Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Chứng minh rằng: “Người Hy Lạp bị người La Mã chinh phục, những người bị chinh phục ấy lại chinh phục trở lại kẻ đi chinh phục mình.” (Nhà thơ La Mã Hôratiut)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 30 trang )

Bài tập nghiên cứu môn :

LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

Đề bài : Chứng minh rằng
“Người Hy Lạp bị người La Mã chinh phục, những người bị
chinh phục ấy lại chinh phục trở lại kẻ đi chinh phục mình.”
(Nhà thơ La Mã Hôratiut)

Khi nhắc đến Hy Lạp và La Mã người ta lại liên tưởng đến thế
giới của các vị thần bởi nơi đây là quê hương của các vị thần nổi
tiếng trong trong tín ngưỡng của người Hy Lạp và La Mã. Đây là hai
đất nước mà có sự ảnh hưởng lẫn nhau trong lịch sử phát triển của
mình điều đó đã tạo ra sự đặc biệt trong những thành tựu văn minh
của hai đất nước này nói riêng và thành tựu của văn minh nhân loại
nói chung. Nhà thơ La Mã Hôratiut đã từng nói: “Người Hy Lạp lại bị
người La Mã chinh phục, những người bị chinh phục ấy lại chinh
phục trở lại kẻ đi chinh phục mình. Văn học nghệ thuật Hy Lạp tràn
sang đất Latinh hoang dã…”
Trong lịch sử Hy Lạp được thành lập trước khi đế chế La Mã,
cho đến khi đế chế La Mã ra đời và trở lên lớn mạnh và tiến hàng


chinh phạt các vùng xung quanh mình trong đó có Hy Lạp. Năm 146
TCN, Hy Lạp bị nhập vào đế quốc La Mã. Tuy nhiên sự chinh phục
ấy của người La Mã với Hy Lạp chỉ là sự xâm chiếm và thôn tính về
mặt quân sự, điều đặc biệt là người Hy Lạp lại là những người chinh
phục lại kể xâm lược của mình bằng chính văn hóa của mình tạo ra.
Điều đó có thể thấy rằng văn hóa của người Hy Lạp có sức hút mạnh
mẽ và có thành tựu rực rỡ. Chính những thành tựu ấy đã ảnh hưởng
đến các nền văn hóa lân cận và cả khi người La Mã tiến hành chinh


phạt vùng đất của người Hy Lạp thì chính họ lại ảnh hưởng và tiếp
thu văn hóa của người Hy Lạp. Sau khi các quốc gia khác cũng bị
thôn tính bởi La Mã thì các nước này bước vào giai đoạn “Hy Lạp
hóa” hay còn gọi là thời kỳ “Hy Lạp hóa”. Vào giai đoạn này thì sự
ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp đối với các nước trong đó có La Mã
càng trở lên mạnh mẽ hơn. Chính điều này tạo cho hai nền văn minh
này có nhiều nét chung thường được gọi là nền văn minh Hy-La. Nền
văn minh Hy-La phát triển rất toàn diện và mỗi mặt đều có những
thành tựu rực rỡ, quan trọng nhất là các lĩnh vực văn học, nghệ
thuật, sử học, khoa học tự nhiên, triết học,..

1. Văn học của Hy Lạp và sự ảnh h ưởng của văn học Hy
Lạp tới văn học La Mã :
Nền văn học Hy Lạp bao gồm ba bộ phận chủ yếu và có liên quan
chặt chẽ với nhau là thần thoại thơ và kịch.
a. Thần thoại:
- Thần thoại Hy Lạp: ngay từ trong giai đoạn từ thế kỷ VIII-VII TCN,
nhân dân đã sáng tạo ra một kho tàng thần thoại rất phong phú, bao
gồm những chuyện về khai thiên lập địa, về các thần trong lĩnh vực
đời sông xã hội, về các anh hùng dũng sĩ. Đến thế kỷ thứ VIII TCN,
cùng với sự phát triển của các giâ đình phụ quyền các thần được xắp
xếp thành một hệ thống tôn ty trật tự. Theo tác phẩm gia phả các vị
thần của Hê đi ốt, nhà thời Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ VIII TCN thì
đầu tiên chỉ có Ca ốt là 1 khối hỗn mang mờ mịt, rồi Ca ốt sinh ra


