Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tìm hiểu giao thoa văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.89 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
I.Nguyên nhân và điều kiện để giao thoa văn hóa..................................................................................2
II.Những biểu hiện của giao thoa văn hóa..............................................................................................3
1.Giao lưu văn hóa tinh thần..................................................................................................................3
1.1.Văn học - giáo dục.............................................................................................................................3
1.1.1. Ngôn ngữ- chữ viết.......................................................................................................................3
1.1.2. Văn học – nghệ thuật :.................................................................................................................3
1.1.3. Báo chí :.......................................................................................................................................5
1.1.4. Giáo dục , khoa học :....................................................................................................................6
1.1.5. Hệ tư tưởng :................................................................................................................................8
1.2. Cải cách tôn giáo..............................................................................................................................9
1.2.1.Quá trình du nhập các tôn giáo phương tây vào Việt Nam:...........................................................9
1.2.2. Kitô giáo với văn hoá Việt Nam:..................................................................................................10
1.3. Mỹ thuật........................................................................................................................................14
1.4.Triết học..........................................................................................................................................19
1.5. Kiến trúc........................................................................................................................................20
2. Giao lưu văn hóa vật chất.................................................................................................................22
2.1 Trên lĩnh vực nông nghiệp:.............................................................................................................23
2.2. Trên lĩnh vực công nghiệp..............................................................................................................23
2.3.Trên lĩnh vực đô thị.........................................................................................................................25
2.4.Đời sống vật chất............................................................................................................................25
3. Giao lưu văn hóa và bảo tồn bản sắc văn hóa Việt Nam...................................................................26
3.1. Mặt tích cực...................................................................................................................................26

1


Những biểu hiện của giao thoa văn hóa với Phương Tây- đặc biệt là Pháp
I.Nguyên nhân và điều kiện để giao thoa văn hóa.
Hơn một thế kỷ qua, nước ta có hai thời kỳ giao thoa văn hóa Đông Tây xét ở
phạm vi toàn quốc, nói chính xác hơn là giao thoa văn hóa bản địa và văn hóa


phương Đông đã bản địa hóa và văn hóa từ phương Tây du nhập. Thời kỳ thứ
nhất, mang tính cưỡng bức diễn ra vào khoảng những năm 20 cho đến cuối
những năm 50 của thế kỷ trước. Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ tự nguyện mở cửa và
hội nhập, sôi động nhất là từ những năm 90 của thế kỷ trước đến ngày nay...
Ở thời kỳ thứ nhất, sau khi cơ bản bình định xong các phong trào chống đối,
chính quyền thực dân Pháp ồ ạt du nhập văn hóa chính quốc vào thuộc địa Đông
Dương, nhất là Việt Nam với những ý đồ có lợi cho chủ nghĩa thực dân. Bằng
văn hóa, họ sẽ tạo ra một tầng lớp trí thức bản địa được "khai sáng" văn minh
chính quốc, thần phục Pháp và từ đó sẵn sàng hướng theo Pháp, làm công cụ cho
Pháp. Để thực hiện chủ trương này, họ xây dựng một hệ thống giáo dục theo mô
hình giáo dục Pháp, đưa văn hóa Pháp vào nội dung giảng dạy, đào tạo; du nhập
tràn ngập những tác phẩm nghệ thuật, văn hóa phẩm, lối sống, ngôn ngữ Pháp…
vào nước ta. Bên cạnh ý đồ phục vụ sự cai trị của chính quyền, có một dòng
khác, dòng văn hóa do những người Pháp, những người sùng mộ Pháp du nhập.
Sau hơn 20 năm đất nước chia làm hai miền, miền Bắc tiếp thu nền văn hóa
mang màu sắc XHCN ở các nước do Đảng Cộng sản cầm quyền, chủ yếu là
Trung Quốc, Liên Xô và các nước ở Đông Âu. Miền Nam chịu ảnh hưởng của
nền văn hóa Mỹ, do chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ mang lại. Năm 1975, đất
nước thống nhất và đến năm 1986, quá trình Đổi mới được khởi xướng theo con
đường hội nhập và phát triển. Một trào lưu văn hóa mới, trào lưu hội nhập văn
hóa rộ lên, chi phối hầu hết các lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật.
Cũng sau hơn 25 năm mở cửa, bằng các cuộc giao lưu, bằng những thông tin từ
nhiều nguồn, văn hóa phương Tây với những tinh hoa của nó đã giúp cho tầm
dân trí, tầm văn hóa của người Việt thay đổi rất nhiều. Xu thế hội nhập để cùng
phát triển, trong đó có hội nhập văn hóa là không thể đảo ngược. Trong bối cảnh
hiện nay, Việt Nam không nên và không thể là một ốc đảo về văn hóa. Chủ động
hội nhập, chắt lọc mọi tinh hoa văn hóa bên ngoài, kể cả tinh hoa văn hóa
phương Tây để làm phong phú mình là ích nước lợi nhà.

2



II.Những biểu hiện của giao thoa văn hóa
1.Giao lưu văn hóa tinh thần.
Xu thế hội nhập để cùng phát triển, trong đó có hội nhập văn hóa là không thể
đảo ngược. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam không nên và không thể là một
ốc đảo về văn hóa. Chủ động hội nhập, chắt lọc mọi tinh hoa văn hóa bên ngoài,
kể cả tinh hoa văn hóa phương Tây để làm phong phú mình là ích nước lợi nhà.
1.1.Văn học - giáo dục
1.1.1. Ngôn ngữ- chữ viết
Khi truyền đạo sang Việt Nam , khó khăn đầu tiên mà các giáo sĩ mắc phải
là sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự . Bởi vậy ,họ đã dùng bộ chữ cái La tinh
thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt , tạo nên chữ Quốc ngữ. . chữ Quốc
ngữ là thành quả tập thể của nhiều giáo sĩ Bồ Đào Nha , Ý , Pháp … và những
ngưòi Việt Nam đã giúp họ học tiếng Việt . Song công lao lớn nhất thuộc về
linh mục Alexandre de Rhodes ( 1591-1660 ) , ngưòi đã kế thừa các công trình
của Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa, biên soạn và xuất bản ơ Roma
vào năm 1651 cuốn từ điển Annam – Lusian- Latin ( thường gọi là từ điển Việt
– Bồ – La ) và cuốn Phép giảng tám ngày in song ngữ Latin – Việt . Tuy chữ
Quốc ngữ ban đầu chỉ là công cụ truyền đạo của các giáo sĩ , nhưng do có ưu
điểm là dễ học ,nên được các nhà Nho tiến bộ tích cực truyền bá để phổ cập
giáo dục và nâng cao dân trí ( hội truyền bá chữ quốc ngữ ) .
Sự tiếp xúc với phương Tây cũng khiến cho tiếng Việt có biến động mạnh
: hàng loạt từ ngữ được vay mượn để diễn tả những khái niệm mới đã đi vào
đời sống thường ngày như xà phòng / xà bông ( savon ) kem ( crème ) ga
( gaz ) …. Có những hiện tượng ngữ pháp vốn đặc thù cho các ngôn ngữ
phương Tây ( như thể bị động , kiến trúc danh từ ….) ở những mức độ nhất
định cũng đã du nhập vào tiếng Việt .
1.1.2. Văn học – nghệ thuật :
Sau khi đã phát triển tới đỉnh cao rực rỡ ở thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ

XIX, văn học ở nửa sau thế kỉ XIX, đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp xâm
lược. Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu là người chiến sĩ tiên phong trên
mặt trận này. Cùng với ông là một thế hệ các nhà văn thơ yêu nước như Phan
Văn Trị, Hồ Huân Nghiệp, Đoàn Hữu Trưng, Phạm Văn Nghị v.v… Sau đó là
thế hệ Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương v.v…

3


Sau thế hệ này là thế hệ các nhà Nho như Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền v.v… về phương diện chính trị lúc này
là một thứ vũ khí của quần chúng để chống kẻ thù cướp nước, cổ động cho sự
tiến bộ xã hội. Do tác động khách quan, văn học giai đaọn này đã có bước phát
triển nhanh chóng cả về hình thức và nội dung.
Trước hết là sử dụng chữ Quốc ngữ để sáng tác văn học. Với việc phổ
biến chữ Quốc ngữ, mảng văn học bằng chữ Quốc ngữ đã phá triển. Ban đầu,
chữ Quốc ngữ được dùng để phiên âm các sách chữ Nôm, chữ Hán, chữ Pháp.
Hàng loạt các tác phẩm chữ Hán như Đại học, Kinh thi, Minh tâm bảo giám
v.v…, các truyện thơ Nôm như Truyện Kiều, Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên
v.v…, các truyện dân gian, câu hò, câu hát, được ra mắt bạn đọc bằng chữ Quốc
ngữ ở Nam Bộ. Không thể không ghi công đầu cho một số trí thức ở Nam Bộ
cuối thế kỉ XIX như Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của, Trần Phong Sắc, Phụng
Hoàng Sang, Bùi Quang Nho, Khẩu Võ Nghi v.v… trong lĩnh vực này.
Mặt khác là sự phát triển của những sáng tác bằng chữ Quốc ngữ, như kí
sự là thể loại sớm ra đời với tác phẩm Chuyến đi Bắc Kì năm At Hợi (1876) của
Trương Vĩnh Kí; tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ cũng ra đời ở Nam Bộ sớm
nhất. Đầu tiên phải kể tới Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản,
nếu coi đây là một truyện dài, một tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ thì nó đã ra
mắt bạn đọc từ năm 1887. Sau đó là Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân của
Trương Duy Toản ra mắt bạn đọc vào năm 1910. Cũng năm này Trần Chánh

