Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

giáo dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý trong lớp học hòa nhập mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.58 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH

GIÁO DỤC HÀNH VI CHO TRẺ
RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý
TRONG LỚP HỌC HÒA NHẬP MẦM NON
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non

Người hướng dẫn khoa học
ThS. LÊ THỊ NGUYÊN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo, ThS. Lê Thị
Nguyên - giảng viên khoa Giáo dục Tiểu học, trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2 - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình thực
hiện và hoàn thành khóa luận.
Tác giả cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô giáo
trong khoa Giáo dục Tiểu học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ,
tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập tại nhà trường.
Xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trường
mầm non Ngô Quyền (Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc) đã tạo điều kiện cho tác giả
điều tra, khảo sát các vấn đề thực tiễn có liên quan đến phạm vi nghiên cứu
của đề tài.
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2014
Người thực hiện



Nguyễn Thị Như Quỳnh


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tác giả, nội
dung khóa luận không trùng với bất cứ một công trình nghiên cứu nào.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm
2014
Người thực hiện

Nguyễn Thị Như Quỳnh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADHD
ADD
ADS
DAMP
DSM

ICD

MCD
GV
HV

Attention Deficit Hyperactivity Disorder- rối loạn tăng động
giảm chú ý
Attention Deficit Disorder -rối loạn giảm chú ý

Attention-deficit syndrome
Deficits in Attention, Motor control and Perception
Diagnostic anh statistical Manual of Mental Discorders - Sổ
tay chẩn đoán và phân loại bệnh tâm thần (của hội tâm thần
học Hoa Kỳ)
International Statistical Classification of Diseases and Related
Health Problems - Hệ thống phân loại quốc tế các bệnh và
vấn đề sức khỏe liên quan (hiện nay dùng
ICD-10)
Minimal Cerebral Dysfunction
Giáo viên
Hành vi

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chăm sóc giáo dục trẻ em trở thành con người phát triển toàn diện là
mục tiêu trọng tâm của nền giáo dục nước ta. Trẻ khuyết tật cũng là một nhóm
trẻ trong xã hội. Do đó, trẻ khuyết tật cần được quan tâm, chăm sóc và tạo
mọi cơ hội học tập để có thể phát triển bình thường như bao trẻ khác. Xuất
phát từ quan điểm đó, việc chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật đã được khẳng
định là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân. Theo các văn bản pháp
luật quốc gia cũng như Công ước của Liên Hiệp Quốc về người khuyết tật, thì
quyền được giáo dục là một trong những quyền cơ bản của trẻ khuyết tật.
Năm 2006 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quy định về giáo dục hoà
nhập cho trẻ khuyết tật với các hướng dẫn cụ thể. Đến năm học 2009-2010,
công văn số 7712 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về hướng dẫn thực hiện nhiệm
vụ năm học, cũng đề cập đến việc thực hiện giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết

tật. Trẻ khuyết tật cần được chăm sóc nuôi dưỡng đặc biệt để tồn tại và phát
triển. Bởi, trẻ khuyết tật có những khó khăn đặc thù trong các hoạt động học
tập, vui chơi và lao động do bị tổn thương về cơ thể hoặc rối loạn các chức
năng nhất định gây nên. Trong đó, rối loạn tăng động giảm chú ý là một hội
chứng thường gặp ở trẻ em. Nó gây nên những khó khăn nhất định cho trẻ
trong mọi hoạt động.
Theo thống kê cứ 100 trẻ thì có từ 3 đến 5 trẻ mắc rối loạn tăng động
giảm chú ý với một số triệu chứng bắt đầu trước tuổi lên 7. Những trẻ mắc hội
chứng này thường có biểu hiện: hoạt động quá mức, khó kiểm soát hành vi,
kém khả năng tập trung chú ý gây nhiều khó khăn trong sinh hoạt, học tập và
trong các mối quan hệ xã hội.
Trong điều kiện của Việt Nam, hiện nay các trẻ rối loạn tăng động giảm
chú ý, đặc biệt là các trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý ở mức độ trung bình

5


và nặng khó có thể theo học ở các trường học bình thường. Tại các trường học
chuyên biệt, giáo viên sẽ lập chương trình riêng cho mỗi trẻ, xác định nhu cầu
của mỗi trẻ và phối hợp với gia đình để cùng giúp trẻ học tập và phát triển.
Nhưng không phải nơi nào cũng có điều kiện để trẻ được học tại các
trường chuyên biệt, một số trẻ phải đến trường bình thường như bao trẻ khác.
Do đó, việc giáo dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý chưa được
quan tâm.
Trên thực tế, những trẻ mắc hội chứng rối loạn tăng động giảm chú ý
ngày càng phổ biến, những hành vi do rối loạn tăng động giảm chú ý ảnh
hưởng trực tiếp đến các hoạt động thể chất và tinh thần. Vì vậy, để giúp trẻ có
thể tham gia các hoạt động và hòa nhập với xã hội một cách dễ dàng thì giáo
dục hành vi cho trẻ là điều cần thiết.
Mặc dù, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về rối loạn tăng

động giảm chú ý nhưng giáo dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng động giảm chú
ý trong lớp học hòa nhập vẫn là một vấn đề cần được đặt ra, và làm thế nào để
trẻ rối loạn năng động giảm chú ý có thể nhận thức được hành vi của mình.
Cha mẹ, giáo viên, nhà trường và các ngành giáo dục cần phải làm gì và đâu
là giải pháp tốt… Xuất phát từ những lí do trên người nghiên cứu chọn đề tài:
“Giáo dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý trong lớp học hòa
nhập mầm non”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp giáo dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng động giảm
chú ý trong lớp học hòa nhập mầm non, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả
giáo dục cho trẻ ADHD ở các trường mầm non hòa nhập.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc giáo dục hành vi của trẻ
rối loạn tăng động giảm chú ý trong lớp học hòa nhập mầm non.

