Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Một số giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo ở các tỉnh miền núi phía bắc để đáp ừng nguồn nhân lực đã qua đào tạo phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hịên đại hoá ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.94 KB, 74 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong đề tài là trung thực. Những kết luận khoa học
của đề tài chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.

Chủ nhiệm đề tài

Vi Thái Lang

1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương1. NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ YÊU CẦU
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

3

1.1

Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực đối với
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

8

1.2


Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới chất lượng nguồn
nhân lực.

12

Chương 2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở KHU VỰC MIỀN NÚI
PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY

20

2.1

Thực trạng nguồn nhân lực ở miền núi phía Bắc nước
ta hiện nay

20

2.2

Tình hình Giáo dục và Đào tạo ở các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta hiện nay.

39

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁP TRIỂN
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở KHU VỰ MIỀN NÚI
PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY

59


3.1

Đổi mới toàn diện hoạt động nhận thức và thực tiễn
đối với giáo dục ở miền núi phía Bắc nước ta

59

3.2

Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục khu vực miền núi phía Bắc nước ta hiện nay
KẾT LUẬN

65

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

73

MỞ ĐẦU
1.

8

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI


2

70


Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020 như tinh thần của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta phải dựa vào nhiều nguồn lực
khác nhau, trong đó nguồn lực con người giữ vị trí trọng yếu và quyết định.
Sở dĩ như vậy là do đất nước ta sau hơn mười năm đổi mới (Tính đến Đại Hội
VIII) chúng ta đã ra tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ
phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặt khác,
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ trong trong thời đại ngày nay
và việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã đặt ra những yêu cầu mới đối
với sự phát triển của đất nước, đó là: cần phải đi tắt đón đầu ở một số lĩnh
vực; cần biết tận dung và phát huy mọi cơ hội, mọi nguồn lực; đặc biệt là cấn
phải có những con người nắm bắt được tri thức và công nghệ hiện đại, vận
dụng sáng tạo những tri thức và công nghệ đó vào sự nghiệp phát triển đất
nước. Do đó, Đảng ta đã xác định: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá…lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững” [10, tr.71] là yếu tố quyết định. Tại Đại hội Đại biểu lần thứ XI
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực có chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học và công nghệ” là một trong ba khâu đột phá trong
chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2011 - 2020. ( 15 - tr.32)
Miền núi phía Bắc, được xác định là địa bàn chiến lược đặc biệt quan
trọng về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của nước ta, có vai
trò quyết định đối với môi trường sinh thái của toàn bộ phía Bắc. Vùng này có

diện tích chiếm gần 1/3, diện tích tự nhiên và 13,2% về dân số so với cả nước.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xét trên nhiều chỉ
tiêu và phương diện thì điểm xuất phát của miền núi phía Bắc còn thấp so với
nhiều địa phương khác trong cả nước. Vì vậy, cùng với việc nâng cao các tiền
đề vật chất khác thì việc phát triển nguồn lực con người nhằm đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở khu vực này có vị trí rất quan trọng.
Để có thể phát triển nguồn lực con người thì phát triển giáo dục và đào
tạo ở khu vực này là yếu tố quyết định. Vì những lẽ trên, chúng tôi đã chọn:

3


“Một số giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo ở các tỉnh miền núi phía
Bắc để đáp ừng nguồn nhân lực đã qua đào tạo phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hịên đại hoá ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Nguồn nhân lực và phát triển giáo dục và đào tạo là vấn đề luôn được
quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, nhất là trong thời gian gần
đây, con người được đặt ở trung tâm của mọi sự phát triển, vì vậy trên từng
khía cạnh khác nhau của đề tài đã có nhiều công trình nghiên cứu.
Ở nước ta đã có chương trình khoa học cấp Nhà nước nghiên cứu về
con người mang mã số KX – 07 với tiêu đề “Con người Việt Nam - mục tiêu
và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”. Trong số 19 đề tài của chương
trình, có đề tài KX- 07 – 14 nghiên cứu “Vấn đề bồi dưỡng và đào tạo lại các
loại hình lao động nhằm đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội
trong nền kinh tế mới”. Ở đề tài này, các tác giả đã đề cập vấn đề tương đối
rộng về đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Vì vậy, đề tài được phân chia thành
ba đề tài nhánh: nhánh 1 – nghiên cứu về nội dung, phương pháp bồi dưỡng
và đào tạo lại; nhánh 2 – nghiên cứu về chính sách bồi dưỡng và đạo tạo lại;
nhánh 3 – nghiên cứu về các chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động.

