Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong việc xây dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.72 KB, 18 trang )

Lời mở đầu
Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước Đảng ta luôn coi trọng yếu tố văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ
giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Văn hóa vừa là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội và là mục tiêu của chúng ta. Văn hóa đóng vai trò điều tiết tinh
thần, góp phần đắc lực vào việc khai thác những nhân tố tích cực hạn chế nhân tố tiêu cực
của mối quan hệ hàng hóa –tiền tệ trong xã hội, văn hóa giữ vai trò góp phần hình thành
một con đường phát triển phù hợp với đặc điểm của dân tộc và xu hướng phát triển của
thế giới. Gần đây các học giả quốc tế nghiên cứu hơn về các yếu tố thành công của các
nước có nền công nghiệp mới trong phát triển trong khu vực Đông Á-Đông Nam Á .Sự
thành công và năng động đó được xác nhận là sự bắt nguồn từ các yếu tố văn hóa truyền
thống, trong đó tính cộng đồng, tính ý thức dân tộc thể hiện rất cao trong quan hệ kinh
doanh: sự ham học hỏi, sáng tạo, tính nghiêm túc, kỉ luật cao trong công việc đã được
nhấn mạnh và được coi là những nhân tố thúc đẩy quá trình tăng kinh tế bền vững, cân
đối của những nước này. Và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường kinh tế XHCN ở Việt
Nam với rất nhiều các quan hệ kinh tế đan xen nhau bên cạnh mặt tích cực, đã xuất hiện
mặt tiêu cực làm nảy sinh các hành vi kinh doanh thiếu đạo đức-phi văn hóa, chạy theo
lợi nhuận ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh, đến các giá trị kinh doanh nền tảng của
kinh tế thị trường-làm cho các giá trị đó bị đảo lộn,đe dọa đến sư bất ổn cho hoạt động
kinh tế,chính vì tính cấp thiết của sự xuống cấp thang giá trị đó. Xây dựng văn hóa kinh
doanh vừa là mục tiêu,vừa là thách thức lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp, doanh
nhân Việt Nam trong xu hướng gia nhập WTO và toàn cầu hóa hiện nay. Thách thức lớn
nhất là nguy cơ tụt hậu, là hiệu quả kinh tế và năng lực cạnh tranh thấp.Hơn lúc nào hết
chúng ta cần nhận thức rõ những hạn chế, bất cập trong văn hóa kinh doanh Việt Nam,từ
đó tìm ra hướng đi cho các doanh nghiệp,doanh nhân văn hóa kinh doanh Việt Nam tiên
tiến đạm đà bẳn sắc dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt
Nam tiến tới tương lai.


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Văn hóa và nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.


1.1.Văn hóa.


- Theo nghĩa rộng: Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con
người lao động và sáng tạo ra.
- Theo nghĩa hẹp: văn hóa là đời sống tinh thần, hệ các giá trị,truyền thống,lối sống
của xã hội.văn hóa là bản sắc,là năng lực sáng tạo của một dân tộc.là cái phân biệt cái
này
với cái khác.
- Edouard Heriiot cho rằng: “Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là
cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”.
- C.Mác thì coi văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao
động sáng tạo của con người - hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống
hiện
thực của con người.
- Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình
độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa), còn theo nghĩa chuyên biệt thì văn hóa
dùng để
chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn, văn hóa Óc Eo, …);
theo
nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm vật chất cho đến những giá
trị
tinh thần …
- Hồ Chí Minh: từng nói :“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hà”.ng ngày như ăn, mặc, ở và các
phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.

- Theo UNESCO: “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về
tinh
thần, vật chất, tri thức và tinh cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia
đình,
xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội … Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật,
văn
chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá
trị,
những truyền thống, tín ngưỡng…”.
Văn hóa là nguồn lực nội sinh của con người, là kiểu sống và bảng giá trị của các tổ
chức, cộng đồng người, trung tâm là các giá trị chân-thiện-mỹ.


Nói tóm lại, chúng ta có thể hiểu: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và họat động thực tiễn trong quá trình
lịch sử của mình; biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất
định”.
1.2. Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân
tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.Văn hóa là đời sống tinh
thần của xã hội,là hệ các giá trị, truyền thống,lối sống; là năng lực sáng tạo ,là bản sắc của
một dân tộc,là cái phân biệt dân tộc này với dân tộc khác tạo nên nét riêng biệt.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng gắn kết cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình
nghĩa, đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản
dị trong lối sống…Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính
dân tộc độc độc đáo.
Có thể nói bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh

hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó giữ vững
được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát
triển. Sức mạnh và sức sáng tạo này có mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với môi
trường xã hội - tự nhiên và với quá trình lịch sử mà dân tộc ta đã tồn tại.
Bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên
tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh và hợp tác để tồn
tại và phát triển.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy,
cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, văn học nghệ
thuật…, nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của
nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định
hướng cho sự lựa chọn trong hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh
thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ. Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và
có tính bền vững tương đối, có sức mạnh gắn bó mọi thành viên trong cộng đồng. Trong sự
tiến bộ và phát triển của xã hội, các giá trị này thường không biến mất mà hóa thân vào các
giá trị của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội và thể
chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế thế giới,
quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh
nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện các giá nhân cách con người


Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong mọi
hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo
dục và đào tạo…, sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư duy độc lập, có
cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao
lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa nhân loại,

song phải luôn luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ trương vừa
bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ
bản sắc dân tộc, gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay,
cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động
tham gia hội nhập và giao lưu văn hóa với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của
văn hóa Việt Nam đương đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa khu
vực và quốc tế. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời
trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.
1.3. Quan niệm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung Ương Đảng - khoá VIII (1998), lần đầu
tiên đưa ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có đặc trưng tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
thay cho quan niệm nền văn hóa Việt Nam có nội dung XHCN, có tính dân tộc, có tính Đảng
và tính nhân dân được nêu ra trước đây. Đại hội VII chủ trương xây dựng nền văn hóa mới,
tạo đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến
bộ; hướng tới chân thiện mĩ; khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực
tư tưởng và văn hóa, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần và xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây
dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình
độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mĩ ngày càng cao. Chống tư tưởng văn hóa phản tiến
bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với
phương hướng đi lên XHCN. Xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu.
-VỀ TÍNH TIÊN TIẾN:
Nền văn hóa hiện nay có những đặc điểm chủ yếu như: yêu nước, tiến bộ, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (là nội dung cốt lõi), vì con người (hạnh phúc. tự do, phát
triển phong phú, toàn diện trong quan hệ hài hòa giữa con người và cộng đồng, xã hội với
thiên nhiên), mở rộng giao lưu, tiếp thu văn minh văn hóa thế giới; quá trình xây dựng nền
văn hóa hiện nay cũng là quá trình thực hiên chiến lược con người, đây là khâu trung tâm

trong sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần. Cốt lõi của tính tiên tiến là độc lập dân tộc và


CNXH theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tính tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà còn
phải được thể hiện trong cách thức biểu hiện, chuyển tải nội dung.
-VỀ BẢN SẮC DÂN TỘC:
Những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng và dân tộc Việt Nam
được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, đó là: lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa đạo lý, đức
tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc
dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính độc đáo, vớinhững đặc
trưng, sắc thái, thể hiện cốt cách dân tộc Việt. Như vậy, để xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, trước hết cần nắm chắc những quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình
phát triển văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước và những nội dung
cơ bản của Nghị quyết Trung Ương 5- khóa VIII của Đảng. Những quan điểm đó là:
+ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
+ Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất và đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
+Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
+Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu
dài.
Bản sắc dân tộc và tính tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong mọi hoạt
động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáodục, đào
tạo sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có tư duy độc lập, co cách làm vừa hiện đại, vừa
mang sắcthái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại song phải luôn phát

huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản săc dân tộc được thể hiện ở các khía cạnh khác
nhau:
- Xây dựng con người Việt theo hướng chân, thiện mĩ
- Xây dựng môi trường văn hóa đẹp
- Phát triển sự nghiệp văn hóa nghệ thuật
- Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa
- Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ
- Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số
1.2 Văn hoá kinh doanh và nền văn hóa kinh doanh
1.2.1 Văn hóa kinh doanh


Là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái
văn hoá mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những
kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ.
Việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động kinh doanh sẽ đem lại cho kinh
doanh và chủ thể kinh doanh một sử mạng cao cả. Đó là sứ mệnh phát triển con người, đem
lại sự giàu có, hạnh phúc cho mọi người, sự phồn vinh và vững mạnh của đất nước, sự vẻ
vang của dân tộc. Nhận thức được sứ mệnh ấy con người sẽ hay say lao động, không ngại
khó khăn gian khổ, thậm chí hy sinh cả lợi ích riêng của mình đóng góp vào lợi ích chung vì
xã hội. Do đó, văn hoá trong kinh doanh là bộ phận cấu thành của nền văn hoá dân tộc, phản
ánh trình độ của con người trong lĩnh vực kinh doanh. Bản chất của văn hoá trong kinh
doanh đó là làm cho cái lợi gắn chặt chẽ với cái đúng cái tốt, cái đẹp. Cái lợi đó tuân theo cái
đúng, cái tốt, cái đẹp. Ngược lại cái đúng, cái tốt, cái đẹp là cơ sở bền vững cho hoạt động
sinh ra cái lợi. Văn hoá kinh doanh cuả các nhà kinh doanh, của doanh nghiệp được nhận
biết qua hai phương diện chính:
- Một là: các nhân tố văn hoá (hệ giá trị, triết lý sống, tâm lý) được vận dụng vào quá trình
kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hàng hoá về dịch vụ phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của
khách hàng có văn hoá. Đó chính là kiểu kinh doanh có văn hoá, kiểu kinh doanh phù hợp

với nét đẹp của văn hoá dân tộc.
- Hai là: cái giá trị, sản phẩm văn hoá như hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng, nghệ thuật
kinhdoanh...mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt động và làm nghề kinh doanh
của họ, có tác dụng cổ vũ biểu dương đối với kiểu kinh doanh có văn hoá mà họ đang theo
đuổi. Đó chính là lối sống có văn hoá của các chủ thể kinh doanh.
Đề cao cái lợi của hoạt động kinh doanh gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái đẹp, nhằm
thoả mãn có chất lượng nhu cầu và thị hiếu của đời sống xã hội, mỗi xã hội cần định hình ra
thành các truyền thống văn hoá kinh doanh trong nền văn hoá chung của dân tộc.
1.2.2 Nền văn hóa kinh doanh
Xây dựng nền văn hóa kinh doanh là một việc làm có tính thực tế mà mục tiêu cụ thể
là cho toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, tức yếu tố đống vai trò quyết định đối với nền
sản xuất của đất nước trở nên ngày càng có tính văn hóa cao thể hiện trên cả ba mặt:
Văn hóa doanh nhân: văn hóa thể hiện hết ở đội ngũ những con người tham gia sản
xuất kinh doanh chủ yếu thể hiện ở trình độ khoa học kĩ thuật, công nghệ và vốn tri thức
tổng hợp, pử kinh nghiệm thực tiễn và kĩ năng, phương pháp tác ngiệp, ở năng lực tổ chức
sản xuất kinh doanh và sự nhạy bén với thị trường, ở đạo đức nghề nghiệp và phẩm hạnh
làm người, ở ý thức công dân và sự giác ngộ về chính trị- xã hội…
Văn hóa doanh nghiệp: văn hóa tập trung và tỏa sáng trong các thiết chế, các đơn vị tổ
chức sản xuất kinh doanh thể hiện qua những biểu trưng chung thuộc về hình thức cung các
yếu tố tạo nên thương hiệu của doanh nghiệp, qua năng lực, phẩm chất, trình độ tổ chức sản