6


- Đề xuất biện pháp giáo dục hành vi của trẻ rối loạn tăng động giảm
chú ý trong lớp học hòa nhập mầm non.
- Minh họa một số biện pháp giáo dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng
động giảm chú ý trong lớp học hòa nhập mầm non.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm hành vi và các yếu tố ảnh hưởng đến
hành vi của trẻ mắc hội chứng ADHD (lứa tuổi 3- 6 tuổi) trong lớp học hòa
nhập mầm non.
- Khách thể nghiên cứu: các hành vi, hoạt động của trẻ mắc hội chứng
ADHD ở trường, lớp hòa nhập mầm non.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn nghiên cứu trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý lứa tuổi từ

3- 6 tuổi.
Địa bàn nghiên cứu: trường mầm non Ngô Quyền (Vĩnh Yên- Vĩnh
Phúc) trung tâm giáo dục đặc biệt Nắng Mai (Số 36, Tổ 21, Khu đô thị Mỹ
Đình I, Từ Liêm, Hà Nội); trung tâm Khánh Tâm (65 Trần Hữu Tước, phường
Nam Đồng, quận Đống Đa, Hà Nội)
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp nghiên cứu lí luận
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp
- Phương pháp thực nghiệm khoa học

7


7. Giả thuyết khoa học
Nếu các biện pháp giáo dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng động giảm chú
ý trong lớp học hòa nhập mầm non được sử dụng và phối hợp một cách hệ
thống, thường xuyên và linh hoạt; phù hợp với đặc trưng các dạng hoạt động
của trẻ ở trường mầm non hòa nhập, thì sẽ góp phần cải thiện hành vi cho trẻ.
8. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
khóa luận gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc giáo dục hành vi cho trẻ
rối loạn tăng động giảm chú ý trong lớp học hòa nhập mầm non.
Chương 2: Biện pháp giáo dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng động giảm
chú ý trong lớp học hòa nhập mầm non.
Chương 3: Thử nghiệm biện pháp giáo dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng

động giảm chú ý trong lớp học hòa nhập mầm non.

8


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
GIÁO DỤC HÀNH VI CHO TRẺ RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG
GIẢM CHÚ Ý TRONG LỚP HỌC HÒA NHẬP MẦM NON
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu về hội chứng rối loạn tăng động giảm chú ý
Hội chứng rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) đã được tiến sĩ
Heinrich Hoffman mô tả lần đầu tiên vào năm 1845. Ông là bác sĩ từng viết
sách y khoa và tâm thần học, ngoài ra ông cũng có những sáng tác thơ cho trẻ
em khi ông không thể tìm được tài liệu nào để đọc và giải nghĩa cho hành vi
của cậu con trai 3 tuổi. Kết quả là một tập thơ ra đời, trong đó ông chủ yếu đề
cập đến trẻ em với những mô tả về nét tính cách của chúng, kèm theo các
hình ảnh minh họa. Trong sáng tác của ông có thể kể đến tác phẩm tiêu biểu
đó là “Câu chuyện của Fidgety Philip” đây là câu chuyện kể về một cậu bé
mắc hội chứng tăng động giảm chú ý với những biểu hiện và mô tả đầu tiên
về hội chứng này. Tuy nhiên, những mô tả mới chỉ là bước đầu có đề cập đến
một vài đặc điểm nhưng chưa đưa ra một cái nhìn chung về trẻ ADHD. Mãi
cho đến năm 1902, một loạt bài giảng mô tả về một nhóm trẻ ADHD, trong
đó đặc biệt nói đến hành vi ứng xử của nhóm trẻ này mới được xuất bản bởi
George F.Still dành cho việc giảng dạy tại trường Cao đẳng Y học Hoàng Gia.
Những bài giảng chứng minh ADHD là do sự rối loạn chức năng gen gây ra
chứ không phải do sự giáo dục của cha mẹ. Kể từ đó, rất nhiều công trình
khoa học nói về hội chứng ADHD đã được công bố, bao gồm những thông tin
về biểu hiện, diễn biến, nguyên nhân và cách điều trị.
Bên cạnh những nghiên cứu nêu trên, một cách nhìn nhận khác về
ADHD và cơ chế gây ra nó cũng bắt đầu hình thành. ADHD xuất phát từ trận

dịch viêm não trên thế giới từ năm 1917-1926. Kết quả của trận đại dịch để lại
hậu quả rất lớn ở trẻ đó là nó gây ra nhiều vấn đề về hành vi bao gồm kém

9


chú ý, quá hiếu động và dễ bị kích thích. Những trẻ này và những trẻ bị chấn
thương khi sinh, hoặc tiếp xúc với các chất độc hại cũng có biểu hiện các vấn
đề về hành vi được gọi là “Hội chứng trẻ em bị tổn thương não”, thường có
kèm theo chậm phát triển trí tuệ. Trong những năm 1940 đến 1950, thuật ngữ
này cũng được áp dụng cho những trẻ có biểu hiện và các hành vi tương tự
nhưng không có bằng chứng tổn thương não hoặc chậm phát triển trí tuệ, và
được gọi với tên: “Tổn thương não tối thiểu” (Minimal brain damage) hoặc
“Rối loạn chức năng não tối thiểu” (Minimal brain dysfunction). Những
thuật ngữ này làm cho mọi người kết luận một cách dễ dàng rằng nguyên
nhân của những vấn đề về hành vi là do nguyên nhân thực thể. Mặc dù, một
vài trường hợp ADHD có thể được giải thích bởi các chấn thương não nhưng
những giả thuyết về tổn thương não đó cuối cùng bị từ chối (vì nó chỉ giải
thích được một số ít các trường hợp).
Vào những năm cuối của thập niên 1950, ADHD được xem như là tăng
động (Hyperkinesis) và cho rằng nguyên nhân là do sự sàng lọc kém các kích
thích đi vào trong não. Quan điểm này dẫn đến một định nghĩa về “Hội
chứng tăng động ở trẻ em” (Hyperactive child syndrome), trong đó sự hoạt
động quá mức của hệ vận động được xem là những đặc tính cốt lõi của
ADHD (Chess, 1960). Tuy nhiên, người ta sớm nhận ra rằng tăng động không
chỉ là vấn đề duy nhất. Trẻ còn gặp một loạt các vấn đề khác như không có
khả năng điều chỉnh hoạt động và các vận động để đáp ứng các tình huống cụ
thể.
Cho tới năm 1970, người ta tranh luận rằng ngoài việc tăng hoạt động,
giảm chú ý thì việc kiểm soát hoạt động cũng được xem là những triệu chứng

chủ yếu của ADHD. Giả thuyết này được chấp nhận rộng rãi, ảnh hưởng rất
lớn (được xem như cơ sở) cho sự phân loại các tiêu chí chẩn đoán trong các
tiêu chuẩn của DSM. Những năm gần đây, người ta xác định đặc trưng chủ
yếu của rối loạn này là các triệu chứng về sự suy giảm khả năng tự điều chỉnh
và khó khăn trong việc ức chế hành vi (Barkley, 1997; Douglas, 1999; Nig,
2001). [13]
10