thần đất Gaia, sinh ra thần ái tình Erốt, Gaia sinh ra Uranut tức là trời
được nhân cách hóa. Uranut lại lấy Gaia làm vợ, sinh được 12 thần
gồm 6 nam và 6 nữ, gọi chung là thần tộc Titanut. Trong số các thần
ấy có Croonut đã lấy Reea rồi sinh ra các vị thần trong đó có người

con út là Thần Dớt, chính Dớt đã lật đổ cha của mình để trở thành
chúa tể của các vị thần. Thần Dớt có nhiều vợ như Heerra, Đê Mê Tê
và sinh được nhiều con như Ateena, Apolo, Aphrodit,..Một trong
những người anh em con chú, con bác của thần Dớt là thần Promete
đã dùng đất xét lặn thành người rồi trộm lửa ở lò rèn của thần thợ
rèn Hephaixtot đem đến cho loài người. Do vật Dớt sai Heephaixtot
xiềng Promete ở núi Cô Ca Dơ và cho một con Diều hâu mổ lá gan
của chàng. Về sau Promete được thần Heerraclet, con của thần Dớt
giải thoát. Do công lao đó, trong thần thoại Hy Lạp, Promete được coi
là kẻ sáng tạo ra nền văn minh nhân loại.
Bên cạnh hệ thống các thần đó, người Hy Lạp còn sáng tạo ra các vị
thần bảo hộ các ngành nghề và lĩnh vực khác trong đời sống. Ví dụ:
+ Đêmêtê là hóa thân của đất và là nữ thần của nghề nông.
+ Điônixốt là thần của nghề trồng nho và nghề làm rượu nho
+ Apolo là thần ánh sang và nghệ thuật.
+ Ơtécpô là thần âm nhạc
+ Tali là thần hài kịch
+ Cliô là thần lịch sử. v..v
Như vậy thàn thoại Hy Lạp phản ánh nguyện vọng của nhân dân
trong việc giải thích và đấu tranh với tự nhiên, đồng thời phản ánh
cuộc sống lao động và hoạt động xã hội. Do được tạo nên từ thực tế
cuộc sống, các thần Hy Lạp không phải là những lực lượng xa vời,
có quyền uy tuyệt đối và đáng sợ như các thần ở Phương Đông mà
là những hình tượng rất gần gũi với con người. Thần thoại Hy Lạp cổ
đại còn có tình cảm yêu ghét vui buồn thậm chí còn có nhưng ưu


khuyết điểm nhưng có khi thì rộng lượng, khi thì hẹp hòi khi thì đa
tình ghen tuông….
- Thần Thoại La Mã: Người La Mã hầu như tiếp thu hoàn toàn kho

tàng thần thoại và hệ thống các thần của Hy Lạp. Chỉ có một điều
khác là người La Mã đặt lại cho các vị thần đó. Ví dụ:
+ Thần Dớt của Hy Lạp thành thần Giupite của La Mã
+ Thần Heerra, vợ thần Dớt thành thàn Giun ông vợ của Giupite
+ Thàn Đê Mê tê, thần nông của HL trở thành thần Xê rét, thần ngũ
cốc, thần bảo vệ mùa màng của LM.
+ Thần Aphroodit, thần sắc đẹp và tính yêu của HL thành thần
Veenus của LM.
+ Thần Pô Đê đông, thần biển của Hy Lạp thành thần Nép tun của La
Mã.
+ Thần Héc Méc, thần buôn bán của Hy Lạp thành thần Mescquya
của La Mã.
+ Thần Heerraclet của Hy Lạp, biểu tượng sức mạnh ủa thần
Hescquyn của La Mã,…
b. Thơ:
Văn học Hy Lạp :
Nói về thơ ca của Hi Lạp cổ đại trước hết phải nói đến hai tập
sử thi nổi tiếng: Iliat và Ô đi Xê. Tương truyền rằng tác giả hai tac
phẩm này là Hô me, một nhà thơ mù sinh ra ở thành phố thuộc Tiểu
Á vào khoảng giữa thế kỷ IX TCN. Tuy nhiên các vấn đề như tác giả,
quê hương, của tác giả, thời gian sáng tác thơ,.. đều chưa xác định.
Chính vì thế ngày từ thời cổ đại, ở Hi Lạp đã có 7 thành phố tranh
nhau là quê hương của Hô me.
Đề tài Iliat và Ô đi xê đều khai thác từ cuộc chiến tranh giữa
các quốc gia ở Hi Lạp với thành Tơ Roa ở Tiểu Á. Iliat dài 15638