xuất kinh doanh tạo ra chất lượng sản phẩm va những thành tích, truyền thống, qua phong
cách giao tiếp, ứng xử thống nhất của toàn đơn vị trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh…
Văn hóa thương trường: Văn hóa thể hiện trong cơ cấu tổ chức, hệ thống pháp chế,
các chính sách chế độ, trong mọi hinh thức hoạt động liên quan quá trình sản xuất kinh
doanh, gồm cả sự cạnh tranh… tất cả nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi tốt
đẹp…

II. Xây dựng và phát triển nền văn hóa kinh

doanh ở nước ta hiện nay.
2.1.Thực trạng nền văn hóa kinh doanh ở nước ta
2.2.1. Đặc điểm của văn hóa kinh doanh trong từng giai đoạn
*Văn hóa cổ truyền Việt Nam
Trong suốt lịch sử phát triển của nước ta, hoạt động kinh tế phổ biến là sản xuất nông
nghiệp tự cung, tự cấp. Trong thời kỳ phong kiến, tư tưởng "trọng nông ức thương" rất phổ
biến, chính vì vậy mà rất ít người giỏi về kinh doanh. Lương Văn Can, một nhà cách mạng,
đồng thời là một người thầy lỗi lạc trong giới doanh thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX,
khi phân tích nguyên nhân không phát triển của thương mại nói riêng và của kinh tế Việt
Nam nói chung, đã đưa ra 10 điểm. Đó là:
-Người mình không có thương phẩm, tức là sản xuất kém, ít hàng hoá có uy tín;
-Không có thương hội, tức là không biết liên kết với nhau trong kinh doanh;
-Không có tín thực, tức là không biết giữ chữ tín;
-Không có kiên tâm, ít theo đuổi một việc gì đến cùng;
-Không có nghị lực, dễ làm khó bỏ;
-Không biết trọng nghề, do chỉ chú trọng vào nghề nông, bỏ qua việc tìm hiểu và nâng
cao các nghề khác;
-Không có thương học, tức là không có kiến thức về kinh doanh;
-Kém đường giao thiệp, do xã hội Việt Nam luôn đóng cửa với thế giới bên ngoài nên
hễ ra ngoài là dễ bị lạc lõng, không hoà nhập được;
-Không biết tiết kiệm, người Việt Nam tuy nghèo nhưng không biết tận dụng những
thứ mình có, thường hoang phí;
-Khinh nội hoá với tâm lý chung là sính hàng ngoại
*Văn hóa kinh doanh Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
Dưới thời Pháp thuộc: sự giao lưu với văn hoá Pháp đã để lại một dấu ấn sâu đậm cho
VHKD Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, kinh doanh trở thành một ngành độc
lập, không phụ thuộc vào nông nghiệp. Thời kỳ này đã xuất hiện một tầng lớp tư sản dân
tộc, giành lại được độc quyền thương mại từ tay tư sản nước ngoài và bắt đầu gây dựng lòng
tự hào được làm nhà kinh doanh.



Giai đoạn 1954-1986: trong giai đoạn 1954-1975, Việt Nam bị phân chia thành hai
miền:


Miền Bắc được giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, tiến lên xây dựng
CNXH: VHKD miền Bắc mang đặc tính của VHKD XHCN, coi trọng công bằng xã
hội nhưng không coi trọng hiệu quả, tiêm nhiễm bệnh chủ quan, duy ý chí, cơ chế
quản lý cồng kềnh, mang nặng tính quan liêu, coi rẻ kinh doanh và thương nhân.



Miền Nam bị chiếm đóng, thay đổi theo chế độ thực dân mới của Mỹ: ở miền Nam,
qua giao lưu với văn hoá Mỹ, VHKD nơi đây tiếp thu được một số kiến thức, yếu tố
cần thiết cho kinh tế thị trường như cơ sở hạ tầng, công nghệ, kiến thức kinh doanh
hiện đại, tác phong làm việc công nghiệp… nhưng cũng tiêm nhiễm tâm lý vọng
ngoại khá nặng nề, nhất là tôn sùng những gì của Mỹ, cùng một số thói xấu khác như
chủ nghĩa thực dụng, lối sống gấp, thích hưởng thụ, xa rời bản sắc dân tộc.

