Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Bài tập học kỳ luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.19 KB, 28 trang )

Bài tập học kỳ Luật Dân sự

A. LỜI NÓI ĐẦU
Mỗi người sống trong xã hội đều có những quyền cơ bản, một
trong số đó là quyền nhân thân hay chính là “nhân quyền”. Theo qui
định của pháp luật, quyền nhân thân là quyền dân sự, gắn liền với mỗi
cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác, cụ thể như là danh
dự, nhân phẩm, uy tín ... Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, công
nghệ thông tin cũng đã len lỏi sâu rộng vào cuộc sống của con người
mang lại cho chúng ta một cuộc sống đầy đủ hơn, tiếp cận thông tin tốt
hơn, đó là những mặt tốt của vấn đề. Tuy thế, trong xã hội hiện đại này,
tên họ, hình ảnh, nhân phẩm, danh dự của nhiều công dân rất dễ bị bêu
rếu, xúc phạm trên mạng Internet, trên báo chí với nhiều động cơ, mục
đích khác nhau, điều đó khiến cho những người bị xúc phạm đó gặp
không ít khó khăn trong cuộc sống.
Để bảo vệ quyền nhân thân, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công
dân, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều phương thức khác nhau. Trong số đó
đã được cụ thể hóa trong luật pháp như Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác tại Điều
611 – Bộ luật Dân sự 2005.
B. NỘI DUNG
I. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
- Danh dự đối với cá nhân là sự đánh giá của xã hội đối với một
cá nhân về các mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người
đó. Danh dự của một con người được hình thành từ những hành động
và cách cư xử của người đó, từ công lao và thành tích mà người đó có
được.
1

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219



Bài tập học kỳ Luật Dân sự

Còn đối với tổ chức thì danh dự là sự đánh giá của xã hội và sự
tín nhiệm của mọi người đối với hoạt động của tổ chức đó.
- Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một
cá nhân với tính cách là một con người.
- Uy tín đối với cá nhân là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được
công nhận ở một cá nhân thông qua hoạt động thực tiễn của mình tới
mức mà mọi người trong một tổ chức, một dân tộc cảm phục tôn kính
và tự nguyện nghe theo.
Còn với tổ chức, uy tín là những giá trị tốt đẹp mà tổ chức đạt
được trong quá trình hoạt động và được mọi người công nhận.
Nội dung của ba khái niệm “danh dự”, “nhân phẩm”, “uy tín” có
sự đan xen với nhau. Trong đó, khái niệm danh dự là khái niệm rộng
nhất, danh dự chứa đựng cả nhân phẩm và uy tín. Do đó, xâm phạm
nhân phẩm, uy tín chắc chắn sẽ xâm phạm danh dự của cá nhân, tổ
chức.
Mặc dù danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị nhân thân
không trị giá được bằng tiền, tuy nhiên, xâm phạm đến những giá trị
này có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chủ thể bị xâm
phạm. Chính vì thế, không chỉ ở nước ta, mà ở hầu hết các nước trên
thế giới, danh dự, nhân phẩm, uy tín của con người đều được bảo vệ.
Tuy thế, phương thức bảo vệ có khác nhau. Ở Việt Nam, điều đó được
thể hiện rõ nhất qua các quy định của pháp luật. Pháp luật Việt Nam đã
có nhiều quy định nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân và bảo vệ danh dự, uy tín của tổ chức.
- Theo Hiến pháp năm 1992, quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín là một trong những quyền cơ bản của công dân, là quyền
hiến định :

2

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân,
quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp
luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm của công dân”.
(Điều 71 Hiến pháp 1992).
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có
quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự.
Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây
thiệt hại cho người khác phải bị xử
lý nghiêm minh”.
(Điều 72 Hiến pháp 1992).
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó
không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn
và bí mật.

Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện
tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định
của pháp luật”.
(Điều 73 Hiến pháp 1992).
3

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được thừa nhận
trong Hiến pháp thể hiện sự tôn trọng của chúng ta đối với quyền này;
đồng thời có ý nghĩa quan trọng trong việc ban hành các quy định cụ
thể để bảo vệ quyền này : được thể hiện trong Luật Hình sự, Tố tụng
Hình sự, Hôn nhân gia đình, Báo chí, Dân sự và Tố tụng dân sự.
- Theo Bộ luật Hình sự năm 1999, chủ thể có hành vi xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với
các tội danh như: Tội làm nhục người khác (Điều 121), Tội vu khống
(Điều 122), Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy
tính (Điều 226), Tội truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy (Điều 253).
- Theo Điều 7 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 : “Công dân có
quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Người bị hại, người
làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích
của của họ mà bị đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của
pháp luật”.

- Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 : Quyền được bảo vệ danh dự
nhân phẩm, uy tín được quy định tại các Điều 31- Quyền của cá nhân
đối với hình ảnh; Điều 37- Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy
tín; Điều 38 –
Quyền bí mật đời tư.
Vì thế nên khi danh dự, nhân phẩm, uy tín của một người bị xâm
phạm, họ sẽ có các quyền được quy định tại Điều 25 :
« Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có
4

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính
công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại. »
Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2005 đã cụ thể hóa điều đó :
« Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác
phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một
khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh
chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả
thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười
tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. »
Qua những dẫn chứng trên, đã khẳng định một điều là : mỗi

người đều có quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Khi
quyền này bị xâm phạm, thì người xâm phạm phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
II. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
Về trách nhiệm gây thiệt hạt ngoài hợp đồng, được xác định theo
nội dung Thông tư số 173 – UBTP, phải thỏa mãn bốn điều kiện :
1. Điều kiện thứ nhất : phải có thiệt hại.
2. Điều kiện thứ hai : Phải có hành vi trái pháp luật.
3. Điều kiện thứ ba : Phải có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại
và hành vi trái pháp luật.
5

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

4. Điều kiện thứ tư : Phải có lỗi của người gây thiệt hại.
Trên cơ sở đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm
nhân phẩm, danh dự, uy tín của người khác được xác định như sau :
1. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại nói chung là những hậu quả bất lợi ngoài ý muốn về tài
sản hoặc phi tài sản do một sự kiện hoặc một hành vi nào đó gây ra. Vì
vậy thiệt hại là một yếu tố cơ bản cấu thành nên trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín nói riêng. Thiệt hại xảy ra
được coi là điều kiện có tính bắt buộc và là tiền đề trong việc quyết
định phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nhằm khôi phục

lại tình trạng trước khi xảy ra thiệt hại, chỉ cần có thiệt hại xảy ra kể cả
thiệt hại không nghiêm trọng thì người gây thiệt hại vẫn phải có trách
nhiệm bồi thường. Thiệt hại hiểu theo nghĩa thông thường còn là sự bị
mất hoặc bị giảm bớt những lợi ích vật chất hay tinh thần của một
người do sự kiện gây thiệt hại của người khác, nó còn bao gồm cả
những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại…tất
cả những thiệt hại này được xác định bằng giá trị một khoản tiền cụ
thể. Thiệt hại là tiền đề quan trọng có tính bắt buộc để xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại vì vậy điều kiện đầu tiên khi đánh giá thiệt
hại để làm cơ sở quy trách nhiệm bồi thường đó là: phải xác định được
thiệt hại khách quan chứ không phải là những thiệt hại theo suy diễn
chủ quan của những người làm luật và áp dụng pháp luật bởi thiệt hại
thường bao gồm cả hai loại trực tiếp và gián tiếp. Nhất là những thiệt
hại do xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm là những thiệt hại về các
quyền nhân thân rất khó xác định những tổn thất thực tế thành tiền một
6

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

cách chính xác tuyệt đối. Giống như cách xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung, những thiệt hại do xâm phạm đến các
quyền nhân thân được xác định bao gồm: “trách nhiệm bồi thường về
vật chất và trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần” (Điều
307 BLDS).
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi
phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất,
bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.

Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng thì :
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí
cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi phí cho việc thu thập tài
liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm;
tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa
phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác
minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; chi
phí cho tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm
việc của người bị thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn
chế, khắc phục thiệt hại (nếu có).
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút được xác định là : nếu
trước khi bị xâm phạm, các chủ thể này có thu nhập thực tế, tuy nhiên
do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm nên thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút.
2. Hành vi gây thiệt hại được xác định là hành vi trái pháp luật.
7

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

Pháp luật cấm tất cả những hành vi gây tổn thất cho người khác,
cho dù đó là hành vi cố ý hay vô ý. Trong lĩnh vực pháp lý, một người
phải thực hiện một việc, hoặc cấm không được thực hiện một việc cụ
thể nhưng người đó không thực hiện hoặc thực hiện việc pháp luật cấm

đều bị coi là hành vi trái pháp luật.
Mà như ta đã biết Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ
chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác,
không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến các quyền
tuyệt đối đó.
Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành
động. Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện
các hành vi đó. Trên thực tế, nếu xét về hậu quả hành vi thì không phải
bao giờ hành vi gây thiệt hại cũng bị coi là hành vi trái pháp luật. Hành
vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện hành vi
đó theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực
hiện hành vi đó, hay đo là những hành vi phù hợp với phạm vi mà luật
cho phép. Ví dụ như gây thiệt hại trong các trường hợp phòng vệ chính
đáng, tình thế cấp thiết hay sự kiện bất ngờ.
3. Quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Quan hệ nhân quả là mối quan hệ khách quan của bản thân các sự
vật, tất cả các hiện tượng đều được gây nên bởi những nguyên nhân
nhất định. Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp
luật với thiệt hại xảy ra, cần thiết phải phân biệt nguyên nhân với
những điều kiện nhất định. Những điều kiện này là những hiện tượng
cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra, nhưng bản thân chúng không