Chiếu có tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữHoàng Tố Anh hàm oan. Thập niên hai
mươi của thế kỉ XX, tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ có khá nhiều tác giả: Phạm
Duy Tốn với truyện ngắn Sống chết mặc bay(1918). Đó là Tân Dân Tử với Giọt
máu chung tình (1926), và Lê Hoàng Mưu với Hà Hương phong
nguyệt (1915), Oán hồng quần (1920), Tô Huệ Nhi ngoại sử (1920), Oan kia
theo mãi (1922), Cay đắng mùi đời (1923), Tỉnh mộng (1923), Nhơn tình ấm
lạnh(1925). Những tác giả này ở Sài Gòn, trong khi đó, ở Hà Nội, Nguyễn
Trọng Thuật cóQuả dưa đỏ (1925), Hoàng Ngọc Phách có Tố Tâm (1925).
Vào thập niên ba mươi, bốn mươi, văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ đã có một
bước tiến bộ vượt bậc. Nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng,
Hoàng Đạo v.v…, đã cho ra mắt bạn đọc một loạt tác phẩm như Nửa chừng
xuân, Đoạn tuyệt, Bướm trắng v.v… Bên cạnh nhóm Tự lực văn đoàn là các nhà
văn hiện thực phê phán như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nam Cao với Chí phèo, Vũ
Trọng Phụng với Giông tố, Số đỏ v.v… Sự trong sáng của tiếng Việt trong các
tác phẩm này là bước tiến của văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ. Cùng với kí, tiểu
thuyết là thơ. Phong trào thơ mới xuất hiện với một loạt tên tuổi như Thế Lữ,
Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v…, khẳng định sự chuyển
4


mình của văn học Việt Nam theo hướng hiện đại, sự thay thế vẻ vang của văn
học bằng chữ Quốc ngữ trong đời sống văn hóa.
Mặt khác, sự chuyển mình của văn học Việt Nam giai đoạn này không chỉ
ở phương diện hình thức. Cái tôi cá nhân, sự ý thức về cá nhân, tình yêu lứa đôi
xuất hiện trong các tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn, trong các tập thơ của
các nhà thơ mới là một hiện tượng mới trong văn hóa Việt Nam. Chưa bao giờ
tiếng nói từ hạnh phúc cá nhân lại cháy bỏng như vậy trong văn học Việt Nam:
Mau lên chứ. Vội vàng lên với chứ
Em, em ơi tình non sắp già rồi.
Tuy nhiên, nhìn ở phương diện công dân,sáng tạo của nhóm Tự lực văn

đoàn, của phong trào thơ mới, quả có ý nghĩa như đồng chí Trường Chinh nhận
định: “một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa”.
Cùng với những tác giả, tác phẩm này, sự xuất hiện của hệ tư tưởng Mác
xít trong đời sống văn hóa đã dẫn tới sự xuất hiện của bộ phận các tác giả cách
mạng. Thời kì từ 1931-1935 là cuộc đầu tranh giữa quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin và các quan điểm đối lập. Trên tờ Phụ nữ thời đàm, đồng chí Hải
Triều đã viết nhiều bài về nguyên lí, quan điểm của chủ nghĩa Duy vật. Chính vì
vậy, bản Đề cương có ý nghĩa như một cương lĩnh văn hóa dân chủ mới. Về
sáng tác, thơ Tố Hữu và đáng kể hơn cả là các sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là tiếng nói tiêu biểu cho dòng văn học cách mạng này.
Rõ ràng, non một trăm năm, văn học Việt Nam đã có bước chuyển biến
quan trọng đi từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại.
Trong nghệ thuật hội hoa thì xuất hiện những thể loại vay mượn từ
phương Tây như tranh sơn dầu , tranh bột màu với bút pháp tả thực . Bút pháp tả
thực của phương Tây còn xuất hiện ngay cả trên sân khấu với thể loại kịch nói
và tác động tới sự ra đờ của nghệ thuật cải lương . Nghệ thuật thanh sắc tổng
hợp cổ truyền bắt đầu phân hoá thành hàng loạt bộ môn như ca , muá , nhạc ,
kịch …
1.1.3. Báo chí :
Khởi điểm để báo chí ra đời ở Việt Nam là từ ý đồ của thực dân Pháp cần
có một thứ vũ khí nhằm tuyên truyền cho chính quyền thuộc địa. Do vậy, báo
chí ra đời ở Sài Gòn trước tiên. Lúc đầu là tờ báo bằng tiếng Pháp Le Bulletin
officiel de(Expédition de la Cocinchine và tờ Le Bulletin des commune bằng chữ

5


Hán). Ngày 15-4-1865, tờ Gia Định báo ra đời. Sau tờ Gia Định báo là tờ Phan
Yên báo. Năm 1888, tờThông loại khóa trình của Trương Vĩnh Ký được phát
hành. Năm 1901, tờ báo thứ ba bằng chữ Quốc ngữ ra mắt bạn đọc là tờ Nông

cổ mím đàm. Sau đó tờ Lục tỉnh tân văn ra mắt bạn đọc thế giới, ở Sài Gòn. Báo
chí ra đời rất nhiều như Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn, Đuốc nhà Nam v.v…
Ơ Hà Nội, có các bào bằng chữ Quốc ngữ như Đăng cổ tùng báo, Hữu
Thanh, Thực nghiệp dân báo, Nam phong, Trung Bắc tân văn v.v…
Nói chung, những tờ báo bằng chữ Quốc ngữ ở cả ba miền trong thời kì
này, dù vô tình hay hữu ý đều góp phần vào sự phát triển văn học chữ Quốc ngữ.
Ngoài những tờ bào bằng chữ Quốc ngữ, một thế kỉ này ở cả ba đô thị: Hà
Nội, Huế, Saì Gòn đều có những tờ báo bằng chữ Pháp nhằm phục vụ chính
quyền đó, nhưng cũng có thể có những tờ báo tiến bộ chẳng hạn tờ L’Annam,
tờ La Cloche fêlée(Chuông rè) ở sài Gòn, tờ Notre voix (Tiếng nói của chúng ta),
tờ Le Travail (Lao động), tờ Rassemblement (Tập hợp), Enavant (Tiến lên) ở Hà
Nội trong thời kì 1936-1939.
Trong giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945, việc dùng chữ Quốc ngữ để
làm báo đã là bước đột biến của diễn trình văn hóa. Nhìn ở phương diện ngôn
ngữ văn tự, đấy là một bước đột biến. Nhìn ở phương diện lịch sử báo chí, đây
cũng là một bước đột biến.
1.1.4. Giáo dục , khoa học :
- Giáo dục:
Để đào tạo người làm việc cho mình , thực dân pháp đã buôc học trò học tiếng
Pháp , bắt theo hệ thống giáo dục kiểu phương Tây . Năm 1898 , chương trình
thi Hương có thêm hai môn Quốc ngữ và Pháp văn . Năm 1906 lập ra Nha Học
chính Đông Dương và định ra ba bậc học cơ sở là ấu học ,tiểu học và trung
học . Trong những năm nầy , nhà cầm quyền lập ra môt số trường Cao đẳng và
đến năm 1908 thì mở ra trưòng Đại học Đông Dương . Hệ thống Nho học tàn
lụi dần . Đến năm 1915 ở Bắc kỳ và 1918 ỡ Trung kỳ việc thi Hương bị bãi
bỏ , chấm dứt nền Nho học Việt Nam .
Hệ thống giaó dục mới cùng với sách vở phương Tây đã góp phần giúp
ngườ Việt Nam mở rộng tầm mắt ,tiếp xúc với các tư tưởng dân chủ tư sản ,
rồi sau là tưởng Mácxít . Truyền thống đạo học cùng với lối tư duy tổng hợp
nay được bổ sung thêm kiểu tư duy phân tích . Nó được rèn luyện qua báo chí,

giáo duc và những hoạt động của những cơ quan như Trường Viễn Đông Pháp (
thành lập 1901 tại Hà Nội ) Viện vi trùng học ( thành lập ở Sào Gòn 1891 , Nha

6


Trang 1896 , Hà Nội 1902 ) Nền khoa học hiện đại manh nha từ thời thưộc
Pháp này đến khi giao lưu với liên Xô và hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa
, đã trở nên thực sự vững mạnh và phát triển .
-Khoa học tự nhiên
Pháp hỗ trợ Việt Nam trong rất nhiều lĩnh vự, kinh tế yu tê, giáo dục, khoa học
kỹ thuật, chuyển giao công nghệ . giữa Việt Nam và pháp tồn tại mối quan hệ
tương đồng và lực hút giữa 2 mối quan hệ 2 nước. pháp và Việt Nam như có
tiếng nói chung trong quan hệ quốc tế giữa 2 nước. Pháp luôn ủng hộ các quyết
định cũng như ý kiến của Việt Nam khi Việt Nam trở thành ủy viên không
thường trực của hội đồng bảo an ninh hợp quốc.
Pháp là một trong những nước có khoa học công nghệ hiện đại vì thế việc hợp
tác khoa học công nghệ giữa Việt Nam và Pháp là rất cần thiết cho sự phát triển
khoa học công nghệ của Việt Nam.
Tháng 3/ 2007 Hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ giữa Việt Nam và
Pháp đã được ký kết nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các chuyên gia và tổ
chức khoa học công nghệ hai nước tang cường hơn nữa qun hệ hợp tác.
Cả thế giới đã chứng kiến tài năng thiết kế của pháp khi chế tạo ra tàu hỏa
cao tốc, thiết bị điện phức tạp, tên lửa, vệ tinh viễn thong, máy bay( máy bay
Airbus, siêu thanh Concorde,Caravelle). Chế tạo cơ khí nhất là sản xuất
oto( đứng thứ 4 thế giới với côn ty lớn PSA). Hàng không đứng thứ 3 thế giới (
với công ty EADS).
Là nước sở hữu kho vũ khí hạt nhân lớn thứ 3 thế giới với khoảng 300 đầu đạn
hạt nhân . Pháp sở hữu một ngành công nghiệp hàng không quan trọng đứng đầu
là tổ hợp hàng không Châu Âu Airbus và là cường quốc Châu Âu duy nhất

(ngoại trừ Nga) có sân bay vũ trụ riêng của mình. Pháp cũng là nước độc lập
nhất về năng lượng ở phương Tây nhờ đã đầu tư lớn vào năng lượng nguyên tử,
khiến nước này trở thành quốc gia gây phát sinh carbon dioxide thấp nhất trong
số các nước công nghiệp phát triển trên thế giới. Nhờ những khoản đầu tư lớn
vào kỹ thuật nguyên tử, khoảng 77% nhu cầu năng lượng của Pháp được cung
cấp từ các nhà máy điện nguyên tử.