Sau năm 1975: đất nước thống nhất, hai miền Nam, Bắc cùng bước vào con đường
xây dựng CNXH, hai nền VHKD dần hoà hợp với nhau, trở thành một nền VHKD thống
nhất trong toàn quốc nhưng vẫn bảo tồn một số khác biệt giữa hai miền. Nền VHKD này
tuy có bổ sung cho VHKD cổ truyền một số ưu điểm như: coi trọng công bằng xã hội, nâng
cao vị thế cho phụ nữ, có tinh thần vượt khó vươn lên… nhưng lại làm tăng lên một số yếu
tố tiêu cực cho kinh doanh như: tâm lý coi rẻ nghề buôn nói chung và kinh doanh nói riêng,
tính chủ quan duy ý chí, cơ chế tổ chức quan liêu, thiếu hiệu quả, tính cứng nhắc, kém năng
động với thị trường.
Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) và thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN được chấp nhận mở ra cho các doanh nghiệp nước ta những điều kiện mới có ý nghĩa
quyết định để từng bước để hình thành văn hóa doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm kinh tế,

xã hội ở nước ta. Văn hóa doanh nghiệp thể hiện trên hai mặt: mục đích kinh doanh và
phương pháp quản trị kinh doanh. Trong đó, mục đích kinh doanh là quyết định toàn bộ hoạt
động của mỗi doanh nghiệp.
- Về mục đích kinh doanh:
+ Đạt hiệu quả và lợi ích cao cho cá nhân, cộng đồng.
+ Có tính nhân văn đối với con người trong xã hội.
- Về phương pháp quản trị kinh doanh:
+ Tuân thủ pháp luật quốc gia, quốc tế, đảm bảo tính minh bạch, công khai trong sản xuất,
kinh doanh.
+ Quan tâm, tuân theo các nguyên lý quản lý khoa học và phải biết dựa vào khoa học mà tổ
chức bộ máy quản lý, thực hiện các phương pháp kinh doanh.
+ Biết áp dụng các công nghệ tiên tiến trong điều hành sản xuất, kinh doanh.
+ Chú trọng sử dụng hợp lý các vị trí làm việc của đội ngũ cán bộ, NLĐ.
*Văn hóa kinh doanh Việt Nam thời kỳ đổi mới
Thời kỳ đổi mới đã mang lại một luồng sinh khí mới cho hoạt động kinh doanh và đã
làm thay đổi cơ bản VHKD Việt Nam. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay,
văn hóa kinh doanh Việt Nam có 4 đặc điểm nổi bật:


-

-

Tính tập thể: quan điểm tiêu chuẩn đạo đức của doanh nghiệp là do toàn thành
viên doanh nghiệp tích lũy lâu dài cùng nhau hoàn thành.
Tính quy phạm: văn hóa kinh doanh có công năng điều chỉnh kết hợp.
Tính độc đáo: doanh nghiệp đều cố gắng xây dựng văn hóa kinh doanh độc đáo
trên cơ sở văn hóa của vùng đất mà doanh nghiệp đang tồn tại. Văn hóa kinh
doanh phải đảm bảo tính thống nhất trong nội bộ từng doanh nghiệp, nhưng giữa
các doanh nghiệp khác nhau cần phải tạo nên tính độc đáo của mình.

Tính thực tiễn: chỉ có thông qua thực tiễn, các quy định của văn hóa kinh doanh
mới được kiểm chứng để hoạn thiện hơn nữa.

2.2.2. Những thành tựu và hạn chế trong công cuộc xây dựng văn hóa kinh doanh hiện
nay.
2.2.2.1 Thành tựu các doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được.
Đảng ta đã quyết định từ bỏ mô hình tập trung bao cấp, chuyển sang phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình kinh tế tổng quát của thời
kỳ quá độ, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối. Từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh, bình đẳng, thúc đẩy cơ cấu lại
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, giải phóng mạnh mẽ lực
lượng sản xuất.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và bảo
vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền
vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, coi trọng phát triển các ngành
công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế;
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn
với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới . Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các
vùng miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời, tạo điều kiện
phát triển các vùng có nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng nền kinh tế độ lập, tự
chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước quá trình hội nhập toàn diện tạo ra những vấn
đề lo ngại cho nền kinh tế Việt Nam. Mà vấn đề được các doanh nghiệp hiện nay, đấy chính
là sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam không thể thắng được các doanh nghiệp nước
ngoài, dù có lợi thế sân nhà. Trong những năm vẫn đây, doanh nghiệp đã quan tâm xây dựng
văn hóa kinh doanh của mình. Và văn hóa kinh doanh đã và đang trở thành một lợi thế cạnh
tranh quan trọng của các doanh nghiệp. Trong tiến trình xây dựng văn hóa kinh doanh trong
doanh nghiệp các doanh nghiệp đã được các thành tựu sau:

• Một là, văn hóa kinh doanh trong doanh nghiệp được chú trọng phát triển và đạt được
những thành tựu nhất định. Một số công ty đã khẳng định được vị trí của mình trên