8

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự


gây ra một biến cố nào. Còn một nguyên nhân nhất định, trong những
hoàn cảnh cụ thể chỉ có thể gây ra một hậu quả nhất định.
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược
lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này
được quy định tại Điều 604 BLDS dưới dạng: “Người nào…xâm
phạm…mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường”. Ở đây hành vi xâm
phạm đến danh dự, uy tín của người khác là nguyên nhân và thiệt hại là
hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, xác định mối tương quan nhân quả
là một vấn đề rất phức tạp. Theo phép biện chứng duy vật thì quan hệ
nhân quả là một dạng của mối liên hệ giữa các hiện tượng (sự vật, quá
trình) trong đó một hiện tượng được coi là nguyên nhân với những điều
kiện nhất định đã làm phát sinh một hiện tượng khác (gọi là kết quả).
trách nhiệm bồi thường dân sự dựa trên cơ sở của mối quan hệ mang ý
nghĩa nhân quả giữa hành vi khách quan (hành vi trái PL) với hậu quả
(thiệt hại xảy ra). Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín cũng sẽ không phát sinh nếu thiệt hại xảy ra
không phải là kết quả tất yếu trực tiếp của hành vi trái pháp luật thuộc
về người gây thiệt hại xâm phạm đến các quyền nhân thân của người bị
thiệt hại. Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
và thiệt hại xảy ra để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm danh dự, nhân phẩm của người gây thiệt hại chúng ta cần phải
đảm bảo cho được tính tất yếu khách quan vốn có quy luật của sự việc,
hiện tượng chứ không thể chỉ căn cứ vào một sự ngẫu nhiên nào đó.
Đây cũng chính là yếu tố cần phải tuân thủ của các cán bộ làm công tác
xét xử để tránh việc suy đoán nhận định một cách tùy tiện khi giải
quyết các vụ án tranh chấp về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
các quyền nhân thân của chủ thể.
9

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219



Bài tập học kỳ Luật Dân sự

4. Có lỗi của người gây thiệt hại.
Lỗi là một trong bốn yếu tố để xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác nói riêng.
Chúng ta bắt buộc phải xem xét đến yếu tố này, bởi lẽ, trên thực tế đã
chứng minh có những trường hợp xảy ra, lỗi hoàn toàn thuộc về người
chịu thiệt hại. Ví dụ như, có những ca sĩ, diễn viên, tự mình đã tạo ra
scandan với những hình thức khác nhau để mong muốn mình được mọi
người quan tâm, để ý đến. Vô tình hay cố ý, những hành vi này đã xâm
phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của chính họ. Lỗi trong những
trường hợp này thuộc về chính bản thân những người có danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm. Lúc này, trách nhiệm gây ra thiệt hại không
thể quy cho ai khác được.
Theo quy định tại Điều 308 Bộ luật Dân sự thì : Người không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu
trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có
thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Như vậy khi lỗi là của người gây ra thiệt hại thì người gây thiệt
hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là
thái độ tâm lý của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện
dưới hai dạng hình thức là lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
- Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi
của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong
muốn hoặc tuy không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Trong trường hợp này, cho dù người gây thiệt hại có mong muốn hay
không mong muốn hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác


10

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

nhưng đã có thái độ để mặc cho hậu quả xảy ra thì người đó phải chịu
trách nhiệm dân sự về hành vi có lỗi cố ý của mình.
Khi một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ xâm phạm đền
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác mà vẫn thực hiện và mong
muốn hoặc không mong muốn, nhưng lại để mặc cho danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm thì lỗi của người gây thiệt
hại là cố ý. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi có ý thức của người
gây thiệt hại và trong tâm thức của người đó mong muốn thiệt hại xảy
ra cho người khác đã làm phát sinh trách nhiệm dân sự của người đó.
- Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ
xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Hành vi của một người mà xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm,
uy tín của người khác mà người đó đã không mong muốn, không để
mặc cho hậu quả xảy ra mà là do không kiểm soát được diễn biến của
sự kiện do hành vi vô ý của mình tạo ra thì người đo phải bồi thường.
Khi xét đến yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
chúng ta không thể không xét đến trường hợp hỗn hợp lỗi. Tại Điều
617 Bộ luật dân sự 2005 thì : Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong
việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt
hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn

do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi
thường. Việc trách nhiệm hỗn hợp lỗi căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi
bên có tính thuyết phục, bởi tính hợp lý của cách xác định đó.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói
11

