước hoặc tổ
chức tín dụng) với khách hàng có nhu cầu chiết khấu ( tổ chức tín dụng hoặc các cá nhân tổ chức) mà
theo đó bên nhận chiết khấu đã thỏa thuận sẽ mua giấy tờ có giá của bên khách hàng trước kỳ hạn thanh
toán với điều kiện khấu trừ ngay một số tiền nhất định tính theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ
có giá được chiết khấu, tái chiết khấu trong thời gian chiết khấu, tái chiết khấu.
Dựa trên định nghĩa trên thì ta nhận thấy bản chất của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá khá giống
nhưng không phải là hợp đồng tín dụng nếu xét về phương diện kinh tế cũng như pháp lí. Có điều trên vì
ta thấy hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá là hợp đồng được tồn tại trên cơ sở nhu cầu cấp tín dụng cho
khách hàng có nhu cầu nhưng thực tế hợp đồng chiết khấu là hợp đồng phát sinh từ hoạt động chiết khấu
giấy tờ có giá của Tổ chức tín dụng nên bản chất pháp lí của nó là mua bán giấy tờ có giá hay nói thực tế
là mua bán các trái quyền dân sự, trong khi bản chất pháp lí cảu hợp đồng tín dụng đó là hợp đồng vay tài
sản.
Trong giao dịch này pháp luật qui định phải được xác lập bắt buộc do một bên nhận chiết khấu là tổ
chức được phép hoạt động ngân hàng với bên nhận chiết khấu là tổ chức, cá nhân có nhu cầu..pháp luật
qui định hợp đồng chiết khấu phải được lập bằng văn bản và có các nội dung, điều khoản phù hợp với các
qui định của pháp luật cũng như hợp đồng mẫu do Hiệp hội ngân hàng ban hành.

2.2. Đặc điểm của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
*) Về đối tượng của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Đối tượng chiết khấu giấy tờ có giá chính là những giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán. Như đã
nói ở trên giấy tờ có giá là chứng chỉ hoặc bút toán trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất
định với một chủ thể khác. Mà cụ thể theo Điều 5 Qui chế chiết khấu, tái chiết khấu hiện hành thì các giấy
tờ có giá còn thời hạn thanh toán bao gồm giấy tờ có giá do ngân hàng nhà nước hoặc tổ chức tín dụng
phát hành ( tùy thuộc vào chủ thể cấp tín dụng), các loại tín phiếu được phát hành theo qui định của Chính
phủ, các loại trái phiếu được phát hành theo qui định của Chính phủ như tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho
bạc, trái phiếu công trình trung ương, công trái xây dựng tổ quốc…ngoài ra còn bao gồm các tín phiếu, kỳ
phiếu, trái phiếu do tổ chức khác phát hành. Tuy nhiên trong vấn đề này cần lưu ý là đối với các hợp đồng
chiết khấu mà bên cung ứng tín dụng tức bên nhận chiết khấu là Tổ chức tín dụng thì đối tượng của hợp
đồng lúc này là các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán ngắn hạn (dưới 1 năm)mới có thể là đối tượng
của chiết khấu của Tổ chức tín dụng. Có sự khác biệt này là do nghiệp vụ tín dụng là một hoạt động có tỷ
lệ rủi ro cao của Tổ chức tín dụng do đó nhằm tránh những rủi ro không đáng có pháp luật đã hạn chế
phần nào phạm vi của đối tượng giấy tờ có giá được chiết khấu của Tổ chức tín dụng. Ở Ngân hàng Nhà
nước thì không có sự hạn chế này là do mục đích của hoạt động này là nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia và tái cấp vốn cho đối tượng chính là Tổ chức tín dụng do đó không đặt ra khái niệm “khả năng
rủi ro” ra ở đây.
Giấy tờ có giá này phải thỏa mãn các qui định của pháp luật, cụ thể: giấy tờ có giá đó phải thuộc
quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng có nhu cầu chiết khấu, giấy tờ có giá đó phải chưa đến hạn thanh
toán, nó phải dược phép giao dịch và phải được thanh toán theo qui định của chức phát hành, phù hợp về
nội dung, nguyên vẹn về hình thức và khả năng thanh toán khi giấy tờ có giá đáo hạn phải được đảm bảo.