thị trường cũng như trong lòng khách hàng và các đối tác kinh doanh. Ví dụ FBT là
một tập đoàn đã xây dựng một nền văn hóa kinh doanh mà mỗi khi nhắc đến FBT,
chúng ta mà chúng ta nhắc tới đầu tiên đó là sự sáng tạo, hiện đại, sự tin cậy, hài
lòng, hay tập đoàn Viettell đã khẳng định được vai trò của mình không chỉ ở trên thị
trường trong nước mà tập đoàn đang vương xa ra thị trường quốc tế và cũng có những
thành công nhất định, hay các doamh nghiệp khác như VinaMilk, …
• Hai là, niềm tin của khách hàng đối với doanh nghiệp ngày càng được nâng cao. Hiện
nay, khách hàng trong nước đã tin tưởng chất lượng của các sản phẩm của các doanh
nghiệp Việt Nam: hàng Việt Nam đã khẳng định được chất lượng của mình không
thua kém hàng ngoại. Đối với các đối tác, doanh nghiệp cũng khẳng định được mình
là một đối tác tin cậy để hợp tác. Đồng thời các doanh nghiệp cũng quan tâm đến các
vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm,… nên cũng được sự ủng hộ của
người tiêu dùng.
• Ba là, khẳng định được uy tín của mình trên thị trường trong nước và thị trường quốc
tế.
Những thành tựu trên đã được khẳng định lần nữa qua các thành tựu mà nền kinh tế ta
đã đạt được: Nhờ đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và giải pháp phù hợp, trong gần 30
năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây ấn tượng, được
thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên nhiều. Sau 10 năm đổi mới
(1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội; sau 25 năm đổi mới (năm 2010)
đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập
trung bình. Trong giai đoạn 2001- 2010, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân
7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD
gấp 3,26 lần so với năm 2000, năm 2011 khoảng 170 tỷ USD. GDP bình quân đầu người
năm 2010 đạt 1168 USD, năm 2014 ước tính khoảng 1900 USD/ người. Trong 5 năm 20112015, do sự tác động của khủng hoảng tài chính thê giới, suy thoái kinh tế toàn cầu nên nền
kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng GDP bị giảm sút. Tuy vậy, tốc độ tăng

GDP bình quân vẫn ở mức khá, ước đạt 5,8%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
trong 5 năm 2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn
ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấn hớn 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt
khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 17,5%. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên, khu vực nông nghiệp
giảm xuống. Năm 2010, trong cơ cấu GDP, khu vực công nghiệp chiếm 41,1%, khu vực
dịch vụ chiếm 38,3%, khu vực nông nghiệp chiếm 20,6%. Kết cấu hạ tầng ngày càng được
xây dựng hiện đại, đồng bộ; nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng lên ( năm 2013 là
49%), đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Đồng thời, Việt Nam tiếp tục tăng cường mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế:


• Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đã phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là
bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa binh, độc lập, dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
• Nhờ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế bằng những chính sách phù hợp nên Việt
Nam dã phát huy được nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa
học- công nghệ, về kinh tế trí thức, kinh nghiệm quốc tế, văn minh của nhân loại… để
phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất, xây dựng đất nước. Trong những năm đổi
mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để
tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức
đa phương như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước
ngoài (FDI,ODA), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập
khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa họccông nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với 170 nước ( trong đó xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 15
nước), quan hệ thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định
• Thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hội nhập

quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày
càng được nâng lên.
Bên cạnh đó, nền văn hóa kinh doanh nước ta cũng có những chuyển biến:
.+ Quá trình đổi mới tư duy về văn hoá kinh doanh, về xây dựng con người và nguồn
nhân lực được nâng cao.
+ Môi trường văn hoá có những chuyển biến theo hướng tích cực.
+ Hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng.
+ Giáo dục và đào tạo về kinh tế bao gồm văn hóa trong kinh doanh có bước phát triển
mới.
+ Khoa học và công nghệ có bước phát triển, phục vụ thiết thực hơn nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội.
+ Văn hoá kinh doanh phát triển, xây dựng đời sống văn hoá và nếp sống văn minh ở tất
cả doanh nghiệp và đất nước Việt Nam.
2.2.2.2 Hạn chế của gặp phải trong tiến trình xây dựng văn hóa kinh doanh.
Thực tế trong bối cảnh hội nhập hiện nay, không ít doanh nghiệp Việt Nam đã trưởng
thành, trụ vững và phát triển mạnh mẽ, mà nguyên nhân sâu xa chính là do các doanh nghiệp
này đã và đang coi trọng xây dựng Văn Hóa Kinh Doanh cho mình. Tuy nhiên, hiện còn


không ít doanh nhân chưa nhận thức được vai trò, động lực của Văn Hóa Kinh Doanh trong
hội nhập nên trong quá trình kinh doanh đã bộc lộ những bất cập, ảnh hưởng tiêu cực đến
năng lực cạnh tranh, làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Dưới đây là hạn chế
chính của Văn Hóa Kinh Doanh ở Việt Nam trong tiến trình xây dựng văn hóa kinh doanh,
hiện nay:
Thứ nhất, Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện, thiếu chuyên nghiệp, thiếu
sáng tạo: Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém thế cạnh tranh trên thương trường quốc
tế do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục diện
chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong những bước đầu,
sau đó, các doanh nghiệp thường tìm cách xé lẻ, giành riêng hợp đồng cho mình để rồi dẫn
đến tình trạng luôn nghi kỵ, đối phó lẫn nhau và sẵn sàng giành giật quyền lợi riêng cho