1.1.2. Những nghiên cứu về việc giáo dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng
động giảm chú ý
Cho đến nay, trên thế giới và ở Việt Nam đã có không ít các công trình
nghiên cứu về hội chứng ADHD ở trẻ em. Trong đó ở Việt Nam có thể kể đến
một số công trình nghiên cứu điển hình như: “Hướng nghiên cứu về trẻ có rối
loạn tăng động giảm chú ý” [Lê Thị Minh Hà, 2012]; “Thích nghi hóa bộ
trắc nghiệm Conner” [Nguyễn Công Khanh, 2003]; “Đặc điểm tâm lý tâm
sàng của học sinh tiểu học có rối loạn tăng động giảm chú ý” [Nguyễn Thị
Vân Thanh, 2010]; “Tâm lý học thần kinh” [Võ Thị Minh Chí, 2003]; “Rối
nhiễu hành vi: Tăng động giảm chú ý ở học sinh tiểu học” [Nguyễn Công
Khanh, 2002]; “Rối loạn tăng động - giảm chú ý” [Đặng Hoàng MinhHoàng Cẩm Tú, 2001]; “Thực trạng rối loạn tăng động giảm chú ý ở hai
trường tiểu học tại Hà Nội” [Nguyễn Thị Thanh Vân - Nguyễn Sinh Phúc,
2007]; “Thử ứng dụng một vài liệu pháp tâm lý trong trị liệu tăng động giảm
chú ý ở học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội” [Nguyễn Thị Hồng Nga, 2003]…
Như vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các mặt khác nhau của
trẻ ADHD: TS.Lê Thị Minh Hà đã nghiên cứu về biểu hiện hành vi của trẻ
rối loạn tăng động giảm chú ý và đã đánh giá hành vi của trẻ ADHD qua bốn
dạng đó là giảm chú ý, tăng động/xung đột, tăng động, xung đột. Nguyễn
Công Khanh đã xác định trắc nghiệm là công cụ hữu hiệu để phát hiện
ADHD…Những nghiên cứu trên đã chỉ ra những biểu hiện chung (nhiều khi
được coi là tiêu chí để chuẩn đoán trẻ ADHD) đó là trẻ bị suy giảm chức

năng tập trung chú ý, rất khó tập trung vào các hoạt động, gặp rất nhiều khó
khăn trong học tập, giao tiếp và quan hệ xã hội…Do đó, việc giáo dục hành
vi cho trẻ ADHD trong lớp học hòa nhập mầm non là một vấn đề cần được
quan tâm, cũng chính vì thế mà người nghiên cứu đã lựa chọn đề tài “Giáo

11


dục hành vi cho trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý trong lớp học hòa nhập
mầm non”
1.2. Hội chứng tăng động giảm chú ý ADHD ở trẻ em
1.2.1. Khái niệm và phân loại
Hội chứng tăng động giảm chú ý (ADHD)
Theo DSM - IV: ADHD là một dạng rối nhiễu về mặt phát triển diễn ra
trong suốt thời kì thơ ấu, với những triệu chứng quá hiếu động- hấp tấp và
giảm tập trung xuất hiện trước 7 tuổi [9, tr46].
Tác giả Nguyễn Thị Hoàng Yến đã mô tả khái niệm:
Hội chứng rối loạn tăng động giảm tập trung chú ý là một dạng rối loạn
gây ra những khó khăn vĩnh viễn biểu hiện ở một hoặc nhiều hành vi sau: a)
Thiếu chú ý; b) Quá hiếu động & c) Hấp tấp
- Thiếu chú ý: khó khăn trong việc tập trung vào các chi tiết hay tham
gia vào các công việc cụ thể; khó duy trì thời gian, mức độ tham gia công
việc; hay sai sót…
- Quá hiếu động: khó kiềm chế các hành vi; cơ thể luôn vận động không
ngừng
- Hấp tấp: khó kiểm soát các phản ứng.
ADHD là một trong những rối loạn phát triển thường gặp ở trẻ em, đặc
điểm chung của ADHD là những hành vi hiếu động quá mức đi kèm sự suy
giảm khả năng chú ý. Căn bệnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng
học tập và gây khó khăn trong quan hệ với mọi người [10]

ADHD là một rối loạn đặc trưng bởi sự kết hợp của một hành vi hoạt
động quá mức, thiếu kiềm chế với sự suy giảm chú ý rõ rệt và thiếu kiên trì
trong mọi công việc [11].
Theo ICD-10, rối loạn tăng động giảm chú ý có đặc điểm: dấu hiệu khởi
phát sớm, sự kết hợp của một hành vi hoạt động quá mức, kém kiểm tra với