7


1.1.5. Hệ tư tưởng :
Là tấm gương phản chiếu nhiều mặt đời sống và nếp sống của cộng
đồng , một dân tộc , ơ trung tâm của văn hoá quyển , hệ tư tưởng củng được
xem như là một hệ văn hoá . Sự tiếp xúc ,giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và
phương Tây tạo ra sự chuyển mình của hệ tư tưởng Việt Nam từ 1858-1945
diễn ra trong một thời kì đầy biến động về tư tưỏng và chính trị . Gần
một trăm năm ở Việt Nam xuất hiện và tồn tại nhiều hệ tư tưởng khác nhau
, tác đông lẫn nhau , hoà hợp lẫn nhau , tự biến dạng do khúc xạ qua môi
trường xã hội … tạo nên một trường tư tưởng rất phức tạp.
Trên mặt bằng lịch sử , các hệ tưởng vào Việt Nam từ hàng nghìn năm
trước vẫn tồn tại ở xã hội mà căn bản vẫn là xóm làng với những người
nông dân trồng lúa nước . Dù có biết bao biến động trầm luân trên bề mặt
lịch sử thì hệ tư tưởng của họ vẫn là hệ tư tưỏng thần thoại với một hệ thống
thần linh đa dạng .
Nho giáo tồn tại như một hệ tư tưởng vì có vị trí đặc biệt ở nhà hậu Lê ,
nhà Nguyễn bây giờ không giúp các Nho sĩ trả lời được câu hỏi lớn của thời
đại . Những phong trào Văn thân ,Cần vương đưới ánh sáng của tư tưỏng Nho
giáo không giúp các Nho sĩ tìm được con đường cứu nước . Nói cách khác ,
yêu nước chống Pháp kiểu nầy là bảo thủ ,nên đã thất bại . Các Nho sĩ thế hệ
sau với tấm lòng yêu nước của mình đã tổ chức cuộc vận động giải phóng dân

tộc theo một hệ tư tưởng khác . Trào lưu tư tưỏng dân chu tư sản qua tân thư
và tân văn Trung Quốc như Am băng thất , Trung Quốc hồn , Mậu Tuất chính
biến ,Tân dân tuỳ báo … của Lương Khãi Siêu , Khang Hữu Vi , các thuyết về
nhân đạo, dân quyền của những nhà phát ngôn của giai cấp tư sản Pháp lúc
đang lên như Rousseau, Montesquiseu,Vonte… được đi vào Vệt Nam . Tự
cảnh tỉnh để đổi mới ,tìm một con đưòng đi khác , các nhà Nho đã từ biệt hệ
tư tưởng quen thuộc của bao nhiêu thế hệ trưóc . Phan Bội Châu ( 1867-1940 )
là một nhân chứng tiêu biểu .Với Duy tân hội ,ông còn giử tư tưởng quân chủ .
Với Việt Nam Quang phục hội ,ông đã chuyển sang tư tưởng dân chủ . Sau khi
gặp gỡ Nguyễn Ai Quốc , và ở cuối đời ông còn viết sách về Chủ nghĩa xã
hội . Đi từ hình mẫu nầy sang hình mẫu khác ,ước nguyện duy nhất của Phan
Bội Châu vẫn chỉ là giành lại quyền độc lập dân tộc .
Vượt ra ngoài ý đồ của bọn thực dân, sự áp đặt thô bạo của chúng dẫn
đến hậu quả ngược lại là khích lệ tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và chống

8


Pháp . Xuất hiện Nguyễn Trường Tộ với những bản điều trần, Phan Chu Trinh
với phong trào Duy Tân...
Từ tấm lòng yêu nước , nhà các mạng Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ
nghĩa Mác Lê nin rồi truyền bá vào Việt Nam .giai cấp công nhân Việt Nam
ngày càng phát triển và ngày càng giác ngộ về mình . Phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân ngày càng lan rộng và có tổ hức .Ba tổ chức cộng sản ra đời
ở Bắc kỳ , Trung kỳ rồi Nam kỳ ,để rồi ngày 6/1/1930 , Nguyễn Ai Quốc chủ
trì hội nghị hiệp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất .
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ,đánh dấu “một bước ngoặc vô cùng quan
trọng trong lich sử cách mạng nước ta . Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng ” , đồng thời nó cũng khẵng định
sự hiện diện của một hệ tư tưỏng mới ở Việt Nam

1.2. Cải cách tôn giáo
1.2.1.Quá trình du nhập các tôn giáo phương tây vào Việt Nam:
Tình hình Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII có nhiều xáo trộn và
diễn biến phức tạp. Nội bộ giai cấp thống trị lục đục vì sự tranh chấp quyền lực
dẫn đến sự chia cắt đất nước kéo dài từ năm 1645 đến năm 1692, sau đó là cuộc
nội chiến giữa Nguyễn Ánh và quân Tây Sơn và sự phục hồi của nhà Nguyễn
đầu thế kỷ XIX. Những điều đó đã làm cho kinh tế trì trệ và gián đoạn, chính trị
thì hỗn độn, đời sống của nhân dân thì đói khổ lầm than, nhân tâm thì giao động
ly tán, tạo thuận lợi cho việc thâm nhập truyền bá Công giáo cũng như việc dòm
ngó chinh phục của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Từ những thập niên đầu của
thế kỷ XVI ở Việt Nam đã có các giáo sĩ phương Tây đến truyền giáo.
Thời kỳ 1533 đến năm 1614 chủ yếu là các giáo sĩ dòng Phan-xi-cô thuộc
dòng Bồ Đào Nha và dòng Đa Minh thuộc Tây Ban Nha đi theo những thuyền
buôn vào nước ta, nhưng do không quen thông thổ, chưa thạo ngôn ngữ nên việc
truyền giáo không mấy kết quả.
Năm 1659, Giáo hoàng Alec-xăng-đrơ VII đã thành lập 2 Giáo phái đầu tiên
ở Việt Nam và phong 2 người Pháp là Francois Pallu và Lambert de la Motte
làm giám mục phụ trách truyền đạo ở Đông Dương. Như vậy, thế kỷ XVI, XVII
là thời kỳ truyền giáo của các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Càng về sau
vai trò của các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha càng lu mờ, trong khi các
giáo sĩ Pháp ngày càng mạnh, nhất là sau khi Hội Thừa sai Paris ra đời. Năm
1659, Giáo hoàng Alec-xăng-đrơ VII đã thành lập 2 Giáo phái đầu tiên ở Việt
Nam và phong 2 người Pháp là Francois Pallu và Lambert de la Motte làm giám
9


mục phụ trách truyền đạo ở Đông Dương. Như vậy, thế kỷ XVI, XVII là thời kỳ
truyền giáo của các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Càng về sau vai trò
của các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha càng lu mờ, trong khi các giáo sĩ
Pháp ngày càng mạnh, nhất là sau khi Hội Thừa sai Paris ra đời.

Thời kỳ này thực dân Pháp âm mưu xâm lược Việt Nam, đe dọa nền độc lập
dân tộc. Sau khi chiếm được Việt Nam, nhất là từ khi thiết lập được chế độ
thống trị, gần như là để đền đáp công lao Hội Thừa sai Paris, Pháp ban cho các
giáo sĩ Thừa sai nhiều đặc quyền đặc lợi. Uy thế của Giáo hội được đề cao, các
giáo sĩ trở thành những người có thế lực lớn trong xã hội lúc bấy giờ. Nhờ
những điều kiện thuận lợi về mặt vật chất và tinh thần do chính quyền Pháp đưa
lại hàng ngàn cơ sở tôn giáo được triển khai xây dựng, số tín đồ ngày càng tăng
nhanh.

1.2.2. Kitô giáo với văn hoá Việt Nam:
Lớp văn hoá giao lưu với phương Tây hình thành tư khoảng thế kỷ
XVI - XVII ,song những ngưòi phương Tây đầu tiên đã tới Việt Nam và
Đông Nam Á sớm hơn nhiều ,vào khoảng đầu công nguyên họ đem đến cac
đồ trang sức, pha lê , vũ khí , áo giáp …. Đổi lấy các đồ quý hiếm của Đông
Nam Á như trầm hương ,kỳ nam , vàng , đá quý , yến sào ,đồi mồi , ngà
voi , tê giác … và đặc biệt là hồ tiêu và các loại gia vị dùng để bảo quản
thịt . Không phải ngẫu nhiên mà giới nghiên cứu đã gọi tuyến đường biển
từ Địa Trung Hải đến Việt Nam và Đông Nam Á thời đó la Đưòng hồ tiêu.
Sau thời Trung cổ nặng nề khiến cho sự giao lưu bị gián đoạn
,sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi nhận “vào năm Nguyên
Hoà thứ I đờivua Lê Trang Tông (1533 ) có môt người Tây dưong tên là I-nê –
khu ( Inatio ) theo đường biển lẻn vào giảng đạo Gia tô ở các làng Ninh
Cường ,Quần Anh ,Trà Lũ ( thuộc Nam Định cũ ) ”. Từ đó các giáo sĩ Bồ Đào
Nha và Tây Ban Nha tìm đến ngày càng đông . Ban đầu ,do chưa quen phong
thổ ,chưa thông thạo ngôn ngữ nên việc truyền giáo ít thu được kết quả .Dần
dần công việc tiến triển ngày càng khá hơn . Theo tài iiệu của giaó hội thì
đến năm 1593 , ở Nghệ An đã có đến 12 làng Công giáo toàn tòng . Ki tô
giáo đã mở đầu cho sự giao lưu văn hoá giữa Việt Nam với phương Tây.
Ki- tô giáo ( hay Cơ đốc giáo ,Thiên Chuá giáo ) là tên gọi chung cho tất
cả các tông phái cùng thờ chúa Jesus Christ . Ki tô giáo ra đời như một nhánh

của Do thái giaó ở vùng Palestin ,rồi nhanh chóng phát triển thành một
tôngiáo độc lập - tôn giáo của những người bị áp bức .Ban đầu , do bị giới