công ty mình mà không nghĩ đến cục diện chung. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng tổ
chức thực thi sản xuất và kinh doanh ở quy mô lớn cho cùng loại sản phẩm để đáp ứng nhu
cầu thị trường. Các doanh nghiệp chưa biết hợp tác với nhau để tận dụng điểm mạnh của
nhau để che đi khuyến điểm của bản thân dẫn đến các doanh nghiệp chưa biết tận dụng điểm
mạnh của bản thân để tăng lợi thế cạnh tranh của bản thân.
Theo báo cáo mới nhất của UNDP về 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam thì chúng
ta chưa có doanh nghiệp lớn tầm cỡ thế giới. Những doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam cũng
chỉ mới tương đương với những doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước phát triển. Cách làm
“hổng chỗ nào thì vá chỗ ấy”, “cháy chỗ nào thì dập chỗ đó”, cẩu thả trong ký kết và thực
hiện hợp đồng… đang tồn tại và hoàn toàn không phù hợp với môi trường kinh doanh văn
minh, hiện đại. Trong khi, người Nhật Bản trước khi làm điều gì, họ nghiên cứu kỹ mục tiêu
đến 90%, việc điều chỉnh trong khi thực hiện không quá 10%. Còn ở Việt Nam thì các doanh
nghiệp không coi trọng việc nghiên cứu hoạch định mục tiêu đôi khi còn mang tính lí thuyết
nên khi hoàn thành thì kết quả đạt được hoàn toàn khác xa so với mục tiêu đã định. Các
doanh nhân cũng nhận ra rằng, sự “bài bản” còn thể hiện ở tính chuyên nghiệp, ở “tinh thần
thượng tôn pháp luật”, ở tính kỷ luật.
Trong Văn Hóa Kinh Doanh của người Việt Nam, nhiều thói quen, cung cách làm ăn
cũ, lạc hậu, tùy tiện vẫn đang tồn tại: phong cách làm việc thiếu chuyên nghiệp( đi muộn,
thiếu kĩ luật, vị kỉ, …), thiếu tính sáng tạo ( đôi khi mang tính dập khuôn máy móc, cổ vũ,
lạc hậu…), thiếu sẵn sàng hợp tác vì ganh đua hơn thiệt. Sự gian dối trong kinh doanh vẫn
còn tồn tại, không ít doanh nhân đã thẳng thắn bộc lộ; “Buôn bán thật thà thì chỉ có ăn cám”,
vì thế họ tìm mọi cách trốn lậu, phi pháp, lách luật để làm ăn: trốn thuế, làm hàng giả, đặc
biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay do các nguồn nước thải chưa qua xử lí do các
công ty xảy ra, mà công ty VeDan là một ví dụ điển hình, hay vấn đề an toàn thực phẩm,
hàng giả đang là một vấn nóng tại Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn. Đây là một hạn chế lớn khác đã bộc lộ
rõ nét trong Văn Hóa Kinh Doanh của các doanh nghiệp nước ta khi hội nhập là sự hạn chế
về tầm nhìn cũng như khát vọng của các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam. Xuất thân từ



nền kinh tế tiểu nông, con người Việt Nam thường có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi
và muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi kết quả lâu dài. Muốn có và đạt được những
mục tiêu dài hạn, đòi hỏi doanh nhân phải có tầm không xây dựng mục tiêu dài hạn và có kế
hoạch đầu tư thích hợp. Đa số doanh nhân khi lập doanh nghiệp chỉ nghĩ đến việc xây dựng
một công ty hàng đầu Việt Nam, ít khi nghĩ xa hơn tới việc xây dựng các thương hiệu toàn
cầu, tham gia vào giải quyết các bài toán tiêu dùng cho toàn thế giới.
Cũng vì thiếu tầm nhìn nên doanh nghiệp không đầu tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu
dài mà lao theo xu hướng “ăn xổi”, đầu tư cả vào những lĩnh vực không thuộc chuyên môn
của mình. Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi ích
kinh doanh dài hạn tại Việt Nam thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam lại đang tìm kiếm
lợi nhuận từ các khoản đầu tư mang tính đầu cơ như kinh doanh bất động sản, chứng
khoán… mà quên đi các lĩnh vực kinh doanh cốt lõi.
Thứ ba, thiếu tính liên kết, cộng đồng: Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài có sức
mạnh và tiềm lực lớn, lại hơn chúng ta cả trăm năm kinh nghiệm mà doanh nghiệp Việt Nam
lại vốn liếng chưa nhiều, năng lực cạnh tranh chưa cao thì chúng ta rất cần đến sự liên kết,
đoàn kết. Điển hình như Cà phê Trung Nguyên với hoài bão xây dựng thương hiệu cho nông
sản Việt Nam mà không có sự tiếp sức của những doanh nghiệp cùng ngành nghề thì không
biết đến khi nào mới thực hiện được mục tiêu này. Nhưng thực tế, không ít doanh nghiệp lại
không thể cởi mở, liên kết với nhau, thậm chí có khi còn chơi xấu, cạnh tranh không lành
mạnh với nhau. Hệ quả là không những không nâng cao được sức cạnh tranh mà còn yếu đi
vì sự tranh mua, tranh bán, thậm chí hạ uy tín của nhau. Trên thực tế, vấn đề liên kết doanh
nghiệp đã được đặt ra rất nhiều lần ở tất cả các hiệp hội, ngành nghề. Tuy nhiên, nhiều quan
chức, cơ quan có thẩm quyền cũng “bó tay” trước thói quen cố hữu của rất nhiều doanh
nghiệp là “mạnh ai nấy làm”. Xét về khía cạnh liên kết, hợp tác của các doanh nhân trong
quá trình hoạt động kinh doanh để cùng phát triển và theo nguyên tắc cùng có lợi, tính cộng
đồng của doanh nhân Việt Nam còn quá yếu, quá rời rạc và ở mức thấp, thể hiện ở ngay
trong phạm vi một ngành nghề, một địa phương và rộng hơn là trong phạm vi cả nước. Chủ
trương thành lập những tập đoàn kinh tế còn vấp phải những rào cản nội tại: Thông tin của
doanh nghiệp thường thiếu độ tin cậy, ảnh hưởng đến việc liên kết ngang; quy định của Nhà
nước cho các hoạt động liên kết chưa đầy đủ… Điển hình ở đây là tình trạng các nông sản