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

chung. Nhưng lỗi trong trách nhiệm dân sự có những trường hợp là lỗi
suy đoán. Bởi hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người
thực hiện hành vi đó bị suy đoán là có lỗi. Người bị thiệt hại trong
nhiều trường hợp không thể chứng minh được, nếu buộc họ chứng
minh sẽ bất lợi cho họ. Vì vậy, Bộ luật Dân sự đã quy định nghĩa vụ
chứng minh về lỗi thuộc về người gây thiệt hại như là một sự bổ sung
nghĩa vụ của người đó.
Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không
có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì được coi
là không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó. Những người chưa
có năng lực hành vi, bị mất năng lực hành vi, không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của họ, thì họ không phải chịu trách nhiệm. Trong
trường hợp trên cha mẹ, người giám hộ, trường học, bệnh viện là
những người theo quy định của pháp luật phải quản lý, chăm sóc, giáo
dục…được suy đoán là đã có lỗi khi không thực hiện các nghĩa vụ nêu
trên và họ phải chịu trách nhiệm do lỗi của họ.
Trong trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại vấn đề hình thức lỗi,

mức độ lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Thậm chí
người gây ra thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi
(khoản 3 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2005). Tuy nhiên, có trường hợp
người gây ra thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý
mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài
của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì không phải
bồi thường.
Trong nhiều vụ án phức tạp, thiệt hại xảy ra do lỗi hỗn hợp của cả
người gây thiệt hại và người bị thiệt hại thì Thẩm phán cần xác định
12

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

đúng mức độ lỗi của các bên, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy
ra và lỗi của người gây thiệt hại hay người bị thiệt hại trên cơ sở đó
mới ra được quyết định bản án một cách khách quan đúng pháp luật.
Xem xét một sự kiện để xác định xem nó có gây thiệt hại hay không
cấn phải xét đến góc độ tâm lý và đánh giá thái độ của người gây thiệt
hại xem họ có lỗi hay không? Nghĩa là cần xem người gây thiệt hại đã
vận dụng hết các khả năng của mình để tránh không gây thiệt hại hay
chưa? Hay nói cách khác liệu người gây thiệt hại có khả năng để lựa
chọn cách xử sự không gây thiệt hại hay không?
Trên đây là phân tích về bốn yếu tố cơ bản mang tính điều kiện là
cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
danh dự, nhân phẩm của người khác. Các yếu tố này có mối quan hệ
biện chứng qua lại với nhau. Ngoài những trường hợp đặc biệt do luật
định, bất cứ quyết định nào nhằm xác định trách nhiệm bồi thường

thiệt hại cũng đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh là đầy đủ bốn yếu tố
trên. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố này thì có nghĩa là việc xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại chưa được xem xét một cách khách
quan, toàn diện.
Khi hành vi của một chủ thể được xác định đầy đủ bốn yếu tố
như trên thì có nghĩa là họ sẽ có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại
do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Vậy,
câu hỏi đặt ra là Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm danh dự, nhân phẩm của người khác và bồi thường như thế nào
và nồi thường bao nhiêu được đề cập đến trong phần III này.

13

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

III. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và nguyên tắc
tính mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm
cá nhân.
1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Khi do hành vi của một chủ thể này đã xâm phạm đến danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người khác mà thiệt hại đối với người bị xâm
phạm đã xảy ra và yếu tố lỗi thuộc về người gây ra hành vi xâm phạm
thì đương nhiên người gây ra hành vi ấy hay gọi là người gây thiệt hại
đương nhiên phải bồi thường. Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ
chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước…Nhưng việc bồi
thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi thường và chính họ
phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có

thể không do chính họ thực hiện. Bộ luật Dân sự quy định về năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân (Điều 606 BLDS)
mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác.
Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan
hệ dân sự, Bộ luật Dân sự 2005 quy định năng lực chịu trách nhiệm của
cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản và
khả năng bồi thường của cá nhân như sau :
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đầy đủ phải tự
bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Điều này xuất phát từ “khả năng
bằng hành vi của họ tự tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ” (Điều 19
BLDS) họ phải chịu trách nhiệm do hành vi bất hợp pháp của họ bằng
tài sản của chính họ. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, nhiều người
tuy có đầy đủ năng lực hành vi nhưng khả năng về tài sản của họ trên
thực tế không có. Vì vậy khi quyết định bồi thường đối với những
người này có thể động viên cha mẹ bồi thường thay cho con em họ,
14

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

nếu cha mẹ tự nguyện bồi thường thì ghi nhận sự tự nguyện đó mà
không buộc cha mẹ phải bồi thường thay cho con em họ.
- Người dưới 18 tuổi là những người không có hoặc không đầy
đủ năng lực hành vi. Vì vậy, cha mẹ là người phải bồi thường thiệt hại
do con em họ gây ra. Tuy nhiên, cách thức dùng tài sản để bồi thường
được quy định đối với những người vị thành niên khác nhau. Đối với
những người dưới 15 tuổi thì cha mẹ phải dùng tài sản của mình để bồi
thường; nếu tài sản của cha mẹ không đủ mà con có tài sản riêng, thì

