Tải bản đầy đủ (.pdf) (1,949 trang)

Đại cương văn học sử Trung QuốcNguyễn Hiền Lê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.91 MB, 1,949 trang )


ĐẠI CƯƠNG
VĂN HỌC SỬ TRUNG QUỐC
(TRỌN BỘ)
Tác giả: Nguyễn Hiến Lê
Nhà xuất bản: Trẻ
Năm xuất bản: 1997.
嗟乎文章之事寸心千古
Ta hồ! Văn chương chi sự thốn tâm thiên
cổ
(Cổ văn)
Tạo ebook lần đầu (10/09/‘13): Goldfish
www.e-thuvien.com
Tạo lại lần hai (10/04/‘15): QuocSan.


MỤC LỤC:

Vài lời thưa trước
Thay lời giới thiệu
Lời nhà xuất bản
Tựa
Phàm lệ
Lời mở đầu
1. Văn học là gì?
2. Văn học của v ăn nhân v à của bình dân
3. Nội dung v à hình thức
4. Văn học Trung Quốc
Tổng kết
Phần I: Văn học trước đời Tần
§I: Khởi nguy ên


§II: Văn nghị luận của các triết gia
§III: Văn ký sự
§IV: Kinh thi
§V: Sở từ
Phần II: Từ đời Tần đến đời Tuỳ
§I: Văn trào hai đời Tần, Hán
§II: Văn xuôi đời Tần, Hán
§III: Phú, nhạc phủ v à thơ đời Hán
§IV: Thời Kiến An (196-220)
§V: Văn trào các đời Nguỵ , Tấn, Nam Bắc
Triều v à Tuỳ (221-621)
§VI: Văn xuôi từ Nguỵ tới Tuỳ
§VII: Từ, phú v à thơ
Phần III: Văn học đời Đường
§I: Văn trào đời Đường (618-907)
§II: Văn xuôi đời Đường
§III: Thơ đời Sơ Đường
§IV: Thơ đời Thịnh Đường – Lý Bạch
§V: Thơ Thịnh Đường (tiếp) – Phái Xã Hội


§VI: Thơ Thịnh Đường (tiếp) – Phái Biên Tái
§VII: Thơ Thịnh Đường (tiếp) – Phái Tự Nhiên
§VIII: Thơ Thịnh Đường (tiếp) – Phái Quái Đản
§IX: Vài thi hào khác thời Thịnh Đường
§X: Vãn Đường
§XI: Nhạc phủ v à từ đời Đường
Phần IV: Văn học các đời Ngũ Đại v à Tống
§I: Văn trào đời Ngũ Đại (907-960)
§II: Văn trào đời Tống (960-1279)

§III: Văn xuôi đời Tống
§IV: Thơ đời Tống
§IV: Từ đời Tống
Phần V: Văn học các đời Nguy ên, Minh, Thanh
§I: Văn học đời Nguy ên (1234-1368)
§II: Văn trào đời Minh (1368-1660)
§III: Cổ v ăn v à thơ đời Minh
§IV: Tuồng v à tiểu thuy ết đời Minh
§V: Văn trào đời Thanh (1616-1911)
§VI: Văn học chính thống đời Thanh
§VII: Tuồng v à tiểu thuy ết đời Thanh
Phần VI: Văn học hiện đại
§I: Hai cuộc cách mạng trong v ăn
§II: Tác giả hiện đại
Tổng kết
1. Trước khi bước chân ra
2. Văn tự Trung Hoa
3. Các v ăn trào trải qua các thời đại
4. Sự phát triển của các thể v ăn thơ
5. Những đặc sắc, ưu điểm cùng liệt điểm của
v ăn học Trung Quốc so v ới v ăn học Âu, Mỹ
Đọc thêm: Trích Hồi ký Quách Tấn