câu, chủ yếu là miêu tả trong giai đoạn gay go nhất là năm thứ 10
của cuộc chiến tranh ở Thanh Tơ roa. Tập Ô đi xê dài 12110 câu
miêu tả cảnh trở về của quân Hy Lạp. Sau chiến thắng quân Tơ Roa,

vua Ôđi xê phải trải qua 10 năm gian nan nguy hiểm mới về được
quê hương của mình là các đảo Itác và được gặp lại người vợ chung
thủy đã một lòng chờ đợi suốt 20 năm là Pê nê lốp.
Hai tập Iliat và Ô đi xê không những là hai tác phẩm quan trọng
trong kho tàng văn học thế giới mà còn là những tác phẩm có giá trị
về lịch sử. Chính những tài liệu chứa đựng trong hai tập thơ lớn này
đã giúp các nhà sử học khôi phục một thời lịch sử gọi là thời kỳ Hô
mê.
Các nhà thơ Hi Lạp khác như Hê đi ốt với các tập thơ gia phả
các vị thần, Lao động và ngày tháng. Đến thế kỷ VII, VI TCN thơ trữ
tình bắt đầu xuất hiện, các thi sĩ tiêu biểu là Pa rốt, Ác si lô cút, Xô
lông, Tê oonit, Xa phô, Panh đa, Anacreong…Đến nữ sĩ Xapho, thơ
chữ tình Hi Lạp đạt đến điêu luyện, Xapho được gọi là “nàng thơ thứ
mười” của thơ ca Hi Lạp sau chính nàng thơ trong thần thoại vì thơ
của bà uyển chuyển lại có cốt cách phong nhã thanh tao và thường
đượm vẻ buồn vì phần lớn đề tài có tính chất thương cảm. Anac rê
ông cũng là một nhà thơ chữ tình lớn. Thơ của ông chủ yếu ca ngợi
sắc đẹp, tình yêu và hoan lạc, tuy nhiên ông rất ghét tiền tài, vì theo
ông đó là lực lượng phá hoại hài hòa của cuộc sống. Nhà thơ cuối
cùng là Panh đa (522-422 TCN) ông là đại biểu của văn học quý tộc.
Thơ ông chủ yếu ca ngợi đời sống hào phóng xa hoa của giới quý
tộc, tán dương những kẻ thắng cuộc trong đại hội điền kinh Ô lem
pích.
Thơ chữ tình của Hi Lạp có ảnh hưởng lớn đến thơ ca của
Phương Tây sau này về phong cách sáng tạo cũng như về hình thức
và đặt cơ sở cho một hình thức văn nghệ mới ở Hi Lạp là kịch. Ngoài
thơ chữ tình Hi Lạp còn có các nhà thơ sáng tác về chủ đề chính trị,
trong đó, bài Hành khúc của Tiếc tê ca ngợi sự anh dũng của người
Xpác được coi là mẫu mực của loại thơ ca chiến đấu.