lấy tài sản của con để bồi thường. Đối với những người từ 15 đến dưới
18 tuổi thì lấy tài sản của con để bồi thường cha mẹ chịu trách nhiệm
bổ
sung phần còn thiếu.
- Những người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lý thì
trường học, bệnh viện phải bồi thường. Nếu các tổ chức nêu trên mà
không có lỗi thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường.
- Người giám hộ đương nhiên, giám hộ được cử đối với những
người phải có giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLDS được
dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường. Người giám hộ có
nghĩa vụ bổ sung. Tuy nhiên nếu họ chứng minh được rằng họ không
có lỗi trong việc giám hộ thì họ không phải lấy tài sản của mình để bồi
thường. Trong trường hợp này sẽ không có người bồi thường thiệt hại
bởi những người được giám hộ không có khả năng về năng lực hành vi
để bồi thường, nếu họ có tài sản có thể dùng tài sản của họ để bồi
thường.
2. Nguyên tắc tính mức bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm của cá nhân bị xâm hại.
15

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

a. Phải bồi thường toàn bộ và kịp thời các thiệt hại vật chất đã xảy ra
và bù đắp một phần những tổn thất tinh thần bằng một lượng giá trị
vật chất nhất định.
Đây là nguyên tắc chung bao trùm và là một nguyên tắc công

bằng hợp lý, phù hợp với tập quán của nhân dân ta là gây thiệt hại thì
phải bồi thường thiệt hại. Bồi thường toàn bộ các thiệt hại vật chất là
bồi thường tất cả các thiệt hại vật chất đã xảy ra bao gồm chi phí hợp
lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm
sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. Còn bồi thường kịp thời
là bồi thường đúng lúc người bị thiệt hại đang cần để dùng vào việc
hạn chế khắc phục thiệt hại. Do đó, việc bồi thường đúng lúc, đúng
chỗ, đúng đối tượng là rất quan trọng nhằm phát huy tối đa hiệu quả
của việc bồi thường.
* Những thiệt hại phải bồi thường toàn bộ trong quan hệ danh dự,
nhân phẩm, uy tín của cá nhân là:
- Các thiệt hại vật chất: là những tổn thất vật chất cụ thể, có thể
cảm nhận
được bằng các giác quan có thể tính toán được bằng tiền:
+ Các chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại:
~ Chi phí phải bỏ ra do xâm phạm thân thể, sức khỏe
khi bị làm nhục, bị hiếp dâm, cưỡng dâm…có thể gồm các khoản dành
cho việc chữa trị vết thương, do bị truyền bệnh (các khoản thuốc men,
khám chữa, viện phí...), chi phí cho việc bồi dưỡng phục hồi sức khỏe.
~ Chi phí cho việc giám định (sức khỏe, tài liệu…).
~ Phí tổn tàu xe đi lại của nạn nhân (đi giám định, đi
khám chữa bệnh, đi theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, xét xử…).

16

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự


~ Chi phí thu hồi của một ấn phẩm hay đăng lời cải
chính trên các phương tiện thông tin đại chúng để khôi phục lại danh
dự, nhân phẩm… .
Điều 611 quy định phải bồi thường chi phí hợp lý, thế nhưng khái
niệm “chi phí hợp lý” ở đây chỉ mang tính chỉ mang tính định tính,
không phải là yếu tố định lượng. Việc xác định thế nào là chi phí cho
từng vụ án là thuộc trách nhiệm của Thẩm phán giải quyết của vụ án
bởi lẽ mỗi vụ án có đặc thù riêng, không vụ nào giống vụ nào, cho nên
thiệt hại cụ thể của từng vụ án là hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, xem xét
đánh giá chi phí nào là chi phí hợp lý phải đặt trong bối cảnh không
gian, thời gian và diễn biến cụ thể của từng vụ án. Ví dụ chi phí cho đi
lại để thu hồi một ấn phẩm, hay giá trị số thuốc theo đơn phải mua ở
nước ngoài…không thể cao hơn mức giá trung bình ở địa phương tại
thời điểm đó. Mức giá trung bình được coi là mức giá hợp lý. Nếu
người bị thiệt hại đưa ra mức giá cao hơn rất nhiều so với lần mức giá
trung bình ở địa phương là không hợp lý. Nếu các chi phí không liên
quan trực tiếp đến hành vi gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm thì
cũng không được coi là những chi phí hợp lý của vụ án.
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút phải là những
khoản thu nhập có thực không được suy đoán. Trước khi có hành vi
gây thiệt hại họ vẫn có thu nhập bình thường, ổn định nhưng từ khi có
hành vi xâm phạm đến quan hệ nhân thân này thì khoản thu nhập đó
không còn, hoặc bị giảm sút so với trước. Vì vậy khoản thu nhập bị
mất chính là khoản thu nhập không thu được của người bị hại. Khoản
thu nhập bị mất đó có thể là:
~ Thu nhập bị mất trong thời gian nạn nhân nằm viện
(ví dụ như để điều trị tâm lý do chịu ảnh hưởng từ việc danh dự, nhân
17