*) Hình thức của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Theo qui định tại Khoản 4 Điều 11 Qui chế chiết khấu, tái chiết khấu hiện hành ta nhận thấy tất cả
các thỏa thuận giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng đều phải lập thành văn bản- hay nói cách khác
văn bản sẽ là hình thức pháp lí duy nhất của hoạt động cấp tín dụng này, trong đó đặc biệt khuyến khích
việc thực hiện hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá bằng văn bản viết tay có con dấu riêng hợp pháp, điều
này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện cam kết về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, đồng
thời quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cũng sẽ đơn giản hơn.
2.3. Chủ thể của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.

Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá là hình thức pháp lí của hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá với
các thành phần là bên nhận chiết khấu và bên được chiết khâu.
Ta nhận thấy hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ
chức tín dụng là một hoạt động tái cấp vốn mà một đặc điểm chung của hai chủ thể này đó là đều là những
chủ thể có thẩm quyền chiêt khấu giấy tờ có giá, đều được thực hiện hoạt động ngân hàng một cách hợp
pháp. Đối với hoạt động này thì việc xác định tính hợp pháp về tư cách chủ thể sẽ đơn giản hơn nhiều so
với hoạt động cấp tín dụng của Tổ chức tín dụng với khách hàng. Sở dĩ có điều đó vì mọi hoạt động của
hai chủ thể này đều chịu sự chẽ của pháp luật ngân hàng do đó công tác quản lí là rất chặt chẽ nên thủ tục
để thực hiện hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá sẽ khá đơn giản. Trong hoạt động này thì bên nhận chiết
khấu (tức ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đương nhiên được quyền chiết khấu với mục đích thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia và tái cấp vốn; còn bên được chiết khấu (các tổ chức tín dụng) nhằm mục đích
hỗ trợ vốn ngắn hạn..
Đối với hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá giữa Tổ chức tín dụng với khách hàng thì chủ thể của
hợp đồng sẽ phức tạp hơn. Đối với bên nhận chiết khấu (tổ chức tín dụng) phải thảo mãn những điều kiện
nhất định do pháp luật qui định khi thực hiện hoạt động chiết khấu, mà cụ thể là những điều kiện sau:
+ Thứ nhất tổ chức tín dụng phải có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.
+ Thứ hai để được tiến hành hoạt động kinh doanh Tổ chức tín dụng phải có giấy chứng nhận đăng kí kinh
doanh nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá.
+ Thứ ba Tổ chức tín dụng phải có Điều lệ được Ngân hàng Nhà nước chuẩn y. Bản điều lệ cũng chính là
một trong những điều kiện pháp lí cơ bản phản ánh các yếu tố cấu thành năng lực pháp lí của Tổ chức tín
dụng khi hành nghề trong lĩnh vực ngân hàng.
+ Thứ tư, đòi hỏi Tổ chức tín dụng phải có người đại diện có thẩm quyền và hợp pháp.
Đối với bên được chiết khấu pháp luật cũng có những qui định riêng biệt như sau: Bên được chiết
khấu trong mối quan hệ tín dụng này là các tổ chức cá nhân có nhu cầu chiết khấu giấy tờ có gia của mình
tại tổ chức tín dụng, hiện nay khách hàng muốn được chiết khấu thì phải đáo ứng đầy đủ những điều kiện
sau: chủ thể xin chiết khấu phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, đồng thời giấy tơ có
giá phải có đủ tiêu chuẩn theo qui định của pháp luật.
2.4. Nội dung của Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Nói đến nội dung của Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá là nói đến những cam kết mà các bên đã
thỏa thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên khi thực hiện hợp đồng này, các cam kết đó chính

được thể hiện bằng các điều khoản trong hợp đồng, và sự thỏa thuận này phải đảm bảo dựa trên tinh thần
hợp pháp, bình đẳng và tự nguyện, có sự thống nhất ý chí của các bên và phải phù hợp với các qui định
của pháp luật.