Văn học La Mã:
Người La Mã vốn từ sớm đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Hi
Lạp. Đặc biệt sau khi đánh chiếm thành phố Taren tơ của HL ở trên
bán đảo đó vào năm 272 TCN, La Mã bắt đầu tiếp xúc với văn học Hi
Lạp, do đó chịu ảnh hưởng của văn học Hi Lạp.
Văn học La Mã cũng bao gồm nhiều loại sử thi, thơ chữ tình,
thơ trào phúng, văn xuôi, kịch. Thời cộng hòa, La Mã có nhiều thi sĩ
và nhà soạn kịch, ví dụ: An đrô ni cút đã dịch Ô đi xê ra tiếng La tinh,
Nơ viut viêt sử thi cuộc chiến tranh ở Punich, Ca tu lút đã sáng tác
nhiều bài thơ chữ tình. Thời kỳ phát triển nhất của thơ La Mã là thời
kỳ thống trị của Ôc tavianust. Để phục vụ cho chế độ chính trị của
Ôc ta vi nút, nhóm tao đàn Mê xen được thành lập. Mê xen là một
người thân cận của Ốc.. là mạnh thường quân của La Mã đứng ra
bảo trợ cho các thi nhân văn sĩ. Trong nhóm này có nhà thơ nổi tiếng
như Viếc gi li út, Hô ra ti út, Ô vi đi út. Đây là ba nhà thơ có những
tác phẩm lớn và giá trị cho văn học La Mã.
c. Kịch:
Nghê thuật kịch HL bắt nguồn từ các hình thức ca múa hóa
trang trong các ngày lễ hội, nhất là lễ hội thần Rượu nho Đi ô NI xốt.
Trong những lễ hội này, người ra múa hát hóa trang, khoác da cừu,
đeo mặt lạ dieexn lại các sự tích thần thoại. Lúc đầu chỉ có những
đồng ca hát sau thêm diễn viên hát đế, như vậy bắt đầu có hồi đáo.
Cơ sở của Kịch bắt đầu xuất hiện. HL có hai loại bi kịch và hài kịch
với các tác giả tiêu biểu như: Etsin, Xowphoclo, Oripit,..Ở LM các
nhà thơ An đrơ ni cút, Nơ vi út, Plan tút, Tê re xi út cũng là những
nhà soạn bi kịch khác và hài kịch, năm 240 TCN, Ở LM bắt đầu diễn
kịch. An đrơ ni cút là người đầu tiên được giao nhiệm vụ chuẩn bị
các kịch bản cho các buaooru biển diễn ấy. Từ đó, các nhà soạn kịch
LM thường dịch bi kịch và hài kịch HL, đồng thời phỏng theo kịch HL

để soạn những vở kịch lịch sử của LM hoặc cải biến các vỏ ư kịch
HL thành các vở kịch LM.
2. Sử học:


Sử học La Mã Từ khoảng giữa thế kỷ V TCN, ở La Mã đã có
những tài liệu tương tự như lịch sử biên niên goi là Niên đại kí
(Annales), nhưng nền sử học thật sự của La Mã đến cuối thế kỷ III
TCN mới xuất hiện, và người được coi là nhà sử học đầu tiên của La
Mã cũng là nhà soạn kịch Nơviút. Ông đã tham gia cuộc chiến tranh
Punich lần thứ nhất, nhờ đó ông đã viết tập sử thi Cuộc chiến tranh
Puních, nhưng tác phẩm này chỉ còn một số đoạn mà thôi. A. Phabiút
(sinh năm 254 TCN) Người đầu tiên viết lịch sử La Mã bằng văn xuôi
là Phabiút (sinh năm 254 TCN). Ông viết lịch sử La Mã từ thời thần
thoại cho đến thời kỳ của ông. Ngôn ngữ ông sử dụng viết tác phẩm
này là tiếng Hy Lạp, điều đó chứng tỏ rằng lúc bấy giờ văn xuôi La
Mã chưa xuất hiện. Người đầu tiên dùng văn xuôi Latinh để viết sử là
Catông (234-149 TCN). Tác phẩm của ông nhan đề là Nguồn gốc,
gồm 7 chương, trong đó 3 chương đầu ghi chép các truyền thuyết
của Hy Lạp và các địa phương khác nói về La Mã. Các chương tiếp
theo viết lịch sử La Mã cho tới thời kỳ của ông. Phương pháp viết sử
của ông là không theo niên đại mà trình bày theo vấn đề. Vì vậy có
thể coi ông là nhà sử học thực sự đầu tiên của La Mã. Tác phẩm của
ông này chỉ còn một số đoạn. Từ Catông về sau, La Mã có nhiều nhà
sử học xuất sắc, Pôlibiút, Titút Liviút, Taxitút, Plutác. B. Pôlibiút (205
- 125 TCN) Pôlibiút (205 - 125 TCN) là người Hy Lạp, bị đưa sang La
Mã làm con tin. Tác phẩm của ông là bộ Thông sử gồm 40 quyển viết
về lịch sử Hy Lạp, La Mã và các nước phía Đông Địa Trung Hải từ
năm 264-146 TCN. Trong tác phẩm của mình, ông có ý thức chú ý
đến tác dụng giáo dục của sử học đối với cuộc sống. Ông nói: "Sử

