Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Ôn tập thơ hiện đại lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.78 KB, 28 trang )

MÙA XUÂN NHO NHỎ
A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả: Thanh Hải (1930 – 1980) tên thật là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền,
Thừa Thiên Huế.
- Tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống Pháp. Là cây bút có công xây
dựng nền văn học giải phóng miền Nam từ những ngày đầu.Thanh Hải từng là một người lính
trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với tư cách là một nhà văn.
- Thơ TH chân chất và bình dị, đôn hậu và chân thành.
- Các tác phẩm chính: Các tập thơ “những đồng chí trung kiên” (1962), Huế mùa xuân (hai tập
1970 và 1975), Dấu võng Trường Sơn (1977)
- Năm 1965, được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu.
- Sau ngày giải phóng, Thanh Hải vẫn gắn bó với quê hương xứ Huế, sống và sáng tác ở đó
cho đến lúc qua đời.
2. Tác phẩm:
a. Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: (tháng 11- 1980, chỉ ít ngày sau, nhà thơ qua
đời. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta mới thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn và thử thách gay gắt.
(Năm 1980, TH đau nặng phải vào BV Huế điều trị khoa nội. Tuy căn bệnh được các bác sĩ
chẩn đoán là không thể qua được nhưng TH luôn là người lạc quan yêu đời. Nằm ở tầng 4 của
bệnh viện, những lúc khoẻ, TH thường ra ngắm cảnh và làm thơ…. Nhưng rồi vào một ngày
cuối đông, trời Huế bỗng trở lạnh và mưa lâm thâm…. Những người bạn của THải nhận được
tin như sét đánh: TH đã qua đời. Thương tiếc người bạn tài hoa ra đi khi tuổi đời vừa bước
sang 50, mọi người đến viếng và đưa nhà thơ về nơi an nghỉ cuối cùng. Đang lúc làm lễ, thì vợ
TH tìm gặp nhạc sĩ Trần Hoàn và trao cho ông một bài thơ cuối cùng mà THải đã sáng tác khi
nằm viện vào tháng 11 năm 1980. Đó chính là bài thơ: Một mùa xuân nho nhỏ.- bài thơ cuối
cùng của THải. Nỗi thương bạn và niềm cảm xúc trào dâng mãnh liệt, nhạc sĩ Trần Hoàn đã
phổ nhạc ngay bài thơ chỉ trong vòng không đầy ba mươi phút và bài hát đó đã được vang lên
ngay trong buổi lễ tiễn đưa ấy.)
b. Thể thơ 5 chữ, không ngắt nhịp trong từng câu, chia nhiều khổ, mỗi khổ từ 4 đến 6 dòng.
Nhịp điệu và giọng điệu của bài có biến đổi theo mạch cảm xúc.
c. Bài thơ bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức


sống của mùa xuân thiên nhiên, đất trời. Từ đó, mở rộng ra thành hình ảnh mùa xuân của đất
nước hôm nay và cả đất nước bốn ngàn năm. Từ đó mạch thơ chuyển sang biểu hiện suy nghĩ
và ước nguyện của nhà thơ được góp “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của
dân tộc. Mạch thơ phát triển tự nhiên để rồi khép lại cũng tự nhiên, đằm thắm trong một điệu
dân ca xứ Huế.
c. Bố cục:
+ Khổ 1 (gồm 6 dòng thơ): cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời
+Khổ 2,3: Cảm xúc về mùa xuân đất nước.
+ Khổ 4,5: suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân đất nước.
1


+ Khổ cuối: Lời ca ngợi quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
d. Nội dung, nghệ thuật:
- Nội dung: Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất
nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước,
góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
- Nghệ thuật:
+ Bài thơ theo thể 5 chữ, nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca. Sử dụng cách
gieo vần liền giữa các khổ thơ tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. nhiều hình ảnh đẹp, giản
dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo.
+ Kết hợp những hình ảnh tự nhiên giản dị đi từ thiên nhiên với những hình ảnh giàu ý nghĩa
biểu trưng, khái quát. Điều đáng chú ý là những hình ảnh biểu trưng này thường được phát
triển từ những hình ảnh thực, tạo nên sự lặp lại mà nâng cao, đổi mới của hệ thống hình ảnh
(cành hoa, con chim, mùa xuân).
+ Cấu tứ của bài chặt chẽ, dựa trên sự phát triển của hình ảnh mùa xuân. Từ mùa xuân của đất
trời sang mùa xuân của đất nước và mùa xuân của mỗi người góp vào mùa xuân lớn của cuộc
đời chung.
+ Giọng điệu bài thơ thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Giọng điệu có sự biến đổi
phù hợp với nội dung từng đoạn: vui, say sưa ở đoạn đầu; trầm lắng, hơi trang nghiêm mà

thiết tha ở đoạn bộc bạch những tâm niệm; sôi nổi và tha thiết ở đoạn kết.
3. Gợi ý phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”
a. Mùa xuân của thiên nhiên đất nước (khổ 1)
* Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên một bức tranh xuân rất đẹp, đầy sức
sống và tràn ngập niềm vui rạo rực.
- Bức tranh ấy được chấm phá bằng rất ít chi tiết: một dòng sông xanh, một bông hoa tím biếc,
một tiếng chim chiền chiện. Những nét chấm phá ấy đã vẽ ra được một không gian cao rộng,
màu sắc tươi thắm của mùa xuân và cả âm thanh vang vọng, tươi vui của chim chiền chiện.
+Ngay hai câu mở đầu đã gặp một cách viết khác lạ. Không viết như bình thường : một bông
hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại: “Mọc giữa dòng sông xanh. Một bông hoa
tím biếc”. Động từ “mọc” đặt ở đầu khổ thơ của bài thơ là một dụng ý NT của tác giả => khắc
sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân.Tưởng như bông hoa tím biếc kia
đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xoè nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.
+ Tại sao màu nước sông lại xanh mà không là “dòng nước trong mát” (bài “Vàm cỏ đông”
của Hoài Vũ), hay không là “dòng sông đỏ nặng phù sa” trong thơ Nguyễn Đình Thi – bài Đất
nước)? Có phải đấu là màu nước của Hương Giang, hay chính là tín hiệu báo mùa xuân đang
về? Mùa xuân trang trải êm trôi một dòng xanh dịu mát. Màu xanh lam của dòng sông hương
hoà cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím giản dị, thuỷ chung, mộng mơ và quyến rũ. Đó
là mầu sắc đặc trưng của xứ Huế.
+ Tiếng chim chiền chiện tạo nên một nét đẹp nữa của mùa xuân: “Ơi con chim chiền chiện.
Hót chi mà vang trời”=>. nhạc điệu của câu thơ như giai điệu của mùa xuân tươi vui và rạo
rực. Các từ than gọi “ơi, chi, mang chất giọng ngọt ngào đáng yêu của người xứ Huế (thân
thương, gần gũi) . Câu thơ cứ như câu nói tự nhiên không trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang
âm hưởng thi ca. Câu hỏi tu từ “hót chi” thể hiện tâm trạng đùa vui, ngỡ ngàng, thích thú của
tác giả trước giai điệu của mùa xuân.
2


- Quả thật, thiên nhiên nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ
đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả

sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái
tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
“Từng giọt long lanh rơi.
Tôi đưa tay tôi hứng”
Về hai câu thơ trên, có hai cách hiểu: từng giọt ở đây là giọt mưa xuân long lanh trong
ánh sáng của trời xuân; nhưng cũng còn có thể hiểu hai câu này gắn với hai câu trước: Tiếng
chim đang vang xa bỗng gần lại, rõ ràng, tròn trịa như kết thành những giọt sương óng ánh sắc
màu, rơi rơi, rơi mãi tưởng chừng không dứt và nhà thơ đưa tay hứng từng giọt âm thanh ấy.
Như vậy từ một hình tượng, một sự vật được cảm nhận bằng âm thanh ( thính giác), tác giả đã
chuyển đổi biến nó thành một sự vật có thể nhìn được bằng mắt ( thị giác) bởi nó có hình khối,
màu sắc rồi lại được như cảm nhận nó bằng da thịt, bằng sự tiếp xúc ( xúc giác).Nghệ thuật ví
ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục. Hai câu thơ đã biểu
hiện niềm say sưa, ngây ngất, xốn xang, rạo rực của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất
trời lúc vào xuân. Chắc hẳn trong lòng thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình
yêu cuộc đời.
b. Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, cảm hứng thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân
của đất nước một cách tự nhiên.
-Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến đấu, của đất nước vất vả và gian lao
đang đi lên phía trước. Hình ảnh “người cầm súng, người ra đồng” biểu trưng cho hai nhiệm
vụ chiến đấu và lao động dựng xây lại quê hương sau những đau thương mất mát. Ai cũng có
nhiệm vụ của mình: người lính tiếp tục bảo vệ quê hương, vòng là nguỵ trang của người chiến
sĩ đang nảy những chồi non, lộc biếc như mang theo cả mùa xuân cùng các anh ra trận. Người
nông dân ra đồng làm nên hạt lúa, trên nương mạ, ruộng lúa của bác nông dân, mầm non, sức
sống thanh xuân đang đua nhau trỗi dậy, giục giã, thôi thúc lòng người. Sức gợi cảm của câu
thơ được thể hiện qua hình ảnh “lộc” của mùa xuân gắn với người cầm súng, người ra đồng.
“Lộc” là chồi non, nhưng “lộc” còn có nghĩa là mùa xuân, là sức sống, là thành quả hạnh
phúc. Câu thơ vừa tả thực, vừa tượng trưng cho sức sống của mùa xuân đất nước, sức sống
của mỗi con người.
- Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại ở đầu câu.
- Sức sống của mùa xuân còn được cảm nhận trong nhịp điệu hối hả, trong âm thanh xôn xao.

Và đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh đẹp: đất nước như vì sao. Cứ đi lên
phía trước”. Hình ảnh so sánh gợi liên tưởng đến vẻ đẹp, ánh sáng và hi vọng. “Đất nước
bốn nghìn năm”, hoá thành những vì sao đi lên, bay lên, ngời sáng lung linh => Cảm xúc của
nhà thơ đối với đất nước: say mê, tự hào, tin tưởng con người và cuộc sống của quê hương, đất
nước khi vào xuân.
c. Từ cảm xúc về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ chuyển một cách tự nhiên
sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân đất nước.
( Đoạn này, tác giả dùng phương thức biểu cảm trực tiếp. Nhân vật “ta” trực tiếp bộc lộ tâm
niệm của mình. )
- Điều tâm niệm của nhà thơ: là khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống
hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
3


- iu tõm nim y c th hin mt cỏch chõn thnh trong nhng hỡnh nh t nhiờn, gin d
v p.
p v t nhiờn vỡ nh th ó dựng nhng hỡnh nh p ca thiờn nhiờn núi lờn c nguyn
ca mỡnh. Mt con chim hút ct ting th ngi ca t nc, lm mt nhnh hoa em li
hng thm cho cuc i. Bao trựm tt c, ụng c nguyn hoỏ thnh ô mt mựa xuõn nho
nh ằ, lng l, õm thm dõng hin ton b tõm hn, trớ tu, sc lc v c s sng ca mỡnh gúp
cựng mi ngi : ô Dự l tui hai mi. Dự l khi túc bc ằ.
- Nhng hỡnh nh bụng hoa, ting chim hút c tỏc gi phỏc ho phn u bi th gi õy
li tr li trong kh th ny trong ging th ờm ỏi, ngt ngo. Cỏch cu t lp li nh vy to
ra s i ng cht ch v mang mt ý ngha mi: Nim mong mun c sng cú ớch,cng
hin cho i l mt l t nhiờn nh con chim mang n ting hút, bụng hoa to hng sc cho
i. Trong bi mt khỳc ca xuõn T Hu cng cú nhng suy ngm tng t:
Nu l con chim, chic lỏ
Thỡ con chim phi hút, chic lỏ phi xanh
L no vay m khụng cú tr
Sng l cho õu ch nhn riờng mỡnh?