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219



Bài tập học kỳ Luật Dân sự

phẩm, uy tín của mình bị xâm phạm), hoặc sau khi ra viện nhưng vẫn
phải nghỉ lao động nên
không có thu nhập.
~ Thu nhập bị mất của người thân phải nghỉ lao động
đi chăm sóc hoặc thời gian đi tìm nạn nhân (ở các vụ hiếp dâm, làm
nhục, mua bán phụ nữ, trẻ em…)
~ Các khoản thu nhập bị mất do bị mất việc làm. Ví
dụ: một người bác sĩ, do hành vi của người khác đã làm mất uy tín của
người bác sĩ đó, như là đã loan tin rằng bác sĩ trình độ thấp, chữa cho
nhiều bệnh nhân không khỏi, thu tiền công chữa bệnh cao mà trên thực
tế lại không phải như thế, hành vi này đã dẫn đến khách hàng từ chối
không đến khám bệnh, mọi người xa lánh, mất thể diện với đồng
nghiệp. Nếu dẫn đến không hành nghề được thì phải tính đến thu nhập
bị mất. Nếu chỉ giảm khách hàng thì tính đến khoản thu nhập bị giảm
sút.
~ Đối với hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm
của người sản xuất kinh doanh mà gây thiệt hại cho việc kinh doanh
của người đó thì thiệt hại phải bồi thường có thể là toàn bộ giá trị lô
hàng không bán được (đây là thu nhập bị mất) hoặc mức chênh lệch
của lợi nhuận. Nếu do hành vi xâm phạm mà hiện nay phải thu hẹp sản
xuất, hàng bán chậm thì đây là thu nhập bị giảm sút.
Như vậy khoản thu nhập bị giảm sút chính là khoản chênh lệch
trước khi có hành vi gây thiệt hại và sau khi có hành vi gây thiệt hại.
* Những thiệt hại chỉ bồi thường một phần trong quan hệ danh dự,
nhân phẩm
Ngoài những thiệt hại vật chất nói trên, hành vi xâm phạm danh

dự, nhân phẩm, uy tín của người khác còn gây ra những thiệt hại tinh
18

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

thần. Khoản tiền bù đắp về tinh thần không phải là đại lượng để xác
định những thiệt hại về tinh thần mà người bị thiệt hại hoặc người thân
thích của họ bị tổn thất bởi lẽ những tổn thất về tinh thần không thể
cân, đong, đo, đếm, xác định được một cách chính xác hoặc tương đối
chính xác như thiệt hại về vật chất; mức độ tổn thất về tinh thần nhiều
hay ít cũng không phụ thuộc vào tính chất nguy hiểm của hành vi xâm
phạm; cũng không phụ thuộc vào hình thức lỗi của người xâm phạm,
mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ đau thương, buồn phiền, mất
mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, bị xa lánh, bị hiểu lầm của
người bị thiệt hại hoặc người thân thích của người bị thiệt hại... . Muốn
hạn chế, khắc phục những thiệt hại về tinh thần phải dùng nhiều biện
pháp như chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai…
Tuy vậy, biện pháp buộc người gây thiệt hại về tinh thần phải bồi
thường bằng một số tiền nhất định có tác dụng an ủi, động viên là dịu
bớt nỗi đau của họ, góp phần giảm bớt những thiệt hại tinh thần mà họ
phải gành chịu.
- Những tổn thất tinh thần có thể gồm:
+ Sự đau đớn thể xác hoặc mất tự do
~ Đau đớn về thể xác có thể xảy ra khi nạn nhân đang
bị thủ phạm dùng bạo lực tấn công (hiếp dâm, ngược đãi, làm nhục…)
~ Những cơn đau do bệnh tật tạo ra (thủ phạm hiếp
dâm..có thể truyền bệnh cho nạn nhân)

~ Sự đau đớn về tinh thần: cảm giác tủi nhục, uất ức,
bực bội…ở trạng thái ức chế cao độ có thể gây nên những bất ổn về
tâm thần.
~ Mất tự do: có thể do bị tạm giam, bị tù oan

19

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

Tóm lại, cảm giác đau đớn về thể xác và tinh thần hoặc bị mất tự do
cần phải coi là thiệt hại về tinh thần vì đó là những hiện tượng có thật
mà nạn nhân phải gánh chịu.
+ Thiệt hại do mất khả năng vui chơi, giải trí.
Từ các hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm gây nên
những tổn thương các bộ phận cơ thể làm mất khả năng thực hiện các
chức năng bình thường của con nguời gây nên bệnh tật dẫn làm cho họ
lo lắng, buồn phiền, suy giảm niềm vui, niềm lạc quan trong cuộc sống.
Nếu hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm kéo dài có thể tạo ra sự
khủng hoảng, suy sụp về tinh thần có thể đưa đến các trạng thái bệnh lý
tâm thần.
Nguyên tắc bồi thường toàn bộ kịp thời không làm triệt tiêu
nguyên tắc tự định đoạt, tự do thỏa thuận của Bộ luật dân sự 2005. Vì
vậy các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường thấp hơn so với thực
tế hay lựa chọn các phương thức bồi thường (bằng tiền mặt, thực hiện
một công việc…) cho phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của các bên.
Tuy nhiên, sự thỏa thuận này phải trên cơ sở tự nguyện, không trái với
pháp luật và đạo đức xã hội thì mới có giá trị pháp lý.