học là một thứ triết học lấy sự việc thật để dạy người đời". Ngày nay
tác phẩm của Pôlibiút không còn giữ lại được đầy đủ. C. Titút Liviút
(59 TCN - 17 CN) Titút Liviút (59 TCN - 17 CN) là nhà sử học xuất
sắc của La Mã trong thời kỳ trị vì của Ôctavianút. Tác phẩm sử học
lớn nhất của ông là "Lịch sử La Mã từ khi xây thành tới nay". Sách
này gồm 142 chương, trình bày lịch sử La Mã từ đầu đến năm 9
TCN. Đặc điểm của phương pháp sử học của Liviút là: - Nêu cao chủ
nghĩa yêu nước trong việc viết sử, đề cao quá khứ vinh quang của
La Mã, ca ngợi sự anh dũng của nhân dân La Mã. - Chú ý đến tác
dụng giáo dục của sử học: nhấn mạnh các phong tục tốt đẹp ngày


xưa, đem những tập quán tốt đẹp ấy so sánh với hiện tượng đồi
phong bại tục lúc bấy giờ. Tác phẩm của Liviút nay chỉ còn lại 35
chương, trong đó có giá trị lớn là 10 chương đầu, vì nhờ phần này
mà đời sau biết được lịch sử liên tục của La Mã. D. Taxitút Taxitút
sống vào cuối thế kỷ I đầu thế kỷ II. Tác phẩm của ông là Lịch sử
biên niên viết về lịch sử thời kỳ đầu của đế quốc La Mã. Trong tác
phẩm này, tác giả đã vạch trần sự thối nát của chính thể chuyên chế
ở La Mã. E. Plutác Plutác, người Hy Lạp, sống cùng thời với Taxitút.
Tác phẩm quan trọng của ông là Tiểu sử so sánh, trong đó ông đã so
sánh từng đôi một các danh nhân Hy Lạp và La Mã. Phương pháp
sử học của ông là làm cho độc giả có thể tìm thấy những chỗ đáng
học tập và những chỗ đáng tránh trong các truyện ký của ông. Khi
đánh giá con người ông cho rằng không phải dựa vào địa vị xã hội
mà phải dựa vào phẩm chất và hành động của họ. Chính vì vậy,
trong tác phẩm của mình ông đề cao Xpactacút, thủ lĩnh của phong
trào khởi nghĩa của nô lệ ở La Mã. Tác phẩm của Plutác viết theo thể
truyện ký vừa có giá trị sử học vừa có giá trị văn học. Những thành
tựu nói trên của sử học Hy Lạp và La Mã đã góp phần quan trọng

vào sự phát triển của nền sử học thế giới.
3. Nghệ thuật:
Nghệ thuật HL và LM bao gồm ba mặt chủ yếu là Kiến trúc, hội
họa, điêu khắc. Chính người HL cũng học tập Người ai cập và người
Cret nhưng do những điều kiện chi phối nghệ thuật Hi Lạp khắc phục
được tính tượng chưng, chủ nghĩa, công thưc, với tư tưởng chủ
nghĩa hiện thực và đã đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ.
• Kiến trúc:


La Mã có niềm tự hào về các công trình kiến trúc của họ, khi mà
có sự kết hợp các kiến thức truyền thống của nền văn minh Hy
Lạp kinh điển. Tuy nhiên, do sự bành trướng của cộng hòa La Mã,
mà các công trình xây dựng của Roma gần như cùng kiểu của Hy
Lạp đương thời. Mặc dù vậy, vẫn có sự khác nhau giữa hai
trường phái La Mã và Hy Lạp về kiểu cách trong xây dựng, La Mã
vay mượn cứng nhắc sự chính xác, đề án phác thảo, tính cân
xứng từ Hy Lạp. Ngoài ra từ hai kiểu cột mới là kiến trúc hỗn hợp
và kiểu Toscana, một nữa là kiểu mái vòm với phong cách từ
Etruscan, Roma đã có khá nhiều cách tân vào cuối thời Cộng hòa
La Mã. Điểm đặc biệt ở thời gian thế kỷ 1 TCN, La Mã đã bắt đầu
biết dùng bê tông, thay thế cho đá cẩm thạch như nguồn vật liệu
xây dựng chính và cho phép xây dựng nhiều công trình kiến trúc
phức tạp hơn. Đồng thời ở thế kỷ 1 TCN, Vitruvius lần đầu tiên
cho ghi chép các kiến thức kiến trúc xây dựng vào sử học. Về sau
thế kỷ thứ 1 CN, La Mã cũng bắt đầu cho sản xuất thủy tinh ngay
sau khi Syria phát hiện ra chúng. Đồ chạm khảm cũng theo đoàn
quân viễn chinh ở Hy Lạp quay về La Mã. Rất nhiều vật dụng của
La Mã được sản xuất từ bê tông. Một trong những giá trị kiến trúc
của người La Mã cổ đại thể hiện qua các cầu vòm bằng đá. Nhờ