Vài lời thưa trước

Tôi tạo lại ebook này, lấy ebook của bác
Goldfish làm gốc, điều chỉnh lại một ít ở phần
định dạng (như hạn chế màu sắc, làm gọn các

liên kết và các định dạng khác).
Trước đây bác Goldfish đã chép một đoạn
trong Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê làm bài Thay
lời giới thiệu, bổ sung rất nhiều chú giải (trên
360 chú giải!) và cả các hình ảnh rất hữu ích.
Nay bác Goldfish tham khảo bản in bộ Đại
cương Văn học sử Trung Quốc trong Tuyển
tập Nguyễn Hiến Lê IV: Văn học (Nxb Văn
học, năm 1993) để sửa lỗi thêm (trong đó có
rất nhiều lỗi do bác ấy đã gõ sai) và bổ sung
vài chú thích. Ngoài ra, cũng nhờ bác
Goldfish gửi đoạn trích Hồi ký Quách Tấn
(do bạn Tovanhung – TVE đánh máy), nên
tôi bổ sung luôn vào cuối ebook này (phần
Đọc thêm).
Trong lúc xử lý để ebook khi tạo ra gọn


hơn, có thể có vài chỗ trình bày chưa tốt.
Chân thành cảm ơn bác Goldfish và trân
trọng giới thiệu cùng các bạn.
QuocSan.



THAY LỜI GIỚI THIỆU[1]

Công trình mệt cho tôi nhất – mệt mà thú –
hồi tản cư ở Long Xuyên nhất là viết bộ Đại
cương văn học sử Trung Quốc gồm ba

cuốn: I. Từ thượng cổ đến đời Tuỳ; II. Đời
Đường; III. Từ Ngũ đại đến hiện đại.
Viết bộ đó chủ ý của tôi cũng là để tự
học. Trong bài Tựa – mà tôi lấy làm đắc ý –
tôi nói hồi ở trường Bưởi tôi đã tò mò muốn
biết về văn học Trung Quốc. Nền cổ học
Trung Quốc như có sức gì huyền bí thu hút
tôi, một thanh niên theo Tây học. Mỗi lần
nghe đúng tên như Văn tâm điêu long,
Chiêu Minh văn tuyển, Tiền Xích Bích phú,
Qui khứ lai từ… dù chẳng hiểu nghĩa, tôi
cũng thấy trong lòng vang lên một điệu trầm
trầm, như nhớ nhung cái gì. Phải chăng đó là
tiếng vang những giọng ngâm nga của tổ tiên
tôi còn văng vẳng trong lòng tôi?


Muốn tìm hiểu văn học Trung Quốc mà
sách báo Việt chỉ làm cho tôi thất vọng. Cuốn
Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính sơ
lược quá; còn đọc những bài dịch Cổ văn,
thơ Đường đăng lác đác trên tạp chí Nam
Phong và một số báo khác thì không khác gì
coi mấy bông sói, bông hồng, bông ngâu,
bông móng rồng mà mấy chị bán hoa ở phố
Hàng Đường (Hà Nội) gói trong chiếc lá
chuối, chứa trong cái thúng để bán cho các
bà nội trợ mua về cúng rằm, làm sao biết
được vườn làng Ngọc Hà, làng Yên Phụ ra
sao.

Tôi chỉ còn cách học chữ Hán để đọc
sách của người Trung Hoa viết. Khi đã có
một số vốn độ 3.000 chữ, đủ để mò trong
các tự điển Trung Quốc, tôi kiếm mua mấy
bộ Cổ văn, Đường thi, Văn học sử, Bạch
thoại văn học sử, Trung Quốc văn học tư
trào sử lược… như tôi đã nói (chương XIII),
rồi mò mẫm lần. Thật khó nhọc vô cùng! Đọc
một bài trong Cổ văn quan chỉ dài độ hai


mươi hàng, tôi thường mất cả buổi mà chỉ
hiểu lờ mờ. Bộ ấy chú thích rõ ràng, và có
dịch cổ văn ra bạch thoại; nhưng cổ văn và
bạch thoại của tôi đều ở mức sơ đẳng, phải
dùng cổ văn để đoán bạch thoại và ngược lại
dùng bạch thoại để đoán cổ văn.
Còn những cuốn Văn học sử thì tuyệt
nhiên không có chú thích, nhiều chỗ tôi phải
viết thư hỏi bác tôi, nhưng không dám hỏi
nhiều vì mất công bác viết thư trả lời. Đành
đọc nhiều sách, nhiều lần rồi vỡ nghĩa dần.
Học tới đâu tôi tóm tắt, ghi tới đấy, so
sánh các sách, sắp đặt rồi chép trong những
tập vở 100 trang. Sau cùng dịch một số bài
văn thơ, viết thành chương. Nội công việc
dịch và viết này cũng mất chín, mười tháng.
Các bài cổ văn thì tôi dịch lấy, thơ tôi dịch
được một số, bác tôi dịch cho một số lớn.
Bài thơ nào không đề tên người dịch là của