Như trên chúng ta đã nói hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá về bản chất chính là hợp đồng mua bán
tài sản hay hợp đồng mua bán trái quyền dân sự. Hiện pháp luật nước ta cũng chưa có nhưng văn bản chi
tiết về nội dung của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá, nhưng chúng ta có thể dựa vào các điều khoản cơ
bản của hợp đồng mua bán tài san để xác định. Theo đó:
+ Điều khoản về chủ thể của Hợp đồng : Trong hợp đồng phải có ghi rõ, chi tiết bên nhận chiết khấu là tổ
chức tín dụng ( hoặc ngân hàng Nhà nước Việt Nam) có nêu rõ các thông tin cần thiết như trụ sở, tên, số
điện thoai… và bên được chiết khấu có ghi rõ là tổ chức, cá nhân nào, địa chỉ, người đại diện hợp pháp
+ Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong vấn đề này thì hợp đồng phải ghi rõ đối tượng của hợp đồng
là chiết khấu giấy tờ có giá, có kèm theo Bảng kê các loại giấy tờ có giá cùng với bản gốc giấy tờ có giá xin
chiết khấu.
+ Điều khoản về lãi suất chiết khấu phải ghi rõ về lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá với từng loại giấy tờ có
giá cụ thể, các chi phí khác, tổng mệnh giá được chiết khấu, số tiền lợi túc bị khấu trừ, tổng số tiền còn lại
của khách hàng. Lưu ý là lãi suất chiết khấu do hai bên tự thỏa thuận nhưng phải phù hợp với qui định của
Ngân hàng Nhà nước về lãi suất định hướng.
+ Điều khoản về phương thức thanh toán: tức là sự thỏa thuận qui định về phương thức chuyển tiền cho
khách hàng khi thực hiện chiết khấu là bằng tiền mặt hay tài khoản tiền gửi…
+ Điều khoản về phương thức giải quyết tranh chấp: Nội dung của điều khoản này nhằm xác định được
cách thức giải quyết khi có tranh chấp phát sinh, điều khoản này có thể có hoặc không, nếu không có thì
khi xảy ra tranh chấp sẽ được giải quyết theo qui định của pháp luật.
2.5 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
*) Bên nhận chiết khấu.
- Quyền của bên chiết khấu.
+ Bên chiết khấu có quyền yêu cầu khách hàng được chiết khấu chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá
của mình theo qui định của pháp luật về chuyển nhượng giấy tờ có giá.
+ Quyền được khấu trừ khoản lợi tức chiết khấu, lợi tức tái chiết khấu từ mệnh giá của giấy tờ có giá.
+ Quyền được truy đòi khoản nợ ghi trên giấy tờ có giá đối với người xin chiết khấu nếu giấy tờ có giá
không được thanh toán bởi người mắc nợ vào ngày đáo hạn.

- Nghĩa vụ của bên chiết khấu.
+ nghĩa vụ thanh toán khoản tiền mua giấy tờ có giá đưuọc chiết khấu cho khách hàng.
+ Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại vật chất đã xảy ra đối với khách hàng được chiết khấu khi có hành vi gây
thiệt hại do lỗi của bên nhận chiết khầu trong khi thực hiện hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
*) Bên được chiết khấu
- Quyền của bên được chiết khấu.
+ Quyền yêu cầu bên nhận chiết khấu giấy tờ có giá trả tiền mua giấy tờ có giá theo giá cả đã thỏa thuận
trong hợp đồng sau khi đã chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho bên nhận chiết khấu.
+ Quyền khiếu naị và khởi kiện đối với bên nhận chiết khấu về các hành vi vi phạm hợp đồng của chủ thể
này để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình..
+ Quyền được yêu cầu bên nhận chiết khấu bồi thường cho mình trong các trường hợp bên nhận chiết
khấu gây thiệt hại khi thực hiện hợp đồng.
- Nghĩa vụ của bên được chiết khấu.
+ Nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá được chiết khấu cho bên nhận chiết khấu theo qui
định của pháp luật.
+ Nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu hợp pháp của bên nhận chiết khấu.
2.6. Hiệu lực của hợp đồng.
Hiệu lực của hợp đồng này thường là thời điểm mà các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản hợp
đồng và bên sau cùng ký tên đóng dấu. Hợp đồng có thể coi là vô hiệu khi có sự vi phạm các qui định của
pháp luật. Hợp đồng chiết khấu bị coi là vô hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung và hình thức của hợp
đồng vi phạm các qui định của pháp luật, trái với hợp đồng mẫu của Hiệp hội ngân hàng ban hành và đạo
đức xã hội- đối với trường hợp này hiệu lực của hợp đồng không phát sinh từ thời điểm kí kết mà các bên
phục hồi lại hợp đồng theo đúng tình trạng ban đầu trước khi kí kết. Hợp đồng bị coi là vô hiệu tương đối
trong trường hợp khi chủ thể không có đủ năng lực hành vi dân sự hoặc hợp đồng được kí kết không tự
nguyện và đồng thuận giữa các bên kí kết. Hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu khi có yêu cầu của các bên và
cách xử lí cũng tương tự như trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu tuyệt đối.
II) Các loại hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá
Như trên đã nói chiết khấu giấy tờ có giá là một nghiệp vụ mua lại giấy tờ có giá từ người thụ hưởng
trước khi đến hạn thanh toán. Hoạt động chiết khấu này. Hoạt động chiết khấu mang lại những lợi ích khá
thực tế, cụ thể về phía bên được chiết khấu họ có thể chuyển đổi giấy tờ có giá thành tiền nhanh nhất, còn

về bên nhận chiết khấu hoạt động này sẽ mang lại lợi nhuận cho họ và cũng đồng thời tăng dự trữ thứ cấp
của ngân hàng. Hiện pháp luật qui định hình thức của hoạt đông chiết khấu giấy tờ có giá là hợp đồng
nhưng hiện trên thực tế vẫn chưa có một qui định nào của pháp luật có qui định rõ ràng về vấn đề có
những loại hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá nào. Dưới đây sẽ là một vài cách phân loại hợp đồng có giá
dựa trên một số tiêu chí khác nhau.
1) Căn cứ vào chủ thể của hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá
Nếu căn cứ vào chủ thể của hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá có thể phân hợp đồng chiết khấu
giấy tờ có giá thành hai loại sau: hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá giữa Ngân hàng Nhà nước với Tổ
chức tín dụng, thứ hai là hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá của Tổ chức tín dụng với khách hàng.
*) Đối với hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá giữa Ngân hàng Nhà nước và Tổ chức tín dụng là loại
hợp đồng được thực hiện nhằm mục đích Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và
tái cấp vốn giúp đỡ các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại trong việc giải quyết nguồn vốn lưu
thong, đặc biệt thông qua việc Ngân hàng Nhà nwuocs Việt Nam tiến hành mua vào các giấy tờ có giá từ
ngân hàng thương mại sẽ nhằm mục đích điều tiết lưu thông tiền tệ, điều tiết mối cung tiền cho lưu thông.
Đồng thời qua hoạt động này Ngân hàng Nhà nước còn thực hiện chức năng điều tiết mối cung tiền cho
lưu thông. Về phía bên nhận chiết khấu lại là Tổ chức tín dụng. Thực chất của hợp đồng chiết khấu giấy tờ
có giá này là việc các tổ chức tín dụng sử qdụng đến nguồn tín dụng tạm thời của ngân hàng Nhà nước để
nhằm giải quyết khả năng thanh toán trong ngày, cân bằng giữa các nhu cầu gửi và thanh toán của khách
hàng. Trong hợp đồng này thì cũng phải lập thành văn bản theo đúng qui định của pháp luật, các điều
khoản của hợp đồng cũng phải phù hợp với qui định của pháp luật, không được thực hiện thủ tục rút gọn
trong mọi trường hợp và phải phù hợp với mấu hợp đồng do Hiệp hội ngân hàng ban hành.