10


chủ nô La Mã ngăn cản và bức hại . Đến thế kỷ IV ,hoàng đế Constanti đệ
nhất ra chỉ dụ tha đạo và công nhận Ki tô gáo là quốc giáo .
Trong quá trình phát triển , đến khoãng năm 974-1054 ,Ki tô giáo đã tách
ra thành hai giáo hội : giáo hội phía Tây gọi là Công giáo ( có nghĩa là đạo
chung cho toàn thế giới ), lấy Roma làm trung tâm ( nên còn gọi là Công giáo
La Mã , đôi khi gọi là La Mã giáo ) và giáo hội phía Đông gọi là Chính thống
giáo lấy Constantism làm trung tâm.
Đến năm 1520 , cùng với sự phát triển của giai cấp tư sản , phong trào
cải cách tôn giáo do mục sư Đức tên là M. Luther cầm đầu dẫn đến một cuộc
phân liệt thứ hai , từ khối Công giáo La Mã đã tách ra một dòng mới là đạo
Tin lành . Đạo Tin lành chiu ảnh hưởng đậm nét của tư tưỏng dân chủ tư sản
và khuynh hưóng tự do các nhân : phủ nhận quyền lực của toà thánh và
công đồng chung , chỉ thừa nhận Chúa Jesus và kinh thánh ,cho rằng bà
Maria chỉ đồng trinh đến khi sinh chủa Jesus ( do sự phản đối giáo quyền La
Mã ,cho nên có tên gọi là Protestanism , nghĩa là Thệ phản ) . Vào thế kỷ XVI
còn diễn ra cuộc ly khai thứ ba : Anh giáo ,tách ra khỏi Công giáo La Mã .
Sự tiếp xúc văn hoá trong giai đoạn đầu diễn ra trên phương diện tôn
giáo và thương mại . Vươn cánh tay tới phương Đông xa xôi nầy , nhà truyền
giáo và nhà tư bản tất yếu có nhu cầu liên kết chặt chẻ với nhau. Nhà truyền
giáo muốn mở rộng nước chúa cần phương tiện để đi xa . Nhà tư bản muốn
kiếm lời cần người am hiểu thị trường nên sẳn sàng giúp đở tài chính cho
các giáo sĩ và chở họ đi bất cứ nơi đâu . Bù lại , khi đến nơi ,các giáo sĩ sẽ
vừa đi truyền đạo , vừa tìm sẳn các nguồn hàng quý hiếm , nhiều khi các
giáo sĩ giúp nhà buôn bằng cách can thiệp với chính quyền địa phưong cho

phép họ buôn bán .
Trong việc buôn bán và truyền đạo trong giai đoạn nầy , các giáo sĩ và
thương nnhân phưong Tây thường phục tùng nghiêm chỉnh các quy định của
nhà nưóc phong kiến . Đổi lại , các chính quyền phong kiến Việt Nam rất niềm
nở đón tiếp họ . Cả chúa Nguyễn , chúa Trịnh và vua Lê đều muốn tranh thủ
lực lượng nầy để củng cố thế lực ,phát triển kinh tế và tăng cưòng tiềm lực
quân sự để kiềm chế và chông lại đối phương . Trong khi đó thì ở châu Âu ,
chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh và đi vào con đường thực dân , chi phối
mọi hoạt động của xã hội .
Cuối năm 1624 , giáo sĩ ngưòi pháp Alxandre de Rhodes ( 1591 – 1660 ) ,
thường phiên âm là Á lịch sơn Đắc Lộ , thuộc giáo hội Bồ Đào Nha ,sau mấy
năm truyền giáo ở đàng Trong và Đàng Ngoài , đã trở về châu Au vận động toà
thánh Rô ma giao cho Pháp quyền truyền đạo ở Viễn Đông .Kết quả là năm
11


1658 ,giáo hoàng đã phong cho hai giáo sĩ Pháp là Francois Pallu và Lambert
de la Motte làm giám mục cai quản hai địa phận Đàng Trong và Đàng Ngoài .
Năm 1664 , Hội thừa sai Pari,thường gọi lả Hội truyền giáo nước ngoài của
Pháp được thành lập .
Cuộc nội chiến Nguyễn Anh – Tây Sơn vào thế kỷ XVIII là một cơ hội
tốt cho cho sự bành trướng của Hội truyền giáo nước ngoài của pháp và sự
can thiệp cuả thực dân Pháp . Giám mục Pièrre Pigneaux de Béhaine ( 1741 –
1799 ) , thường được phiên âm là Bá Đa Lộc, còn gọi là cha Cả , đại diện của
toà thánh ở Đàng Trong ,đã trở thành người đỡ đầu tích cực cho Nguyễn
Anh .Ong đã đưa hoàng tử Cảnh đi Pháp ,và năm 1787 đã đại diện cho Nguyễn
Anh kí với Pháp hiệp ước Versailles . Sau đó , do xãy ra cách mạng Pháp 1789
,hiệp ước Versailles không được hiện . Bá Đa Lộc đã tự mình mộ quân và sắm
vũ khí giúp Nguyễn Anh đánh Tây Sơn . Hoạt động của Ba Đa Lộc đã giúp
cho nước Pháp có được một chổ đứng vững chắc ở Việt Nam về tôn giáo và

chính trị .
Sau khi lên ngôi vào năm 1802 , lấy niên hiệu là Gia Long , Nguyễn Anh
lâm vào một tình thế nước đôi : Môt mặt chịu ơn các giáo sĩ và ân nhân Pháp ,
do vậy ông đã ban thưởng hậu và sử dụng một số làm cố vấn và quan lại
trong triều ; mặt khác lại lo ngại sự phát triển của Ki to giáo trước mắt sẽ ảnh
hưởng xấu đến truyền thống đạo đức và thuần phong mỹ tục cổ truyền , sau
nữa có thể làm mất ổn định chính trị và dẫn đến nguy cơ mất nước .
Để đối phó với tình hình nầy , Nhà Nguyễn chủ trương “bế môn toã cảng ”
trong giao lưu và giữ nguyên hiện trạng đạo Ki tô chứ không khuyến khích
phát triển . Trong chiếu ban hành tháng giêng năm 1084 , nhân nói với dân
chung Bắc Hà về việc thơ thần Phật ,vua Gia long đã tuyên bố :” dân các tổng
nào có nhà thờ Gia tô đổ nát thì phải đưa đơn trình quan trấn mới được tu bổ
, dựng nhà thờ mới thì đều cấm”.Để bảo tồn văn hoá và tạo điều kiện giữ ổn
định chính trị ,nhà Nguyễn đã khôi phục Nho giáo là Quốc giáo ,Gia Long
từng căn dặn Minh Mạng :”Hãy biết ơn ngưòi Pháp ,nhưng đừng bao giờ để họ
đặt chân vào triều đình của con”.
Dưới thời Minh Mạng ( 1820-1840 ), ý đồ xâm lược của Pháp càng lộ rõ .
Qua thời Thiệu Tri ( 1841- 1847 ) ,sang thời Tự Đức ( 1848 – 1883 ) , cuộc leo
thang xâm lược của Pháp ngày càng gia tăng .Những người Pháp làm quan tại
triều đình nhà Nguyễn và nhiều cha cố đã báo về chính phủ Pháp nhiều tình
báo quan trọng , một số giáo sĩ theo tàu chiến Pháp xâm nhập Việt Nam …..
Không phân biệt được bọn thực dân đội lốt tôn giáo và tay sai với con chiên nhẹ
dạ cả tin và những giáo dân lương thiện , Minh Mạng , rồi Thiệu Trị và Tự
Đức đã ra một loạt chỉ dụ cấm đạo . Việc cấm đạo và giết giáo dân đến lượt
12


mình lại tạo ra một cớ rất mủi lòng cho bọn thực dân can thiệp vũ trang ráo
riết hơn .cái sai nầy kéo theo cái sao khác . Trước sức ép của Pháp , tháng 5/
1862 Tự Đức buộc phải ký với Pháp Hoà ước Nhâm Tuất, theo đó thì triều

đình phải nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ và bỏ cấm đạo . Sự
kiện nầy đã khiến nhiều nhà Nho yêu nước phản ứng quyết liệt , họ dấy lên
phong trào “Bình Tây sát tả” ( dẹp giặc Tây , giết tả đạo ) kéo dài tới thời kỳ
Cần Vương .
Trong khi gây nên cảnh cốt nhục tương tàn đó , bọn thực dân không quan
tâm gì đến đời sống của giáo dân .Ngay cả giữa các giáo sĩ thừa sai với giáo
sĩ bản xứ cũng luôn có một sự phân biệt đối xử nhiều khi tới tàn nhẫn ( mãi
năm 1933 toà tòa thánh Roma mời phong chức giám mục cho người bản
xứ đầu tiên là Nguyễn Bá Tòng ) . Năm 1954 , khi Pháp đã thất bại ỡ Điện
Biên Phủ , bọn thực dân đội lốt tôn giáo còn tung tin “Chúa đã vào Nam” để
lội kéo một số lớn tín đồ từ Bắc vào Nam , gây nên sự xáo trộn lớn trong
cuộc sống của lương dân .
Sau bốn thế kỷ truyền đạo ,tới nay Ki tô giáo đã có chổ đứng vững chắc ở
Việt nam với khoãng hơn 5 triệu tín đồ và nửa triệu tín đồ Tin Lành , song con
số nầy chưa phải là lớn . vào Việt Nam khi chế độ phong kiến đang khủng
hoảng trầm trọng ,Phật giáo thì suy đồi và Nho giáo thì không bàn đến kiếp sau
, Ki tô giáo đã có nhều cơ hộ trở thành chổ dựa tinh thần cho ngưòi dân đang
cần niềm an ủi . Nhưng Ki tô giáo đã không tranh thủ được hoàn cảnh thuận
lợi ấy mà trở thành đạo của số đông là bởi hai lý do chủ yếu :
Thứ nhất , khác với phương Tây , trong quá trình thâm nhập vào Việt Nam
xa xôi , hoạt động truyền giáo đã dính líu và thoã hiệp với hoạt động của kẻ
thực dân xâm lược . Trong luận án tiến sĩ quốc gia khoa học chính trị bảo vệ tại
tại đại học Pari năm 1968 ông Cao Huy Thuần đã viết :”Khi khảo cứu lịch sử
thực dân của châu Au vào thế kỷ XIX , chúng ta chú ý ngay đến sự đi đôi giữa
hoạt động truyền giáo và hoạt động quân sự …. Nhưng chữ “đi đôi “ vẫn còn
phải bàn cãi , vì như một nhà ngoại giao Pháp đã nhận xét một cách mĩa mai
“đó là những con đường song song mà trái với mọi định luật hình học lại
thường gặp nhau”. Nói cách khác , Phúc âm được truyền bá trong khắp thế giới
Á, Phi là nhờ vào sự chinh phục xâm lăng của người Au châu ” , “Mỗi bước
tiến của sự xâm lăng thuộc địa tương ứng với một bước “leo thang” của đạo