tôi, đề “Vô danh dịch” là của bác tôi[2]. Hai
bác cháu đều chú trọng nhất tới đức “tín”,


nghĩa là dịch sao cho đúng, cho sát, không
dám sửa lời, thêm ý. Chúng tôi biết nhiều bài
người trước đã dịch rồi mà hay, nhưng vì ở
Long Xuyên thiếu sách, tôi không thể kiếm
được, nên không dẫn vô.
Tôi viết như vậy cốt để học, chứ không
nghĩ đến việc in. Viết xong, thấy có thể giúp
cho các bạn hiếu học có một khái niệm về
văn học Trung Quốc nên mới sửa lại rồi cho
xuất bản. Sự nhận định của tôi chắc không sai
nhiều vì tôi đã tham khảo kĩ, bằng những
phương tiện tôi có; bố cục có mạch lạc và
sáng sủa; nhưng tôi nhận rằng còn những lỗi
dịch sai, nhất là phiên âm sai, mặc dầu vậy tôi
cũng cứ cho ra mắt độc giả. Sở dĩ “tôi cả gan
như vậy là vì tin lòng quảng đại của các vị
cựu học, không nỡ trách kẻ hậu tiến học thức
nông cạn mà sẵn lòng hạ cố chỉ bảo cho
những chỗ sai lầm, hầu giúp bọn tân học
chúng tôi hiểu thêm cái cổ học của các cụ,
tức là cái nền tảng văn hóa dân tộc Việt Nam
chúng ta” (trích trong bài Tựa).


Văn học Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn
đến văn học Việt Nam mà các cụ quá khiêm

tốn không chịu viết thì bọn xẩm như tôi đành
phải mò kim vậy.
Viết xong tôi chép lại, khoảng 750 trang,
mất ba tháng nữa (vì có nhiều chữ Hán và bài
nào cũng có phần phiên âm).
Ngày 20 tháng mạnh đông năm Quý Tị
(26-XI-1953), mọi công việc hoàn thành, tôi
thấy khoan khoái. Tôi thảo bài Tựa, cuối bài
ghi cảnh trăng khuya trong vườn hoa ở phòng
viết trông ra:
“Trăng mới ló dạng. Cảnh vật đang tối
tăm, bí mật bỗng hoá ra êm đềm nên thơ.
Nhành liễu là đà lấp lánh bên dòng nước.
Giò huệ rung rinh toả hương dưới bóng
dừa. Đêm nay tôi muốn thả hồn tìm thi
nhân cùng danh sĩ Trung Hoa thời trước.
“Hỡi hương hồn chư vị ấy! Tôi mang ơn
chư vị rất nhiều, gần bằng mang ơn văn


nhân nước tôi; vì từ hồi mới sanh, tôi đã
được nghe lời ngâm Chinh phụ, Thuý Kiều
xen lẫn với lời bình văn thơ của chư vị và
ngay trong văn học nước tôi cũng thường
thấy ẩn hiện nỗi của lòng chư vị. Tâm hồn
tôi ngày nay một phần cũng do chư vị đào
luyện nên.
“Viết cuốn này tôi muốn có cơ hội gần chư
vị thêm một chút. Tác phẩm của chư vị
quá nhiều, tôi không đọc hết, nên ngoài

cái lỗi giới thiệu vụng về, tất còn mang
thêm cái tội vô tình xuyên tạc. Xin chư vị
lượng thứ”.
Mới có 27 năm mà cảnh tôi tả trong đoạn
đó nay đã thay đổi hẳn: dòng kinh đã lấp, gốc
liễu đã không còn, nhưng thêm được hai cây
hoàng lan, chiều tối hương thơm ngào ngạt cả
một xóm.
Bác tôi mừng tôi hoàn thành tác phẩm,
cho tôi hai bài thất ngôn tứ tuyệt:
紅紫門前鬥艶香


