Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Tích cự hóa hoạt động nhận thức của học sinh khi dạy học bài hiệu ứng đốp le với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.12 KB, 64 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chon đề tài
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, nền giáo
dục Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, để đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đòi hỏi giáo dục cần có sự đổi mới toàn diện và sâu sắc. Một trong những
giải pháp quan trọng là nhanh chóng đổi mới phương pháp dạy học. Nhận
định được điều đó Đảng và nhà nước ta đã xác định rằng :“ Công nghệ thông
tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ
trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng
giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và ứng dụng công
nghệ thông tin trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết
định sự phát triển công nghệ thồng tin của đất nước “

(Chỉ thị số

55/2008/CT- BGD ĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT
trong ngành GD giai đoạn 2008- 2012)
Qua thực tế các nhà khoa học sư phạm đều nhận định rằng việc nghiên
cứu ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại nhiều
hiệu quả rõ rệt mà phương pháp dạy học truyền thống không thể đạt được.
Công nghệ thông tin tạo ra môi trường dạy học đa phương tiện kết hợp
những hình ảnh, video, âm thanh, văn bản, biểu đồ , mô phỏng… được trình
bày qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một
quá trình học đa giác quan. Nhiều giáo viên đã có được những tiết dạy tốt tạo
được sự tương tác, phát huy được tính chủ động và sáng tạo của người học
nhờ sử dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng và hỗ trợ các hoạt
động dạy học.
Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình,
kênh chữ, âm thanh sống động làm cho người học dễ thấy, dễ tiếp thu và


1


bằng suy luận có lý, học sinh có thể có những dự đoán về các tính chất,
những quy luật mới.
Kĩ thuật đồ họa nâng cao có thể giúp mô phỏng nhiều quá trình, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội, giúp học sinh có thể có cái nhìn toàn diện vế
các hiện tượng, quá trình đó.
Để nâng cao chất lượng giáo dục thì đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh (phương
pháp dạy học tích cực) là cấp thiết hiện nay. Phương pháp dạy học tích cực
là những phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của
người học. Do đó, phương pháp dạy học tích cực không phải là một phương
pháp cụ thể nào, mà bao gồm nhiều phương pháp, hình thức tổ chức và kĩ
thuật dạy học khác nhau, nhằm tăng cường sự tham gia của người học, tạo
điều kiện phát triển tối đa khả năng học tập, năng lực giải quyết vấn đề của
người học. Từ đó đem lại niềm say mê, hứng thú trong học tập và nghiên cứu
cho người học. Một công cụ hỗ trợ đắc lực cho phương pháp dạy học tích
cực là CNTT.
Hiện nay, ở các trường Trung học phổ thông, phương tiện dạy học còn
rất hạn chế vì vậy mà việc dạy học vật lý thường mang tính chất thông báo,
tái hiện, không có tính trực quan, đặc biệt trong dạy học chương “Sóng cơ.
Sóng âm”. Khi nghiên cứu về hiện tượng sóng âm, chúng ta dễ dàng cảm
nhận được âm thanh, độ cao, độ to của âm. Tuy nhiên, cơ chế truyền âm như
thế nào, mô hình sóng âm trong không khí và cơ chế sóng âm tác động lên tai
gây cảm giác âm khó nghiên cứu do thiết bị thí nghiệm thực không mô tả
được.
Đặc biệt, trong hiệu ứng Đốp-le có sự thay đổi tương đối của nguồn với
máy thu, hiện tượng này không trực quan nên khó khăn cho học sinh khi phải
hình dung và giải thích hiện tượng. Nếu chỉ làm thí nghiệm thực như Hình

18.1 SGK [4], qua thí nghiệm học sinh chỉ có thể dừng lại ở việc nhận biết
2


hiện tượng (có sự thay đổi tần số trong quá trình nguồn âm chuyển động so
với máy thu) mà khó giải thích được tại sao lại có hiện tượng như vậy. Khi
dùng mô hình lý thuyết để giải thích sẽ không trực quan, khó thể hiện được
tại sao khi khoảng cách các đỉnh sóng thay đổi thì tần số nghe được lại thay
đổi.
Ngoài ra, hiệu ứng Đốp-le có nhiều ứng dụng trong thực tế. Trong lớp
học không có điều kiện quan sát, nghiên cứu các ứng dụng đó.
Hiện nay, có rất nhiều phần mềm ứng dụng trong dạy học các bộ môn
nói chung và các phần mềm chuyên biệt sử dụng trong giảng dạy môn vật lí.
Các phần mềm này rất hữu ích cho hỗ trợ giảng dạy theo phương pháp dạy
học tích cực như các phần mềm: MS PowerPoint, Crocodile physics, Phet ,
…. Ta có thể kết hợp sử dụng các phần mền này một cách thích hợp để giúp
cho học sinh những cái nhìn sâu sắc và trực quan về hiệu ứng Đốp-le trong
sóng âm – Một hiệu ứng có rất nhiều ứng dụng trong thực tế đời sống hàng
ngày.
Vì những lý do trên tôi chọn đề tài : Tích cự hóa hoạt động nhận thức
của học sinh khi dạy học bài Hiệu ứng Đốp-le với sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin.
2.Mục tiêu đề tài
Nghiên cứu một số sản phẩm CNTT trong dạy học vật lý cụ thể, nhắm
phát huy tính tích cực của học sinh trong việc chiếm lĩnh kiến thức trong bài
Hiệu ứng Đốp-ple (Vật Lí 12 nâng cao).
3.Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Quá trình chiếm lĩnh kiến thức của học sinh một cách tích cực khi hoc
bài Hiệu ứng Đốp-ple nhờ sự hỗ trợ của CNTT.