12


thiếu chú ý rõ rệt và thiếu kiên trì trong công việc; và những đặc điểm hành vi
lan tỏa trong một số lớn hoàn cảnh và kéo dài theo thời gian.
Tóm lại, trên cơ sở tổng hợp các khái niệm về ADHD, tác giả nhìn nhận:
“Rối loạn tăng động giảm chú ý là một trong những rối loạn phát triển
thường gặp ở trẻ em, đặc điểm chung của ADHD là những hành vi hiếu động
quá mức đi kèm sự suy giảm khả năng chú ý thường xuất hiện trước 7 tuổi”.
ADHD ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng học tập và quan hệ giao
tiếp với mọi người. Theo DSM-IV, hiện nay hội chứng ADHD không chỉ tổn
tại với 3 biểu hiện chính như trên mà người ta còn xem xét ADHD đi kèm với
các biểu hiện khác như:
- Kém chịu đựng sự thất bại
- Thường xuyên bùng phát các cơn cáu giận
- Cư xử thiếu tôn trọng
Các nghiên cứu cho thấy một tỉ lệ không nhỏ trẻ ADHD được chuẩn
đoán kèm với rối loạn tính cách (Mood Disorders), rối loạn chống đối
(Oppositional Defiant Disorders), rối loạn lo âu (Anxiety Disorders)
Trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý lứa tuổi mầm non
Trẻ ADHD là những trẻ thiếu chú ý, quá hiếu động và bốc đồng, thường
vận động luôn chân luôn tay và trả lời trước khi cô đặt xong câu hỏi. [13].
Trẻ ADHD là những trẻ dễ bị sao nhãng, hay quên, luôn chuyển động,
nói năng liên tục. Lúc nào trẻ cũng có vẻ bồn chồn, nôn nóng, vội vàng trong

lời nói và hành động, không biết kiên nhẫn chờ đợi [5, tr343].
Như vậy trên cơ sở tổng hợp khái niệm về trẻ ADHD của một số tác giả,
người nghiên cứu cho rằng: Trẻ ADHD là những trẻ có biểu hiện giảm tập
trung, quá hiếu động và hấp tấp. Trẻ thường vận động không ngừng, không
chú ý nghe cô giảng bài, hay nói leo và tự ý rời khỏi vị trí.

13


Các thuật ngữ liên quan
Cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến liên quan đến các thuật ngữ hay định
nghĩa về ADHD. Những định nghĩa được đưa ra hầu hết đều mang tính mô tả
về những triệu chứng điển hình của hội chứng ADHD. Tuy nhiên, khi một
định nghĩa được xây dựng theo hình thức là một định nghĩa mô tả thì nó cũng
có những tồn tại nhất định. Sau đây là một số thuật ngữ được nhiều nhà
chuyên môn sử dụng khi nhắc tới hội chứng ADHD.
Phân loại DSM-IV sử dụng thuật ngữ ADHD (Attention- Deficit/
Hyperactivity Disorder), trong đó chia thành 3 dạng:
-

Dạng giảm tập trung ADD (Attention Deficit Disorder)
Dạng tăng động- hấp tấp
Dạng kết hợp (tăng động - hấp tấp, thiếu tập trung chú ý)
Ngoài ra, trường hợp những người có triệu chứng giống như ADHD
nhưng không đủ các tiêu chí để chuẩn đoán là ADHD theo ba dạng trên được
gọi là “ADHD không điển hình” (ADHD not Otherwise Specified).
Về ý nghĩa, thuật ngữ ADHD dùng để mô tả cho rối loạn tăng động giảm
tập trung. Thuật ngữ ADD để mô tả cho rối loạn giảm tập trung. Một người có
khả năng mắc ADD mà không hề tăng động, nói cách khác người đó có thể được
chuẩn đoán là ADHD hay ADD dựa vào việc người đó có tăng động hay không.

Do đó, để điều chỉnh cho khả năng một người mắc rối loạn chú ý có hay không
tăng động, hội chứng này được viết là AD(H)D - Attention - Deficit
(Hyperactivity) Disorder hoặc AD/HD - Attention-Deficit/Hyperactivity
Disorder).
Thuật ngữ của ICD: Những trẻ có triệu chứng của ADHD được gọi là
“Rối nhiễu Hyperkinnetic”. Dạng rối nhiễu này còn được ICD phân loại
thành “Rối nhiễu hoạt động và tập trung” (Disturbance of Activity and
Attention); “Các rối nhiễu Hyperkinnetic khác” (Other Hyperkinnetic

14


Disorders); “Rối nhiễu Hyperkinnetic không điển hình” (Hyperkinnetics
Disorders, Unspecified).
Một số thuật ngữ khác: Hội chứng giảm tập trung (Attention- deficit
syndrome- ADS). Thuật ngữ này tương đương với thuật ngữ ADHD, được
đưa ra vì các nhà chuyên môn không muốn gọi ADHD là một “Rối
nhiễu”/Disorder.
Thuật ngữ ADS (Attention-deficit syndrome) nghĩa là “Hội chứng giảm
tập trung”. Thuật ngữ ADS tương đương với thuật ngữ ADHD song được đưa
ra với là do một số nhà chuyên môn không muốn gọi hội chứng này là một
“Rối nhiễu” (Disorder)
Thuật ngữ MCD (Minimal Cerebral Dysfunction) nghĩa là “Giảm chức
năng não bộ tối thiểu”. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở Mỹ.
Thuật ngữ DAMP (Deficits in Attention, Motor control and Perception)
nghĩa là “Suy giảm khả năng tập trung, kiểm soát vận động & tri giác”.
Thuật ngữ này thường được sử dụng ở Đan Mạch & Thụy Điển để chỉ những
trẻ mang ADHD kèm dyspraxia (chứng rối loạn phối hợp động tác) [9, tr47]
1.2.2. Chuẩn đoán rối loạn tăng động giảm chú ý
Thứ nhất: chuẩn đoán ADHD theo tiêu chí chuẩn đoán của DSM-VI

Việc chuẩn đoán ADHD căn cứ theo các tiêu chí chuẩn đoán của DSMVI bao gồm 5 tiêu chí (1-5) đây cũng chính là những biểu hiện đặc trưng của
trẻ mắc hội chứng ADHD xét trong môi trường chủ yếu là lớp học, trường học
hoặc gia đình.
(1) Mắc các triệu chứng (1A) hoặc (1B), trong đó (1A) là những triệu chứng
giảm- chú ý, (1B) là những triệu chứng tăng động- bồng bột.
(1A): Có ít nhất 6 triệu chứng giảm tập trung-chú ý, kéo dài trong thời gian tối
thiểu là 6 tháng, ở mức độ không thích nghi và không phù hợp/mẫu thuẫn với
mức phát tiển