Về mặt chủ thể của hợp đồng này là đặc biệt do đều là những chủ thể có quyền thực hiện các hoạt
động ngân hàng tiền tệ. Đối với bên nhận chiết khấu( Ngân hàng Nhà nước) phải ghi rõ rõ các thông tin
cần thiết như trụ sở, tên, số điện thoai… và bên được chiết khấu có ghi rõ là tổ chức, tên, trụ sở và phải có
giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước cấp…và đơn xin chiết khấu giấy tờ
có giá theo mẫu của Hiệp hội ngân hàng ban hành.
Hợp đồng cần qui định rõ các điều khoản về đối tượng chiết khấu, lãi suất( nếu có), phương thức
thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển tài khoản..Đối với loại hợp đồng này do có sự đặc biệt về chủ thể
cũng như mục đích chiết khấu( không xuất phát vì mục đích lợi nhuận) nên có thể điều khoản về phương
thức giải quyết tranh chấp và lãi suất chiết khấu, số tiền lợi túc bị khấu trừ có thể không cần phải đặt ra.

Về thời hạn chiết khấu của loại hợp đồng này thì theo qui định tại Điều 4 Quy chế chiết khấu ban
hành kèm theo Quyết định số898/2003/QĐ-NHNN thì: “Điều 4. Hình thức chiết khấu: 1. Chiết khấu toàn bộ
thời hạn còn lại của giấy tờ có giá: Ngân hàng Nhà nước mua hẳn giấy tờ có giá của các ngân hàng theo
giá chiết khấu. 2. Chiết khấu có kỳ hạn: Ngân hàng Nhà nước chiết khấu kèm theo yêu cầu ngân hàng cam
kết mua lại toàn bộ giấy tờ có giá đó sau một thời gian nhất định. Kỳ hạn chiết khấu tối đa là 91 ngày”. Như
vậy theo qui định này Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể mua hẳn các giấy tờ có giá của các tổ chức
tín dụng có nhu cầu chiết khấu hoặc có thể chiết khấu theo kỳ hạn, mà kỳ hạn đó tối đa là 91 ngày kể từ
chiết khấu giấy tờ có giá (tức ngày tổ chức tín dụng tiến hành chuyển nhượng quyền sử dụng giấy tờ có
giá cho Ngân hàng Nhà nước).
Một đặc biệt nữa là trong mối quan hệ này có thể Ngân hàng Nhà nước đi mua lại chính giấy tờ có
giá do mình phát hành từ bên nhận chiết khấu là chủ thể có quyền hoạt động ngân hàng và quyền phát
hành giấy tờ có giá. Tuy nhiên trong trường hợp này giấy tờ có giá vẫn phải đảm bảo các tiêu chuẩn như
đã nêu ở phần trên, và trách nhiệm bồi thường vật chất khi có vi phạm xảy ra vẫn được đảm bảo. Đối
tượng chiết khấu trong hợp đồng này bao gồm: “Điều 5. Các giấy tờ có giá được chiết khấu
1. Các giấy tờ có giá được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu bao gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc,
tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các loại giấy tờ có giá khác được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy
định trong từng thời kỳ.
2. Các loại giấy tờ có giá nêu tại khoản 1 của điều này được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu khi có đủ các
điều kiện sau:
a. Trường hợp chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá: Thời hạn còn lại tối đa của giấy tờ có
giá là 91 ngày;
b. Trường hợp chiết khấu có kỳ hạn: Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải dài hơn thời hạn Ngân hàng
Nhà nước chiết khấu;
c. Các giấy tờ có giá được phát hành bằng đồng Việt Nam (VNĐ) và có thể chuyển nhượng được.” Về mức
chiết khấu, các chi phí chiết khấu se được tính theo qui định tại Điều 6 Quy chế chiết khấu ban hành kèm
theo Quyết định số898/2003/QĐ-NHNN.
*) Đối với hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá giữa Tổ chức tín dụng với khách hàng.

×