Gia tô ,và ngược lại . “ Trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp , Nguyễn Ai
Quốc đã phải dành cả một chương viết về Chủ nghĩa giáo hội :”Hàng giáo sĩ
thuộc địa không những phải chịu trách nhiệm gây ra chiến tranh thuộc địa ,
mà còn là bọn kéo dài chiến tranh , bọn chủ trương đánh đen cùng , không
chịu điều đình “non” … Một hoà ước với người Việt Nam dù có lợi bao nhiêu
cũng chẳng thoã mãn được lòng ham muốcn của các ông ấy . Họ muốn đánh
13


chiếm hết cả nước và lật đổ triều đại đang trị vì .Giám mục Pellerin đã nhiều
lần nói như thế và đó cũng là ý kiến của giám mục Lefebvre ”, Người Việt
Nam với truyền thống bao dung ,vốn dễ chấp nhận mọi tôn giáo ngoại lai ,
miễn là nó đến với thiện chí hoà bình , ấy vậy mà vào thời kỳ nầy lần đầu
tiên đã xuất hiện sự đối lập giữa “bên giáo ” vời “bên lương ”.
Thứ hai , khác với các tôn giáo được hình thành ở Á Đông đã vào Việt
Nam trước như Phật giáo , Đạo giáo , Ki tô giáo là tôn giáo mang đậm tính
cách cứng rắn của truyền thống văn hoá phương Tây , do vậy mà , trong một
thời gian dài ,khó hoà đồng được với văn hoá Việt Nam . Klhi truyền giáo ở
các nước gần gũi về địa lý và tương đồng về văn hoá , những tính cách nầy ít
dẫn đến xung đột . Nhưng khi đến phương Đông nói chung và Việt Nam nói
riêng , nó gây nên một sự tương phản rỏ nét . Ông Nguyễn Tử Lộc đã viết :”
Sự truyền đạo Công giáo vào Việt Nam và sự phát triển của đạo … có một
tính cách rất ngoại quốc đối với phần còn lại của dân tộc . Tính cách ngoại
quốc gồm cả hình thức đến nội dung , từ lễ nghi , nghệ thuật đến lối sống ,tín
ngưỡng . Đạo Công giáo có vẽ rất Tây , từ cầu kinh La tinh đến ảnh tượng thờ ,
đến kiểu kiến trúc giáo đường , đến quan niệm con người và vũ trụ ”.
Nổi bật trong mối quan hệ nầy là mâu thuẩn giữa một bên là truyền
thống thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam với bên kia là tính độc tôn của Ki
tô giáo không chấp nhận việc thờ cúng ai ngoài Chúa . Không chỉ việc thờ
cúng tổ tiên mà cả Tam giáo ( Nho , Lão , Phật ) cũng bị các giáo sĩ coi là “mê

tín dị đoan” và phủ nhận .Ngay từ thời đó , cũng đã có không ít giáo sĩ nhận ra
rằng quan niệm cực đoan nầy là “lạc đường và gây trở ngại không thể vượt qua
được cho việc truyền đạo”. Cho tới Công đồng Va ti căng II ( 1962-1965 )
,những sự khác biệt và các sắc thái văn hoá địa phương mới được hoà đồng .
Trong quá trình tiếp thu văn hoá , Người Việt Nam bao giờ cũng thâu
hoá linh hoạt , tiếp nhận những gì có ích và biến đổi cho phù hợp. Ngay trong
lĩnh vực Ki tô giáo, với những ngôi nhà thờ cao vút có đỉnh nhọn thoắt, thì nhà
thờ Phát Diệm lại xuất hiện dạng kiến trúc dân tôc thấp, trãi rộng và có mái
cong . Hiện nay người Ki tô hữu Việt Nam đang thực sự hoà mình với dân tộc,
ở trong lòng dân tộc, vì dân tộc, xây dựng cho mình truyền thống “kính Chúa
,yêu nưóc” và đề cao tình thần Sống phúc âm trong lòng dân tộc.
1.3. Mỹ thuật
Luồng văn hóa từ phương Tây và ảnh hưởng của phương Tây vào Việt Nam
trước hết làm thay đổi cái nhìn của người Việt Nam với thế giới. Trước đây là
một không gian đóng kín. Xung quanh chúng ta là một bức tường, bên kia bức
tường là một thế giới hoàn toàn xa lạ, hoàn toàn khác biệt đến mức trong sự hình
dung của không ít người

14


Sự giao thoa văn hóa phương tây mà ở đây chủ yếu là từ văn hóa Pháp do chúng
ta đã phải trải qua thời kì dài đô hộ của Pháp thể hiện qua các biểu hiện sau đây:
• thành lập các trường mỹ thuật quốc tế mang hơi hướng Pháp hoặc do
người Pháp đứng đầu
• các kĩ thuật vẽ tranh mới
• các trường phái tranh mới
• kiến trúc xây dựng đương đại đặc trưng kiểu Pháp
Về mỹ thuật, Người Pháp đã mang đến cho mỹ thuật Việt Nam (chủ yếu từ khi
thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương (1925) hai chiều kích (dimensions)

mới:
• Kỹ thuật sơn dầu
• Luật viễn cận (và tính khoa học, duy lý, bổ sung cho chất trữ tình đượm
màu tâm linh (spiritual) vốn có).
Điều đáng chú ý là mặc dầu không có bề dày truyền thống như điêu khắc, song
kể từ khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, lại chính là hội họa chứ không phải điêu
khắc trở thành ngành phát triển nhất và có những thành tựu lớn nhất.
Về sự phát triển của Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, chúng tôi tạm chia làm 4 giai
đoạn như sau (các thành tố văn hóa khác của Việt Nam tuy có phát triển chênh
lệch nhau đôi chút (“tân nhạc” chậm hơn “thơ mới”, “văn chương kiểu mới”,
“cải lương” (ca kịch mới) có thể xuất hiện sớm từ đầu thế kỷ - quãng thập kỷ
đầu - thập kỷ hai (1910-1920) song nhìn theo vĩ mô thì về cơ bản là vẫn “vầy
vậy” về giao thoa văn hóa Việt - Pháp, Đông - Tây, Nam - Bắc ở thế kỷ XX).
a,Giao thoa tiền Cách mạng (trước 1945):
Mĩ thuật Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 nằm trong một quá trình
chuyển biến và phân hoá quan trọng trong lịch sử cận đại Việt Nam. Thế kỷ XIX
với nhà Nguyễn một triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã đặt đất nước
ta vào hoàn cảnh mới, sự giao tiếp với phương Tây và ảnh hưởng văn hoá Trung
Hoa đã tạo lập một nền nghệ thuật đa dạng mang nhiều yếu tố phức tạp bên
ngoài. Tuy vậy, nét nghệ thuật cổ truyền vẫn được bảo lưu qua các công trình
kiến trúc, điêu khắc, mĩ thuật dân gian.

15


Mĩ thuật Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến 1945 là nền mĩ thuật bản lề của hai
thế kỷ, nó đã chứng minh phần nào sự phân hoá nghệ thuật hiện đại thế giới.
Giai đoạn này kế tiếp những thành tựu nghệ thuật ở giai đoạn trước nó và
hình thành hai thời kỳ cơ bản.
Thời kỳ hoàn tất một loạt các công trình kiến trúc lăng tẩm, đền miếu mang

nhiều yếu tố Trung Hoa và Pháp, mĩ thuật Huế là một công trình lăng tẩm kết
hợp giữa thiên nhiên và kiến trúc điêu khắc đáng lưu ý trong lịch sử trong kiến
trúc nước ta. Về mặt hội hoạ chưa có gì đáng kể cùng với sự phát triển bước tiến
mới của nền mỹ thuật. Ngưòi đi đầu của nền hội hoạ mới là Lê Văn Miến ( 1873
– 1943) quê ở Nghệ An, 1888 sang Pháp học trường thuộc địa sau đó học trường
Mĩ thuật Paris năm 1891 đến 1895. Cả hai trường ông đều đỗ xuất sắc.
Tác phẩm tiêu biểu là "Chân dung cụ tú Mền" và bức "Bình vân", " Chân
dung cụ ông và cụ bà", " Chân dung cụ Đào Tấn", " Chân dung cụ tổ phụ Hồ
Liệu". Với bức "Bình Vân" là cái mộc lịch sử nghệ thuật nước nhà chỉ có thể coi
là thuận lơị và đẹp đẽ. Nó làm cho hội hoạ hiện đại Việt Nam có thêm phần tư
thế tuổi đời thêm một, học vấn vững chãi không gặp lại một phần thứ hai nào
nữa (theo Thái Bá Vân ).
- Về những mở đầu cho mỹ thuật mới:
Mỹ thuật dần đã hoà nhập với thế giới đương đại để trở thành hiện đại theo khoa
học mới. Do sự ham thích của vài cá nhân, sau trở thành tổ chức của chính
quyền thực dân Pháp.
+ Người đi đầu của nền hội hoạ Việt Nam là Lê Văn Miếu (1873 - 1943) ông
sinh ra ở Nghệ An trong một gia đình nhà nho yêu nước. Lên Văn Miếu sáng tác
không nhiều song tác phẩm lại bị thất lạc gần hết. ở Bảo tàng mỹ thuật Hà Nội
còn sưu tầm được hai bức "Chân dung cụ Tú mền ", " Bình văn ", ở Huế cũng
giữ được hai bức " Chân dung cụ ông và cụ bà Nguyễn Khoa Luận " và một số
Bảo tàng của các tỉnh cũng giữ được một vài tác phẩm. Sáu bức không nhiều
ngoài những tranh chân dung, chỉ một bức " Bình văn " đã phản ánh sinh hoạt
học đường đầu thế kỷ XX nhằm giác ngộ tinh thần yêu nước cho học sinh. Do
đó ông với bức bình văn là một cái mốc và đẹp đẽ.
+ Sau Lê Văn Miếu là ông Huỳnh Tựu có lẽ là người thứ hai được học ở Pháp.
+ Hoạ sỹ Nam Sơn tên thật Nguyện Vạn Thọ (1890 - 1973) chủ yếu đi lên bằng
tự học nhưng lại là người tham gia thành lập trường Cao đẳng mỹ thuật Đông
Dương. Quê ở Vĩnh Phúc, sinh ra ở Hà Nội trong một gia đình truyền thống hiếu
16