15


Giảm tập trung
- Thường khó tập trung vào các chi tiết hoặc thường mắc lỗi do cẩu thả
khi làm bài ở trường, hoặc trong các hoạt động khác.
- Thường khó duy trì sự tập trung vào nhiệm vụ hoặc hoạt động giải trí.
- Luôn có vẻ không chăm chú vào những điều người đối thoại đang nói.
- Luôn không theo dõi các hướng dẫn và không làm hết bài tập ở trường,
các việc vặt hoặc những nhiệm vụ (không phải hành vi chống đối hay không
hiểu được lời hướng dẫn).
- Hay gặp khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ và hoạt động.
- Hay quên những thứ quan trọng cho nhiệm vụ hoặc hoạt động (ví dụ:
đồ chơi, bài tập giao về nhà, bút chì, đồ dùng học tập)
- Dễ bị xao nhãng bởi kích thích bên ngoài.
- Luôn đãng trí trong các hoạt động hằng ngày.
(1B): Có ít nhất 6 triệu chứng tăng động-bồng bột, kéo dài trong thời gian tối
thiểu là 6 tháng, ở mức độ không thích nghi và không phù hợp/mẫu thuẫn với
mức phát tiển
Quá hiếu động:
-


Thường hay cựa quậy chân tay hoặc cả người khi ngồi.

-

Thường rời khỏi ghế trong lớp học hoặc trong những trường hợp cần ngồi cố
định.

-

Thường chạy hoặc leo chèo quá mức trong những tình huống không phù hợp.

-

Thường khó khăn khi chơi hoặc tham gia một cách yên tĩnh vào các hoạt
động giải trí.

-

Thường “luôn tay luôn chân” hoặc thường hành động như thể “được gắn động
cơ”.

-

Thường nói quá nhiều.
Hấp tấp:

-

Thường đưa ra câu trả lời trước khi người hỏi đặt xong câu hỏi.


-

Thường khó chờ đợi đến lượt mình.
16


-

Thường cắt ngang hoặc nói leo người khác (ví dụ như chen vào cuộc trò
chuyện hay thứ tự chơi trò chơi.
(2) Một vài triệu chứng quá hiếu động, hấp tấp hoặc giảm tập trung gây sự
kém khả năng xuất hiện trước 7 tuổi.
(3) Có một dạng khuyết tật nào đó từ những triệu chứng này bộc lộ trong hai
môi trường hoặc hơn (như ở trường/ ở nơi làm việc và ở nhà)
(4) Phải có bằng chứng lâm sàng rõ ràng về sự suy yếu đáng kể trong các
chức năng xã hội, học tập và nghề nghiệp.
(5) Những triệu chứng không xảy ra đồng thời với các loại rối loạn phát triển
diện rộng, bệnh loạn tinh thần hoặc các rối loạn tinh thần khác và không thể
xếp vào các dạng rối loạn trí tuệ nào (như rối loạn tâm trạng; rối loạn lo lắng;
rối loạn không giao tiếp hay rối loạn nhân cách)
Diễn giải các dạng ADHD theo kết quả chuẩn đoán

-

Nếu cả tiêu chí (1A) và (1B) đều có trong 6 tháng qua: Rối loạn tăng động

-

giảm tập trung dạng liên kết/ dạng kết hợp.

Nếu có tiêu chí (1A) nhưng không có tiêu chí (1B) có trong 6 tháng qua: Rối

-

loạn tăng động giảm tập trung dạng giảm tập trung.
Nếu có tiêu chí (1B) nhưng không có tiêu chí (1A) có trong 6 tháng qua: Rối
loạn tăng động giảm tập trung dạng tăng động, hấp tấp [9, tr48]
Phạm vi nghiên cứu của đề tài hướng vào giáo dục các hành vi thiếu tự
chủ, thiếu kiểm soát của trẻ. Vì vậy, người nghiên cứu chủ yếu tập trung vào
tìm hiểu và nghiên cứu trẻ có các triệu chứng tăng động- bồng bột.
Thứ hai: chẩn đoán trẻ ADHD theo ICD-10
Theo tổ chức y tế thế giới (1990), mặc dù ICD-10 không đưa ra các tiêu
chí cụ thể để chẩn đoán ADHD và các dạng của chúng, song ICD-10 đã đưa
ra mã bệnh ADHD-F90 và đề cập đến các nguyên tắc chẩn đoán. Quán triệt
những nguyên tắc này đảm bảo việc chẩn đoán chính xác, nội dung các
nguyên tắc bao gồm:

17


- Các nét đặc trưng về sự chú ý và tăng hoạt động đều là tiêu chuẩn cần
thiết cho chẩn đoán và được thể hiện rõ trong những hoàn cảnh khác nhau (ở
nhà, ở trường học và ở bệnh viện).
- Thiếu kiên trì và thiếu chú ý chỉ được đưa vào chẩn đoán nếu trẻ bị suy
giảm so với lứa tuổi.
- Tiêu chuẩn đánh giá là mức độ hoạt động quá cao trong những hoàn
cảnh nhất định, so với trẻ cùng tuổi và cùng mức trí tuệ.
- Các triệu chứng kết hợp không đủ hoặc không cần thiết để chẩn đoán,
nhưng có thể giúp cho chẩn đoán: Thiếu kiềm chế trong mối quan hệ xã hội,
sự dại dột trong những hoàn cảnh nguy hiểm, sự coi thường các quy tắc xã

hội một cách tự phát, ngẫu hứng (can thiệp hay làm gián đoạn công việc của
người khác, vội vã đưa ra câu trả lời trước khi trẻ hiểu đầy đủ câu hỏi hoặc
không yên tâm chờ đợi đến lượt mình) đều là những nét đặc trưng của trẻ em
có rối nhiễu ADHD.
- Những khó khăn trong học tập và sự vụng về trong vận động không
được xem là một thành phần của chẩn đoán hiện tại về rối loạn tăng động.
Rối loạn ADHD thường khởi phát sớm và tồn tại lâu dài. Tuy nhiên, để
có thể chẩn đoán quyết định có hay không có ADHD thì thường phải ở thời
điểm khi trẻ đến trường.
Như vậy, từ các nguyên tắc chẩn đoán ADHD của ICD-10 cho thấy:
-