- Phạm vi nghiên cứu:

3


Tổ chức quá trình chiếm lĩnh kiến thức của học sinh một cách tích cực,
trong các giai đoạn của quá trình chiếm lĩnh kiến thức bài Hiệu ứng Đốp-ple.
4.Giả thuyết khoa học
Sẽ phát huy được tính tích cực và nâng cao chất lượng nắm vững kiến
thức bài Hiệu ứng Đốp-ple nếu xây dựng và sử dụng các sản phẩm công nghệ
thông tin được soạn thảo theo quan điểm về dạy học tích cực.
5. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích của đề tài tôi đã xác định được những nhiệm vụ
chính sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận hiện đại về việc phát huy tính tích cực hoạt
động nhận thức của học sinh trong dạy học Vật lí.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò thí nghiệm trong tổ chức hoạt
động nhận thức của học sinh khi học bài Hiệu ứng Đốp-ple.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về ứng dụng CNTT trong dạy học bài Hiệu
ứng Đốp-ple.
- Điều tra thực trạng dạy học bài Hiệu ứng Đốp-ple ở các trường
Trung học phổ thông.
- Xây dựng tiến trình dạy học bài Hiệu ứng Đốp-le.
- Dự kiến thực nghiệm sư phạm đánh giá tính khả thi và hiệu quả khi sử
dụng công nghệ thông tin trong bài Hiệu ứng Đốp-le.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu lý luận phương pháp trong dạy học Vật lí.
- Nghiên cứu lý luận về ứng dụng CNTT trong dạy học Vật lí.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Nghiên cứu thực tiễn việc dạy bài Hiệu ứng Đốp-le ( Vật Lí 12 Nâng
cao)
- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia giáo dục và chuyên gia công
nghệ thông tin.

4


- Tổng kết kinh nghiệm: tìm hiểu kinh nghiệm việc xây dựng và sử
dụng kết hợp các sản phẩm CNTT trong dạy học vật lí.
6.3 Phương pháp thực nghiệm sư phạm
6.4 Phương pháp thống kê trong giáo dục
7 Đóng góp của khóa luận
7.1 Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu lý luận làm sáng tỏ vấn đề sau:
Vai trò của việc sử dụng các sản phẩm CNTT hỗ trợ dạy học nhằm phát
huy hoạt động nhận thức của học sinh một cách tích cực.
7.2 Ý nghĩa thực tiễn
Những kết luận sư phạm góp phần làm rõ vai trò của ứng dụng công
nghệ thông tin vào để tích cự hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong
dạy học bài Hiệu ứng Đốp-le. Nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
8. Cấu trúc khòa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học Vật lí
1.1. Các ứng dụng cơ bản của công nghệ thông tin trong dạy học Vật lí
1.2. Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học Vật lí
1.3. Tổ chức quá trình dạy học Vật lí dưới sự hỗ trợ của các phần mền
dạy học theo hướng phát huy tính tích cự hoạt động nhận thức của học sinh
trong dạy học Vật lí

1.4. Thực trạng dạy học bài Hiệu ứng Đốp-le
Chương 2: Nghiên cứu một số sản phẩm công nghệ thông tin hỗ trợ
quá trình dạy học bài Hiệu ứng Đốp-ple
2.1 Mục tiêu dạy học
2.2 Xây dựng lựa chọn một số sản phẩm CNTT hỗ trợ quá trình dạy học
2.3 Xây dựng tiến trình dạy học bài Hiệu ứng Đốp-ple
Chương 3 : Thực nghiệm sư phạm
3.1 Mục đích, đối tượng , phương pháp thực nghiệm sư phạm
3.2 Dự kiến triển khai thực nghiệm sư phạm

5


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ỨNG DỤNG CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ
1.1. Các ứng dụng cơ bản của công nghệ thông tin trong dạy học vật lí
1.1.1 Sử dụng Multimedia
Multimedia là thuật ngữ gắn với công nghệ thông tin, có thể hiểu
multimedia là phương pháp giới thiệu thông tin bằng máy tính, các thông tin
này được thể hiện dưới dạng: text (văn bản), graphics (hình họa), picture (ảnh
tĩnh), animation (ảnh động), image (ảnh chụp), video-film, audio (âm thanh)
[3, trang 93].
Multimedia = digital (text, audio-visual media) + hyperlink
Sức mạnh của multimedia là mang lại sự đa dạng và phong phú của các
dạng thông tin, làm cho hiệu quả thu thập và xử lí thông tin cao hơn nhiều so
với các nguồn tin chỉ là văn bản. Những hoạt hình ba chiều sinh động, âm
thanh nổi chất lượng cao, những hình ảnh đồ họa, ảnh chụp hay các đoạn
phim được tạo nên từ các phương tiện kĩ thuật số... đã tạo nên môi trường học

tập sinh động [7].

6


Việc sử dụng multimedia trong dạy học Vật lí cho phép trình bày các
hình ảnh đẹp, quan sát các hiện tượng vật lí hay các thí nghiệm vật lí không
có điều kiện thực hiện trên lớp học; đảm bảo tính chân thực của các đối tượng
nghiên cứu trước mắt người học. Việc sử dụng các tài liệu điện tử như vậy
giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn các hiện tượng vật lí, tiếp thu nhanh chóng
kiến thức vật lí; làm tăng niềm tin vào tri thức, kích thích hứng thú, tạo động
cơ trong quá trình dạy học.
1.1.2 Công nghệ thông tin hỗ trợ mô phỏng hiện tượng vật lí
Mô phỏng bao gồm sự mô hình hóa các hệ thống tự nhiên hay xã hội và
cho mô hình vận động nhằm hiểu được sâu sắc chức năng của hệ thống qua
việc lựa chọn ra các đặc điểm hay các hành vi đặc thù của các đối tượng và
việc sử dụng các phương pháp gần đúng và các tiên đề đơn giản trong khi mô
phỏng. Mô phỏng nhờ máy vi tính (computersimulation) là sự xây dựng mô
hình một đối tượng thật trên máy vi tính giúp cho việc nghiên cứu hoạt động
của đối tượng đó, với việc thay đổi các biến số của mô hình, cho phép ta dự
đoán về hành vi của đối tượng [6, trang 16]
Mô phỏng các đối tượng nghiên cứu vật lí nhờ máy vi tính theo quan
điểm của lí luận dạy học hiện đại là một phương pháp nhận thức. Nó xuất
phát từ các tiên đề hay các mô hình (các phương trình hay các nguyên lí vật
lí) được viết dưới dạng toán học, thông qua vận dụng các phương pháp tính
toán trên mô hình nhờ máy vi tính để giải quyết các nhiệm vụ sau:
a, Mô phỏng, minh hoạ các hiện tượng, quá trình vật lí một cách trực
quan và chính xác hơn để dễ quan sát và nghiên cứu.
Không phải các quá trình nào xảy ra trong tự nhiên cũng dễ quan sát.
Đối với chuyển động của chiếc thuyền, đoàn tàu thì việc quan sát để xác định

vị trí của chúng ứng với từng thời điểm hay quãng đường đi ứng với từng
khoảng thời gian trôi qua là dễ dàng. Nhưng cũng có những quá trình trong tự