=> iu tõm nim y tht cao p, chõn thnh, l s phỏt trin t nhiờn trong mch cm xỳc
ca bi th. ip t ta nh mt li khng nh. V cỏi ta vn ch núi v mỡnh bng nh
tr thnh cỏi ta chung ca nhiu ngi, khỏt vng ca nhiu ngi. ip ng dự l nh
mt li t khng nh, t nh vi lng tõm -> s kiờn trỡ, th thỏch vi thi gian, tui gi,
bnh tt mói lm mt mựa xuõn nho nh trong mựa xuõn rng ln ca quờ hng, t nc.
Ging th nh nh, chõn tỡnh nhng mang sc khỏi quỏt ln.
= > c nguyn ca nh th cho ta hiu mi ngi phi bit sng, cng hin cho cuc
i.Th nhng dõng hin, ho nhp m vn gi c nột riờng mi ngi...
d. Kt thỳc: Mt iu dõn ca x Hỳờ quen thuc, ngt ngo, ờm du., s dng ngụn ng giu
nhp iu, cỏc vn bng tha thit, ờm ỏi.
Kt cu u cui tng ng to ra s i ng cht ch, hi ho cõn i cho bi th ng thi
th hin rừ hn mong mun c sng cú ớch, cng hin cho i l mt l t nhiờn.
- Kt thỳc bi th l cõu hỏt Cõu Nam ai, nam bỡnh Nam Ai nam Bỡnh l nhng iu ca
Hu ni ting
- ú l ý nguyn ca ngi tha thit vi v p ca tõm hn quờ hng t nc mỡnh.
Phần tập làm văn: Phõn tớch bi th Mựa xuõn nho nh
Dn ý:
A. M bi:
- Gii thiu ti mựa xuõn trong thi ca
- Dn vo bi th mựa xuõn nho nh ca Thanh Hi
- Hon cnh ra i c bit ca bi th: 1980 lỳc nh th ang nm trờn ging bnh, ch
mt thỏng sau, nh th qua i.

4


-Những xúc cảm của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ
muốn làm “một mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho cuộc đời.
B. Thân bài
1. Luận điểm 1: mùa xuân của thiên nhiên

- Bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, gợi cảm, tràn đầy sức sống, tươi vui rộn rã qua các
hình ảnh thơ đẹp: Bông hoa tím biếc, dòng sông xanh, âm thanh của tiếng chim chiền chiện
- Nghệ thuật:
+ Từ ngữ gợi cảm, gợi tả.
+ Đảo cấu trúc câu: Mọc giữa dòng sông xanh …..
+ Sử dụng màu sắc, âm thanh…
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”.
- Cảm xúc : say sưa, ngây ngất của nhà thơ trước cảnh đất trời vào xuân
2. Luận điểm 2: Mùa xuân của đất nước
Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến đấu, của đất nước vất vả và gian lao
đang đi lên phía trước.
- HÌnh ảnh biểu tượng: người cầm súng, người ra đồng -> hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng
đất nước.
- Hình ảnh ẩn dụ: lộc non ( chồi non, lá non, sức sống của mùa xuân, thành quả hạnh phúc)
trong câu thơ: “ Lộc giắt đầy trên lưng. Lộc trải dài nương mạ”
Nghệ thuật.
+ Nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao.
+ Hình ảnh so sánh, nhân hoá đẹp: “đất nước như vì sao…. cứ đi lên phía trước” -> ngợi ca
vẻ đẹp đất nước tráng lệ, trường tồn, thể hiện niềm tin sáng ngời của nhà thơ về đất nước.
3. Luận điểm 3: Tâm niệm của nhà thơ. (Xem câu 1).
- Điều tâm niệm của nhà thơ: là khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống
hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
+ Hình ảnh thơ tự nhiên giàu sức gợi tả, dùng những hình ảnh của thiên nhiên để nói lên ước
nguyện của mình: làm một tiếng chim hót trong rộn rã tiếng chim ca, một cành hoa để góp
vào vườn hoa muôn hương sắc, một nốt trầm âm thầm, lặng lẽ để nhập vào húc ca tiếng hát
của nhân dân….
+ Những hình ảnh ấy được nhắc tới ở khổ thơ đầu, lặp lại ở khổ thơ này trong giọng thơ nhè
nhẹ, êm ái, ngọt ngào… mang ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến
cho đời là một lẽ tự nhiên.
- Đánh giá: Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành, là sự phát triển tự nhiên trong mạch

cảm xúc của bài thơ
- Điệp từ “ta” như một lời khẳng định. Và cái “ta” vốn chỉ để nói về mình bỗng như trở thành
cái “ta” chung của nhiều người, khát vọng của nhiều người.

5


- Ước nguyện đó được đẩy lên cao thành một lẽ sống cao đẹp: Mỗi người nên cống hiến cho
cuộc đời chung một nét riêng, cái phần tinh tuý nhất của mình dù là nhỏ bé, một cách lặng lẽ,
khiêm tốn, không kể gì đến tuổi tác.
+ Điệp ngữ “dù là” như một lời tự khẳng định, tự nhủ với lương tâm -> sự kiên trì, thử thách
với thời gian, tuổi già, bệnh tật để mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn
của quê hương, đất nước
+ Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân tình nhưng mang sức khái quát lớn.
- Ước nguyện của nhà thơ cho ta hiểu mỗi người phải biết sống, cống hiến cho cuộc đời. Thế
nhưng dâng hiến, hoà nhập mà vẫn giữ được nét riêng của mỗi người….
C. Kết luận:
- Cấu tứ thơ độc đáo, cảm hứng xuân phơi phới, hình ảnh sáng tạo, nhạc điệu vui tươi tha
thiết.
- Bài thơ đem đến những cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của
một tâm hồn trong sáng.
- Càng tin yêu mùa xuân của đất nước và “mùa xuân nho nhỏ” của lòng mình. Muốn góp phần
công sức nhỏ bé để tô điểm cho mùa xuân của cuộc đời thêm tươi đẹp.

Bài tham khảo.
I – Mở bài:
Mùa xuân từ lâu đã là đề tài vô tận cho các thi sĩ. Nhưng hiếm có bài thơ nào viết về mùa
xuân lại hay và trong hoàn cảnh đặc biệt như “mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, nhà thơ của
xứ Huế mộng mơ. Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác năm 1980, khi tác giả đang nằm
trên giường bệnh và chỉ mấy tuần lễ sau khi hoàn thành bài thơ thì nhà thơ đã qua đời. Đây là

một bài thơ hay tiêu biểu cho hồn thơ Thanh Hải đã thể hiện được “tâm nguyện thật thiết tha,
cảm động của nhà thơ Thanh Hải với đất nước, với cuộc đời.
II – Thân bài:
1. Mùa xuân của thiên nhiên.
Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên một bức tranh mùa xuân thiên
nhiên tươi đẹp, hiền hoà, đầy sức sống của xứ Huế mộng mơ.
Mọc giữa dòng sông xanh
…………
Tôi đưa tay tôi hứng
- Xứ Huế đã đi vào trong thi ca của không ít các thi nhân như Hàn Mạc Tử, Tố Hữu…
nhưng ở đây với bài thơ này ta vẫn cảm nhận được phong vị rất riêng của Thanh Hải. Bức
tranh xuân ấy hiện lên rất ít chi tiết nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp hoàn thiện với đầy đủ sắc màu,
âm thanh và đường nét. Có một dòng sông xanh hiền hoà, mênh mang làm nền cho sắc tím
của bông hoa, màu tím của xứ Huế thơ mộng, của nhớ nhung đã tạo nên cảm giác mát dịu làm
sao! Nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật vẻ đẹp của bông hoa. Bông hoa ấy mọc từ giữa
dòng sông như tâm điểm của một bức tranh đầy ấn tượng. Bông hoa ấy như phát sinh, khởi
nguồn từ cái sức sống dồi dào, bất tận của dòng sông xanh để không ngừng vươn lên bất tử.
6


Bức tranh ấy càng sống động hơn bởi âm thanh của tiếng chim chiền chiện quen thuộc của quê
hương miền trung. Tiếng chim ấy hót vang bên trời cao, tiếng hót trong trẻo, ngân nga, rộn
ràng có độ lan tỏa không dứt, làm cho không khí của mùa xuân trở nên náo nức lạ thường.
- Hãy đọc lại khổ thơ đầu và lắng nghe trong đó: có phải là nhạc và thơ đã hoà quyện
vào từng chữ, từng dòng trong cả khổ thơ, đem đến môt giai điệu mùa xuân vui tươi, rạo rực ?
Nhà thơ lặng ngắm, lắng nghe với vẻ say mê và tấm lòng tràn đầy một cảm xúc thanh cao
trong sáng. Bằng sự cảm nhận tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ, nhà thơ đã tạo dựng được một
hình ảnh tuyệt đẹp, gợi ra sự liên tưởng phong phú cho người đọc về âm thanh của tiếng chim.
Âm thanh mượt mà, trong vắt của tiếng chim thánh thót như chuỗi ngọc long lanh, đọng lại
làm thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang

rạo rực tình xuân. Như vậy từ một hình tượng, một sự vật được cảm nhận bằng âm thanh
( thính giác), tác giả đã chuyển đổi biến nó thành một sự vật có thể nhìn được bằng mắt ( thị
giác) bởi nó có hình khối, màu sắc rồi lại được như cảm nhận nó bằng da thịt, bằng sự tiếp xúc
( xúc giác). Sự chuyển đổi cảm giác ấy là một sáng tạo nghệ thuật gợi cảm từ con mắt nhìn rất
thơ của thi sĩ. Hình ảnh đưa tay “hứng” xiết bao yêu quý, nâng niu đã thể hiện được sự đồng
cảm của tâm hồn nhà thơ trước thiên nhiên và cuộc đời.
2.Trong mùa xuân lớn ấy, đất nước và con người cũng mang vẻ đẹp của sức sống vô
tận, rộn ràng bước vào một mùa xuân mới:
Mùa xuân người cầm súng…
Lộc trải dài nương mạ
- Lộc xuân theo người cầm súng, lộc xuân trải dài nương mạ. Hình ảnh dân tộc Việt
Nam kết tụ lại ở “người cầm súng” và “người ra đồng”. Đây là mùa xuân của con người đang
lao động và chiến đấu, của đất nước vất vả gian lao đang đi lên phía trước. Câu thơ vừa tả thực
vừa tượng trưng hàm chứa nhiều ý nghĩa trong hình ảnh người lính và người nông dân với từ
“lộc” nhiều nghĩa. “Lộc” là chồi non, lá non, nhưng “lộc” còn có nghĩa là mùa xuân, là sức
sống, là thành quả hạnh phúc. Người cầm súng giắt lộc để nguỵ trang như mang theo sức
xuân vào trận địa, người ra đồng như gieo mùa xuân trên từng nương mạ. Những con người
lao động chiến đấu ấy đã mang cả mùa xuân ra trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho
đất nước. Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại ở đầu câu
cùng với các tính từ “hối hả”, “xôn xao” làm tăng thêm sức xuân phơi phới, mãnh liệt trong
mỗi con người và trong cả cộng đồng rộng lớn là dân tộc. Điều đó làm cho tác giả nhớ đến
niềm tự hào lớn lao của đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm…
Cứ đi lên phía trước”
- Đất nước đang bước vào mùa xuân, từ thiên nhiên đến con người đều hối hả và xôn
xao. Mang tình sông núi, nhà thơ Thanh Hải đã có một cái nhìn sâu sắc và tự hào về chiều dài
lịch sử bốn nghìn năm của đất nước.Đó là truyền thống anh hùng trong đánh giặc, cần cù trong
dựng xây, là truyền thống nhân ái, là khát vọng hòa bình. Mỗi truyền thống ấy đều được xây
đắp nên từ mồ hôi, công sức, nước mắt và thậm chí cả xương máu của biết bao thế hệ con
người. Trong quá trình xây dựng và giữ nước, đất nước ta còn đầy vất vả và gian lao nhưng

đất nước Việt Nam vẫn ngời sáng cứ tiến lên phía trước như một vì sao sáng. Vần thơ so sánh
và nhân hoá thể hiện một niềm tin sáng ngời, ngợi ca đất nước tráng lệ, trường tồn. Ba tiếng
“cứ đi lên” đã thể hiện ý chí quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng đất nước
giàu và mạnh.
7


- Đặt bài thơ vào những năm 80 khi nước ta còn đang phải đương đầu với bao khó khăn, nền
kinh tế còn rất thấp kém thì ta càng trân trọng lòng yêu đời, yêu cuộc sống và niềm tin của nhà
thơ Thanh Hải vào quê hương, đất nước.
3.Xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước, nhà thơ muốn góp một mùa
xuân nho nhỏ của mình để làm nên một mùa xuân lớn, mùa xuân của thiên nhiên, mùa
xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Đó là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp, dù
nhỏ bé, của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách
chân thành trong những hình ảnh tự nhiên giầu sức gợi tả, gây xúc động sâu xa trong lòng
người đọc. Ước nguyện được làm một tiếng chim, một cành hoa để góp vào vườn hoa muôn
hương muôn sắc, rộn rã tiếng chim, để đem lại hương sắc, tô điểm cho mùa xuân thêm tươi
đẹp. Nhà thơ nguyện cầu được làm một “nốt trầm xao xuyến” không ồn ào, không cao điệu
mà chỉ âm thầm, lặng lẽ để “nhập”vào khúc ca, tiếng hát của nhân dân vui mừng đón xuân về.
Được tô điểm cho mùa xuân, được góp phần tạo dựng mùa xuân là tác giả đã nguyện hi sinh,
nguyện cống hiến cho sự phồn vinh của đất nước. Một ước mơ nho nhỏ, chân tình, không cao
siêu vĩ đại mà gần gũi quá, khiêm tốn và đáng yêu quá ! Hình ảnh nhuần nhị, tự nhiên, chân
thành, giọng thơ nhè nhẹ, êm ái , ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp kết hợp với cách
cấu tứ lặp lại như vậy đã mang một ý nghĩa mới nhấn mạnh thêm mong ước được sống có ích
cho đời, cống hiến cho đất nước như một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời khẳng định,

vừa như một tiếng lòng, như một lời tâm sự nhỏ nhẹ, chân tình. Ước nguyện đó đã được đẩy
lên cao thành một lẽ sống cao đẹp, không chỉ cho riêng nhà thơ mà cho tất cả mọi người, cho
thời đại của chúng ta. Đó là lẽ sống cống hiến cho đời lặng lẽ, khiếm tốn, không kể gì đến tuổi
tác:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Thái độ ‘lặng lẽ dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật khiêm nhường nhưng hết sức bền bỉ
và vô cùng đáng quý vì đó là những gì tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Thật cảm động làm sao
trước ao wowcs của nhà thơ dẫu đã qua tuổi xuân của cuộc đời, vẫn được làm một mùa xuân
nhỏ trong cái mùa xuân lớn lao ấy. Điệp ngữ “dù là” ở đây như một lời tự khẳng định để nhủ
với lương tâm sẽ phải kiên trì, thử thách với thời gian tuổi già, bệnh tật để mãi mãi làm một
mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê hương đất nước. Giọng thơ vẫn nhỏ nhẹ,
chân tình nhưng mang sức khái quát lớn. Chính vì vậy, hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” ở cuối
bài như ánh lên, toả sức xuân tâm hồn trong toàn bài thơ.
Những câu thơ cuối cùng mang đậm dấu ấn của những làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế.
Nó như tiếng tâm tình, thủ thỉ, như tiếng lòng sâu lắng thiết tha, nồng đậm nghĩa tình:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam Ai, Nam Bình
8


Nc non ngn dm
Nhp phỏch tin t Hu
Cựng vi ý nguyn y, khỳc Nam Ai, Nam Bỡnh kh th kt núi lờn nim tin yờu tha thit
vi quờ hng, t nc v cuc i. t trong hon cnh sỏng tỏc bi th , tỡnh cm ú cng
ỏng trõn trng, cng cm ng bit bao !
III Kt bi:
Mựa xuõn nho nh l mt bi th cú t th c ỏo, cm hng xuõn phi phi, hỡnh nh

sỏng to, nhc iu vui ti tha thit. c mựa xuõn nho nh, trỏi tim ta dng nh xao
xuyn, mt cm xỳc thanh cao, trong sỏng t t dõng ngp hn ta. Bi th em n cho chỳng
ta bao cm xỳc p v mựa xuõn, gi cho ta suy ngh v mt l sng cao p ca mt tõm hn
trong sỏng khin ta cm phc v tin yờu. Cũn gỡ p hn mựa xuõn ? Cú tỡnh yờu no rng ln
hn tỡnh yờu quờ hng t nc ? Thm nhun tõm t, c nguyn ca ca nh th, chỳng ta
cng thờm tin yờu vo mựa xuõn ca t nc v mựa xuõn nho nh trong lũng mỡnh.
Chỳng ta mun cựng con chim chin chin hút lờn khỳc ca ngt ngo gi xuõn v, mun hc
thnh ti hin dõng cho t nc, gúp phn cụng sc nh bộ tụ im cho mựa xuõn cuc
i thờm p.
VING LNG BC
A. Kin thc cn nh:
1. Tỏc gi:
- Viễn Phơng tên thật là Phạm Thanh Viễn (1928) quê ở tỉnh An Giang. Tham gia hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
- Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lợng văn nghệ giải phóng ở miền
Nam thời chống Mỹ cứu nớc.
- Thơ Viễn Phơng thờng nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và chất mơ mộng ngay trong hoàn cảnh chiến
đấu ác liệt ở chiến trờng
- Tác phẩm chính: Mắt sáng học trò (1970); Nhớ lời di chúc (1972); Nh mấy mùa xuân
(1978)
2. Tác phm:
a.Hoàn cảnh sáng tác
Bài Viếng lăng Bác đợc viết năm 1976, trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc công
trình lăng chủ tịch Hồ Chí Minh đợc hoàn thành sau khi giải phóng Miền Nam, đất nớc thống
nhất, đồng bào miền Nam có thể thực hiện mong ớc đợc viếng lăng Bác. Tác giả cũng ở trong
số những đồng bào, chiến sĩ từ miền Nam sau khi giải phóng đợc ra viếng Bác
b. Nội dung và nghệ thuật
*.Nội dung : Cảm xúc bao trùm trong toàn bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng thành kính,
lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ Miền Nam ra viếng lăng Bác.
*Nghệ thuật : Cảm xúc trên đã chi phối giọng điệu của bài thơ : giọng điệu thành kính, trang

nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng, nơi vị lãnh tụ yên nghỉ. Giọng điệu ấy đợc
tạo nên từ các yếu tố nh thể thơ, nhịp điệu, từ ngữ, hình ảnh của bài thơ.
- Thể thơ và nhịp điệu : thể thơ bảy chữ nhng có những dòng đợc kéo dài thành 8,9 tiếng. Bài
thơ có nhịp chậm, nhiều dòng thơ hầu nh không ngắt nhịp, thờng gieo vần liền. Các yếu tố ấy
tạo nên giọng điệu thiết tha trầm lắng và trang trọng thành kính, phù hợp với không khí và cảm
xúc của bài thơ.
- Từ ngữ và hình ảnh : Các từ xng hô con ở miền Nam ra thăm lăng Bác, các hình ảnh ẩn dụ
có giá trị súc tích và gợi cảm thể hiện đợc lòng thành kính ( mặt trời trong lăng rất đỏ, vầng
9


trăng sáng dịu hiền, kết tràng hoa dâng bảy mơi chín mùa xuân, trời xanh ). Lời thơ dung dị
mà cô đúc, giàu cảm xúc mà lắng đọng.
c.Bố cục: Mch cảm xúc vận động theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác.
- Khổ 1: Cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở hình ảnh hàng tre bên lăng gợi hình ảnh
của quê hơng đất nớc.
- Khổ 2 3: Từ cảm xúc về dòng ngời bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ xúc cảm
và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu đợc gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tợng: mặt
trời, vầng trăng, trời xanh.
- Khổ 4: Khi sắp phải trở về Miền Nam, niềm mong ớc thiết tha: muốn tấm lòng mình đợc mãi
mãi ở lại bên lăng Bác.
3. Gi ý phõn tớch bi th:
1. Cm xỳc trc lng Bỏc.
* Tỡnh cm chõn thnh v gin d ca ng bo min Nam mun nhn gi, nh Vin Phng
núi h cựng Bỏc.
- Cõu th m u bi th: con min Nam ra thm lng Bỏc ch gn gn nh mt li thụng
bỏo nhng li gi ra tõm trng xỳc ng ca mt ngi t chin trng min Nam sau bao
nm mong mi bõy gi mi c ra ving Bỏc.
+ Cỏch dựng i t xng hụ con rt gn gi, thõn thit, m ỏp tỡnh thõn thng, din t tõm
trng ca ngi con ra thm cha sau bao nhiờu nm xa cỏch.