Chương trình khoa học này được thông qua là một định hướng cơ bản cho các
quyết sách quan trọng của Đảng và Nhà Nước ta đối với vấn đề liên quan đến
nguồn lực con người; đồng thời nó cũng là cơ sở lý luận quan trọng cho các
công trình nghiên cứu các vấn đề cụ thể khác về phát triển con người trong
tình hình mới.
Ở góc độ phát triển giáo dục và đào tạo, mỗi công trình lớn nhỏ khác
nhau muốn nghiên cứu đến sự phát triển đất nước đều quan tâm đến phát triển
vấn đề này, do đó có rất nhiều công trình nghiên cứu quan tâm đến. Công
trình “Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài” của Nghiêm Đình Vì, Nguyễn
Đắc Hưng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Công trình này
tập trung nêu những cơ hội, thách thức và nhiệm vụ của giáo dục Việt Nam
trong những năm đầu của thế kỷ XX. Công trình “Giáo dục và phát triển
nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI” của Trần Khánh Đức. Công trình này đã đề

4


cập đến những yêu cầu của thời đại ngày nay đối với giáo dục, trên cơ sở đó,
tác giả đưa ra quan điểm về tư duy giáo dục hiện đại, bao gồm cả nội dung,
phương pháp, cách thức quản lý, đánh giá chất lượng và cả những chính sách
và chiến lượng cho giáo dục hiện nay. Đặc biệt, ở công trình này, tác giả đã
giới thiệu mô hình và kinh nghiệm giáo dục của một số nước trên thế giới và
trong khu vực, trong đó đáng lưu ý là nền giáo dục Nhật Bản qua các thời kỳ,
đó là bài học quý báu đối với sự nghiệp giáo dục của nước ta nói chung, đối
với giáo dục và đào tạo ở miền núi phía Bắc nước ta nói riêng. Mặt khác,
hằng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng, có không dưới bốn mươi
bài báo và bản tin bàn đến vấn đề giáo dục và đào tạo ở nhiều góc độ khác
nhau; từ những chiến lược phát triển giáo dục đến phương pháp cụ thể và kể
cả những bất cập và hạn chế đều được đưa ra trên các mặt báo, tạp chí và
những bản tin phát thanh, truyền hình, các trang báo mạng;v.v.. Vì vậy, trong

khuôn khổ của đê tài này, chúng tôi không tham vọng kể tên hay đánh giá
mức độ ảnh hưởng của những công trình đó đến sự phát triển của giáo dục
nước ta, mà chúng tôi sẽ tiếp thu, tham khảo những đề xuất, những kiến nghị
phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài. Khu vực miền núi phía Bắc nước ta
là một trong những vùng đặc biệt, do đó được các cấp, các ngành rất quan tâm
nhất là những động lực tạo đà cho sự phát triển ở đây, và vì vậy, vấn đề giáo
dục của vùng này cũng đã có một số công trình nghiên cứu và có nhiều những
đề án, dự án của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của các tổ chức quốc tế và của các
nhà khoa học nhằm hỗ trợ cho sự phát triển giáo dục ở vùng này, tuy nhiên
hiệu quả thu được chưa tương xứng với những gì đã đầu tư.
Như vậy, tuy đã có nhiều đề tài và công trình nghiên cứu về con người,
về nguồn nhân lực, về phát triển giáo dục và đào tạo theo những khuynh
hướng và phạm vi rộng, hẹp khác nhau nhưng chưa có một đề tài nào tập
trung nghiên cứu vấn đề phát triển giáo dục đào tạo ở địa bàn khu vực miền
núi phía Băc nước ta để đáp ứng nhu cầu tạo nguồn nhân lực qua đào tạo
trong thời đại ngày nay. Vì vậy, vấn đề “Một số giải pháp phát triển giáo dục
và đào tạo ở các tỉnh miền núi phía Bắc để đáp ứng nguồn nhân lực đã qua
đào tạo phục vụ sự công nghiệp hoá hịên đại hoá ở nước ta hiện nay” cần
được nghiên cứu một cách cụ thể từ nhiều khía cạnh.