7


nhiên không thể quan sát bằng mắt thường để xác định được các đại lượng
cần thiết được vì quá trình xảy ra quá nhanh, hay quá chậm như quá trình
sóng âm, quá trình phân rã, phóng xạ,.... Điều đó gây khó khăn trong việc
nghiên cứu tìm ra qui luật của chúng.
Với các chức năng ưu việt của nó, máy vi tính có khả năng mô phỏng
trực quan và chính xác bằng các mô hình kí hiệu các hiện tượng hay quá trình
vật lí trong tự nhiên. Tuy nhiên việc mô phỏng chính xác đến đâu còn phụ
thuộc vào 2 yếu tố:
- Mức độ nhận thức của người nghiên cứu về qui luật phản ánh hiện
tượng, quá trình vật lí
- Khả năng của người lập trình, sử dụng ngôn ngữ máy tính để phản
ánh lại các qui luật đó chính xác đến chừng nào.
Điều quan trọng là các nhà lí luận dạy học và giáo viên phải có được ý
tưởng rõ rệt của việc sử dụng máy vi tính để giải quyết vấn đề gì, mà thiếu nó
thì không thể có hiệu quả hay sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong dạy học.
Ví dụ như, khi nghiên cứu chuyển động nhiệt của các phân tử chất khí,
bằng mắt thường ta không nhìn thấy các phân tử khí chuyển động như thế
nào. Nhờ phần mềm mô phỏng trực quan ta chỉ cần load file quan sát hiện
tượng và đồ thị. Học sinh thấy được chuyển động nhiệt hỗn loạn, đồ thị mô tả
vị trí của một phân tử khí trong khối khí tại một thời điểm là một chấm đỏ
như hình 1.1

8



Hình 1.1: Mô phỏng chuyển động của các phân tử khí [15]
b, Mô phỏng các hiện tượng, quá trình vật lí để qua đó tìm ra các kiến
thức mới (mối quan hệ, quy luật mới...) bằng con đường nhận thức lí thuyết
Ngoài khả năng mô phỏng một cách trực quan và chính xác các hiện
tượng, quá trình vật lí, máy vi tính còn có thể tạo điều kiện cho người nghiên
cứu đi sâu vào và tìm ra các mối quan hệ có tính bản chất của các hiện tượng,
quá trình vật lí. Sở dĩ thực hiện được điều đó là do các chức năng ưu việt
trong việc tính toán và xử lí số liệu của máy vi tính. Máy vi tính có khả năng
rút ngắn thời gian tính toán, đặc biệt là khă năng có thể tìm ra lời giải các bài
toán mà trong điều kiện ở trường phổ thông với công cụ toán học còn thiếu và
không được bổ sung thì không có khả năng giải được.
Thêm vào đó, máy vi tính có khả năng hiển thị các kết quả tính toán, xử
lí số liệu dưới nhiều dạng trực quan khác nhau tạo điều kiện cho người nghiên
cứu dễ phát hiện ra các mối quan hệ chứa đựng trong đó. Kết quả mà máy
tính đưa ra không phải được phát biểu “bằng lời” (dưới dạng văn bản), mà
biểu thị dưới dạng số, bảng biểu, đồ thị hay các hình ảnh động. Từ các dạng
đó cho ta biết tồn tại các mối quan hệ mới có tính qui luật trong hiện tượng,
quá trình vật lí đang nghiên cứu. Như vậy, việc tìm ra các mối quan hệ mới

9


này là trên phương diện tính toán lý thuyết. Kết quả này có được chấp nhận
hay không là phải được kiểm tra bằng thực nghiệm.
Để tìm ra các kiến thức mới bằng con đường lý thuyết nhờ mô phỏng
bằng máy vi tính, cần tiến hành theo các bước sau:
- Như mọi con đường nhận thức, quá trình nhận thức tìm ra kiến thức
mới bằng con đường lý thuyết ở đây bắt đầu từ "vấn đề" ( Hiện tượng, quá
trình vật lí có vấn đề mà khi sử dụng những kiến thức cũ không thể giải quyết

được). Để giải quyết vấn đề, cần phải xây dựng những tiên đề, mô hình vật lí,
chúng được viết dưới dạng các biểu thức toán học.
- Sau khi đã có tiên đề, mô hình, nhờ máy vi tính để tiến hành các suy
luận logic, tính toán lý thuyết trên mô hình đó và hiển thị các kết quả tính toán
dưới dạng trực quan nhất để tạo điều kiện rút ra các kết luận về mối quan hệ
mới có tính qui luật của hiện tượng hay quá trình nghiên cứu.
- Kiểm tra tính đúng đắn của kết luận bằng thực nghiệm.
- Sử dụng các kết luận đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm để giải
thích và tiên đoán các hiện tượng liên quan.
Ví dụ: ta có thể sử dụng máy vi tính trong việc mô phỏng dao động của
con lắc lò xo để qua đó đưa ra dự đoán về các kiến thức mới bằng con đường
nhận thức lý thuyết. Từ việc quan sát các hình ảnh về quá trình dao động theo
phương thẳng đứng của con lắc trên trục tọa độ Oy, ứng với mỗi giá trị cho
trước

k , m, v0 , x0

và đồ thị x,v,a theo thời gian của con lắc; cho phép ta suy ra

các mối quan hệ có tính quy luật trong dao động của con lắc.

10


Hình 1.2 Mô phỏng dao động của con lắc là xo và các đồ thị tương ứng
1.1.3 Công nghệ thông tin hỗ trợ các thí nghiệm vật lí
a, Công nghệ thông tin hỗ trợ cho việc phân tích băng hình ghi các quá
trình vật lí thực
Trong Vật lí, có những quá trình do xảy ra quá nhanh hoặc quá chậm
hoặc xảy ra trong không gian rộng khó quan sát, khó đo đạc bằng các phương

tiện, thiết bị đo thông thường trong phòng thí nghiệm việc nghiên cứu nó hết
sức khó khăn. Để giải quyết các khó khăn đó, ngoài phương pháp mô phỏng
trên máy tính người ta còn sử dụng một số phương pháp khác như phương
pháp đánh tia lửa điện, phương pháp dùng thì kế hiện số và các cửa chắn
quang điện, phương pháp chụp ảnh hoạt nghiệm…. Tuy nhiên, với các thiết bị
thực hiện theo phương pháp này thì lĩnh vực nghiên cứu và không gian nghiên
cứu bị giới hạn, số liệu đo được không hoàn toàn chính xác, mất rất nhiều thời