học. Tuổi nhỏ ông học ở trường Pháp Việt… đồng thời được gia đình dạy Hán
tự thi thư và kiến thức hội hoạ qua sách của Trung Quốc. Ông còn tìm tòi học vẽ
qua các tranh tế, tranh tàu, …
+ Bùi Xuân Phái có lẽ là cây cọ phì nhiêu nhất của thời kỳ này (như Nguyễn
Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng... bên Văn). Ông để lại một
khối lượng tác phẩm đồ sộ, không dưới chục ngàn bức lớn nhỏ (riêng tôi - TQV
- được ông tặng 2 bức). Ông vẽ những phố cổ Hà Nội (Thái Bá Vân (vừa quá
cố) gọi là “phố Phái”), những đào kép Chèo, những cảnh biển... trên bất cứ cái
gì trong tầm tay của ông: một trang giấy báo, (chính Ông đã vẽ một thiếu nữ đẹp
trên trang báo tôi trải làm mâm ở nhà tôi một buổi trưa cuối năm 1986. Tranh
này Phác Văn đã cầm về nhà - TQV), một nắp hộp các-tông, một bao thuốc lá,
một hộp diêm... Với phố cổ Hà Nội, Ông tựa như Utrillo với Paris cổ.
+ Nguyễn Sáng là bậc tuyệt kỹ về sơn dầu. Những tác phẩm đầy cường lực của
ông dào dạt hào khí sử thi, phản ánh tinh thần của cả một thời kỳ cách mạng dân
tộc.
+ Nguyễn Tư Nghiêm là một trong những người đầu tiên khai thác di sản văn
hóa dân tộc ẩn tàng ở điêu khắc và trang trí kiến trúc đình, đền, chùa... mở con
đường đi đến hiện đạithông qua truyền thống. Ông là nhà cách tân ngôn ngữ tạo
hình của mỹ thuật đương đại Việt Nam.
Cả 3-4 vị lão tướng trong nghệ thuật tạo hình vừa kể trên đã từ chối và rũ bỏ
những nguyên lý, nguyên tắc hàn lâm học được ở nhà trường để khai phá những
hình thức biểu hiện mới kết hợp truyền thống và hiện đại.
b. Giai đoạn cách mạng và kháng chiến (1946-1975):
Văn nghệ sĩ Hà Nội ra chiến khu, “đi tiền tuyến”.
Mỹ thuật, cũng như mọi ngành văn nghệ khác đều lấy công nông binh làm đối
tượng chủ yếu để phản ánh và phục vụ và dòng chủ lưu là phương pháp hiện
thực xã hội chủ nghĩa được tiếp thu và hội nhập từ Liên Xô, Trung Quốc và các
nước Đông Âu.

Trong số các nghệ sĩ tạo hình trưởng thành qua kháng chiến “chống Mỹ cứu
nước” có thể kể đến: Nguyễn Hải, Lê Công Thành, Đỗ Sơn, Nguyễn Quân, Tạ
Quang Bạo, Phạm Viết Hồng Lam, Đặng Thị Khuê, Đỗ Thị Minh, Ca Lê Thắng
(cùng thời gian này, trong miền Nam nổi lên những tên tuổi như Nguyễn Trung,
Nguyễn Phước, Trịnh Cung, Nghiêu Đề, Đinh Cường, Bửu Chỉ, Hoàng Đăng
17


Nhuận...). Nói thẳng thắn, trong thời chiến tranh lạnh toàn cầu và chiến tranh
nóng ở Việt Nam (và Đông Dương) các văn nghệ sĩ ở miền Nam có điều kiện
tiếp nhận rộng rãi hơn những thông tin về nghệ thuật thế giới phương Tây,
ngược lại, các đồng nghiệp của họ ở miền Bắc thì tiếp nhận nhiều thông tin của
khối các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc và cắm rễ sâu
hơn vào truyền thống văn hóa dân tộc.
c. Giai đoạn hậu chiến và tiền đổi mới (1975-1986):
Có thể coi đây là giai đoạn đệm để văn nghệ hai miền Nam - Bắc giao thoa và
hội nhập sau khi tái thống nhất đất nước hay giai đoạn chuyển qua thời Đổi mới.
Vẫn dùng mỹ thuật làm tượng trưng cho giao thoa văn hóa - văn nghệ thì hai
cuộc Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 1980 và 1985 (cũng như các cuộc Liên hoan
sân khấu, ca nhạc toàn quốc...) sau khi thống nhất đã tập hợp được nhiều gương
mặt nghệ sĩ ba miền Bắc - Trung - Nam.
d. Giai đoạn đổi mới (từ 1986 trở đi):
Những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, chứng kiến một sự bùng nổ - lan
truyền chưa từng thấy trong đời sống văn nghệ Việt Nam - Hà Nội. Hội Văn
nghệ dân gian được hồi sinh. Nhưng hãy chỉ nói ở lĩnh vực nghệ thuật tạo hình:
các nghệ sĩ tận hưởng cơ hội tự dosáng tạo nghệ thuật trong không khí cởi mở
của Đổi mới, trở nên năng nổ, khám phá hơn, cố gắng hòa nhịp với các trào lưu
quốc tế (ở lĩnh vực âm nhạc cũng vậy).
Sự nở rộ đó có thể diễn giải như là một cơn lốc giải tỏa những khát vọng sáng
tạo bị dồn nén từ bao lâu. Các nghệ sĩ trẻ đang tìm kiếm bản sắc riêng của mình

dựa trên những trải nghiệm cá nhân và cách nhìn riêng biệt, càng ngày càng tỏ
ra tự tin và táo bạo trong công việc sáng tạo. Họ là một thế hệ không mặc cảm,
họ không “ngợp” trước những gì các bậc tiền bối đã làm với tư cách tiền phong,
nhưng cũng không hề tính chuyện “xóa sạch quá khứ” (mà làm sao xóa được
phong trào Văn hóa cứu quốc mà Tô Hoài đã viết rất hay). Tiếp tục đối thoại với
quá khứ (kiểu Cát bụi chân ai hay Chiều chiều...), họ ráng làm một cuộc hôn
phối giữatruyền thống và hiện đại.
Có lẽ chưa bao giờ mảnh đất mỹ thuật Hà Nội - Việt Nam này nảy nở nhiều tài
năng với những phong cách đa dạng như thế từ lớp già Nguyễn Thế Khang, lớp
trung niên Trần Khánh Chương, Thẩm Đức Tụ đến nhóm họa sĩ trẻ đầu tiên
giành được sự ngưỡng mộ quốc tế (ngoài Thái Bá Vân được nước ngoài coi là
nhà bình luận mỹ thuật xuất sắc nhất Việt Nam). Đó làGang of Five gồm 5 họa
18


sĩ Hà Nội: Hồng Việt Dũng, Hà Trí Hiếu, Đặng Xuân Hòa, Trần Lương, Phạm
Quang Vinh. Bên cạnh đó còn có các gương mặt nổi bật như Trần Trọng Vũ, Lê
Quảng Hà, Phạm Ngọc Minh, Bùi Minh Dũng, Nguyễn Quốc Hội, Vũ Thăng...
tiêu biểu cho một dòng tân xuất biểu (neo-expressionnist) cường tráng.
1.4.Triết học
Triết học Việt Nam thường gắn liền với tôn giáo tín ngưỡng nhằm xây dựng một
xã hội kỷ cương và hòa mục nhân ái, giải thoát con người, làm cho con người
hòa đồng với thiên nhiên. Triết học Việt Nam đi từ nhân sinh đến thế giới quan.
Đề cao Phật giáo tin phật và luôn biết hành thiện.
Triết học Pháp thường gắn liền với khoa học đặc biệt là khoa học tự nhiên, các
nhà khoa học. Triết học Pháp thường đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể
luận đến nhân sinh quan, nhận thức luận, logic học để từ đó tạo nên một hệ
thống hoàn chỉnh
Triết học Việt Nam và Pháp
đều được hình thành, phát triển

trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tân, giữa phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng. Thực chất cuộc đấu tranh này là một phần cuộc đấu
tranh tư tưởng của những giai cấp đối kháng trong xã hội. Những quan niệm duy
vật thường gần gũi và gắn liền với những lực lượng tiến bộ trong xã hội và
ngược lại những quan niệm duy tâm thường gần gũi và gắn liền với lực lượng
lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.
Triết học Việt Nam và Pháp có thể sử dụng những khái niệm, phạm trù khác
nhau nhưng đều phải bàn đến vấn đề cơ bản của triết học, đồng thời đều tuân
theo những phương pháp chung trong nhận thức thế giới: Phương pháp biện
chứng hoặc Phương pháp siêu hình.
Triết học Việt Nam hay Pháp đều bàn đến vấn đề con người
ở những khía cạnh khác nhau, mức độ đậm nhạt khác nhau và qua những thời kỳ
lịch sử khác nhau đều có cách đánh giá khác nhau về con người
Các học thuyết triết học ở Việt Nam hay Pháp đều có khuynh hướng chung là
xâm nhập lẫn nhau, vừa có sự kế thừa giữa các học thuyết, hoặc trong sự phát
triển của học thuyết đó, vừa có sự đào thải, lọc bỏ những quan niệm lạc hậu,
hoặc những quan niệm không phù hợp với nhãn quan của giai cấp thống trị.
Mỗi học thuyết trong triết học ở Việt Nam hay Pháp cũng vậy, đều có những
mặt tích cực và hạn chế của nó nhưng đã góp phần tạo nên những giá trị văn
minh nhân loại

19


Triết học Việt Nam hay Pháp đều giải quyết mặt của vấn đề cơ bản của Triết học
tuy nhiên lại có sự khác nhau trong cách giải quyết cũng như sự tập trung giải
quyết mặt thứ nhất hay mặt thứ hai.
Một số nhà triết gia nổi tiếng của Pháp
- Auguste Comte ( 17/1/ 1798 – 5 /9/ 1857) là một nhà tư tưởng Pháp, nhà
lý thuyết xã hội, người tạo ra ngành xã hội học, nhà thực chứng luận đã

đưa ra thuật ngữ "Xã hội học" . Ông đã đóng góp không nhỏ vào lĩnh vực
xã hội học của thế giới, những đóng góp của ông về mặt lý thuyết như
quan niệm về xã hội học xem xã hội học là khoa học nghiên cứu các tổ
chức xã hội. Quan điểm nhìn nhận về xã hội và cấu trúc xã hội bao gồm:
bộ phận, thành tố, quan hệ, sắp xếp theo trật tự nhất định. Ông xem xã hội
là một hệ thống có cấu trúc, cá nhân, gia đình và các tổ chức xã hội.
- Emile Durkheim(1858-1917) sinh ra trong một ia đình theo đạo Do Thái ở
epina- Pháp. Là người đặt nền móng cho chủ nghĩa chức năng, cấu trúc
trong xã hội học hiện đại .