5


3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nguồn nhân lực bao hàm nhiều phương diện, đề tài này không nghiên
cứu nguồn nhân lực nói chung với tất cả các mặt của nó, mà chỉ tập trung
nghiên cứu những vấn đề đang ảnh hưởng đến sự phát triển của giáo dục đào
tạo ở miền núi phía Bắc nước ta, cũng như tác động của nó đến chất lượng
nguồn nhân lực, qua đó đề tài khuyến nghị một số giải pháp nhằm phát triển
giáo dục và đào tạo vùng này, nhằm tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
a, Mục đích: Xác lập căn cứ khoa học cho việc đề xuất phương hướng
và giải pháp phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở miền núi phía Bắc
nước ta nhằm đáp ứng yêu cầu công nghịêp hoá, hiện đại hoá.
b, Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của nguồn nhân lực
đối với công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nói chung, miền núi phía
Bắc nói riêng.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng và tình hình giáo dục và đào
tạo ở miền núi phía Bắc nước ta, chỉ ra nguyên nhân cần khắc phục.
- Đề xuất và kiến giải những quan điểm định hướng và giải pháp khả
thi phát triển giáo dục đào ở miền núi phía Bắc nhằm đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài.
Sử dụng phương pháp biện chứng mác xít, kết hợp với các phương
pháp: phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, điều tra xã hội .
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

6


- Trên cơ sở những luận cứ khoa học được xác lập, đi sâu phân tích,
đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và tình hình giáo dục và đào tạo ở miền
núi phía Bắc, từ đó làm nổi bật sự cần thiết phải phát triển giáo dục đào tạo để
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Kiến giải có căn cứ lý luận và thực tiễn những giải pháp cơ bản phát

triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực.
- Đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan tham
mưu của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh miền núi phía Bắc và các cơ quan
hữu trách; dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường Đại học Sư phạm,
các trường ở các bậc học, các cơ sở đào tạo nghề.
7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương, 6 tiết.

NỘI DUNG

7


Chương 1. NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ YÊU CẦU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
1.1. Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực đối với công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.1.1. Nguồn nhân lực
Trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, yếu tố quyết định sự phát
triển của các quốc gia và vùng lãnh thổ không phải là nguồn vốn, công nghệ
hay tài nguyên thiên nhiên mà là yếu tố “nguồn nhân lực”. Chính vì vậy, vấn
đề “nguồn nhân lực” đặc biệt được các nhà nghiên cứu và quản lý quan tâm
dưới nhiều góc độ khác nhau trong thời gian gần đây.
- Khái niệm “Nguồn nhân lực”: Tuỳ thuộc vào mục đích cụ thể của
người sử dụng, có thể hiểu khái niệm này có nội hàm rộng, hẹp khác nhau:
Thứ nhất là, Giáo trình “Kinh tế phát triển” của trường Đại học Kinh
tế quốc dân cho rằng: “Nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi
nhất định theo quy định của luật pháp có khả năng tham gia lao động. Nguồn
nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: Về số lượng, đó là tổng số những người
trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được họ; về chất

lượng nguồn nhân lực, đó là trình độ chuyên môn và sức khoẻ của người lao
động.”
Thứ hai là, Giáo trình “Kinh tế phát triển” của Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: “Nguồn nhân lực của một quốc gia là bộ
phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động”
Thứ ba là, quan điểm được trình bày trong đề tài khoa học, công nghệ
cấp Nhà nước KX- 07: “ Nguồn nhân lực được hiểu là số dân và chất lượng
con người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và
phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc; v.v..”
Về cơ bản các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: nguồn nhân
lực, đó là nguồn lực con người, bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh
thần và sự tương tác giữa các cá nhân trong một cộng đồng xã hội, một quốc
gia, được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào những công việc hữu