Các tiêu chí để chẩn đoán ADHD gồm các dấu hiệu (triệu chứng) đặc trưng và
dấu hiệu kết hợp. Các dấu hiệu kết hợp sẽ là số liệu bổ sung để chẩn đoán đạt

-

kết quả chính xác.
Tiêu chí đánh giá ADHD phải dựa vào chuẩn mực, đặc điểm lứa tuổi tương

-

ứng về mặt tâm sinh lí lẫn kĩ năng thích ứng, giao tiếp xã hội.
Các triệu chứng, dấu hiệu để kết luận về rối nhiễu ADHD phải được xuất hiện

-

như nhau trong hành vi của trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
Cần phải có sự chẩn đoán phân biệt giữa ADHD với các rối nhiễu hành vi
khác có những triệu chứng chung giống nhau [2].


18


Thứ ba: chẩn đoán ADHD theo thang lượng giá của C. Keith Conner
C.Keith Conner, một trong những nhà tâm lí học lâm sàng nổi tiếng nhất
trong lĩnh vực rối nhiễu hành vi với 30 năm nghiên cứu về ADHD và các rối
nhiễu hành vi khác, năm 1989, lần đầu tiên ông công bố thang đánh giá hành
vi kém thích nghi “Conner’s Test” (Bộ trắc nghiệm Conners Rating Scales CRS). Thang CRS được xây dựng từ số liệu nghiên cứu trên các mẫu hành vi
kém thích nghi của trẻ bình thường và trẻ có vấn đề về hành vi điều trị ngoại
trú tại các cơ sở y tế. Ban đầu, bộ trắc nghiệm CRS được sử dụng để phát hiện
trẻ ADHD, nhưng sau nhiều lần bổ sung, hoàn thiện, nó được phát triển thành
công cụ phát hiện, chẩn đoán rối nhiễu ADHD và các rối nhiễu hành vi kém
thích nghi khác có liên quan. Năm 1997, C.K.Conner đã sửa chữa bổ sung
thêm hàng loạt đề mục và chuẩn hóa lại bộ trắc nghiệm này. Bộ trắc nghiệm
được chỉnh sửa mới gọi tắt là CRS-R (Conners Rating Scales - Revised) bao
gồm các thang đo:
(1) Thang đo Conners’ Parent Rating Scale - Revised (CPRS-R): Thang
đo Conner dành cho cha mẹ - Bảng sửa đổi (phiên bản đầy đủ và phiên bản
rút gọn)
(2) Thang đo Conners’ Teacher Rating Scale - Revised (CTRS-R): Thang
đo Conner dành cho giáo viên - Bảng sửa đổi (phiên bản đầy đủ và phiên bản
rút gọn)
(3) Thang đo Conners’ - Wells’Adolescent Self-Report - Revised (CASSR): Thang đo Conner dành cho vị thành niên tự đánh giá - Bảng sửa đổi.
Thang CRS-R bao gồm các tiểu thang liên kết trực tiếp với DSM-IV và
nhấn mạnh đến đánh giá đa phương thức (thang dành cho cha mẹ và giáo
viên), do đó CRS-R liên quan trực tiếp đến đánh giá lâm sàng và chẩn đoán.
Theo Barkley (1990), phiên bản CRS-R thực sự chứa đựng các tiêu chí cơ bản
và quy chuẩn. Đặc biệt, thang chỉ số ADHD liệt kê các đề mục tốt nhất để
phân biệt trẻ em ADHD với trẻ bình thường.


19


Bảng liệt kê này giúp kiểm soát trẻ em và trẻ vị thành niên có nguy cơ
mắc ADHD. Thang CRS-R hoàn toàn thích hợp trong quản lí, chăm sóc, theo
dõi, điều trị, giáo dục và đánh giá hiệu quả quá trình điều trị và giáo dục. Đặc
biệt các thang rút gọn rất hữu ích trong việc theo dõi thường xuyên tình trạng
của trẻ ADHD.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, đứng ở góc độ là một giáo viên
mầm non, người nghiên cứu chỉ trình bày thang đánh giá ADHD dạng rút gọn
dành cho giáo viên (chi tiết xem phụ lục 2)
Thang đánh giá ADHD dạng rút gọn dành cho giáo viên (CTRS-R: S)
(gồm 28 đề mục trong phần phụ lục 2)
- Chống đối gồm 5 đề mục: 2,6,10,15,20. Những trẻ có điểm cao ở thang
này có biểu hiện rối loạn cư xử thể chống đối đáp ứng với các tiêu chuẩn chẩn
đoán của DSM-IV rối loạn chống đối.
- Thiếu hụt chú ý gồm 5 đề mục: 4, 8, 13, 18, 22. Những trẻ có điểm cao
ở thang này có biểu hiện thiếu hụt chú ý đáp ứng với các tiêu chuẩn chẩn
đoán của DSM-IV về tăng động giảm chú ý thể thiếu hụt chú ý chiếm ưu thế.
- Tăng động, xung động gồm 7 đề mục: 3, 7, 11, 17, 21, 24, 27. Những
trẻ có điểm cao ở thang này có biểu hiện tăng động, xung động đáp ứng với
các tiêu chuẩn chẩn đoán cúa DSM-IV về tăng động giảm chú ý thể tăng động
chiếm ưu thế.
- Hỗn hợp tăng động giảm chú ý gồm 12 đề mục: 1, 5, 9, 12, 14, 16, 19,
23, 25, 26, 27, 28. Những trẻ có điểm cao ở thang này có biểu hiện tăng động
giảm chú ý đáp ứng với các tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM-IV về tăng động
giảm chú ý thể hỗn hợp, tăng động giảm chú ý cùng chiếm ưu thế [2].
Thứ tư: chẩn đoán phân biệt
Hầu hết các bậc cha mẹ đều quan sát thấy những vận động quá mức của