+ Cỏch núi gim, núi trỏnh : t thm thay cho t ving -> gim nh ni au thng mt
mỏt -> Bỏc H cũn sng mói trong tõm tng ca mi ngi.
- Hènh nh u tiờn m tỏc gi thy c v l n tng m nột v cnh quan bờn lng Bỏc l
hng tre. Hng tre va mang tớnh cht t thc li va tng trng, giu ý ngha liờn tng
sõu sc: Hng tre bỏt ngỏt trong sng l hỡnh nh thc, ht sc thõn thuc ca lng quờ t
nc Vit Nam bờn lng Bỏc. Hng tre xanh xanh Vit Nam. Bóo tỏp ma sa ng thng
hng l n d, l biu tng ca dõn tc VN vi v p thanh cao v sc sng bn b, kiờn
cng.
=> Hỡnh nh n d ny ó gi liờn tng n hỡnh nh c dõn tc bờn Bỏc on kt, kiờn
cng thc hin lớ tng ca Bỏc, ca dõn tc.
+ ễi! l t cm, biu th nim xỳc ng t ho trc hỡnh nh hng tre.
* S tụn kớnh ca tỏc gi khi ng trc lng Ngi.
Kh th th hai c to nờn t cp cõu vi nhng hỡnh nh thc v n d súng ụi:
Ngy ngy mt tri i qua trờn lng.
Thy mt mt tri trong lng rt .
- Hỡnh nh mt tri trờn lng trong cõu th trờn l hỡnh nh thc: mt mt tri thiờn nhiờn
rc r vnh hng ngy ngy i qua trờn lng. Hỡnh nh mt tri trong lng cõu th di l
hỡnh nh n d - hỡnh nh Bỏc H. Mu sc rt lm cho cõu th cú hỡnh nh p, gõy n
tng sõu xa hn, núi lờn t tng cỏch mng, lũng yờu nc nng nn ca Bỏc. Dựng hỡnh
nh n d mt tri trong lng vit v Bỏc, Vin Phng ó ca ngi s v i ca Bỏc,
cụng lao ca Bỏc i vi non sụng t nc, ng thi th hin c s tụn kớnh, lũng bit n
ca nhõn dõn vi Bỏc, nim tin Bỏc sng mói vi non sụng t nc ta.
- Hỡnh nh dũng ngi i trong thng nh l hỡnh nh thc: ngy ngy dũng ngi i
trong ni xỳc ng, bi hi, trong lũng tic thng kớnh cn, trong lũng nng tru ni nh
10


thương. Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm như bước chân dòng người vào lăng viếng Bác. Dòng
người vào lăng viếng Bác kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh
những dòng người xếp thành hàng dài vào lăng Bác trông như những tràng hoa vô tận, mà còn

là một ẩn dụ đẹp, sáng tạo của nhà thơ: cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác.
Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng Người những gì tốt đẹp nhất. Dâng “bẩy mươi
chín mùa xuân”: hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng: con người bảy mươi chín mùa
xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra những mùa xuân cho đất
nước, cho con người.
2. Cảm xúc trong lăng. Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào,
khổ thứ ba đã diễn tả cảm xúc và suy nghĩ của tác giả khi vào trong lăng viếng Bác.
- Khung cảnh và không khí thanh tĩnh như ngưng kết cả thời gian và không gian ở bên trong
lăng Bác đã được nhà thơ gợi tả rất đạt bằng hai câu thơ giản dị:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên.
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”.
- Câu thơ diễn tả chính xác và tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo
của không gian trong lăng Bác. Bác đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng
sáng dịu hiền. Đó là giấc ngủ thanh bình và vĩnh hằng của một con người cống hiến trọn vẹn
cuộc đời mình cho cuộc sống bình yên của nhân dân, đất nước.
- Nếu như trước đó Hải Như muốn được “canh giấc ngủ của Người” thì giờ đây, Viễn Phương
lại để cho vầng trăng ôm ấp, toả sáng giấc ngủ của Người. Bởi có lẽ hình ảnh vầng trăng dịu
hiền gợi giấc ngủ ban đêm bởi nhà thơ không muốn cảm nhận một giấc ngủ vĩnh viễn giữa
ban ngày. Hơn nữa sinh thời Bác rất yêu trăng, trăng như một người bạn tri âm, tri kỉ, chả thế
mà những vần thơ của Bác tràn đầy ánh trăng, trăng đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên
chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để dỗ giấc ngủ ngàn thu cho Người.
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết
trời xanh là mãi mãi”. Bác ra đi nhưng hoá thân vào thiên nhiên đất trời của dân tộc, sống mãi
trong sự nghiệp và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao.(Tố Hữu đã từng
viết: Bác sống như trời đất của ta”).
- Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của Người. Nỗi đau xót đã
được nhà thơ biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Nỗi đau quặn
thắt, tê tái trong đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức khi đứng
trước thi thể của Người. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
3.Cảm xúc khi rời lăng: (khổ 4): Khép lại nỗi đau mất mát ấy là những giọt nước mắt luyến

tiếc, bịn rịn, không muốn rời xa Bác. Khổ thơ thứ tư đã diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà
thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.
- Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn
tả tình thương sâu lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không
muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau
không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa
Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
- Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc
chưa một lần nào gặp Bác.
+ Muốn làm chim hót => âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành
11


+ Mun lm oỏ hoa => to hng thm thanh cao ni Bỏc yờn ngh
+ Mun lm cõy trung hiu gi mói gic ng bỡnh yờn cho Ngi.
- ip t mun lm + biu cm trc tip v giỏn tip => tõm trng lu luyn, c mun, s
t nguyn chõn thnh ca tỏc gi.
- Hỡnh nh cõy tre xut hin u bi th c khộp li bi th vi mt nột ngha b sung:
cõy tre trung hiu. S lp li nh th ó to cho bi th cú kt cu u cui tng ng lm
m nột hỡnh nh gõy n tng sõu sc v dũng cm xỳc c trn vn.
PHN TCH BI TH : VING LNG BC
A. M BI:
- Ving lng Bỏc ca Vin Phng l mt trong nhng bi th hay vit v Bỏc sau ngy
Bỏc H i xa.
- Bi th c vit trong khụng khớ xỳc ng ca nhõn dõn ta lỳc cụng trỡnh lng Bỏc c
hon thnh sau khi min Nam c gii phúng, t nc c thng nht, ng bo min
Nam cú th thc hin mong c c ving lng Bỏc.
- Bi th din t nim kớnh yờu, s xút thng v lũng bit n vụ hn ca nh th i vi lónh
t bng mt ngụn ng tinh t, giu cm xỳc sõu lng.
B. THN BI: (tham kho bi phõn tớch trờn)

C. Kt lun:
- Ving lng Bỏc l mt bi th p v hỡnh nh th, hay v cm xỳc gõy xỳc ng sõu xa
trong lũng ngi c.
- Bng cỏch s dng iờu luyn nhng bin phỏp tu t mt cỏch sỏng to, tỏc gi th hin tỡnh
cm ngt ngo m thm li rt gin d, chõn thnh i vi Bỏc.
- Xin nguyn nh Vin Phng, sng mt cuc i p tr thnh nhng bụng hoa p dõng
lờn Bỏc.
Đề 2: Hãy làm rõ những tình cảm chân thành và tha thiết của nhân dân ta với Bác Hồ đợc
thể hiện qua bài thơ : Viếng Lăng Bác của Viễn Phơng.
I . Mở bài :
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân tộc Việt Nam suốt bao thập kỷ
qua. Ngời là hiện thân cho những gì cao đẹp nhất của dân tộc. Lăng Bác là nơi lu giữ những
hình ảnh thân thơng về Ngời. Nhiều ngời đã làm thơ về Bác và lăng Bác. Trong đó Viếng lăng
Báccủa nhà thơ Viễn Phơng là một trong những bài thơ viết về lãnh tụ hay nhất. Bài thơ đợc
viết trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc công trình lăng Bác đợc hoàn thành sau khi
Miền Nam đợc giải phóng, đất nớc đợc thống nhất, đồng bào miền Nam có thể thực hiện mong
ớc đợc viếng lăng Bác. Nhà thơ Viễn Phơng cũng ở trong số đồng bào, chiến sĩ từ miền Nam ra
viếng Bác. Trong niềm xúc động thiêng liêng, thành kính pha lẫn nỗi xót đau, nhà thơ đã viết
bài thơ này. Bài thơ đã thể hiện đợc những tình cảm chân thành và tha thiết của nhân dân ta với
Bác Hồ kính yêu.
II .Thân bài
Khổ 1 : Cảm xúc của tác giả khi đến thăm lăng Bác
- Khi đến thăm lăng Bác, tác giả chứa chan cảm xúc. Mạch cảm xúc ấy đợc mở đầu bằng lời
thơ tự sự :
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
- Câu thơ thật giản dị thân quen với cách dùng đại từ xng hô con rất gần gũi, thân thiết, ấm
áp tình thân thơng. Ta cảm tởng giọng thơ tác giả run run khi thốt lên từ con gần gũi mà thân
12



thơng biết mấy. Tâm trạng của Viễn Phơng bây giờ là tâm trạng của ngời con ra thăm cha sau
bao năm xa cách, mong mỏi nh Tố Hữu đã từng viết : Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.
Song ớc nguyện ấy không thành vì ngời cha ấy mãi mãi không còn nữa. Câu thơ giản dị, chân
thành và xúc động biết bao! Dòng cảm xúc nh vỡ òa, chan chứa sau bao tháng năm kìm nén.
- Tác giả sử dụng từ thăm thay cho từ viếng mong sao giảm nhẹ đợc nỗi đau thơng, mất
mát ấy để ta thấy rằng trong tiềm thức của tác giả, Bác Hồ vẫn còn sống mãi. Nhng dờng nh sự
thật Bác đã đi xa là nỗi đau quá đỗi lớn lao khiến Viễn Phơng không khỏi xót xa, xúc động.
- Từ tâm trạng ấy, tác giả nhìn ra xa : Đã thấy trong sơng hàng tre bát ngát. Nh thơ bắt gặp
một hình ảnh thân thuộc mà bao năm in vào tâm hồn mỗi ngời dân Việt Nam : hình ảnh hàng
tre. Gặp lại hàng tre ấy, nhà thơ có cảm giác thân thuộc nh đợc trở về quê hơng, trở về cội
nguồn. Hàng tre ấy nh tỏa bóng mát rời rợi trên con đờn dẫn vào lăng Bác và nh bao bọc ôm
lấy bóng hình của Ngời vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc. Nh vậy hàng tre cũng là biểu
tợng cho đất nớc, quê hơng và tất cả nh hội tụ lại đây để canh cho giấc ngủ của Ngời
-Bởi vậy tác giả bật lên câu cảm thán : Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam!
- Ôi! Thể hiện sự xúc động của nhà thơ trớc hình ảnh cây tre. Cây tre bình dị, mộc mạc,
chân quê mà bên trong nh tiềm tàng một sức sống dai dẳng : Bão táp ma sa vẫn thẳng hàng.
Phải chăng đó cũng là sức sống của dân tộc Việt Nam ? Sức sống ấy cũng dồi dào nh màu
xanh của sự kiên cờng, bất khuất, không lùi bớc trớc kẻ thù.
- Thật tài tình khi tác giả sử dụng hình ảnh hàng tre vừa mang ý tả thực lại vừa mang ý ẩn
dụ. Cây tre tuy gầy guộc song vẫn hiên ngang. Đó cũng chính là dân tộc Việt Nam tuy nhỏ bé
nhng rất kiên cờng, sắt son.
=>Đến thăm lăng Bác, gặp lại hình ảnh hàng tre, tác giả vô cùng xúc động. Đó là sự tiếc thơng
bùi ngùi khi đợc gặp Bác song Bác đã đi xa. Song đó không chỉ là tình cảm riêng của tác giả
mà còn của cả dân tộc Việt Nam đối với Bác.
2. Sự tôn kính của tác giả đối với Bác khi đứng trớc lăng Ngời.
-Khổ thơ thứ hai đợc tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
- Hình ảnh mặt trời đi qua trên lăng là hình ảnh mặt trời thực, mặt trời tự nhiên đem lại
nguồn sáng cho thế gian. Mặt trời ấy là sức sống của muôn vàn cỏ cây hoa lá.