11


gian và công sức. Để khắc phục các hạn chế kể trên, một trong các phương
pháp mới được đưa ra là phương pháp phân tích các băng ghi hình.
Trong phương pháp phân tích các băng ghi, trước hết, các quá trình vật
lí thật được ghi vào băng hình nhờ một máy Videocamera có gắn thêm một
thước đo toạ độ và một đồng hồ đo thời gian. Sau đó, hình ảnh trong băng ghi
hình được quay lại trên Tivi hay chiếu lại trên màn ảnh to. Nhờ chức năng có
thể quay hình chuyển động chậm lại và làm hình đứng im lại của máy (chức
năng Stand by) cho phép ta quan sát cẩn thận quá tŕnh vật lí thực và xác định
chính xác từng cặp giá trị của toạ độ và thời điểm tương ứng của vật. Hơn
nữa, nhờ chức năng quay lại băng ghi hình của máy, ta có thể quan sát quá
trình vật lí đang nghiên cứu nhiều lần với các mục đích khác nhau tạo điều
kiện thuận lợi cho việc quan sát các đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên phương
pháp này thường mất nhiều thời gian trong khi thu thập, sử lí số liệu và việc
trình bày kết quả thí nghiệm một cách chính xác.
Để rút ngắng thời gian thu thập và sử lí số liệu cũng như trình bày kết
quả một cách chính xác, người ta đưa ra phương pháng phân tích băng đĩa
hình nhờ máy tính và các phần mềm tương ứng. Nguyên tắc của phương pháp
này là như sau: vì máy vi tính chỉ làm việc, tính toán với các cơ sở dữ liệu số,
vì thế trước hết các tín hiệu của băng ghi hình phải được chuyển hóa thành

dạng số nhờ một Card số (digital board) được cài đặt trong máy vi tính. Để
máy tính có thể sử dụng để phân tích, xử lí tính toán cần cài đặt một phần
mềm trong máy để giúp việc đọc các tín hiệu đã được số hóa, hiển thị lại quá
trình Vật lí trên màn hình, thu thập sử lí các số liệu (lập bảng, vẽ đồ thị…).
Các giai đoạn của phương pháp phân tích băng ghi hình nhờ máy vi
tính trong dạy học Vật lí như sau:
- Bước 1: Quan sát quá trình Vật lí cần nghiên cứu. Với chức năng của
phần mềm, ta có thể cho hình chuyển động như trong thực tế, có thể cho nó

12


chuyển động chậm lại, chuyển động từng giai đoạn hay đứng yên tuỳ theo
mục đích nghiên cứu.
- Bước 2: Xác định vị trí toạ độ và thời điểm tương ứng của vật chuyển
động thông qua lập bảng số liệu về quan hệ giữa toạ độ và thời gian trong
chuyển động và vẽ đồ thị y, x theo t.
- Bước 3: Phân tích, xử lí số liệu và trình bày kết quả của việc phân
tích, xử lí.
- Bước 4: Đưa ra dự đoán (giả thuyết) về qui luật chuyển động và kiểm
tra tính đúng đắn của dự đoán, điều chỉnh dự đoán để tìm ra qui luật.

Hình 1.3 Phần mềm phân tích băng ghi hình-Galile
Qua trình bày ở trên cho thấy, phương pháp phân tích băng ghi hình
nhờ máy vi tính có các ưu điểm cơ bản sau:
- Cho phép nghiên cứu bằng thực nghiệm các quá trình vật lí thực tạo ra
trong phòng thí nghiệm hay xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.
- Dễ dàng quan sát hiện tượng.
- Thu thập số liệu dễ dàng, nhanh chóng và tương đối chính xác.
- Việc phân tích, xử lí các số liệu thu thập được cũng như việc trình bày

kết quả là hoàn toàn dễ dàng, chính xác, nhanh chóng và có tính thẩm mỹ cao.
- Phạm vi nghiên cứu rộng hơn mà thời gian nghiên cứu lại được rút
ngắn đáng kể so với các phương pháp khác.
- Trang thiết bị không tốn kém lắm.

13


Mặc dù có khá nhiều ưu điểm cơ bản song ở phương pháp này có một
số khó khăn chủ yếu về kĩ thuật như: các băng ghi hình về các hiện tượng,
quá trình vật lí cần phải được số hoá, tốn dung lượng lưu trữ, giáo viên và học
sinh cần làm quen với việc sử dụng các phần mềm này.
b, Máy vi tính hỗ trợ các thí nghiệm Vật lí được ghép nối với máy vi
tính
Ứng dụng đặc biệt nhất của máy tính trong việc giảng dạy Vật lí là hỗ
trợ các thí nghiệm Vật lí được ghép nối với máy vi tính.

Hình 1.4
Bộ thí nghiệm đệm không khí ghép nối với máy tính
Để hỗ trợ được các thí nghiệm vật lí máy vi tính cần được ghép nối với
các thiết bị thí nghiệm. Dưới đây là sơ đồ hệ thống thiết bị thí nghiệm ghép
nối với máy vi tính về mặt nguyên tắc [17].
Sơ đồ 1.1: Hệ thống thiết bị thí nghiệm ghép nối với máy vi tính về mặt
nguyên tắc
Bộ cảm biến (sensor)

Thiết bị ghép tương thích (interface)

14



Máy vi tính có phần mền sử lí số liệu

Màn hình hiển thị (Monitor)

Đối tượng đo

Bộ phận cảm biến thu thập số liệu đo về đối tượng nghiên cứu. Với
nguyên tắc làm việc của bộ cảm biến như sau: trong bộ cảm biến, các tương
tác của đối tượng đo lên bộ cảm biến dưới các dạng khác nhau như cơ, nhiệt,
điện, quang, từ…v…v… được chuyển thành tín hiệu điện. Mỗi một bộ cảm
biến nói chung chỉ có một chức năng hoặc chuyển tín hiệu cơ sang tín hiệu
điện hoặc chuyển tín hiệu quang sang tín hiệu điện,…. Sau khi tín hiệu điện
được hình thành tại bộ cảm biến, nó sẽ được chuyển qua dây dẫn đến bộ phận
tiếp theo trong hệ thống có tên là “thiết bị ghép tương thích”. Tại thiết bị ghép
tương thích này, các tín hiệu điện sẽ được số hoá một cách hợp lí để đưa vào
máy vi tính . Các tín hiệu đã được số hoá này được coi là cơ sở dữ liệu và có
thể lưu trữ lâu dài trong máy vi tính.
Để thu thập số liệu đo, ứng với mỗi phép đo các đại lượng khác nhau,
ta thường phải dùng các bộ cảm biến khác nhau. Để số hoá các tín hiệu điện
từ bộ cảm biến chuyển tới, với một bộ ghép tương thích (Interface) ta có thể
số hoá các tín hiệu điện của nhiều loại bộ cảm biến khác nhau như: chuyển