Trong trường hợp nhiều người cùng có hành vi gây thiệt hại về
danh dự,
nhân phẩm cho một hoặc một số người thì họ cũng chịu trách nhiệm
liên đới bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng
người gây thiệt hại được xác định trên cơ sở lỗi của họ. Trong trường
hợp không xác định được lỗi của mỗi người thì họ phải chịu trách
nhiệm bồi thường bằng nhau cho toàn bộ thiệt hại.
b. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường hoặc không
phải bồi thường trong các trường hợp đặc biệt.
20

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

* Giảm mức bồi thường.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 605 “Người gây thiệt hại có thể
được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so
với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình”. Dưới góc độ lý
thuyết thì các hành vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý là thể hiện sự
chống đối xã hội cao hơn các hành vi do lỗi vô ý. Do đó nguyên tắc
này không đặt vấn đề giảm bồi thường do lỗi cố ý, mà chỉ xem xét
giảm bồi thường trong trường hợp người gây thiệt hại do lỗi vô ý. Đây
là nguyên tắc cụ thể bổ sung cho nguyên tắc trên nhằm vừa đảm bảo
tính khả thi của các quyết định buộc bồi thường, vừa căn cứ và mức độ
lỗi để đảm bảo tính hợp lý khi buộc bồi thường. Tuy nhiên quy định
này mới chỉ định tính chứ chưa định lượng tức là không quy định cụ
thể việc giảm mức bồi thường bao nhiêu, cho nên việc quyết định giảm
mức bồi thường trong từng vụ cụ thể phải căn cứ vào điều kiện, hoàn

cảnh, mức độ lỗi của người gây thiệt hại. Mặt khác, phải xem mức thiệt
hại là lớn hay nhỏ. Nếu thiệt hại không lớn thì dù gây thiệt hại chỉ có
lỗi vô ý cũng phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Nhưng nếu thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây
thiệt hại thì cần xem xét để giảm mức bồi thường.
Khi xem xét thiệt hại có quá lớn so với khả năng kinh tế hay
không thì không thể chỉ nhìn vào hoàn cảnh kinh tế, thu nhập hiện tại
của đương sự mà phải tính đến khả năng thu nhập về sau này của
đương sự.
Có những trường hợp ban đầu kẻ vi phạm chỉ có ý định xâm
phạm danh dự, nhân phẩm nhưng quá trình diễn biến, kẻ vi phạm đã
gây thiệt hại về cả sức khỏe , quyền tự do…thì thiệt hại gây ra càng lớn
và mỗi vụ án đều có tình tiết thiệt hại, điều kiện hoàn cảnh của các bên
21

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

rất khác nhau. Do đó không thể quy định một mức bồi thường chung
cho tất cả các vụ án, mà trách nhiệm của Thẩm phán phải xem xét kỹ
từng trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, khi ấn định mức bồi thường cũng phải dựa trên nguyên
tắc mỗi công dân đều phải tự chịu trách nhiệm về chính hành vi của
mình. Vì thế khi quyết định mức bồi thường phải xem xét đến lỗi của
cả hai bên (nguời gây thiệt hại và người bị thiệt hại). Nếu hai bên đều
có lỗi thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại do lỗi
của mình gây nên chứ không phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Phần
thiệt hại do chính lỗi của người bị thiệt hại thì không bắt người gây

thiệt hại bồi thường.
- Người gây thiệt hại và người bị thiệt hại thỏa thuận với nhau về
mức bồi thường thấp hơn thiệt hại, thì ngay cả trong trường hợp lỗi cố
ý nhưng có sự thỏa thuận với người bị thiệt hại về mức bồi thường thấp
hơn thiệt hại, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội,
được Tòa án công nhận thì người gây thiệt hại được miễn giảm phần
bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
* Không phải bồi thường.
Theo quy định tại Điều 617 Bộ luật Dân sự thì nếu thiệt hại xảy
ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không
phải bồi thường.
Những trường hợp đó xác định như sau :
- Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại cho
dù lỗi đó là vô ý hay cố ý, mà người gây thiệt hại hoàn toàn không có
lỗi thì người gây thiệt hại không phải bồi thường - Việc gây thiệt hại
trong tình huống bất ngờ.

22

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

- Người gây thiệt hại có lỗi vô ý và người bị thiệt hại cũng có lỗi
cố ý trong việc gây ra thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi
thường. Có nghĩa là trong trường hợp, người bị thiệt hại về danh dự,
nhân phẩm, uy tín cố ý gây ra thiệt hại này, còn người gây thiệt hại vì
lý do nào có (có thể là do chính người bị thiệt hại lợi dụng để thực hiện
mục đích) mà vô ý gây ra thiệt hại.