- Mặt trời trong lăng là mặt trời ẩn dụ, chỉ Bác Hồ kính yêu. Tác giả nhấn mạnh mặt trời rất
đỏ làm ta nhớ đến một trái tim nhiệt huyết chân thành vì nớc vì dân. Ví Bác nh mặt trời, nhà
thơ muốn nói Bác nh là ngời soi sáng cho dân tộc Việt Nam trên bớc đờng chién đấu, đa cả dân
tộc thoát khỏi bóng tối nô lệ đến với cuộc sống tự do, hạnh phúc. Mỗi hành mặt trời tự nhiên
vẫn hành trình trên quỹ đạo cũng nh mặt trời trong lăng lúc nào cũng tỏa sáng. Bác tuy đã ra đi
nhng mãi thuộc về vĩnh cửu đối với hàng triệu con ngời Việt Nam.
=>Thông qua hình ảnh ẩn dụ mặt trời, nhà thơ đã nêu lên sự vĩ đại của Bác, đồng thời thể
hiện niềm tôn kính, lòng biết ơn vô hạn của nhân dân ta với Bác.
- Nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh nữa về Bác :
Ngày ngày dòng ngời đi trong thơng nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mơi chín mùa xuân
- Thời gian cứ trôi ngày tiếp ngày nhng dòng ngời vẫn nối nhau vào lăng viếng Bác. Nhịp thơ
chậm, giọng thơ trầm nh bớc chân dòng ngời vào viếng Bác. Nhng dòng ngời đi trong thơng
nhớ là đi trong nỗi xúc động bồi hồi, trong lòng tiếc thơng kính cẩn.
- Và đến đây, cảm xúc thăng hoa : hình ảnh dòng ngời thành một tràng hoa trớc lăng. Mỗi con
ngời vào viếng lăng giống nh một bông hoa đẹp, dâng lên Bác cả tấm lòng, cả cuộc đời, niềm
thơng nỗi nhớ. Điệp từ ngày ngày nhẫn mạnh trang hoa dâng lên Bác là bất tận. Chỉ một từ
thơng thôi mà gửu gắm cả tấm lòng dân tộc Việt Nam đối với Bác. Quả là cách diễn đạt mới
lạ, thích hợp. Và tràng hoa ấy dâng lên bảy mơi chín mùa xuân một hình ảnh hoán dụ
thật hay. Con ngời bảy mơi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp nh những mùa xuân và
làm ra mùa xuân cho đất nớc, cho mỗi chúng ta. Cuộc đời chúng ta nở hoa dới ánh sáng của
Bác.
13


=>Hình ảnh tràng hoa một lần nữa tô đậm thêm sự tôn kính, biết ơn tự hào của tác giả cũng
nh của dân tộc VN đối với Bác.
- Khổ 3 : Đến đây niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi tác
giả nhìn thấy Bác :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Bác nằm đó thanh thản nh đang trong giấc ngủ giữa ánh sáng dịu hiền của vầng trăng. Sau
chặng đờng bảy mơi chín mùa xuân cống hiến không ngừng nghỉ, dành trọn cuộc đời cho dân
cho nớc, Bác cha có một đêm nào ngon giấc : Cả cuộc đời Bác có ngủ ngon đâu!( Hải Nh)
Giờ đây, Miền Nam đợc giải phóng, đất nớc đợc giải phóng, Bác có thể yên lòng và thanh thản
nghỉ ngơi. Từ ánh sáng của màu xanh mát dịu trong lăng, nhà thơ liên tởng tới vầng trăng sáng
dịu hiền ru giấc ngủ cho Bác.
+ Hình ảnh vầng trăng đợc nhà thơ dùng thật thích hợp khi nói đến Bác. Hình ảnh vầng
trăng gợi giấc ngủ ban đêm bởi một mặt Viễn Phơng không muốn cảm nhận một giấc ngủ
vĩnh viễn giữa ban ngày. Mặt khác tác giả muốn đa vầng trăng vào nâng niu, ôm ấp, tỏa sáng
cho giấc ngủ của Bác vì sinh thời Ngời rất yêu trăng, coi trăng nh ngời bạn tri âm tri kỉ gắn bó
thắm thiết của Ngời.
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ lại đợc biểu biện bằng một hình ảnh thơ ẩn dụ diễn tả sự
mất mát và nỗi nhớ thơng một cách độc đáo :
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác ra đi nhng đã hóa thân vào thiên nhiên, đất trời của dân tộc, nh Tố Hữu đã từng viết : Bác
sống nh trời đất của ta. Trong cuộc sống yên bình hôm nay, đâu đâu ta cũng nh thấy một phần
công lao của Bác. Bác sẽ còn mãi với non sông đất nớc. Dù lý trí mách bảo nhà thơ là Bác còn
sống mãi nhng trái tim nhả thơ vẫn mách rằng Bác đã mãi ra đi. Bởi vậy nhà thơ không sao
ngăn đợc nỗi đau : Nghe nhói ở trong tim. Đó là nỗ đau xót, tê tái, quặn thắt đến cực độ !
Một sự mất mát không gì có thể bù đắp đợc ! Câu thơ tựa nh một tiếng nấc nghẹn ngào ! Đây
cũng là tâm trạng và cảm xúc của những ngời đã từng vào lăng viếng Bác.
3.Khổ 4 : Khép lại nỗi đau mất mát ấy là những giọt nớc mắt luyến tiếc, bịn rịn không
muốn rời xa Bác
Mai về miền Nam thơng trào nớc mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm bông hoa tỏa hơng đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
- Câu thơ mở đầu cho những dòng thơ cuối cùng nh một lời giã biệt. Nhà thơ nghĩ tới lúc phải

trở về miền Nam, phải xa Bác chỉ trong khoảng cách không gian địa lý mà câu thơ viết nên
thật xúc động. Mỗi chữ, mỗi câu nh thấm đầy cảm xúc. Từ trào diễn tả cảm xúc thật mãnh
liệt ! Tình thơng, lòng kính yêu của nhà thơ nh nén giữa tâm hồn trong phút giây đầy nhớ
nhung, lu luyến này đã bật lên thành bao ớc nguyện.
- Nhà thơ muốn đợc hóa thành con chim để cất lên tiếng hót quanh lăng Bác. Rồi nhà thơ lại
muốn làm đóa hoa tỏa hơng thơm ngát bên Ngời. Và cuối cùng là mong muốn đợc hóa thành
cây tre trung hiếu canh giấc ngủ cho Bác mãi mãi yên bình. Ta thấy mọi ớc vọng khát khao
trong cái tâm nguyện đó của nhà thơ đều quy tụ lại một điểm là mong đợc gần Bác, ở bên Bác.
Ước vọng ấy cao đẹp và trong sáng quá bởi nó thể hiện đợc cái tâm niệm chân thành của nhà
thơ mà cũng hết sức tha thiết : Hãy làm một cái gì đó dù là rất nhỏ có ích cho đời để xứng
đáng với sự hy sinh lớn lao mà ngời đã dành cho đất nớc, nhân dân. Điệp ngữ muốn làm đợc
lặp lại ba lần để nhấn mạnh ý nguyện thiết tha và tâm trạng lu luyến đó.
- Ta trân trọng nâng niu những ớc vọng cao đẹp của nhà thơ. Đã gần 40 năm từ ngày ấy mà
tấm lòng kính yêu của nhân dân ta với vị cha già của dân tộc vấn không một chút mai một.
Tình cảm của nhân dân và của tác giả đã làm ta những đứa con non trẻ xúc động sâu sắc. Xin
nguyện nh Viễn Phơng : sống một cuộc đời đẹp để trở thành những bông hoa đẹp dâng Bác.
III Kết luận
14


Viếng lăng Bác là bài thơ đẹp về hình ảnh, hay về cảm xúc đã để lại trong lòng ngời đọc
niềm xúc động sâu xa. Bài thơ là những giai điệu sâu lắng của niềm thành kính thiêng liêng,
nỗi nhớ thơng luyến tiếc mà những ngời con Miền Nam nói riêng, nhân dân Việt Nam nói
chung dành cho Bác.
BI 10: SANG THU
A. Kin thc cn nh:
1. Tỏc gi:
- Nguyn Hu Thnh sinh nm 1942 - quờ Tam Dng - Vnh Phỳc
- L nh th chin s trng thnh trong khỏng chin chng M.
- Th Hu Thnh m ỏp tỡnh ngi v giu sc gi cm.ễng vit nhiu v hay v con ngi,

cuc sng nụng thụn v mựa thu.
- Cú nhiu tp th, trng ca ni ting.
- Hin l Ch tch Hi nh vn Vit Nam.
2. Tỏc phm
a. Hon cnh sỏng tỏc:
+ 1977, in ln u trờn bỏo vn ngh, in li nhiu ln trong cỏc tp th.
+ Rỳt t tp T chin ho n thnh ph, NXB Vn hc, H Ni, 1991
b. Th th: Nm ting - ng ngụn
c. Phng thc biu t: tr tỡnh kt hp vi miờu t v biu cm.
3. Phõn tớch bi th:
* Gii thiu:
Mựa thu khụng ch lm rung ng lũng thi nhõn m cũn em n cho ta nhng xỳc cm nh
nhng, ờm ỏi gi nhiu thng nh bõng khuõng. Thng thng, cỏc nh th ch cm nhn
v mựa thu mt s hỡnh nh tiờu biu nh sc tri xanh ngt, giú thu se lnh v mu vng
tng trng cho mựa thu. mt s thi nhõn cú thờm nhng cm nhn riờng: vi Xuõn Diu
l : Rng liu ỡu hiu ng chu tang, vi Lu Trng L l ting lỏ kờu xo xc v ting
chõn con nai vng p trờn lỏ vng khụ, vi Nguyn ỡnh Thi l hng cm u mựa. Nột
c bit ca Hu Thnh trong bi th ny l nh th ó cm nhn cỏi thi khc sang thu bng
c mt h thng hỡnh nh thiờn nhiờn qua nhiu yu t v bng nhiu giỏc quan vi s rung
ng tht tinh t. Mi hai cõu th ngn m cú n mi hỡnh nh thiờn nhiờn c núi n
lỳc t tri chuyn sang thu: hng i, giú se, sng, sụng, chim, mõy, nng, ma, sm v
cui cựng l hng cõy ng tui. Ton l nhng hỡnh nh gn gi, quen thuc i vi mi
ngi chỳng ta v iu ny lm cho bi th d n vi ngi c. Nhng iu quan trng nht
chớnh l s cm nhn tinh t ca ụng i vi tng hin tng thiờn nhiờn lỳc giao mựa v
nhng rung ng y ó lan truyn sang ta nh mt ting núi ng iu.
* Kh 1: L nhng cm nhn ban u ca nh th v cnh sang thu ca t tri.
a.Thiờn nhiờn c cm nhn t nhng gỡ vụ hỡnh (hng, giú), m o (sng chựng chỡnh),
nh hp v gn (ngừ) => ú l nhng cm nhn rt riờng ca nh th.
- u tiờn l s cm nhn v hng v. Cỏi hng i chớn thng khú ng li trong nhng
cn giú nm nam thi mnh ca mựa hố, gi õy bng ph vo trong giú se, em n hng