những chiếc cầu này mà hệ thống giao thông nối liền các vùng


của đế chế La Mã trở nên thuận lợi. Công trình kiến trúc La Mã nổi
tiếnghay được nhắc đến là đền Parthenon, đấu trường Côlidê

và Khải hoàn môn. Kiến trúc sư La Mã nổi tiếng thời đó là
Vitruvius.
• Về điêu khắc:
Nghê thuật điêu khắc Hy Lạp đến thế kỷ V TCN có nhiều kiệt tác
với những tên tuối nghê sĩ tài năng như Mi ông, Phi đi át, Pliclet
với các tác phẩm như lực sĩ ném đĩa,


các pho tượng thần ,….Nghê thuật La Mã cũng dựa trên cùng một
phong cách nghệ thuật với Hy Lạp. Chủ yếu thể hiện ở hai mặt,
tượng và phù điêu.
Thật đáng tiếc, qua thời gian và những thăng trầm, biến cố, nhiều tác
phẩm quý giá đã bị hủy hoại, chỉ một số ít còn tồn tại nguyên vẹn.
Bức tượng Aphrodite de Milos
(Nàng Venus của thành Milo)


Đây được coi là bức tượng đẹp nhất về thân hình phụ nữ. Hiện nay,
tượng đang trưng bày trong viện bảo tàng Louvre của Pháp. Nàng
Venus của thành Milo là một trong những bức tượng cổ xưa và nổi
tiếng nhất của nghệ thuật điêu khắc cổ đại. Các nhà khoa học dự
đoán nó được tạc trong khoảng thời gian từ năm 130-100 trước công
nguyên. Nữ thần tình ái và sắc đẹp của người Hy Lạp to lớn hơn kích
thước thực tế của con người với chiều cao hơn 2m. Cánh tay và

chân tượng đã bị mất, tuy vậy, phần còn lại của tượng càng khiến
người ta thấy vẻ đẹp của nàng Venus thật huyền bí và khơi gợi sức
tưởng tượng về nàng.
Bức tượng Winged Victory of Samothrace
(Nàng Samothrace – Nữ thần chiến thắng có cánh)


Bức điêu khắc này còn được gọi là Nike of Samothrace, được tạc từ
một khối đá cẩm thạch từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên, khắc họa
vị thần chiến thắng của Hy Lạp. Kể từ năm 1884, bức tượng đã được
trưng bày tại viện bảo tàng nghệ thuật lớn nhất thế giới – Louvre và
là một trong những bức tượng lừng danh thế giới. Tác phẩm này
được chú ý bởi tư thế rất tự nhiên mềm mại với bộ y phục có những
đường nét uốn lượn được tạc vô cùng khéo léo và điêu luyện khiến
người ta tưởng như nàng Samothrace đang đứng trước biển và tận
hưởng ngọn gió mát lành.
Laocoon và các con trai


Bức Laocoon và các con trai hay còn được gọi là bức Gia đình
Laocoon được tạc bằng đá cẩm thạch, đang được trưng bày ở viện
bảo tàng Vatican, thành phố Rome. Bức tượng được tạc bởi một thợ
điêu khắc chính và ba thợ phụ khắc họa một thầy tu của thành Troa
có tên là Laocoon cùng hai con trai của ông - Antiphantes và
Thymbraeus bị bóp nghẹt bởi con rắn biển của thần biển Neptune.
Tượng đồng


Bức này được cho là khắc họa thần biển Poseidon (hay còn gọi là
Neptune) hoặc thần Zeus (thần Dớt – chúa tể tối thượng của các

thần). Bức tượng được tạc bằng đồng vào khoảng năm 460 trước
công nguyên, giờ được trưng bày ở viện bảo tàng mỹ thuật quốc gia
Hy Lạp tại Athens. Bức điêu khắc mang đậm chất cổ điển này được
tìm thấy bởi một người dân chài khi thả lưới ở Mũi Artemisium năm
1928. Bức tượng cao hơn 2m.
Diadumenos