滿盤詩史費平章
金風鉄馬閒中過
一匣青山自主張
Hồng tử môn tiền đấu diễm hương,
Mãn bàn thi sử phí bình chương.
Kim phong thiết mã nhàn trung quá,
Nhất hạp thanh sơn tự chủ trương.
伱自編之我閱之
一家樂事在相知
何須更向東西問
继往開來更属誰
Nễ tự biên chi ngã duyệt chi
Nhất gia lạc sự tại tương tri.
Hà tu cánh hướng đông tây vấn,
Kế vãng khai lai cánh thuộc thuỳ?
Dịch nghĩa:
(1) Trước cửa, các hoa đỏ, tía tranh

nhau phô hương sắc,
Trên bàn đầy thi sử, khó nhọc phê
bình.
Gặp lúc nhàn trong thời buổi binh đao,
Có chủ trương lưu lại một hộp sách


trong núi xanh (lưu tác phẩm cho đời
sau)
(2) Cháu cứ viết đi, bác duyệt cho,
Cái vui trong gia đình ở chỗ bác cháu
hiểu nhau.
Cần chi phải hỏi người bên đông bên
tây,
Việc kế vãng khai lai còn tuỳ thuộc
vào ai nữa.
Bác tôi còn cho tôi hai câu đối:
古色古香文自古
辛心辛筆世方辛
Cổ sắc cổ hương văn tự cổ
Tân tâm tân bút thế phương tân.
一門文獻堪徵史
两國兵焚不滅書
Nhất môn văn hiến kham trưng sử
Lưỡng quốc binh phần bất diệt thư
Dịch nghĩa:
(1) Sắc cổ, hương cổ, văn thời cổ
Lòng mới, bút mới, đời vừa mới



(2) Một nhà văn hiến có thể ghi vào sử
Lửa binh hai nước không diệt được
sách.
Bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc,
ông P. Văn Tươi nhận là có giá trị nhưng
không chịu xuất bản vì in rất tốn (phải sắp
chữ Hán) mà khó bán. Năm 1955 tôi lại phải
bỏ vốn ra in, 1956 mới xong[3]. Chỉ in 1.500
bản, tốn 75.000đ (mỗi cuốn 25.000đ). Giá
vàng hồi đó vào khoảng 4.000đ – 5.000đ
một lượng. Bán một năm được khoảng 500600 bộ, đủ vốn; số còn lại bán bảy tám năm
sau mới hết. Vậy, làm cái nghề viết văn cũng
cần có vốn kha khá thì mới giữ được chí
hướng, làm được những việc mình thích, mà
chẳng phải tuỳ thuộc ai. Nếu tôi không có
xuất bản lấy thì 10-15 năm sau chưa chắc đã
có nhà chịu in cho, lòng ham viết tất phải
nguội dần mà sẽ không viết thêm được cuốn
nào về cổ học Trung Hoa nữa.
In xong tôi mang về Long Xuyên ngay để


bác Ba tôi coi. Tôi buồn rằng cha mẹ tôi và
bác Hai tôi không còn. Tôi đã không phụ
công của ba người thân đó. Trang đầu sách
tôi đề:
KÍNH DÂNG
Hương hồn Thân mẫu tôi,
Người đã cho tôi học thêm chữ Hán
ở giữa thời tàn tạ của Nho học[4].

Bộ đó năm 1964 nhà Khai Trí tái bản[5]; in
2.000 bản, được viện Đại học Huế khuyên
sinh viên đọc; nhưng năm 1974 bán vẫn chưa
hết. Lần tái bản này tôi chỉ sửa được một
phần lỗi trên bản flan (bản để đổ chì) thôi, vì
sắp chữ lại thì tốn công lắm.
(Trích Hồi kí Nguyễn Hiến Lê – Nxb Văn
học, năm 1993, tr. 444-446)



LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Văn học Trung Quốc có bề dày trên
3.000 năm, thuộc những nền văn học đồ sộ
và rực rỡ nhất thế giới.
Do hoàn cảnh lịch sử và địa lý, văn học
Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu đậm nền
văn hóa lâu đời này.
Từ lâu, các nước phương Tây đã có nhiều
công trình nghiên cứu văn học Trung Quốc rất
công phu và khoa học.
Trước đây, ở nước ta có “Việt Hán văn
khảo” của Phan Kế Bính; tuy là công trình có
giá trị tiên phong trong lãnh vực này, nhưng
tiếc là còn sơ lược quá.
Trong kho tàng văn học đồ sộ ấy, một
người “dù chỉ chuyên đọc trong 50-60 năm
cũng vị tất đã coi được đủ và kỹ, đừng nói
đọc rồi còn phân tích, so sánh, lựa chọn, tổng