v du ngt, m thm ca mựa thu khin nh th ngc nhiờn n ng ngng trc s thay i
15


của thiên nhiên.Từ “phả” là động từ mạnh diễn tả mùi hương ổi thơm nồng nàn lan toả. Gió se
là gió nhẹ, khô và hơi lạnh – gió của mùa thu, gió báo hiệu mùa thu đã đến. Gió se mang theo
hương ổi của đồng quê. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống
giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị, ông đã
phát hiện ra một nét đẹp thật đáng yêu của mùa thu vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
- Trong “Sang thu”, dấu hiệu đầu thu là hương ổi, làn gió và sương thu. Nhưng không phải là
“sương thu man mác đầu ghềnh” của Tản Đà mà là : “Sương chùng chình qua ngõ”- một hình
ảnh lung linh huyền ảo. Không còn là những hạt sương mà đã là một màn sương mỏng nhẹ
trôi, đang chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm. “Chùng chình”là từ láy gợi hình
diễn tả hành động chậm chạp như là cố ý chậm lại. Nhà thơ đã thổi hồn vào câu thơ khiến cho
màn sương thu chứa đầy tâm trạng, như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà
ai……
b. Con ngêi( nhà thơ).
- Cảm nhận phút giao mùa sang thu là sự ngỡ ngàng. Do ngỡ ngàng nên cả khứu giác, cả xúc
giác và thị giác đều như mách bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, chưa dám chắc. Từ “hình như”
là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, là cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên trong cái cảm xúc bâng
khuâng, xao xuyến của thi sĩ. Qua đó, ta hiểu tâm hồn nhà thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu
hương thu với tình yêu tha thiết.
*khổ 2: Nhưng rồi mùa thu dần dần đến và hiện ra ngày càng rõ hơn trước mắt nhà thơ
- Sự vận động của h/a thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa được cụ thể hoá bằng những
đổi thay của vạn vật. Sông lúc sang thu không còn cuộn chảy dữ dội như những ngày hè mưa
lũ, mà êm ả dềnh dàng như đang lắng lại, đang trầm xuống. Một chữ “dềnh dàng” mà nói lên
được cái dáng vẻ khoan thai, thong thả của con sông mùa thu, ngỡ như nó được nghỉ ngơi
thoải mái khi mùa nước lũ cuồn cuộn đã đi qua.
- Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh đàn chim bắt đầu vội vã bay về tổ lúc hoàng hôn. Từ
bắt đầu” trong ý thơ được dùng rất độc đáo “bắt đầu vội vã” chứ không phải là “đang vội vã”.

Phải tinh tế lắm, yêu và gần gũi với thiên nhiên lắm mới nhận ra được sự bắt đầu trong những
cánh chim bay.
- Cánh chim trời vội vã bay đi, “có đám mây mùa hạ” còn vương lại. Và mây lưu luyến bắc
chiếc cầu:
“Vắt nửa mình sang thu”.
Một liên tởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ. Người ta thường nói: khăn vắt vai, con đường
mòn vắt ngang sườn núi….Hữu Thỉnh điểm vào bức tranh thu của mình một hình ảnh mới mẻ,
gợi cảm: hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng
chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một
hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này.Trong “chiều sông thương”, ông
cũng có một câu thơ tương tự về cách viết: Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố Hạ.”
c. Khúc giao mùa của không gian và thời gian khi sang thu còn được thể hiện ở chiều sâu
suy ngẫm trong khổ cuối.
- Khổ cuối nói về những biến chuyển của nắng, mưa, sấm trong lúc giao mùa với những nhận
xét tinh tế của môộ người am hiểu tường tận các hiện tượng thời tiết này:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
16


+Lại thêm một sự đối lập: nắng vẫn còn nhưng mưa đã vơi dần. Mùa thu nắng sẽ nhạt dần,
nhưng lúc giao mùa, nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng. Những ngày sang thu, đã ít đi
những cơn mưa rào ào ạt vàcũng bớt đi những tiếng sấm bất ngờ thường chỉ có trong mùa hạ.
Các từ ngữ : “vẫn còn – đã vơi dần – cũng bớt bất ngờ” vừa cho thấy, vẫn còn đó dấu ấn, vẫn
còn đó dư âm của mùa hạ. Nhưng tất cả đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định mang nét đặc
trưng của mưa nắng phút giao mùa sang thu. Những câu thơ vừa tả cảnh, vừa kín đáo bộc lộ
cảm xúc giao mùa của lòng người trong mối luyến giao thấm quyện với thiên nhiên.
+ Bài thơ khép lại bằng hai dòng thơ hàm chứa ý nghĩa:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Hai dòng cuối bài có hai tầng ý nghĩa: tả thực và ẩn dụ - gợi ta liên tưởng đến một tầng ý
nghĩa khác – ý nghĩa về con người và cuộc sống. Những tiếng sấm bất ngờ của mùa hạ đã bớt
đi lúc sang thu (cũng có thể hiểu: hàng cây không còn bị bất ngờ, bị giật mình vì tiếng sấm
nữa), nhưng đó còn là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Và hàng cây
đứng tuổi ở đây vừa gợi lên hình ảnh những hàng cây không phải là còn non, vừa gợi tả những
con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua
đó, con người càng trở nên vững vàng.
Hai câu kết đã khép lại bài thơ vừa là hình ảnh thiên nhiên sang thu, vừa là suy nghĩ chiêm
nghiệm về bản thân, về con người, về đât nước. Nó vừa trang nghiêm chững chạc, vừa bâng
khuâng khiêm nhường nhưng cũng đầy tự hào kiêu hãnh. Chính nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự:
với hình ảnh này, ông muốn gửi gắm suy nghĩ của mình: khi con người đã từng trải thì cũng
vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời (1). Bài thơ kết
thúc, nhưng dư vị vẫn còn để người đọc tiếp tục nghĩ suy thêm về cái điều nhà thơ tâm sự.
PHẦN TẬP LÀM VĂN: Phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Dàn ý 1:
A. Mở bài:
- Giới thiệu đề tài mùa thu trong thi ca
- Dẫn vào bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh
- Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ : nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và thoáng
chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng
Bắc Bộ.
B. Thân bài.
Khổ 1: Những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời.
a. Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình:
+ Hương ổi phả trong gió se (se lạnh và hơi khô). “Hương ổi” là làn hương đặc biệt của mùa
thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ.
+ Từ “phả”: động từ có nghĩa là toả vào, trộn lẫn -> gợi mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơm
nồng quyến rũ, hoà vào trong gió heo may của mùa thu, lan toả khắp không gian tạo ra một
mùi thơm ngọt mát - hương thơm nồng nàn hấp dẫn của những vườn cây sum suê trái ngọt ở
nông thôn Việt Nam.


17


+Sương chùng chình: những hạt sương nhỏ li ti giăng mắc như một làm sương mỏng nhẹ
nhàng trôi, đang “cố ý” chậm lại thong thả, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm sang thu. Hạt
sương sớm mai cũng như có tâm hồn
b. Cảm xúc của nhà thơ:
+ Kết hợp một loạt các từ: “bỗng, phả , hình như” thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng
khuâng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Nhà thơ giật mình, hơi bối rối, hình như còn có
chút gì chưa thật rõ ràng trong cảm nhận. Vì đó là những cảm nhận nhẹ nhàng, thoáng qua.
hay là vì quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra? Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với
phút giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh sang thu thấp thoáng hồn người : chùng chình, bịn rịn,
lưu luyến, bâng khuâng…
Khổ 2: HÌnh ảnh thiên nhiên sang thu được nhà thơ phát hiện bằng những hình ảnh quen
thuộc làm nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng:
+Dòng sông quê hương thướt tha mềm mại, hiền hoà trôi một cách nhàn hạ, thanh thản –>gợi
lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên thiên mùa thu.
+ Đối lập với hình ảnh trên là những cánh chim chiều bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh
rét trong buổi hoàng hôn.
+ Mây được miêu tả qua sự liên tưởng độc đáo bằng tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên
nhiên tha thiết:
“ Có đám mây mùa hạ. Vắt nửa mình sang thu”-> Gợi hình ảnh một làn mây mỏng, nhẹ, kéo
dài của mùa hạ còn sót lại như lưu luyến. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ
đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế
và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này.Trong “chiều sông thương”, ông cũng có một
câu thơ tương tự về cách viết: Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố Hạ.”
3. Khổ 3: Thiên nhiên sang thu còn được gợi ra qua hình ảnh cụ thể: nắng – mưa:
- Nắng – hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt
dần, yếu dần bởi gió se đã đến chứ không chói chang, dữ dội, gây gắt.