như rau,củ quả: thăng long, dưa,... sản xuất rất nhiêu nhưng không tiêu thụ được. Một phần
là do việc liên kết, hợp tác giữa các cơ quan, các danh nghiệp với nông dân chưa được tốt
dẫn đến cung vượt quá cầu, khiến người nông dân phải cực khổ.
Trái với phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, nhiều doanh nghiệp nước ngoài khi vào thị
trường Việt Nam đã biết kết hợp với các doanh nghiệp trong nước để thâm nhập và chiếm
lĩnh thị trường. Có thể kể đến như trường hợp hãng Pepsi kết hợp với Kinh Đô; các hãng
điện tử như Samsung, LG, Toshiba kết hợp với siêu thị Nguyễn Kim… Tại sân nhà, rất
nhiều sản phẩm của chúng ta đang bị áp đảo và phải cạnh tranh gay gắt trước sức mạnh liên


kết của các công ty, tập đoàn nước ngoài. Trong điều kiện hiện nay, hợp tác với nhau và với
nhà đầu tư nước ngoài là một cách tốt để doanh nghiệp tồn tại và tạo khả năng cạnh tranh.
Thứ tư, Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt”, dựa dẫm: Ở nước ta, đặc tính coi trọng
quan hệ cá nhân, xu hướng cá nhân hóa các mối quan hệ kinh doanh, ỷ lại vào sự bảo hộ của
Nhà nước vẫn tồn tại khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp tập trung thời gian và tiền bạc cho
một hoặc một số nhân vật quan trọng của đối tác, cho các mối quan hệ cá nhân giữa người
kinh doanh mà cụ thể hơn là người bán hoặc mua với người có thẩm quyền quyết định của
bên đối tác mua hoặc bán. Nhiều doanh nghiệp thành công nhờ vào mối quan hệ rộng hơn là
nhờ vào năng lực. Xu hướng dựa vào quan hệ rộng như là một chủ bài, mạnh hơn cả năng
lực, và xu hướng nhờ vả, chạy chọt hiện đang tồn tại ở mức đáng kể. Lợi ích quá nhiều từ
quan hệ cá nhân, tranh giành đất đai, dùng quan hệ để thắng thầu bất chính, thậm chí dùng
cả quyền lực để bóp méo lực lượng thị trường … là những hiện tượng đang gây bức xúc
trong toàn xã hội. Những cái lợi mà việc thân quen đem lại là một cám dỗ lớn hơn rất nhiều
so với cái cực nhọc phải đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đa
phần các nhà kinh doanh của chúng ta dường như hiển nhiên công nhận mối quan hệ này tốt
hay xấu có tính chất quyết định tới sự thành bại. Họ cho rằng, nếu “thân quen” được với sếp
của đối tác thì về cơ bản là đã thành công, lúc này thì mọi trở ngại về chất lượng sản phẩm,
dịch vụ, thậm chí giá cả cũng chỉ là chuyện “nhỏ”. Cám dỗ về đặc quyền, đặc lợi, dựa dẫm
đang là lực cản rất lớn. Cuộc đấu tranh quyết liệt chống tham nhũng và làm trong sạch bộ
máy công quyền sẽ là một trong những yếu tố có tính quyết định trong việc xóa bỏ tình trạng

“chạy cửa sau” và phục hồi luật chơi minh bạch trên thương trường. Và tư tưởng này, đã ăn
sâu vào tư tưởng của những người dân trong nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, giải trí,… đa
số các doanh người đều cho chấp nhận tư tưởng này như một điều đương nhiên, không có ý
kiến đấu tranh với tư tưởng này.
Thứ năm, Xem nhẹ chữ tín: Buôn bán phải giữ chữ tín, đó chính là Văn Hóa Kinh
Doanh được bắt nguồn từ khi hình thành thị trường. Trong tập quán du di, “chín bỏ làm
mười” của nền kinh tế tiểu nông, chữ tín không được đề cao. Theo nhiều nhà kinh doanh
nước ngoài, các doanh nhân Việt Nam không coi trọng chữ tín, hay viện dẫn các lý do khách
quan để khước từ việc thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác
nước ngoài. Bản thân người Việt chưa tin người Việt. Nếu có chọn lựa thì người Việt sẽ làm
ăn với các công ty ngoại quốc, nhất là của các nước Âu, Mỹ, hơn là Việt Nam. Đây là hiểm
họa cho các cơ sở kinh tế Việt Nam về lâu về dài khi mà các hiệp ước kinh tế mở cửa thị
trường Việt Nam cho các cơ sở kinh tế của châu Âu, Mỹ như ngân hàng, bảo hiểm, tín dụng,
hàng không… ồ ạt vào kinh doanh tại Việt Nam.
2.2. Chiến lược xây dựng nền văn hóa kinh doanh ở Việt Nam