15


động, gia tốc, lực, áp suất, nhiệt độ, âm, ánh sáng..v..v.. Các bộ ghép tương
thích này có thể được lắp đặt vào bên trong của máy vi tính, ví dụ như
Interface IEEE-488 của hăng Phywe Cộng hòa liên bang Đức. Song hiện nay,
nhiều bộ ghép tương thích được chế tạo có thể lưu trữ được dữ liệu mà không

cần máy vi tính và được lắp ngoài máy vi tính ví dụ như Science Workshop
500 Interface, Science Workshop 700 Interface hay Science Workshop 750
Interface của hãng Pasco (Mĩ).
Sau khi các tín hiệu đã được số hoá, có thể sử dụng máy vi tính (đã cài
đặt phần mềm thích hợp) để tính toán, xử lí các tín hiệu số này theo mục đích
của người nghiên cứu. Ví dụ như ta có thể lập bảng số liệu về mối quan hệ
giữa các đại lượng mà bộ cảm biến đã thu thập được hay vẽ đồ thị về mối
quan hệ này, …
Như vậy tiến trình làm thí nghiệm Vật lí được ghép nối với máy vi tính
cũng tương tự như tiến trình thí nghiệm Vật lí thông thường gồm các bước
như sau:
- Bước 1: Tiến hành thí nghiệm để có thể quan sát được hiện tượng,
quá trình vật lí cần nghiên cứu.
- Bước 2: Thu thập số liệu đo. Khâu thu thập số liệu đo là khâu hết sức
quan trọng trong thực nghiệm. Ở các thí nghiệm không ghép nối máy vi tính,
công việc này thường được làm thủ công và thường tốn nhiều thời gian, công
sức, ở nhiều thí nghiệm công việc này là khó khăn đối với giáo viên và học
sinh. Song ở các thí nghiệm được hỗ trợ của máy vi tính các số liệu đã được
tự động thu thập nhờ bộ cảm biến rồi truyền đến bộ ghép tương thích đưa vào
máy vi tính. Do được tự động hoá hoàn toàn nên việc thu thập số liệu đo này
ở thí nghiệm ghép nối với máy vi tính xảy ra cực kì nhanh, trong vài chục
giây, ta có thể có ngay các số liệu đó trên màn hình máy tính.
- B ước 3: Xử lí số liệu đo (thông qua tính toán, đối chiếu, so sánh...)
và trình bày kết quả xử lí. Trên các số liệu đã thu thập được, cũng nhờ máy vi

16


tính và phần mềm, ta có thể phân tích, xử lí số liệu (theo các chương trình do
phần mềm định sẵn). Ý định phân tích, xử lí số liệu như thế nào là hoàn toàn

do người nghiên cứu (giáo viên hay học sinh) đặt ra. Còn các phép tính toán
cụ thể, lập các biểu bảng, vẽ các đồ thị về các mối quan hệ giữa các đại lượng
đang nghiên cứu đều do máy vi tính thực hiện và được hiển thị ngay trên màn
hình máy tính chỉ sau vài chục giây tới vài phút.
- Bước 4: Từ các kết quả xử lí đó, tìm ra (trong thí nghiệm khảo sát)
hay chứng tỏ (trong thí nghiệm minh hoạ) sự tồn tại các mối quan hệ có tính
qui luật trong hiện tượng, quá trình đang nghiên cứu.
Ví dụ: Khi ta làm thí nghiệm về tính dẫn nhiệt của vật liệu, trong thí
nghiệm này ta cần tìm được mối quan hệ giữa sự tăng nhiệt độ của vật theo
thời gian phụ thuộc vào vật liệu như thế nào. Khi dùng thiết bị thí nghiệm
truyền thống ta tiến hành như sau: treo 3 thanh kim loại được làm từ các chất
liệu khác nhau trên cùng 1 giá đỡ sao cho chúng nằm ngang. Đồng thời nung
nóng 1 đầu của 3 thanh kim loại bằng cùng 1 ngọn lửa dèn cồn, sau mỗi
khoảng thời gian giống nhau dùng nhiệt kế để đo nhiệt độ của các thanh kim
loại, sau đó ghi và sử lí số liệu, kết quả có thể trình bày bằng đồ thị biểu diễn
sự biến đổi nhiệt độ theo thời gian. Còn khi ta tiến hành thí nghiệm với các
dụng cụ ghép nối với máy tính thì công việc thu thập số liệu, sử lí số liệu sẽ
tự động hoàn toàn , chính xác và rất nhanh chóng. Để thu thập các thông số về
chuyển động của đối tượng đo, ở đây có một bộ phận đảm nhiệm, gọi là bộ
cảm biến nhiệt; bộ phận này có nhiệm vụ ghi và lưu trữu các tín hiệu về nhiệt
độ của vật và thời điểm tương ứng với nhiệt độ đó (dưới dạng tín hiệu điện).
Các tín hiệu điện này được đưa đến thiết bị ghép nối tương thích. Tại các thiết
bị ghép nối tương thích, các tín hiệu điện này được số hóa để đưa vào máy vi
tính. Tại máy tính ta ra lệnh cho máy lưu trữu các số liệu này vào bộ nhớ máy.
Sau đó cho máy tính sử lí số liệu như ý muốn ví dụ như lập bảng nhiệt độ của
từng thanh kim loại theo thời gian hay vẽ đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của
17