3. Phương thức bồi thường
Về phương thức bồi thường: tùy từng vụ có thể áp dụng bồi
thường một lần nhưng có thể bồi thường theo tháng, quý cho đến khi
thiệt hại của họ được khắc phục.
Trong trường hợp phải bồi thường trong một thời gian dài thì khi
mức bồi
thường không còn phù hợp với thực tế, thì người gây thiệt hại hoặc
người bị thiệt hại có thể yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thay đổi mức bồi thường (khoản 3 Điều 605 Bộ luật Dân
sự 2005)
Đồng thời với việc bồi thường về vật chất, người gây thiệt hại
phải công khai xin lỗi trước công chúng, đính chính những điều sai sự
thật mà người gây thiệt hại đã làm để nhằm lấy lại danh dự, nhân
phẩm, uy tín cho người bị hại.
Việc quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về các hình thức bồi
thường cũng như việc ấn định thiệt hại khá chi tiết, xét về cơ bản đã
đảm bảo được quyền lợi của cả người bị thiệt hại và người gây thiệt
hại. Đây được coi là những chuẩn mực pháp lý vững chắc cho các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cũng như Tòa án làm căn cứ giải quyết
các tranh chấp dân sự nói chung cũng như việc giải quyết bồi thường
một cách đúng đắn trên thực tế.
23

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


Bài tập học kỳ Luật Dân sự

IV. Thực trạng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác & Kiến nghị.

1. Thực trạng
Những năm gần đây, số lượng những vụ việc xâm phạm quyền
được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được giải quyết tại cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền tăng lên đáng kể, đặc biệt là số vụ việc được
giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Toà án. Mặc dù những vụ việc này
chủ yếu được giải quyết tại các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí
Minh, Hà nội và phần lớn liên quan đến cá nhân, tổ chức hoạt động văn
học, nghệ thuật, tuy nhiên, điều này cũng chứng tỏ mức độ nhận thức
cao hơn của cá nhân, tổ chức về quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín và hoạt động giải quyết những vụ việc bồi thường thiệt
hại do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của Tòa án.
Tuy nhiên, thực tế của việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín còn khá nhiều bất cập như :
- Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gặp khó khăn trong xác định
hành vi xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín.
- Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gặp khó khăn trong xác định
mức bù đắp tổn thất tinh thần. Thực tế, bên bị xâm phạm quyền được
bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín thường chứng minh tổn thất tinh
thần và yêu cầu được bồi thường nhưng mức bồi thường trong bản án,
quyết định của Toà án lại rất nhỏ so với tổn thất mà bên bị xâm phạm
phải ghánh chịu. Chính vì vậy, bên bị xâm phạm không thấy thoả đáng;
bản án, quyết định của Toà án không mang tính thuyết phục, thậm chí
còn gây khiếu kiện kéo dài.
Trong lĩnh vực bồi thường tổn thất về tinh thần còn một vấn đề
nổi cộm, hết sức bức xúc hiện được rất nhiều người quan tâm đó là
24

Đoàn Thị Thu Hiền - 341219



Bài tập học kỳ Luật Dân sự

việc bồi thường những tổn thất về tinh thần trong các trường hợp bị
báo đài đưa tin sai sự thật và đặc biệt là những người bị bắt giam, bị
xét xử oan. Những tổn thất về tinh thần của những người này có thể nói
là không nhỏ song hiện nay ta chưa có quy định về quy chế cũng như
quỹ để giải quyết vấn đề bồi thường này. Mặt khác những tổn thất về
tinh thần trong các trường hợp nêu trên không chỉ ở chính những người
bị thiệt hại phải gánh chịu mà cả gia đình, những người thân thích của
họ phải chịu đựng những tổn thất về tinh thần như nỗi xấu hổ, mất cơ
hội việc làm…Do vậy ngoài những tổn thất về tinh thần của chính nạn
nhân được bồi thường thì những tổn thất về tinh thần của gia đình,
người thân gần gũi nhất với họ có được xem xét giải quyết không?
2. Kiến nghị
Để trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác được áp dụng tốt hơn trong cuộc sống,
vấn đề cần hướng đến là cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật
liên quan đến bảo vệ quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín;
đồng thời cần nâng cao nhận thức của mọi tổ chức, cá nhân trong xã
hội để quyền này được tôn trọng và bảo vệ tốt hơn. Để làm được như
thế, chúng ta phải thực hiện một số biện pháp cụ thể :
- Thường xuyên tổng kết đánh giá tình hình áp dụng pháp luật,
nắm bắt tình hình phản ánh Tòa án nhân dân các địa phương về khó
khăn vướng mắc xung quanh việc thực hiện những quy định của bộ
luật dân sự trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt
hại do xâm phạm đến các quyền nhân thân của các cá nhân trong xã
hội.

25


Đoàn Thị Thu Hiền - 341219


×