Bức tượng này được cho là tác phẩm của nhà điêu khắc nổi tiếng Hy
Lạp Polycitus, được đặt ở viện bảo tàng quốc gia tại Athens.
Diadumenos nghĩa là “người đeo vòng nguyệt quế”, đây là một trong
những bức tượng nổi tiếng nhất của Polycitus khắc họa hình ảnh
hoàn hảo của chàng thanh niên trong tư thế tự nhiên lên nhận vòng
nguyệt quế ở thế vận hội Olympic cổ xưa tại Hy Lạp.


Diadumenos là danh từ để chỉ vận động viên chiến thắng tại thế vận
hội, khi đó, để đạt thành tích cao nhất, các vận động viên sẽ hoàn
toàn nude, người chiến thắng sẽ được nhận vòng nguyệt quế hoặc
được thắt một dải ruy-băng lên đầu. Bức tượng đồng này khắc họa
chân dung của một vận động viên chiến thắng. Nó có niên đại từ
năm 420 trước công nguyên.
Venus Braschi


Tượng được tạc bởi nhà điêu khắc nổi tiếng Praxiteles. Đây là một

phiên bản khác của nàng Aphrodite – nữ thần tình ái và sắc đẹp. Bức
tượng hiện đang được trưng bày ở viện bảo tàng ở Munich.
Bức The Marathon Youth
(Vận động viên chạy đường dài)



Đây là một tác phẩm khác của Praxiteles. Bức tượng đồng được tạc
từ thế kỷ thứ 4 trước công nguyên và trưng bày tại viện bảo tàng
quốc gia của Hy Lạp ở Athens.
Thần Hermes


Vị thần khoa học và hùng biện của người Hy Lạp được tạc nên bởi
nhà điêu khắc Pypsippos, trưng bày ở Athens.
Bức Charioteer of Delphi
(Người đánh xe ngựa ở thành Delphi)

Bức tượng được tạc từ năm 470 trước công nguyên và là một trong
những bức quý hiếm giữ được trạng thái hoàn hảo nhất cho tới ngày
hôm nay. Người đánh xe ngựa là một phần trong một khối tượng lớn
do anh trai của vua Syracuse là Polyzalos đặt tặng cho đền thờ
Apollo ở thành Delphi. Bức tượng đồng được tạc từ thời kỳ đầu của
nền nghệ thuật cổ điển với phong cách đặc trưng là đôi mắt thủy tinh
được ghép vào khuôn mặt tượng.
Bức Zeus và Ganymede


Bức tượng đất nung khắc họa thần Dớt và anh hùng Ganymede
được tìm thấy ở thành phố Olympia cổ xưa, nay là thành phố Ellis.
Tượng được tạc năm 470 trước công nguyên.
Tượng điêu khắc của người Hy Lạp thường tập trung vào nét đẹp
hình thể của con người. Những tác phẩm ở trên đều cho thấy khát
khao vươn tới cái hoàn hảo toàn mĩ của nghệ sĩ và con người Hy
Lạp đương thời. Mọi chi tiết trong tác phẩm đều được chú ý mài dũa

để tạo ra những đường cong tự nhiên nhất.

c. Về hội họa:
Nghê thuật hội họa Hy Lạp và La Mã rất đẹp tuy nhiên những tác
phẩm này được truyền bá đến ngày nay ít. Những họa sỹ tiêu biểu
của Hy Lạp là Pô li hốt, Apô lô đo. Các tác phẩm hội họa của La Mã
còn được giữ là các bức bích họa, trên đó vé phong cảnh, các công
trình,.. Trong mọi thời kỳ, những nhà lý luận nghệ thuật, những nhà
văn, các nhà nghiên cứu lịch sử và khảo cổ đều ca ngợi nghệ thuật Hy
Lạp cổ đại chính là thời kỳ hoàng kim của các thể loại hội họa.