hợp, phê bình…”(¹). “Nhưng không phải vì


vậy mà người Trung Quốc không viết về văn
học sử của họ và người Anh, người Pháp…
không viết về văn học sử Trung Quốc”(¹).
Học giả Nguyễn Hiến Lê, từ nhỏ đã say
mê nền cổ học Trung Quốc. Ông được may
mắn được thầy, chú và các bậc túc nho
đương thời chỉ dạy. Có được vốn Hán học
ban đầu, ông dốc tâm tự học và dày công
nghiên cứu. “Học đến đâu ghi đến đấy. Khi
học thì chỉ ham mê tìm hiểu cái đẹp mà không
có ý viết sách. Khi học xong, thấy công việc
ghi chép ấy có thể giúp các bạn hiếu học một
khái niệm về văn chương Trung Quốc, nên
mới sửa lại rồi cho xuất bản”(¹) quyển sách
Đại cương văn học sử Trung Quốc. Đây là
lần tái bản thứ ba 1997, cách lần thứ nhất
1962(²), lần thứ hai 1964, trên 30 năm. Trong
thời gian ấy, chắc rằng số lượng tác phẩm viết
về văn học sử Trung Quốc, cả trong và ngoài
nước, rất nhiều. Nếu học giả Nguyễn Hiến Lê
còn sống, nhất định ông sẽ có những hiệu
đính, bổ sung nhiều tư liệu, nhiều chương giá


trị, nhất là nền văn học đương đại – từ 1949,
trải qua Cách mạng văn hóa và hậu Cách
mạng văn hóa đến nay.

Để đáp ứng phần nào nhu cầu học hỏi của
những người yêu thích văn học Trung Quốc,
trong khi chờ đợi những công trình nghiên cứu
đầy đủ và khoa học hơn của các nhà “Trung
Quốc học” Việt Nam, chúng ta xin giới thiệu
“Đại cương văn học sử Trung Quốc” này
cùng quí bạn.



TỰA[6]

Khi soạn bộ này, tôi được sống lại
những ngày vui cách đây 25 năm.
Hồi ấy, tới vụ nghỉ hè nào, tôi cũng về Sơn
Tây ở với bác tôi[7] trong một ngôi nhà cổ,
dưới bóng tre, giữa một cánh đồng lúa,
bên bờ sông Nhị. Cảnh thì có núi, có gò,
có đầm, có lạch, không khí thì thơm tho,
lúc nào cũng văng vẳng những tiếng sáo
diều, tiếng ca hát của thôn nữ cùng tiếng
ngâm thơ của nhà nho. Tôi thích nhất là
giọng bình văn: nó ung dung, nghiêm
trang và thanh nhã làm sao! Tôi thích đến
nỗi mỗi lần bác tôi chỉ nhắc tới những tên
như Văn tâm điêu long, Chiêu minh văn
tuyển, Tiền Xích Bích phú, Qui khứ lai từ…
là trong lòng tôi cũng vang lên một điệu
trầm trầm, như nhớ nhung cái gì. Những
lúc ấy, tôi thấy trời như cao hơn, mây như

nhẹ hơn.


Không hiểu tại sao tôi lại có cảm tưởng lạ
lùng đó và cho những cái tên như
Corneille, Hugo thô tục, chẳng du dương
như những tên Lý Bạch, Đào Tiềm. Nào có
phải tôi không yêu tiếng Pháp. Gặp dịp
được khoe một câu tiếng tây bồi với các
ông Lý, ông Chánh trong làng, tôi vẫn
hãnh diện lắm chứ và có ai mà bảo tôi cái
học “tây u” là cái học vong bản thì tôi
giận đến đỏ mặt lên được chứ! Nhưng nền
cổ học vẫn có sức gì huyền bí thu hút tôi.
Sức huyền bí đó phải chăng là những tiếng
ngâm nga từ ngàn năm về trước còn văng
vẳng trong tâm hồn tôi? Có lẽ vậy. Và tôi
muốn biết nền cổ học ra sao mà làm tôi
say mê được đến bực ấy.
Một hôm đứng hầu trà bác tôi, tôi được
nghe bốn tiếng “Văn tâm điêu long”. Đợi
bác tôi ngừng nói để hút điếu thuốc lào,
tôi đánh bạo hỏi:
- Thưa bác “Văn tâm điêu long” là gì?
Phà khói thuốc lên nóc nhà, bác tôi mỉm


×