1.5. Kiến trúc
Một nền kiến trúc mới ra đời, được người ta gọi là phong cách kiến trúc thuộc
địa, cái tên thì không hay lắm, nhưng có thể coi là một thành tựu, đến mức, ngày
nay, người ta chẳng xây dựng được cái gì hơn thế.
Hà Nội thời phong kiến bao gồm một ngôi thành, khu phường chợ, sau hình
thành phố cổ và những làng mạc nằm ngay trong kinh đô. Những đô thị cổ Việt
Nam cũng hình thành theo cách thức như vậy, mà mỗi đô thị lớn thường nằm kề
bên một dòng sông, nơi đô thị được xây dựng cũng là nơi bến sông thuận tiện
cho giao thông và buôn bán.
Khái niệm thành thị - cái thành và chợ được hiểu theo nghĩa đen và chính xác về
một thành phố phương Đông. Tất nhiên đô thị phương Tây cũng có nhiều nét
tương tự - một thành phố nằm lọt trong cái thành kề bên sông, vừa phòng thủ,
vừa thương mại, trong đó có nhà thờ và cung điện vua chúa, hoặc trụ sở chính
quyền. Tuy nhiên, đô thị phương Đông hoàn toàn khác đô thị phương Tây ở ba
mặt: thành phố - công dân - nền văn minh (city - citizen - civisallation). Đô thị
phương Đông không có công dân mà chỉ có thần dân của ông vua, và văn minh
của một dân tộc cũng không hẳn sinh ra ở thành phố, như trường hợp của Việt
Nam là nền văn minh sinh ra ở nông thôn.

20



Khi người Pháp đô hộ Việt Nam, hai thành phố phát triển có xu hướng hiện đại
mới là Hà Nội và Sài Gòn, ở Hà Nội ngôi thành cũ bị phá dỡ để xây dựng khu
vực hành chính cho chính quyền thực dân, ở Sài Gòn thì thành Gia Định bị triệt
phá ngay từ thời vua Minh Mạng. Vả lại thành quách thời Nguyễn dù có được tu
chỉnh theo lối thành Vauban với các đột giác để đặt hỏa pháo, cũng không có
khả năng phòng thủ trước pháo binh phương Tây. Một nền kiến trúc mới ra đời,
được người ta gọi là phong cách kiến trúc thuộc địa, cái tên thì không hay lắm,
nhưng kiến trúc Pháp ở Việt Nam có thể coi là một thành tựu, đến mức, ngày
nay người ta chẳng xây dựng được cái gì hơn thế.
Thế kỷ 18, ở Thăng Long đã có những nhà gạch và đường phố lát gạch hay đá,
những ghi chép của người phương Tây vào Kẻ Chợ cho biết điều này. Nhưng
sau năm 1802, Thăng Long phải nhường vai trò kinh đô cho Huế và chỉ còn là
Bắc Thành, nên có lẽ bị xuống cấp và hoang hóa nghiêm trọng. Những bức vẽ
và sau đó là ảnh chụp của người Pháp cho thấy nhiều phố phường ở Hà Nội
trong cảnh đường đất, nhà tre gỗ, hai đầu phường là cổng bằng tre nứa. Mặc dù
sự xây dựng ở khu phố cổ tương đối thống nhất, nhưng nhìn chung là nghèo nàn,
tụt hậu, phía trong những dãy phố với bốn mặt của bốn phố phía ngoài là những
bãi đất trống được dùng làm nơi trút rác và phóng uế. Hỏa hoạn luôn xảy ra, nên
người ta cài cả chum nước lên mái nhà.
Khi Thành cổ Hà Nội bắt đầu bị phá để người Pháp xây dựng khu toàn quyền,
thì các khu phố cổ phục hồi thương mại trở lại và chuyển sang xây dựng nhà
gạch kiểu mái thu hồi. Nhà thường có một tầng rưỡi hoặc hai tầng, mặt tiền hẹp,
nhưng có chiều sâu chạy tiếp giáp hết đất với những nhà ở phố phía sau. Hình
ảnh phố cổ Hà Nội còn tồn tại rõ nét cho đến những năm 1970 và được họa sĩ
Bùi Xuân Phái phản ánh trong các tác phẩm của ông.
Theo kiến trúc sư Trần Quốc Bảo, ở Hà Nội có 7 phong cách kiến trúc thời Pháp
thuộc (xem Reds.vn 10/2014 và ashui.com):
- 1. Phong cách kiến trúc Tiền thực dân,

- 2. Tân cổ điển,
- 3. Địa phương Pháp,
- 4. Art Deco,
- 5. Đông Dương,
- 6. Pháp - Hoa,
- 7. Neo - Gothic.
Phong cách kiến trúc Tiền thực dân. Thuật ngữ để chỉ kiểu kiến trúc khi
người Pháp mới đến Hà Nội, xây dựng tạm vài khu đồn trú, bắt đầu từ khu Đông
Nam Hà Nội, tính từ đường Tràng Tiền xuống, gọi là khu nhượng địa. Các công
trình kiến trúc phong cách Tiền thực dân với mặt bằng hình chữ nhật đơn giản
có hành lang rộng chạy xung quanh. Nhà thường có hai tầng, sàn tầng hai dùng
dầm đỡ thép hình cuốn gạch ở trên. Mái dốc lợp ngói hoặc tôn. Tường chắn mái
21


xây gạch dùng để trang trí mặt tiền có một vài hình thức trang trí đơn giản như
hàng con tiện hoặc đắp xi măng hình hoa lá. Hành lang quanh nhà được tạo ra
hình thức cuốn vòm hình cung hoặc bán cầu có khóa vòm (xem Trần Quốc Bảo,
đã dẫn). Để chống nắng, những ngôi nhà đồn trú và hành chính ban đầu thường
có hàng hiên rất rộng, rồi mới đến những căn phòng bên trong. Bảo tàng Lịch sử
quân sự Việt Nam cạnh Cột cờ chính là tiêu biểu của kiểu thức này.
Phong cách kiến trúc Tân cổ điển. Tân cổ điển là một trường phái kiến trúc và
nghệ thuật ở Pháp thế kỷ 19. Cách thức kiến trúc Tân cổ điển thường áp dụng
cho những tòa nhà lớn của chính phủ và lâu đài quý tộc với các thức cột Hy Lạp
được sử dụng lại đứng tự do hoặc áp vào tường. Khối nhà thường có khối chính
hơi thụt vào và hai khối tháp cân đối hai bên tạo sự uy nghiêm cho công trình.
Trên nhà thường dùng các trang trí đắp nổi theo kiểu thức hoa lá, tượng tròn HyLa, Phục hưng và Baroque. Mái nhà dốc và lợp đá hoặc ngói.
Ở xứ thuộc địa xa xôi, kiến trúc Tân cổ điển không giữ được phong cách trọn
vẹn, mà biển đổi tùy theo điều kiện kinh tế và xây dựng... Tòa nhà phủ Toàn
quyền Đông Dương (nay là Phủ Chủ tịch) và Dinh Thống sứ Bắc Kỳ, Phủ

Thống sứ (12 Ngô Quyền), ga Hàng Cỏ (cũ) là những công trình tiêu biểu.
Phong cách kiến trúc Địa phương Pháp. Khi đến Việt Nam, những công chức
Pháp cũng cần nơi ở và học hành. Một số biệt thự được xây theo phong cách
Tân cổ điển nói trên, một số khác được xây theo kiểu thức địa phương miền Bắc
nước Pháp và Paris, cũng nhiều trụ sở được xây theo lối này. Kiến trúc địa
phương Pháp thường cao hai ba tầng, mái dốc nhô ra khỏi khối nhà (như nhà cổ
nông thôn Việt Nam), nên dùng những con sơn bằng gỗ đỡ diềm mái. Theo Trần
Quốc Bảo, lối kiến trúc này mang tính duyên dáng, hồi cố và được cải biến cho
phù hợp với khí hậu Việt Nam. Công trình hiện còn là tòa nhà Grand Lycee
AIber Sarraut (ở 1B Hoàng Văn Thụ), Petit Lycee (8 Hai Bà Trưng), Trường nữ
học Pháp (58 Trần Phú) và một số biệt thự tại khu ngoại giao đoàn.
2. Giao lưu văn hóa vật chất
Có thể nói giao thoa văn hóa Việt Nam với phương Tây có phần đặc biệt hơn so
với sự giao thoa văn hóa của Việt Nam với Ấn Độ, Trung Quốc, Đông Nam Á
hay Nga... Tại sao lại như vậy?
Cuộc xâm lược của phương Tây, mà cụ thể là Pháp, Mỹ trong quá khứ đã tạo ra
một sự đứt đoạn lớn trong lịch sử dân tộc . Một mặt, nó gây ra cho dân tộc ta rất
nhiều đau khổ: chia li và chết chóc; song mặt khác, với tư cách là một công cụ
vô ý thức của lịch sử, nó phá vỡ cái vòng phát triển luẩn quẩn của một xã hội
nông nghiệp cổ truyền... Và chính trong giai đoạn này, giao lưu văn hóa Việt