Bích họa đấu bò trong cung điện Knossos - Đảo Crete (năm 1550 TCN)

Ngay cả các nhà văn cổ đại như Pliny the Elder (23-79) cũng mô tả
hội họa Hy Lạp là thời kỳ hoàng kim của lịch sử hội họa. Những nhà
văn như ông đã ghi lại tên của các danh họa nổi tiếng như Apelles
(thế kỉ 4TCN), Parrhasius (thế kỉ 5TCN) và Polygnotus (giữa thế kỉ
5TCN). Apelles là họa sĩ riêng của Alexandre đại đế - nổi tiếng với
phối cảnh và các mảng đậm nhạt. Parrhasius thì nổi tiếng với những
bức họa miêu tả trận đánh của các centaur (quái vật thân người mình
ngựa - nhân mã) trên chiếc khiên của tượng thần Athena (tác phẩm
của nhà điêu khắc Phidias). Polygnotus (làm việc chủ yếu tại Delphi
và Athens) có một khả năng đặc biệt thể hiện trạng thái tâm lý của
nhân vật qua các biểu hiện trên khuôn mặt trong các tác phẩm chân
dung.


Người đánh cá - năm 1550 TCN


Tuy nhiên, tất cả những tác phẩm hội họa, điêu khắc đó không còn
tồn tại cho đến ngày nay. Tất cả những gì còn sót lại là một vài tác
phẩm hiếm hoi của hội họa Hy Lạp cổ đại và những tác phẩm đó
cũng không tiêu biểu cho thời kỳ các họa sĩ nổi tiếng trên sinh sống
và sáng tác. Những ví dụ hiếm hoi còn tồn tại là những bức bích họa
trong cung điện của Knossos trên đảo Crete (thế kỉ 16 - 13 TCN) cho
đến những bức họa trong lăng mộ Diver tại Paestum - Italia (480 470 TCN)


Võ sĩ đấm bốc - năm 1550 TCN

Qua những di chỉ như bích họa ở lăng mộ Etruscan, hội họa Rome
cổ đại và trên những bức khảm lâu đời - Thời kỳ hoàng kim của nghệ
thuật Hy Lạp cổ đại được tái hiện nhưng không rõ rệt. Những họa
tiết, tranh trên những chiếc bình có thể liên hệ tới những tác phẩm
bích họa hay những mảng trạm trổ. Số lượng lớn các loại bình gốm
còn tồn tại cho đến nay có thể cho chúng ta đoán được những tầng
phát triển của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại. Trước thế kỷ 9 TCN, loại
hình "hình học" phát triển nhiều trên những bức họa trên bình. Trong
suốt thế kỷ 9TCN, về cơ bản các bức họa trên bình đều mang tính
trừu tượng bộc lộ cảm giác về tính nghiêm ngặt và đều đặn ở các vị
trí, các họa tiết.


Bình gốm Dipylon (năm 750 TCN)

Vào đầu thế kỷ 8 TCN, những bức chân dung bắt đầu xuất hiện, ban
đầu ở dạng tối giản theo quy luật hình học. Có rất nhiều ví dụ về
những bức chân dung loại này trên những chiếc bình được khai quật
tại nghĩa địa Athenian (Dipylon). Những họa tiết trang trí trên những

chiếc bình lớn này được làm để sử dụng trong lăng mộ. Chúng được
sáng tạo ra để ca ngợi cuộc sống sau cái chết sự mô tả về các cuộc
chiến hay các nghi lễ trong đám tang


Bình gốm của Exekias - Cuộc khởi hành của Dioskouroi (năm 550 - 525 TCN)

Qua thời gian, chân dung con người và động vật trở thành những chi
tiết quan trọng nhất trong việc trang trí các loại bình cùng với mô-típ
thực vật của phương Đông. Tới thế kỷ 7TCN, những bức họa màu
đen vẽ trên bình được phát triển. Những chiếc bình này kể về những
huyền thoại, những vị nam thần, nữ thần, các anh hùng... Hầu hết
chúng là những tác phẩm hội họa chân dung màu đen có khắc bóng
trên nền đất sét màu vàng đỏ. Một ví dụ minh họa quan trọng cho kỹ
thuật này là chiếc vò hai quai của họa sĩ vùng Amasis với hình ảnh
của thần rượu nho Dionysus và Maenad hay kylix (loại bát có hai
quai dọc) mô tả Dionysus đang chèo thuyền - tác phẩm của Exekias
(550-520TCN).


×