trẻ lần đầu tiên khi trẻ mới biết đi, trùng hợp với thời điểm phát triển khả
20


năng vận động độc lập. Tuy nhiên, vì có rất nhiều trẻ nhỏ tăng vận động
không phát triển tình trạng ADHD về sau, nên việc chẩn đoán ADHD phải hết
sức thận trọng vào những năm đầu đời.
Ở trẻ nhỏ, có thể khó phân biệt các triệu chứng của ADHD với những
hành vi bình thường của những trẻ nhỏ tăng động (như chạy nhảy, làm ồn...).
Tuy vậy, khả năng chú ý của những trẻ nhỏ cũng có thể được đánh giá (ví dụ
trẻ khoảng 2-3 tuổi đã có thể cùng ngồi với người lớn và xem một quyển sách
hình. Ngược lại, trẻ nhỏ có tình trạng ADHD thường không chú ý được hoặc
chúng tăng động quá mức và khó có thể kiềm chế).
Việc chẩn đoán đặc biệt khó thực hiện ở trẻ nhỏ dưới 4-5 tuổi, bởi vì
hành vi đặc trưng của chúng thay đổi nhiều hơn so với trẻ lớn và có thể gồm
những nét tương tự như các triệu chứng của ADHD. Hơn nữa, triệu chứng
giảm chú ý ở trẻ chưa đến tuổi đi học thường ít được quan sát thấy, bởi những
trẻ nhỏ ở tuổi này thường không được đòi hỏi phải chú ý nhiều.
Các triệu chứng giảm chú ý cũng thường gặp ở những trẻ chậm phát
triển trí tuệ được bố trí học trong những môi trường học tập không phù hợp
với khả năng của trẻ. Những hành vi này phải được phân biệt với các dấu hiệu
tương tự của trẻ bị ADHD. Ở trẻ chậm phát triển trí tuệ, một chẩn đoán
ADHD chỉ nên tiến hành khi tình trạng giảm chú ý hoặc tăng động trở nên
quá mức đối với tuổi khôn (Mental Age) của trẻ.
Giảm chú ý cũng có thể xảy ra ở một trẻ rất thông minh được bố trí trong
một môi trường học tập “dưới ngưỡng” (Understimulating Environment).
ADHD cũng phải được phân biệt với sự khó khăn trong việc định hướng
mục đích cho hành vi của những trẻ sống trong môi trường thiếu thốn, hỗn
độn và vô tổ chức.
Những trẻ có hành vi chống đối có thể từ chối những công việc và bài

học ở trường đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo, bởi những trẻ này thiếu khả năng
đáp ứng các yêu cầu của người khác. Những triệu chứng này cũng phải phân
21


biệt với sự tránh né công việc học tập ở trường, một điều thường gặp ở trẻ bị
ADHD. Sự phức tạp trong chẩn đoán phân biệt là trẻ bị ADHD có thể phát
sinh một thái độ chống đối thứ phát đối với những công việc như thế.
Không chẩn đoán là ADHD nếu các triệu chứng được giải thích bởi một
rối loạn tâm thần khác (rối loạn khí sắc, rối loạn lo âu, rối loạn phân li, rối
loạn nhân cách). Nếu rối loạn khí sắc hoặc lo âu cùng xảy ra đồng thời với
ADHD, từng tình trạng nên được chẩn đoán riêng.
ADHD không được chẩn đoán khi các triệu chứng tăng động và giảm
chú ý xảy ra trong thời gian diễn tiến của một rối loạn phát triển lan tỏa
(Pervasive Developmental Disorder) hoặc một tình trạng loạn tâm khác.
Các triệu chứng giảm chú ý, tăng động, xung động có thể liên quan đến
việc sử dụng một số dược chất (thuốc giãn phế quản, isoniazide, akathisia lấy
từ các neuroleptics) ở những trẻ dưới 7 tuổi không được chẩn đoán là ADHD,
thay vào đó nên chẩn đoán là các rối loạn liên quan hóa chất không đặc hiệu
(Other Substance-Related Disorders Not Otherwise Specified) [2].
1.2.3. Nguyên nhân và những giải thích về cơ chế gây rối loạn tăng động
giảm chú ý
Cho đến nay, khi nói tới những nguyên nhân chính xác gây ra các rối
loạn ở trẻ em nói chung (như tự kỉ, rối loạn hành vi, rối loạn cảm xúc, rối loạn
nhân cách...) còn chưa có những khẳng định rõ ràng và chính xác, cũng giống
như vậy hiện nay chưa có những khẳng định một cách rõ ràng về các nguyên
nhân gây ra hội chứng tăng động giảm chú ý. Tuy nhiên người ta cũng đặt ra
những giả thiết và những cơ sở như sau.
- Nguyên nhân di truyền và những giải thích về mặt sinh học.
- Nguyên nhân môi trường và những giải thích về mặt tâm lý.

- Nguyên nhân xã hội và những giải thích về mặt tâm lý xã hội.
- Các lí giải khác về ADHD

22


Nguyên nhân di truyền và những giải thích về mặt sinh học
Các nghiên cứu về gen di truyền xác nhận có nhiều loại ảnh hưởng tới
hành vi của con người, đặc biệt khi những gen này liên quan tới quá trình sản
xuất dopamine. Các giả thuyết về loại gen mã hóa quá trình sản xuất
dopamine tương thích với các nghiên cứu não bộ, từ nghiên cứu này, có bằng
chứng cho thấy một số khu vực trên não của người mang ADHD có nồng độ
dopamine cao hơn bình thường.
Các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra cách thức di truyền ADHD, một số
cho rằng có một nhóm gen gây nên ADHD, một số khác lại cho rằng chỉ một
gen duy nhất nào đó gây ra ADHD. Nhìn chung các nhà khoa học nghiêng
nhiều về giả thuyết cho rằng ADHD là do một nhóm gen gây nên. Nghiên cứu
khác khẳng định rằng ADHD xuất hiện từ sự kết hợp một số loại gen, trong
đó có gen ảnh hưởng lên quá trình luân chuyển dopamine.
Dopamin là chất DTTK được xem là có tham gia vào ADHD. Các cứ
liệu ủng hộ cho nhận định này chủ yếu xuất phát từ những nghiên cứu phát
hiện thấy nồng độ dopamine tăng thì các triệu chứng của ADHD giảm. Ngoài
ra cũng còn một loạt các hợp chất khác cũng được xem là có vai trò trong
ADHD như các dạng khác nhau của amphetamines và các chủ vận không trực
tiếp dopamine. Cũng cần nói thêm rằng việc sử dụng L- dopa và tyrosine,
những tiền chất của dopamine, cũng làm giảm nhẹ các triệu chứng ADHD ở
một nửa số trường hợp được dùng (Reimherr và cs. 1987). Điều này có vẻ
như là một nghịch lí bởi amphetamine thực tế làm giảm mức độ hoạt động thể
lực song có lẽ nó thực hiện được điều đó thông qua tăng cường hoạt động
thuỳ trán và kiểm soát những rối loạn chức năng thừa hành - nền tảng của