nhiệt độ vào thời gian của đầu thanh không được nung. Mỗi một công việc

này chỉ mất độ vài giây, cho ngay kết quả trên màn hình. Việc hiển thị các kết
quả trên màn hình cũng rất rõ ràng, khoa học và tiện lợi với các màu sắc làm
nổi bật những dấu hiệu cần quan tâm, như mối quan hệ giữa thời gian và nhiệt
độ của mỗi vật liệu trên cùng một biểu đồ.
Từ việc so sánh trên, cho ta thấy thí nghiệm được hỗ trợ bằng máy vi
tính có một số ưu điểm sau:
- Có tính trực quan cao hơn trong việc tŕnh bày số liệu đo, hiển thị kết
quả .
- Tiết kiệm rất nhiều thời gian do thu thập cũng như xử lí số liệu hoàn
toàn tự động.
- Cho phép thu thập nhiều bộ dữ liệu thực nghiệm trong thời gian rất
ngắn.
- Độ chính xác cao của các số liệu đo cũng như kết quả tính toán cuối
cùng do sử dụng các thiết bị hiện đại và phương pháp tính hiện đại.
- Tiết kiệm thời gian lắp đặt thí nghiệm (vì nói chung các thiết bị vi
tính và các thí nghiệm ghép nối với chúng có ít chi tiết hơn).
- Để có thể sử dụng được các thí nghiệm có ghép nối với thiết bị vi tính
thì không đòi hỏi ở người sử dụng biết kiến thức đặc biệt về kĩ thuật vi tính,
và không cần biết về ngôn ngữ lập trình.
Mặc dù thí nghiệm được ghép nối với máy vi tính có nhiều ưu điểm,
song hiện nay ở nước ta chủ yếu mới sử dụng trong các trường đại học, còn
chưa được sử dụng ở đa số các trường phổ thông. Vì những lí do sau:
- Người sử dụng cần có thời gian làm quen máy vi tính.
- Các thiết bị như các bộ cảm biến, các thiết bị ghép tương thích và
thiết bị thí nghiệm tương ứng tương đối đắt tiền.
- Đặc biệt ở Việt nam còn quá ít các nghiên cứu về lý luận cũng như
thực tiễn về vấn đề này để có những đánh giá đúng mức độ quan trọng của nó.
Điều kiện hiện nay, một trong các vấn đề đặt ra đối với các nhà nghiên
cứu cũng như giáo viên là từng bước nghiên cứu về việc sử dụng phối hợp hai
loại thí nghiệm để đạt được hiệu quả dạy học cao nhất.


18


Vì các tính năng ưu việt của việc sử dụng thí nghiệm ghép nối với các
thiết bị vi tính, thực tế trên thế giới hiện nay, các thiết bị thí nghiệm nghiên
cứu (không chỉ riêng trong Vật lí mà còn trong tất cả các ngành khoa học) đều
ghép nối với thiết bị vi tính, cho nên trong nhà trường phổ thông cần từng
bước tạo điều kiện cho học sinh- những người chủ tương lai của đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá - làm quen dần với các thí
nghiệm có ghép nối với các thiết bị vi tính bên cạnh các thí nghiệm với các
thiết bị đo và cách xử lí số liệu truyền thống.
1.2 . Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học Vật lí
Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh là một trong các nhiệm
vụ chủ yếu của người thầy trong quá trình dạy học, nó luôn là trung tâm chú ý
của lý luận và thực tiễn dạy học. Vậy tính tích cực là gì?
Tính tích cực là biểu thị sự nỗ lực của chủ thể khi tương tác với đối
tượng. Tính tích cực cũng là khái niệm biểu thị cường độ vận động của chủ
thể khi thực hiện một nhiệm vụ giải quyết một vấn đề nào đấy [12,Trang 463].
Sự nỗ lực ấy diễn ra trên nhiều mặt như: sinh lí, tâm lí, xã hội, nó chịu
ảnh hưởng của nhiều nhân tố như nhu cầu, động cơ, hứng thú thú và có mối
quan hệ mật thiết với tính tự lực, với xúc cảm và ý chí…
Tính tích cực nhận thức là tính tích cực xét trong điều kiện, phạm vi
của quá trình dạy học, chủ yếu được áp dụng trong quá trình nhận thức của
học sinh.
Theo lý thuyết, tính tích cực nhận thức bao gồm: sự lựa chọn đối tượng
nhận thức; đề ra cho mình mục đích, nhiệm vụ cần giải quyết.
Có thể phân chia sự phát triển tính tích cực nhận thức là ba mức độ:
- Tính tích cực tái hiện: chủ yếu dựa vào trí nhớ để tái hiện những điều
đã nhận thức được.

- Tính tích cực sử dụng: qua việc vận dụng các công cụ, khái niệm,
định lí, định luật,… để giải quyết một nhiệm vụ học tập nào đó các em phải
phân tích, suy nghĩ, tìm tòi để tự lực đưa ra những phương án khác nhau, nhờ
đấy mà nhu cầu, hứng thú nhận thức và óc sáng tạo phát triển.

19


- Tính tích cực sáng tạo: đây là mức độ phát triển cao nhất của tính tích
cực. Nó đặc trưng cho những suy nghĩ riêng của mình, vượt ra khỏi khuôn
mẫu, máy móc nhằm tạo ra cái mới, cái bất ngờ, có giá trị. Tạo điều kiện cho
sự phát triển các khả năng và tiềm năng sáng tạo của cá nhân.
Tích cực hóa là một tập hợp các hoạt động của thầy giáo và các nhà
giáo dục nói chung, nhằm biến người học từ thụ động thành chủ động, từ đối
tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả
học tập.
Khi nghiên cứu về vấn đề tích cực hóa hoạt động nhận thức của học
sinh, hệ thống đề tài về vấn đề này hết sức phong phú và đa dạng bao gồm
những vấn đề lí thuyết và thực tiễn, những vấn đề chung và vấn đề riêng. Ta
đi nghiên cứu những vấn đề quan trọng sau: những biểu hiện của tính tích cực
nhận thức, đặc điểm của tính tích cực nhận thức của học sinh, những nhân tố
ảnh hưởng tới tính tích cực nhận thức, hứng thú và vấn đề tích cực hóa, các
biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận thứ.
1.2.1 Những biểu hiện của tính tích cực nhận thức
a. Những dấu hiệu biểu thị tính tích cực
Thứ nhất, những dấu hiệu bề ngoài qua thái độ, hành vi và hứng thú
Hứng thú nhận thức là thái độ, là sự lựa chọn của cá nhân về đối tượng
nhận thức, trong đó cá nhân không chỉ dừng lại ở những đặc điểm bên ngoài
của sự vật, hiện tượng mà hướng vào các thuộc tính bên trong của sự vật hiện
tượng muốn nhận thức. Hứng thú nhận thức là động cơ quan trọng của quá

trình nhận thức mà thường biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng tính tò mò, lòng
khao khát cái mới,… Việc thỏa mãn hứng thú còn tạo ra hứng thú mới, nâng
cao mức độ hoạt động nhận thức.
Nhu cầu nhận thức được hiểu là lòng ham thích, sự mong muốn tìm
hiểu và nhận thức thế giới xung quanh, được tạo ra bởi những đòi hỏi tất yếu
của cá nhân để tồn tại và phát triển, là động lực tích cực của cá nhân đối với