- Mưa cũng đã ít đi. Cơn mưa mùa hạ thường bất ngờ chợt đến rồi lại chợt đi. Từ “vơi” có giá
trị gợi tả, diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của mùa hạ.
- Hình ảnh ẩn dụ : “Sấm cũng bớt bất ngờ. Trên hàng cây đứng tuổi”
+ ý nghĩa tả thực: hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ
có ở mùa hạ (sấm cuối mùa, sâm cuối hạ cũng bớt đi, ít đi lúc sang thu).
+ Ý nghĩa ẩn dụ : Sấm : những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. “Hàng
cây đứng tuổi” gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những
thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng hơn.
=> Gợi cảm xúc tiếc nuối
C. Kết luận: | “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm
nhận mới về mùa thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim
mọi người.
- Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã góp thêm một
cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng cho mùa thu thi ca thêm phong phú.
Dàn ý 2
18


A. Mở bài:
- Mùa thu quê hương là đề tài gợi cảm xúc đối với thi nhân song mỗi người cảm xúc về
mùa thu theo cảm nhận riêng của mình. Với nhà thơ Hữu Thỉnh, khoảnh khắc giao mùa từ hạ
sang thu đã rung động hồn thơ để thi sĩ vẽ nên một bức tranh thơ: “Sang thu” thật hay.
- Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ : nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và
thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng
bằng Bắc Bộ.
B. Thân bài.
Khổ 1: Những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời.
- Bài thơ mở đầu bằng một phát hiện bất ngờ:
+ chép khổ 1:
- Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình:

+ Hương ổi phả trong gió thu se se lạnh (se lạnh và hơi khô). “Hương ổi” là làn hương đặc biệt
của mùa thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ.
+ Từ “phả”: động từ có nghĩa là toả vào, trộn lẫn. Người ta có thể dùng các từ: toả, bay, lan,
tan… thay cho từ “Phả” nhưng cả bấy nhiêu từ đều không có cái nghĩa đột ngột bất ngờ. Từ
‘phả” cho thấy mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơm nồng quyến rũ, hoà vào trong gió heo may
của mùa thu, lan toả khắp không gian tạo ra một mùi thơm ngọt mát, của những trái ổi chín
vàng – hương thơm nồng nàn hấp dẫn của những vườn cây sum suê trái ngọt ở nông thôn Việt
Nam.
+Sương chùng chình: những hạt sương nhỏ li ti giăng mắc như một làm sương mỏng nhẹ
nhàng trôi, đang “cố ý” chậm lại thong thả, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm sang thu. Hạt
sương sớm mai cũng như có tâm hồn, có cảm nhận riêng cũng nhẹ nhàng, thong thả qua
ngưỡng cửa của mùa thu.
=> Sự góp mặt của làn sương buổi sớm cùng với hương ổi đã làm con người giật mình thảng
thốt: Hình như thu đã về.
- Cảm xúc của nhà thơ:
+ Kết hợp một loạt các từ: “bỗng, phả , hình như” thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng
khuâng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Nhà thơ giật mình, hơi bối rối, hình như còn có
chút gì chưa thật rõ ràng trong cảm nhận. Vì đó là những cảm nhận nhẹ nhàng, thoáng qua.
hay là vì quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra? Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với
phút giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh sang thu của cảnh vật đã thấp thoáng hồn người cũng
chùng chình, bịn rịn, lưu luyến, bâng khuâng…
Khổ 2: HÌnh ảnh thiên nhiên sang thu được nhà thơ phát hiện bằng những hình ảnh quen
thuộc làm nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng:
- Chép khổ 2
+Dòng sông quê hương thướt tha mềm mại, hiền hoà trôi một cách nhàn hạ, thanh thản sau
những ngày hè nước lũ, gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên thiên mùa thu.
+ Những cánh chim chiều bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét trong những buổi hoàng
hôn.
19



+ Đối lập với hình ảnh trên, hình ảnh “ đám mây mùa hạ” được nhà thơ cảm nhận đầy thú vị
qua sự liên tưởng độc đáo: “vắt nửa mình sang thu”. Gợi hình ảnh một làn mây mỏng, nhẹ,
kéo dài của mùa hạ còn sót lại như lưu luyến, đó là vẻ đẹp của bầu trời sang thu. Cảm giác
giao mùa được diễn tả cụ thể và tinh tế bằng một hình ảnh đám mây của mùa hạ cũng như
đang bước vào ngưỡng cửa của mùa thu vậy. Dường như giữa mùa hạ và mùa thu có một ranh
giới cụ thể, hữu hình, hiiển hiện. Liên tưởng đầy thú vị không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà
là sự cảm nhận bằng chính tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết của Hữu
Thỉnh. (Liên hệ: trong bài thơ “Chiều sông Thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về
cách viết: “Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố Hạ”)
*Chốt lại 2 khổ đầu: Bằng sự cảm nhận qua nhiều giác quan, sự liên tưởng thú vị bất ngờ,
với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của tác giả, tất cả không gian cảnh vật như đang chuyển mình từ
từ điềm tĩnh bước sang thu. Người đọc cảm nhận cả về không gian và thời gian chuyển mùa
thật là đẹp, thật là khêu gợi hồn thơ.
3. Khổ 3: Thiên nhiên sang thu còn được gợi ra qua hình ảnh cụ thể: nắng – mưa:
- Nắng – hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt
dần, yếu dần bởi gió se đã đến chứ không chói chang, dữ dội, gây gắt.
- Mưa cũng đã ít đi. Cơn mưa mùa hạ thường bất ngờ chợt đến rồi lại chợt đi. Tác giả dùng từ
“vơi” có giá trị gợi tả như sự đong đếm những sự vật có khối lượng cụ thể để diễn tả cái số
lượng vô định- diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của mùa
hạ. Tất cả đều chầm chậm, -từ từ, không vội vã, không hối hả.
- Hình ảnh : “Sấm cũng bớt bất ngờ. Trên hàng cây đứng tuổi”
+ trước hết mang ý nghĩa tả thực: hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những
cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ (sấm cuối mùa, sâm cuối hạ cũng bớt đi, ít đi lúc sang thu).
Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên vào thu không còn giật mình, bất ngờ bởi tiếng sấm mùa
hạ.
+ Ý nghĩa ẩn dụ (gợi nhiều liên tưởng, suy ngẫm ở người đọc): Sấm : những vang động bất
thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Hàng cây đứng tuổi gợi tả những con người từng trải đã
từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở
nên vững vàng hơn. Thời gian trôi nhanh qua cửa, cuộc đời mỗi con người là một chứng nhân

nhìn mùa thu đi qua. Bởi thế tiếc nuối vẫn mãi là cảm xúc của con người trước thời gian. Tâm
trạng ấy đã được nhà thơ gửi vào cảnh vật, gửi vào trạng thái của thiên nhiên nhằm khắc hoạ
thời khắc mà mọi vật đang chuyển mình sang thu.
C. Kết luận: |
- “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về
mùa thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người.
- Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã góp thêm một
cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng cho mùa thu thi ca thêm ph

Bài 11: NÓI VỚI CON
(Y Phương)
A, Kiến thức cần nhớ
20


1. Tác giả:
-Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày, sinh năm 1948, quê ở huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng. Y Phương ra nhập ngũ ngăm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm
1981, chuyển công tác về Sở văn hoá Thông tin Cao Bằng. TỪ năm 1993, ông được bầu là
Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng. Thơ Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạch
mẽ và trong sáng, cách tư duy hình ảnh của con người miền núi.
2.Tác phẩm:
- Bài thơ “Nói với con” rất tiêu biểu cho hồn thơ Y Phương: yêu quê hương, làng bản, tự hào
và gắn bó với dân tộc mình.
- Mượn lời nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, gợi về sức
sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình.
- Bố cục:
+ Đoạn 1: ( từ đầu đến “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”): Con lớn lên trong tình yêu thương,
sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động nên thơ của quê hương.
+ Đoạn 2: (phần còn lại): Lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống cao đẹp

của quê hương và niềm mong ước con hãy kế tục xứng đáng truyền thống ấy.
=> với bố cục này, bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ
những kỉ niệm gần gũi mà nâng lên thành lẽ sống. Bài thơ đã vượt ra khỏi phạm vi gia đình để
mang một ý nghĩa khái quát: Nói với con nhưng cũng là để nói với mọi người về một tư thế,
một cách sống.
3. Gợi ý phân tích bài thơ:
a. Mở đầu bài thơ, bằng những lời tâm tình với con, Y Phương đã gợi về cội nguồn sinh
dưỡng của mỗi con người.
Cội nguồn của hạnh phúc con người chính là gia đình và quê hương - cái nôi êm để từ đó
con lớn lên, trưởng thành với những nét đẹp trong tình cảm, tâm hồn.Phải chăng đó là điều
đầu tiên người cha muốn nói với đứa con của mình.
-Ngay từ bốn câu thơ đầu tiên người cha đã gợi ra một hình ảnh đầm ấm của gia đình qua cách
nói thật lạ:
Chân phải/ bước tới cha
Chân trái/ bước tới mẹ
Một bước / chạm tiếng nói
Hai bước / tới tiếng cười.
Nhịp thơ 2/ 3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn
quýt: chân phải - chân trái , rồi một bước - hai bước , rồi lại “tiếng nói - tiếng cười”…. Ta rất
dễ hình dung một hình ảnh cụ thể thường gặp trong đời sống: đứa con đang tập đi, cha mẹ vây
quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười
của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận. Cả ngôi nhà như rung lên trong
“tiếng nói, tiếng cười” củ cha, của mẹ. Tuy nhiên, đằng sau lời nói cụ thể đó, tác giả muốn
khái quát một điều lớn hơn: con sinh ra trong hạnh phúc (cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới. Ngày
đầu tiên đẹp nhất trên đời) và lớn lên bằng tình yêu thương, trong sự nâng đón, vỗ về, mong
chờ của cha mẹ. Những hình ảnh ấm êm với cha và mẹ, những âm thanh sống động, vui tươi
với tiếng nói tiếng cười là những biểu hiện của một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt,
21



hạnh phúc tràn đầy. Hình ảnh ấm lòng này muôn thuở vẫn là khát vọng hạnh phúc của con
người. Đó sẽ là hành trang quý báu đối với cuộc đời, tâm hồn con.
- Bên cạnh tình cảm gia đình thắm thiết, hạnh phúc, quê hương thơ mộng nghĩa tình và cuộc
sống lao động trên quê hương cũng giúp con trưởng thành, giúp tâm hồn con được bồi đắp
thêm lên.
+ Ở khổ thơ tiếp theo này, tác giả đã sử dụng những cách nói, những hình ảnh của người miền
núi - nơi sinh dưỡng của chính mình - để nói những điều chân thực về quê hương rừng núi:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.”
+ Y Phương có cách gọi rất độc đáo về những con người quê hương: “người đồng mình”, một
cách gọi rất gần gũi và thân thương. Cách gọi ấy gắn liền với lời đối thoại tha thiết “con ơi”.
+ Người cha đã có cách lí giải rất cụ thể của người dân tộc khiến người con có thể hiểu
được: Người đồng mình đáng yêu như thế nào. Họ sống rất đẹp. Cuộc sống lao động cần cù
và tươi vui của “người đồng mình” - người bản mình- người buôn làng mình được gợi lên qua
các hình ảnh đẹp, đậm sắc màu dân tộc. Họ làm một cách nghệ thuật từ cá dụng cụ lao động
để bắt cá thường ngày : “đan lờ cài nan hoa”. Trong căn nhà của họ, lúc nào cũng vang lên
tiếng hát: “vách nhà ken câu hát”. Những động từ “đan, ken, cài” rất gợi cảm bên cạnh giúp
cho người đọc hình dung được những công việc cụ thể của con người trên quê hương còn gợi
ra tính chất gắn bó, hoà quyện, quấn quýt của con người và của quê hương, xứ sở.
+ Cuộc sống lao động ấy, sinh hoạt gia đình đầy niềm vui ấy được đặt trong cả một quê hương
giàu đẹp, nghĩa tình. Quê hương của “người đồng mình” với hình ảnh rừng, một hình ảnh gắn
liền với cảnh quan miền núi:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những
hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú
hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng
thiêng….. Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói về cảnh quan
của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rấ lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh tuý nhất. Hoa

trong “NÓi với con” có thể là hoa thực - như một đặc điểm của rừng - và khi đặt trong mạch
của bài thơ, hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn
khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con
người ở đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương với con. Đó cũng
chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi người, bởi “con
đường cho những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở,
nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con người.
=>Bằng cách nhân hoá “rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra lối
sống tình nghĩa của “người đồng mình” Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc
sống êm đềm.
b. Lòng tự hào về vẻ đẹp của “người đồng mình” và mong ước của người cha.
- Người đồng mình không chỉ “yêu lắm” với những hình ảnh đẹp đẽ, giản dị gợi nhắc cội
nguồn sinh dưỡng tâm hồn, tình cảm, lối sống cho con người mà còn với những đức tính cao
22