hành vi.
Nghiên cứu về lưu lượng máu não bằng cách sử dụng chụp cắt lớp điện
toán phóng xạ đơn lượng tử (SPECT: Single-Photon Emission Computed
Tomography) cho thấy có suy giảm lưu lượng máu ở vùng tiền trán đặc biệt là
23


ở vùng trán bên phải và cả đối với các đường dẫn truyền nối kết giữa những
vùng này và hệ viền (Limbic system) đặc biệt là vùng nhân đuôi (Caudate
nucleus) và tiểu não. Vùng trán được chú ý đặc biệt bởi vì một trong những
chức năng của nó là ức chế các đáp ứng vận động. Thuỳ trán trước cũng được
cho rằng có liên quan đến ADHD bởi vì vùng não này liên quan chủ yếu đến
chức năng thực hành như hoạch định, tổ chức, tự điều chỉnh, và kiểm soát
xung động. Mức độ lưu lượng máu ở vùng trán bên phải cũng có thể liên quan
trực tiếp với độ tăng của rối loạn này, cũng như vậy, vùng tiểu não có liên
quan đến vấn đề vận động ở trẻ ADHD.
Các nghiên cứu về gia đình chỉ ra rằng có khoảng 40% cha mẹ có con
ADHD thì chính họ cũng mang những triệu chứng ADHD.
Các nghiên cứu trên trẻ sơ sinh khẳng định, so với các dạng rối nhiễu
khác thì ADHD có tính di truyền cao hơn. Các nghiên cứu đó cũng xác nhận
các triệu chứng ADHD mang tính cộng hưởng và tích lũy, giống như chiều
cao, cân nặng hay huyết áp.
Những vấn đề về gen nảy sinh có thể do di truyền từ các thế hệ hoặc do
khi mang thai, người mẹ hút thuốc, uống rượu, sử dụng ma túy, ăn uống thiếu
dinh dưỡng hoặc bị nhiễm độc hóa chất [9, tr48-49].
Nguyên nhân do tác động từ môi trường và những giải thích về tâm lý
Một số nhà khoa học cho rằng mối tương tác giữa cha mẹ và trẻ từ tuổi
ấu thơ có thể là nguyên nhân gây nên ADHD. Trẻ em có nguy cơ bị ADHD
cao hơn nếu sống trong môi trường thiếu kích thích, bị ngược đãi và có các
căng thẳng trong gia đình. Tuy nhiên, tỉ lệ ADHD do nguyên nhân này không

đáng kể, đôi khi sự căng thẳng của gia đình là hệ quả của việc trong gia đình
có trẻ ADHD chứ không phải là nguyên nhân gây nên ADHD. [9, tr49]
Nguyên nhân xã hội và những giải thích về tâm lý học xã hội

24


Nhiều nghiên cứu cũng đã quan tâm đến các yếu tố tâm lý xã hội. Một số
báo cáo chỉ ra sự liên quan giữa stress gia đình với tỷ lệ mắc ADHD. Cho
thấy tình trạng trẻ dễ bị thương tổn do sự gia tăng ly hôn trong gia đình, do
cha mẹ và cô giáo ít quan tâm chăm sóc có thể làm cho trẻ dễ bị rối loạn hơn
trẻ bình thường. [12]
Các lí giải khác về ADHD
Những nghiên cứu khác nhau đã tìm ra sự khác nhau về quá trình trao đổi
chất giữa trẻ ADHD và trẻ bình thường. Nếu một trẻ không có khả năng hấp
thu hay chuyển đổi một số loại chất nào đó từ thức ăn, có thể sẽ dẫn tới ADHD.
Vào năm 1990, nhà hóa học Neil Ward đã chứng minh rằng trẻ ADHD bị thiếu
chất kẽm khi sử dụng thức ăn được nhuộm tartrazine. Một số nghiên cứu khác
chỉ ra rằng, việc thiếu hụt một số acid béo, đặc biệt là acid béo omega-3 có thể
gây nên ADHD. Các giả thuyết này được đưa ra khi nhiều nghiên cứu nhận
thấy những trẻ được ăn dặm từ 6 tháng tuổi (hoặc hơn một chút) có ít nguy cơ
bị ADHD hơn so với những trẻ ăn dặm muộn, vì những loại thức ăn sẵn dành
cho trẻ nhỏ thường không có đủ acid béo omega-3 [9, tr.49].
Một số nhà nghiên cứu cho rằng ADHD xuất phát từ trận dịch viêm não
trên thế giới từ năm 1917- 1926.[13]
1.2.4. Can thiệp và trị liệu rối loạn tăng động giảm chú ý ở trẻ em
Trị liệu ADHD ở trẻ em là điều quan trọng. Bởi vì, trẻ ADHD phải đối
mặt với những khó khăn trong đời sống hàng ngày do sự thiếu chú ý, tăng
hoạt động và thiếu kiên trì của trẻ. Do đó, có thể trị liệu ADHD cho trẻ bằng
các phương pháp sau.

- Trị liệu hành vi
- Trị liệu bằng thuốc
- Trị liệu bằng chế độ dinh dưỡng
- Trị liệu ngôn ngữ

25


×