20


việc cải tạo hoàn cảnh xung quanh. Nhu cầu nhận thức vừa là tiền đề vừa là
kết quả của quá trình nhận thức.
Sự kích thích nhu cầu, hứng thú nhận thức trong quá trình học tập chủ
yếu dựa vào nội dung dạy học. Nếu nội dung dạy học chứa đựng các yếu tố
mới, hấp dẫn thì sẽ càng kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của các em và
thúc đẩy hoạt động nhận thức phát triển.
Dấu hiệu thể hiện nhu cầu hứng thú nhận thức của học sinh:
- Thích thú, chủ động tiếp xúc với đối tượng. Các em hay đặt ra những
câu hỏi và những thắc mắc với giáo viên, đối với người lớn và yêu cầu được
giải thích. Các thầy giáo cần trả lời kịp thời những câu hỏi do các em đưa ra
và kích thích các em đặt câu hỏi.
- Chú ý quan sát, chăm chú lắng nghe và theo dõi những gì thầy cô làm.
- Giơ tay phát biểu, nhiệt tình hưởng ứng, bổ sung ý kiến vào câu trả lời
của bạn và thích tham gia vào các hoạt động học tập.
Thứ hai, những dấu hiệu bên trong như sự căng thẳng trí tuệ, sự nỗ lực
hoạt động, sự phát triển của tư duy, ý chí và xúc cảm. Ta chỉ có thể phát hiện
ra những dấu hiệu bên trong này thông qua việc tích lũy một lượng thông tin
đủ lớn các dấu hiệu bên ngoài.
Thứ ba, kết quả học tập. Chỉ tích cự học tập một cách thường xuyên,
liên tục, tự giác mới có kết quả học tập tốt.

b, Mức độ tích cực của học sinh
Tính tích cực nhận thức của học sinh trong quá trình học tập có nhiều
mức độ biểu hiện khác nhau. Thí dụ:
- Mức độ hoạt động của học sinh trong giờ học: Thụ động hoàn toàn
(đơn thuần ghi chép), nhận biết không chủ định (giáo viên nói gì nghe đấy,
không phân biệt đúng sai), nhận biết có chủ định (tiếp thu có chủ định, ghi
chép theo ý riêng của mình), tích cực suy nghĩ, tìm tòi, tham gia giải quyết
vấn đề.
- Sự tập chung chú ý của học sinh trong tiến trình bài học: hoàn toàn
không chú ý (nói chuyện riêng, làm việc riêng, không tập chung); chú ý giả

21


tạo ( ngồi nghiêm chỉ nhưng đầu óc trống rỗng); chăm chú theo dõi, quan sát,
tập trung chú ý cao độ.
- Hứng thú nhận thức của học sinh: không thích, bình thường (không
thể hiện thích hay không), thích, rất thích.
- Kết quả học tập: có thể đo kết quả học tập bằng 2 phương án:
+ Đánh giá kết quả nhận thức (điểm số ).
+ Đánh giá mức độ nắm vững kiến thức kĩ năng: ghi nhớ (nhớ lại, tái
hiện, nhận biết), hiểu bài ( hiểu vấn đề, có thể trình bày lại vấn đề bằng ngôn
ngữ của mình), có khả năng vận dụng, sáng tạo ( có cách giải quyết độc đáo,
nghĩ ra các cách giải quyết độc đáo).
Để nhận biết một cách đơn giản mức độ tích cực của học sinh, ta có thể
thông qua các vấn đề sau:
- Có tự giác học tập không?
- Thực hiện nhiệm vụ của giáo viên theo yêu cầu tối thiểu hay tối đa?
- Tích cực nhất thời hay thường xuyên?
- Tích cực càng cao hay càng giảm?

- Có kiên trì vượt khó không?
- Có sáng tạo trong học tập không?
- Có tiến bộ trong học tập không?
- Kết quả kiểm tra, học tập có tốt không?
1.2.2 Đặc điểm tính tích cực nhận thức của học sinh
Tích cực nhận thức của học sinh có các đặc điểm sau:
- Tính tích cực của học sinh có hai mặt: tự phát ( yếu tố tiềm ẩn, bẩm
sinh) và tự giác ( tích cực có mục đích, đối tượng rõ rệt).
- Tính tích cực nhận thức phát sinh không chỉ từ nhu cầu nhận thức mà
cả từ những nhu cầu bậc thấp như nhu cầu sinh học, nhu cầu đạo đức, nhu cầu
thẩm mỹ, giao lưu văn hóa…
- Tính tích cực nhận thức và tích cực học tập có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau nhưng không phải là một. Tích cực học tập chỉ là những biểu hiện
tích cực bên ngoài mà không phải là tích cực trong tư duy.
- Ngày nay dạy học tích cực có thể xem là một trong những đặc điểm
quan trọng nhất của nhà trường hiện đại. Dạy học tích cực có nhiều khác biệt
với dạy học truyền thống như sau:
Bảng 1.1: So sánh dạy học tích cực và dạy học truyền thống

22


Dạy học truyền thống
Dạy học tích cực
Cung cấp sự kiện nhớ tốt, đọc Cung cấp kiến thức cơ bản, chọn lọc
thuộc
Giáo viên là nguồn kiến thức duy Ngoài kiến thức được học ở lớp, còn
nhất
có nhiều nguồn kiến thức khác: bạn
bè, phương tiện thông tin đại chúng