Nếu nói văn hóa là nền tảng tinh thần cho sự phát triển của xã hội thì văn hóa kinh
doanh cũng được coi là linh hồn cho hoạt động kinh doanh của một quốc gia. Hơn lúc nào
hết, trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế như hiện nay thì việc lên kế hoạch xây dựng một nền
văn hóa kinh doanh sao cho phù hợp trong các doanh nghiệp là hết sức cần thiết.
Văn hóa kinh doanh phải được xây dựng gắn liền với bản sắc của dân tộc, lấy con
người làm cốt lõi, được mọi thành viên trong tổ chức đóng góp và thực hiện thì mới mong có
thể bền vững và tạo đà cho sự đi lên của DN.
Xu hướng những năm gần đây và đa phần được nhiều doanh nghiệp áp dụng đó là
việc phối hợp với các công ty nước ngoài để cùng xây dựng văn hóa DN cho công ty mình.
Trong xu thế hội nhập kinh tế thì đây là điều cần tiếp tục khuyến khích và phát triển trong
thời gian sắp tới. Bên cạnh đó, để xây dựng được nền văn hóa có thể phát huy hết năng suất
và hiệu quả của công ty thì cần có chú ý một số chiến lược phát triển
Đặc biệt trọng và lấy con người làm gốc. Từ đó cần bồi dưỡng tinh thần trách nhiệm

cho người lao động để kích thích lòng say mê, sáng tạo của họ. Giáo dục ý thức cho người
lao dộng để doanh nghiệp trở thành “ngôi nhà thứ hai’ của người lao động. Có chế độ lương
thưởng xứng đáng phù hợp với công sức mà họ bỏ ra cũng như các hình thức phạt thích
đáng, công tu phân minh.
Xây dựng quan niêm khách hàng là trên hết. DN hướng ra thị truoừng suy cho cùng là
hướng tới khách hàng, phải lấy khách hàng làm trung tâm, cùng với việc nâng cao chất
lượng phục vụ khách hàng sau đó mới nghĩ tới lợi nhuận.
Hướng tới vấn đề an sinh xã hội. Đó là một thách thức lớn của doanh nghiệp. Khi
cùng lúc đưa doan h nghiệp đi lên mà lại phải coi trọng vấn đề ô nhiễm môi trường và lãng
phí tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy thông qua văn hóa doanh nghiệp phải hướng tới mục tiêu
phát triển bền vững vì lợi ích con người và các đời sau.
Xây dựng tinh thần trách nhiệm xã hội. Một doanh nghiệp không những phải coi sản
phẩm của mình là bộ phận làm nên quá trình phát triển của nhân loại mà còn phải coi việc
xây dựng văn hóa doanh nghiệp của mình là bộ phận của văn hóa nhân loại. Doanh nghiệp
đóng góp cho xã hội không chỉ ở số lượng của cải mà còn phải thỏa mãn nhu cầu nhiều mặt
của xã hội hiện đại như tích cực ủng hộ, tài trợ cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, thúc
đẩy khoa học kỹ thuật phát triển và tiến bộ.. VD thông qua các hoạt động nhân đạo và văn
hóa này làm cho hình ảnh của doanh nghiệp đẹp hơn, uy tín của DN cũng được nâng lên
đáng kể. Đó cũng là hướng phát triển lành mạnh, thiết thực để các doanh nghiệp đóng góp


ngày càng nhiều hơn vào công cuộc đổi mới, vì mục đích: ‘dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh’ mà Đảng đã đề ra và được toàn dân ủng hộ.
*Tình hình văn hóa kinh doanh của Việt Nam trong những năm gần đây:
Về quan hệ hợp tác song phương: Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170
quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị
trường của các nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước
lớn, trong đó có 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong
nhóm G8.
Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài

chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế
giới.
Số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá của Việt Nam trong tháng 9/2014 là hơn 25,85 tỷ USD, tăng 1,5%, tương ứng tăng
380 triệu USD so với tháng trước. Trong đó, xuất khẩu đạt hơn 12,63 tỷ USD, giảm 4,8%.

Kết luận
Trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, nền kinh tế nước ta đứng trước các cơ hội
và thách thức mới do quá trình hội nhập kinh tế mang lại. Hơn lúc nào hết, các doanh nghiệp
trong nước cần nhận thức rõ những cơ hội và thách thức này. Để cạnh tranh với các doanh
nghiệp khác đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài thì các doanh nghiệp tự mình khẳng
định bản thân qua hình ảnh của bản thân, qua thang thước đo là đạo đức kinh doanh của
doanh nghiệp, điều này chỉ được chấp nhận qua sựu đánh giá của khách hàng. Và văn hóa
doanh nghiệp trở thành một năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vô cùng cần thiết ở trong
tương lai. Nếu doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển một cách bền vững, doanh nghiệp
cần xây dựng cho mình một văn hóa kinh doanh hiện đại, phù hợp và phát huy nền văn hóa
truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nền kinh tế nước ta đi sau nền kinh tế các nước, nhưng qua quá trình lịch sử phát
triển đất nước ta có sự phát triển nhanh chóng mà không ai có thể chối cãi về mọi mặt về
kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại,… đặc biệt là trong kinh tế. Những thành quả này đều là
do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn
ấy thì cũng có những hạn chế đó là: nền văn hóa nói chung và văn hóa kinh doanh nói riêng
dần mất đi bản sắc của dân tộc: các doanh nghiệp chỉ nghỉ đến cái lợi trước mắt quên đi cái
lợi lâu dài của dân tộc, thiếu tinh thần đoàn kết,…. Trái với các giá trị truyền thống của dân
tộc: tinh thần đoàn kết, coi trọng chữ tín, yêu thương giống nòi, thật thà chất phát,… Do vậy
việc vận dụng quan điểm của Đảng về văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vào xây


dựng văn hóa kinh doanh trong doanh nghiệp là điều vô cùng cần thiết, làm nền tnagr cho
quá trình phát triển hội nhập của đất nước.



Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
/> /> />



×