đẹp, đáng tự hào. Trong cái ngọt ngào kỉ niệm gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết
nói với con về những phẩm chất cao đẹp của con người quê hương.
+ Tổ hợp từ “người đồng mình” được lặp lại ba lần đã gây ấn tượng không phai mờ về con
người quê hương. Lời gọi con thật tha thiết, lời nhắn nhủ thật chân thành: “Người đồng mình
thương lắm con ơi!”
Đoạn thơ bắt đầu bằng cảm xúc “thương lắm con ơi”, đó là tình cảm yêu thương, yêu thương
một cách xót xa. Người cha đã lần lượt ngợi ca những phẩm chất dễ thương của “người đồng
mình”với cách nói vừa rất cụ thể của người dân miền núi: “Cao đo nỗi buồn. Xa nuôi chí lớn”
vừa mang sức khái quát. Lấy sự từng trả (buồn) để đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa.
+ Những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như : “sông, suối, thác, ghềnh” đã được người cha
dùng với tính chất biểu trưng cho khó khăn, gian khổ vá sức mạnh vượt khó khăn gian khổ của
những con người của quê hương.
+ Người đồng mình không sợ gian khổ, nghèo đói. Sự chấp nhận gian khổ ấy thể hiện trong
điệp ngữ “không chê”, “không lo” và cách nói tha thiết: “vẫn muốn”. Và ông đã tự ví “người

đồng mình”mạnh mẽ, hồn nhiên như sông như suối qua các hình ảnh cụ thể “đá, thung,
những thác những ghềnh …, dù có lên thác, xuống ghềnh vẫn không nhụt chí khí. Cặp từ trái
nghĩa “lên, xuống” đã làm mạnh thêm sự diễn đạt này. Dù quê hương vất vả, nhọc nhằn, dù
“người đồng mình” có thể có nỗi đau buồn rất lớn nhưng những người con của quê hương
không bao giờ quay lưng lại với nơi mình đã từng chôn rau, cắt rốn, cha mẹ đã từng cáy xới
vun trồng. Và phải chăng chính cuộc sống nhọc nhằn đầy nỗi khổ đau ấy lại khiến cho “chí
lớn” thêm lên, thêm mãnh liệt?
- Gửi trong những lời tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con
phải tiếp nối, phát huy truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê
hương đồng thời muốn con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương.
- Phẩm chất của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương
phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong nhưng rất đúng với người miền
núi:
“ Người đồng mình thô sơ đa thịt.
Chẳng mấy ai nhỏ bé được đâu con”
+ Đó là những con người sống giản dị mà mạnh mẽ, hồn nhiên mà mộc mạc. Người miền
núi tuy có thể mộc mạc, thô sơ da thịt, có thể không biết nói khéo, không biết nói hay…
nhung ý nghĩ của họ, phẩm chất của họ thì thật là cao đẹp. Chính cái hồn nhiên mộc mạc ấy lại
chứa đựng sức sống mạnh mẽ của dân tộc ; giầu chí khí, niềm tin, không hề nhỏ bé về tâm
hồn, về ý chí và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Ý chí và mong ước ấy được cô
đúc trong hai câu thơ vừa có hình ảnh cụ thể lại vừa hàm chứa ý nghĩa sâu sắc:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
+ Việc “ đục đá” là khó, là đòi hỏi nghị lực, nhưng người quê hương ta đã làm,vẫn làm dể làm
rạng rỡ quê hương. Chính những đức tính tốt đẹp cùng với sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng
ngày đã tạo nên sức mạnh để làm nên quê hương với truyền thống với phong tục tập quán tốt
đẹp. Người cha đã tâm sự với con về tất cả những gì tốt đẹp nhất của người quê hương, nơi
con đang sinh sống, cái nôi đang nuôi con khôn lớn, trưởng thành.
23



* Nói với con là lời thủ thỉ tâm tình của người cha với con về quê hương, 1 quê hương nhọc
nhằn vất vả đã nuôi dưỡng chí lớn cho những đứa con. Quê hương với sức sống giản dị mà
mãnh liệt, hồn nhiên mà mạnh mẽ. Tất cả được thể hiện qua thể thơ tự do với những từ ngữ,
hình ảnh mộc mạc, cụ thể nhưng lại có sức khái quát sâu sắc.Gửi trong những lời tự hào
không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con phải tiếp nối, phát huy truyền
thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê hương đồng thời muốn con biết
yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương.
- Không chỉ gửi mong ước của mình đầy tự hào, kết thúc bài thơ, người cha còn bộc lộ trực
tiếp niềm mong ước này trong lời thủ thỉ dặn dò con thiết tha, chân tình, trìu mến trong tiếng
gọi “con ơi!” và lời nhắn nhủ “nghe con”. Song cái điều người cha nói với con thì thật là ngắn
gọn, hàm súc mà sâu sắc, đồng thời lại có chút nghiêm nghị của mệnh lệnh trái tim:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Câu thơ ngắn lại như khắc sâu, có câu chỉ có hai tiếng. Điều mà người cha muốn khuyên con
qua cách nhắc lại một phẩm chất của người đồng mình đã nêu ở trên: nghĩa là phải sống cho
cao đẹp. Trong những lời thơ cuối cùng ấy, người cha dặn dò con cần tự tin mà vững bước
trên đường đời, tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của “người đồng mình”.Con sống được
như thế chính là con phát huy được truyền thống tốt đẹp của cha ông, của quê hương yêu dấu.
Tập làm văn: Phân tích tình cảm cha con trong bài thơ : “Nói với con”
A. Mở bài:
Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là những tình cảm nguyên sơ nhưng
cũng thiêng liêng nhất của con người Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ
sau nối tiếp xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê hương là sự thể hiện cụ thể của
tình cảm cao đẹp đó. Nhiều nhà thơ đã giãi bày những sắc thái tình cảm ấy lên trang giấy.
Chúng ta bắt gặp trong bài thơ “nói với con” của tác giả Y Phương một cách diễn đạt mộc
mạc, chân chất của người miền núi những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò ân cần, chia
sẻ của người cha đối với con lòng tự hào về con người và quê hương yêu dấu của mình.

B. Thân bài:
Luận điểm 1: Mở đầu bài thơ, bằng những lời tâm tình với con, Y Phương đã gợi về cội
nguồn sinh dưỡng của mỗi con người.
a. Mở đầu bài thơ, bằng những lời tâm tình với con, Y Phương đã gợi về cội nguồn sinh
dưỡng của mỗi con người.
Cội nguồn của hạnh phúc con người chính là gia đình và quê hương - cái nôi êm để từ đó
con lớn lên, trưởng thành với những nét đẹp trong tình cảm, tâm hồn.Phải chăng đó là điều
đầu tiên người cha muốn nói với đứa con của mình.
-Ngay từ bốn câu thơ đầu tiên người cha đã gợi ra một hình ảnh đầm ấm của gia đình qua cách
nói thật lạ:
Chân phải/ bước tới cha
Chân trái/ bước tới mẹ
Một bước / chạm tiếng nói
24


Hai bước / tới tiếng cười.
Nhịp thơ 2/ 3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn
quýt: chân phải - chân trái , rồi một bước - hai bước , rồi lại “tiếng nói - tiếng cười”…. Ta rất
dễ hình dung một hình ảnh cụ thể thường gặp trong đời sống: đứa con đang tập đi, cha mẹ vây
quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười
của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận. Cả ngôi nhà như rung lên trong
“tiếng nói, tiếng cười” củ cha, của mẹ. Tuy nhiên, đằng sau lời nói cụ thể đó, tác giả muốn
khái quát một điều lớn hơn: con sinh ra trong hạnh phúc (cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới. Ngày
đầu tiên đẹp nhất trên đời) và lớn lên bằng tình yêu thương, trong sự nâng đón, vỗ về, mong
chờ của cha mẹ. Những hình ảnh ấm êm với cha và mẹ, những âm thanh sống động, vui tươi
với tiếng nói tiếng cười là những biểu hiện của một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt,
hạnh phúc tràn đầy. Hình ảnh ấm lòng này muôn thuở vẫn là khát vọng hạnh phúc của con
người. Đó sẽ là hành trang quý báu đối với cuộc đời, tâm hồn con.
- Bên cạnh tình cảm gia đình thắm thiết, hạnh phúc, quê hương thơ mộng nghĩa tình và cuộc

sống lao động trên quê hương cũng giúp con trưởng thành, giúp tâm hồn con được bồi đắp
thêm lên.
+ Ở khổ thơ tiếp theo này, tác giả đã sử dụng những cách nói, những hình ảnh của người miền
núi - nơi sinh dưỡng của chính mình - để nói những điều chân thực về quê hương rừng núi:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.”
+ Y Phương có cách gọi rất độc đáo về những con người quê hương: “người đồng mình”, một
cách gọi rất gần gũi và thân thương. Cách gọi ấy gắn liền với lời đối thoại tha thiết “con ơi”.
+ Người cha đã có cách lí giải rất cụ thể của người dân tộc khiến người con có thể hiểu
được: Người đồng mình đáng yêu như thế nào. Họ sống rất đẹp. Cuộc sống lao động cần cù
và tươi vui của “người đồng mình” - người bản mình- người buôn làng mình được gợi lên qua
các hình ảnh đẹp, đậm sắc màu dân tộc. Họ làm một cách nghệ thuật từ cá dụng cụ lao động
để bắt cá thường ngày : “đan lờ cài nan hoa”. Trong căn nhà của họ, lúc nào cũng vang lên
tiếng hát: “vách nhà ken câu hát”. Những động từ “đan, ken, cài” rất gợi cảm bên cạnh giúp
cho người đọc hình dung được những công việc cụ thể của con người trên quê hương còn gợi
ra tính chất gắn bó, hoà quyện, quấn quýt của con người và của quê hương, xứ sở.
+ Cuộc sống lao động ấy, sinh hoạt gia đình đầy niềm vui ấy được đặt trong cả một quê hương
giàu đẹp, nghĩa tình. Quê hương của “người đồng mình” với hình ảnh rừng, một hình ảnh gắn
liền với cảnh quan miền núi:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những
hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú
hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng
thiêng….. Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói về cảnh quan
của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rấ lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh tuý nhất. Hoa
trong “NÓi với con” có thể là hoa thực - như một đặc điểm của rừng - và khi đặt trong mạch
của bài thơ, hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn
25



×