Học sinh làm việc một mình
Tự học, kết hợp với tổ nhóm và sự
giúp đỡ của thầy giáo
Dạy thành từng bài riêng biệt
Hệ thống bài tập
Coi trọng độ sâu của kiến thức,
Coi trọng trí nhớ
không chỉ nhớ mà suy nghĩ, đặt ra
nhiều vấn đề mới
Làm mô hình, sơ đồ, bộc lộ cấu trúc
Ghi chép tóm tắt
của bài học giúp học sinh dễ nhớ và
vận dụng
Chỉ dừng lại ở câu hỏi, bài tập
Thực hành, nêu ý kiến riêng
Không gắn lý thuyết với thực Lý thuyết kết hợp với thực hành, vận
hành
dụng kiến thức vào cuộc sống
Dùng thời gian học để nắm kiến Cổ vũ học sinh tìm tòi, bổ sung kiến
thức do thầy truyền thụ
thức đã có
Nguồn kiến thức hạn hẹp
Nguồn kiến thức rộng rãi
- Tính tích cực của các đối tượng, lứa tuổi, trình độ… khác nhau là rất
khác nhau. Vì thế để đề suất những biện pháp giáo dục thích hợp giáo viên
cần chú ý tới đặc điểm này.
1.2.3 Nhân tố ảnh hưởng đến tính tích cực nhận thức
Tính tích cực nhận thức của học sinh tuy nảy sinh trong quá trình học
tập nhưng nó lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố và là hậu quả của nhiều
nguyên nhân có những nguyên nhân phát sinh trong lúc học, có những nguyên

nhân xuất phát từ nhân cách của học sinh. Giáo viên cần phải biết để từ đó
xây dựng kế hoạch hoạt động một cách khoa học và có hiệu quả.
Nhìn chung tính tích cực nhận thức phụ thuộc vào những nhân tố sau:
Bản thân học sinh: Đặc điểm hoạt động trí tuệ, năng lực (hệ thống tri
thức, kĩ năng, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, sự trải nghiệm cuộc sống),
tình trạng sức khỏe, tình trạng tâm sinh lí ( chú ý, hứng thú, nhu cầu,cảm xúc,

23


ý trí...), phẩm chất (đạo đức, thẩm mỹ, tinh thần trách nhiệm, yêu khoa học,
…)
Nhà trường: Chất lượng quá trình dạy học, quan hệ thầy trò, không khí
đạo đức trong nhà trường.
Gia đình: gia đình có ảnh hưởng cực kì quan trọng không những tới
tính tích cực nhận thức mà còn tới nhân cách và toàn bộ cuộc đời của các em.
Qua bố mẹ các em được truyền lại những tố chất cần thiết, là tiền đề cho sự
phát triển trí tuệ và gia đình có thể bù đắp, cải tạo cho các tố chất di truyền đó
phát triển. Truyền thống gia đình cũng ảnh hưởng rất lớn tới các em thông qua
tấm gương của bố mẹ và không khí đạo đức chung của gia đình.
Việc tham gia trực tiếp giáo dục con cái, sự quan tâm theo dõi, động
viên nhắc nhở thường xuyên của bố mẹ có ý nghĩa vô cùng quan trọng và ảnh
hưởng hết sức to lớn đối với tinh thần học tập, rèn luyện đạo đức và kết quả
học tập của các em.
Xã hội: Yêu cầu xã hội quyết định mục tiêu, chương trình, mục tiêu dạy
học trong nhà trường. Các tổ chức xã hội trong nhà trường như các nhóm bạn,
đoàn thanh niên, tập thể lớp,… đã luôn động viên, giúp đỡ nhau trong quá
trình học tập, cố gắng vươn lên trong các kì thi vì danh dự nhà trường, lớp
học và bản thân. Đó là những động lực xã hội rất quan trọng của tính tích cực
học tập.

Như vậy, có thể nói tính tích cực nhận thức của học sinh chịu ảnh
hưởng của rất nhiều nhân tố. Nhưng nhân tố nhà trường đặc biệt người thầy
khi đứng lớp giữ vai trò quan trọng nhất trong việc tích cực hóa hoạt động
nhận thức của học sinh. Nhà trường cần phối hợp các nhân tố trên để phát huy
tinh thần tích cực học tập của các em nhằm nâng cao chất lượng học tập.
Trong các nhân tố trên có những nhân tố ảnh hưởng hàng ngày cũng có
những nhân tố chỉ ảnh hưởng trong quá trình lâu dài, dưới ảnh hưởng của rất
nhiều tác động. Vì vậy, việc tích cực hóa hoạt động nhân thức của học sinh

24


đòi hỏi một kế hoạch lâu dài và toàn diện khi phối hợp hoạt động của gia
đình, nhà trường và xã hội.
1.2.4 Các biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức
Phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh không phải là vấn đề
mới. Từ thời cổ đại các nhà sư phạm tiền bối như Khổng Tử, Aristot… đã nói
đến tầm quan trọng to lớn của việc phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh và đã nêu ra được nhiều cách phát huy tính tích cự của học sinh. Từ đó
đến nay có rất nhiều các nhà sư phạm đã nghiên cứu về vấn đề này và đã có
nhiều công trình nghiên cứu thành công về vấn đề này. Ở Việt Nam các nhà lý
luận dạy học cũng đã viết nhiều về tính tích cực nhận thức.
Gần đây, tư tưởng dạy học tích cực sáng tạo đã là một chủ trương quan
trọng của Đảng, nhà nước và của ngành giáo dục nước ta. Để nâng cao tính
tích cực nhận thức của học sinh có rất nhiều biện pháp, ta có thể chia thành
các nhóm biện pháp như sau:
a, Nhóm biện pháp cho giáo viên đứng lớp
Nhóm biện pháp này rất quan trọng vì nó tác động trực tiếp đến học
sinh và về thời gian thì dạy học chiếm hơn 80% hoạt động của nhà trường. Nó
rất phong phú, đa dạng bao gồm một số vấn đề sau:

- Giác ngộ ý thức học tập, kích thích tinh thần trách nhiệm và hứng thú
học tập của các em bằng cách nói lên ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn, tầm quan
trọng của vấn đề nghiên cứu.
- Kích thích hứng thú qua nội dung: Tùy thế mạnh của từng môn mà
cách kích thích hứng thú sẽ khác nhau. Nhưng nhìn chung, muốn kích thích
được hứng thú của học sinh thì nội dung phải mới, nhưng cái mới ở đây phải
liên hệ và phát triển cái cũ, phát triển những kiến thức và kinh nghiệm mà các
em đã có. Kiến thức đó phải có tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt và suy
nghĩ hàng ngày, phải thỏa mãn nhu cầu nhận thức và thực tiễn của các em.
- Kích thích hứng thú qua phương pháp dạy học: điều này phụ thuộc
vào sự nhạy cảm và tài năng sáng tạo của người thầy.

25


×