22


Nam với phương Tây đã bắt đầu hình thành với hình thức chủ yếu là Giao thoa
cưỡng bức.
Như các bạn đã biết, Việt Nam vốn là một đất nước nghèo và lạc hậu. Nông
nghiệp lúa nước là chính. Mà hình thức sản xuất vô cùng thô sơ và lạc hậu. Vì
thế mà khi đó, dân ta: ăn không đủ no, áo không đủ mặc, đời sống khốn khó.
Chính công cuộc khai thác thuộc địa của tư bản đã tạo nên một hệ thống cơ sở

vật chất mới, hiện đại ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật Phương Tây
vào đất nước ta. Những cơ sở vật chất của kinh tế tư bản mọc lên trên nền móng
của nền nông nghiệp truyền thống đã tạo ra diện mạo mới của nền văn hóa vật
chất Việt Nam từ những thập niên đầu thế kỉ XX.
2.1 Trên lĩnh vực nông nghiệp:
Đã xuất hiện những cơ sở vật chất mới, đó là hệ thống thuỷ nông mới ứng dụng
khoa học kĩ thuật nông nghiệp phương Tây. Qua đó nông dân Việt Nam đã tiếp
xúc với hệ thống thuỷ nông hiện đại. Nhà máy sản xuất phân bón hoá học được
xây dựng ở Hải Phòng, Bến Thuỷ. Những cơ sở khoa học kĩ thuật, trạm thí
nghiệm giống cây xuất hiện ở nhiều nơi. Những cây có giá trị kinh tế cao được
đem trồng thí điểm rồi đại trà, bổ sung vào cơ cấu cây trồng trên đồng đất Việt
Nam, điển hình là cây cao su. Thế độc canh cây lương thực bị phá vỡ, hình
thành cơ cấu cây trồng mới gồm cây lương thực, thực phẩm và cây công nghiêp.
Và kể từ đó cho đến bây giờ, Việt Nam đang dần công nghiệp hóa nông nghiệp,
áp dụng các tiến bộ khoa học- kỹ thuật của phương Tây vào trong sản xuất để
đạt năng xuất cao nhất mà sức lao động của con người bỏ ra ít nhất.
2.2. Trên lĩnh vực công nghiệp
Tư sản Pháp đã du nhập công nghệ hiện đại để xây dựng kĩ nghệ thuộc địa nhằm
khai thác tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam phục vụ cho nền kinh tế Pháp.
Đó là yếu tố khách quan thúc đẩy sự ra đời của hệ thống cơ sở vật chất công
nghiệp hiện đại trên đất nước ta.Đầu thế kỉ XX các khu công nghiệp khai mỏ
hình thành ở nhiều nơi để cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp Pháp như khu
mỏ Hồng Gai, Đông Triều, Tuyên Quang, Phấn Mễ, Thái Nguyên, mỏ thiếc
Tĩnh Túc... Công nghiệp chế biến đã xây dựng nhiều nhà máy hiện đại bao gồm
các ngành chế biến lâm sản, hải sản, vật liệu xây dựng…
Tiếp cận và học tập cách làm ăn của giới tư sản Pháp, tư sản Việt Nam tham gia
hoạt động trong các ngành công nghiệp theo hướng độc lập. Nhiều nhà máy,xí
nghiệp, nhà xưởng của tư sản Việt Nam được xây dựng trên khắp đất nước. Như

23



ngành dệt có các xí nghiệp dệt ở Thái Bình, Hà Nội, Hà Đông , Phú Yên, Châu
Đốc, Long Xuyên. Các xí nghiệp dệt chiếu được xây dựng ở Ninh Bình, Thái
Bình, Bạc Liêu, Rạch Giá, Tân An…các xí nghiệp sản xuất đường ra đời ở
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sơn Tây. Chế biến nông sản cũng phát triển. Nhiều
nhà máy xay xát gạo, ép dầu, chưng cất rượu ra đời. Chỉ riêng Sài Gòn đã có 20
nhà máy xay xát của tư sản Việt Nam hoạt động. Tư sản Việt Nam đã lập các
công ty để điều hành và quản lý sản xuất như Quảng Nam hiệp thương công ty,
Quảng Hưng Long,Đông Thành Xương, Bạch Thái Bưởi…
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất nhà máy xí nghiệp được xây dựng mới nhiều
hơn, và trang bị cơ sở vật chất hiện đại hơn.
Một loại sơ sở vật chất mới xuất hiện và đưa vào sử dụng phổ biến đầu thế kỉ
XX là hệ thống đường giao thông hiện đại gồm đường sắt, đường bộ, đường
hàng không nối liền các trung tâm khai thác với đô thị toả ra khắp nông thôn
phục vụ cho việc chuyên chở hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Kĩ nghệ
cầu đường tiên tiến của Phương Tây được ứng dụng vào xây dựng hệ thống
đường giao thông ở Việt nam.
- Các tuyến đường sắt được xây dựng trong đó tuyến đường sắt dài nhất là tuyến
đường xuyên Việt Hà Nội - Sài Gòn với chiều dài 1.800 km xây dựng kéo dài 36
năm mới hoàn thành (từ 1900 đến 1936).
- Đường bộ mở rộng đến các khu công nghiệp khai mỏ, đồn điền,bến cảng.
Nhiều con đường hình thành trong đó có 17 tuyến chính đi khắp Đông Dương.
Đặc biệt là con đưòng huyết mạch nối liền 3 xứ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ dài
hơn 2.000 km gọi là đường thuộc địa số 1.
- Đường thuỷ khai thông các hệ thống sông lớn: sông Hồng, sông Hậu, sông
Thái Bình, sông Đồng Nai. Các tàu thuỷ lớn, xà lan đã chạy trên các tuyến sông,
trong đó có nhiều tàu chạy bằng đầu máy hơi nước.
- Đường hàng không được xây dựng và đưa vào hoạt động như đường Hà Nội Huế (1919), Hà Nội - Tây Nguyên (1929) và Hà Nội - Điện Biên (1930).
Có thể nói hệ thống đường giao thông thuỷ bộ, đường sắt,đường hàng không đã

làm thay đổi đáng kể cơ sở hạ tầng của Việt Nam, đưa Việt nam vào hàng các
nước có đường giao thông tốt nhất khu vực Đông Nam Á đầu thế kỉ XX.
Trong bối cảnh hiện nay, không dừng lại ở đó, Việt Nam đã mở cửa giao lưu bắt
tay với các nước phương Tây, xây dựng đất nước hiện đại hơn rất nhiều.
24


2.3.Trên lĩnh vực đô thị
Có sự chuyển biến đáng kể. Sự thiết lập chính quyền thuộc địa theo cách tổ chức
đơn vị hành chính Phương Tây dẫn đến sự ra đời của nhiều đô thị mới. Sự xâm
nhập kinh tế tư bản đã làm thay đổi chức năng của đô thị Việt Nam, từ mô hình
đô thị Trung đại với chức năng là trung tâm chính trị chuyển sang mô hình đô
thị cận đại với chức năng trung tâm kinh tế công thương nghiệp là chính. Những
thành phố cận đại đầu tiên ra đời vào cuối thế kỉ XIX: Sài Gòn (1877), Hà
Nội(1888), Hải Phòng (1888), Chợ Lớn (1879), Đà nẵng (1889). Đầu thế kỉ XX
nhiều thị xã mở rộng quy mô lên thành phố: ĐàLạt (1920), Nam Định (1921),
Hải Dương (1923), Vinh - Bến Thuỷ (1927), Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá, Mỹ
Tho (1928), Huế, Thanh Hoá (1929), Quy Nhơn (1930). Bộ mặt đô thị được xây
dựng hiện đại theo kiến trúc Phương Tây điển hình là thành phố Sài Gòn, Hà
Nội.
Hà Nội trở thành trung tâm chính trị của cả Đông Dương và xứ Bắc kỳ. Các trụ
sở hành chính thuộc bộ máy chính quyền thực dân được dựng lên giữa lòng Hà
Nội 36 phố phường xưa. Nhiều dinh thự, biệt thự,nhà xây cao tầng mọc lên đồ
sộ như phủ Toàn quyền Đông Dương, phủ Thống sứ Bắc kỳ, sở Tư pháp, sở
Công chính Đông Dương, sở y tế Đông Dương…Nhiều nhà máy, xí nghiệp, cửa
hàng, cửa hiệu, hãng buôn mọc lên. Đã hình thành nhiều dường phố mới của
người Âu. Tất cả khiến Hà Nội trở thành thành phố hiện đại và là trung tâm
chính trị văn hoá lớn nhất nước.
Sài Gòn cũng nhanh chóng trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước. Nhiều
công ty lớn của nước ngoài xây dựng trụ sở, văn phòng giao dịch, nhà máy, xí

nghiệp tại Sài Gòn: công ty điện và nước,công ty thương mại vận tải Đông
Dương, công ty dầu lửa Pháp - Á…Các dinh thự của phủ Toàn quyền, phủ
Thống đốc Nam kỳ, trụ sở các cơ quan chuyên môn, Toà thị chính, các trung
tâm vui chơi giải trí như nhà hát lớn và các nhà máy, xí nghiệp mọc lên đã khoác
cho Sài Gòn một bộ cánh mới rực rỡ hơn để người Âu gọi nó là “hòn ngọc Viễn
Đông”.
Và chính nhờ nền tảng ấy, mà cho đến bây giờ. Không chỉ Hà Nội, Sài Gòn là
đô thị lớn của cả nước mà đã có rất nhiều đô thị đang ngày càng phát triển mạnh
mẽ.
2.4.Đời sống vật chất
Đời sống vật chất của nhân dân xuất hiện nhiêu tiện nghi mới. Từ cái ăn, cái
mặc đến nhà ở đều có đan xen những yếu tố mới.
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×