8


ích. Từ những quan điểm đó, có thể hiểu nguồn nhân lực có các đặc điểm cơ
bản sau:
+ Những người có khả năng tham gia vào quá trình lao động sản xuất
ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Tuy nhiên, trong một xã hội cụ
thể hay trong một khu vực dân cư nhất định, không phải mọi người đều trực
tiếp và đang tiến hành tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, mà
chỉ có một bộ phận người nhất định là đang tiến hành sản xuất ra các giá trị
đó mà thôi.
+ Nguồn nhân lực phải là những người trong một độ tuổi nhất định
trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Mặc dù vậy, những quy định này chỉ
có giá trị tương đối, vì thực tế lực lượng tham gia sản xuất ra các giá vật chất
và tinh thần được tận dụng rất tối đa, nhất là đối với lực lượng lao động đã
quá tuổi thì càng được khai thác triệt để. Đối với những vùng còn khó khăn

thì việc tận dụng này càng triệt để hơn.
+ Khả năng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần của nguồn nhân
nhân lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cơ bản nhất là chất lượng và số
lượng của nó. Chính đặc trưng này quyết định sự phát triển không đều giữa
các vùng miền của một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau và cũng là
đặc trưng cơ bản mà trong khuôn khổ đề tài này phải quan tâm nhiều nhất.
- Nguồn nhân lực chất lượng cao: Được hiểu là nguồn nhân lực được
đào tạo cơ bản, nắm được những tri thức khoa học hiện đại và có khả năng
ứng dụng những tri thức đó vào sản xuất ở các lĩnh vực cụ thể nhất định. Nói
cách khác là những nhân lực được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến
thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo cao, đáp ứng yêu cầu của nền
sản xuất hiện đại.
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá cạnh tranh quyết liệt và đầy biến động
như hiện nay, yêu cầu phải có một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao
càng cần thiết và có thể khẳng định rằng thế thắng sẽ nghiêng về dân tộc hay
quốc gia nào có sở hữu đông đảo nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó, đối
với những vùng kinh tế cần đẩy mạnh sư phát triển, phải có đội ngũ này dưới
nhiều hình thức hác nhau. Nghĩa là nếu có nguồn nhân lực chất lượng cao tại

9


chỗ để tự nó sẽ làm cho vùng miền ấy phát triển là tốt nhất, nhưng nếu chưa
có nguồn nhân lực chất lượng cao tại chỗ thì cần biết tận dụng các cơ hội để
sở hữu hay phát huy vai trò của lực lượng này của vùng khác.
1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực đối với công nghiệp hoá, hiện đại
hoá:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn
nhân lực:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được Nghị quyết Hội nghị Trung ương

7 khoá VII đưa ra khái niệm như sau: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao” ( 10 - tr.65)
Thực chất vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã từ lâu được Đảng
ta xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Kể từ đó, các kỳ
Đại hội Đại biểu và Hội nghị của các nhiệm kỳ đều đặc biệt quan tâm đến
những nhiệm vụ cụ thể trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, cụ thể là:
- Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta đã đưa ra nhiệm
vụ: “Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cầu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp” (11- Tr.80)
- Tại văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã ghi
rõ: “Đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan

10


hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững…” (13 - Tr.89 )

Như vậy, so với Đại hội VIII, Đại hội lần này đã đề ra những nhiệm
vụ cụ thể để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đó là vừa phát
huy nội lực, vừa tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài một cách chủ động.
- Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Tranh thủ
cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta
để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu
tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá…. Đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ
các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.” (14- Tr87-88)
Qua Đại hội lần thứ X, chúng ta có thể thấy con đường thự hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng được Đảng ta nhận thức đúng đắn và bổ
xung nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu cụ thể. Lần này kinh tế tri thức đã được
trú trọng, nhờ đó giáo dục và đào tạo càng càng được quan tâm sâu xắc hơn.
- Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 là: “chiến lược tiếp tục đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.” (15 - tr.30)
Trên nguyên tắc xuất phát từ thực tế và nhận thức rằng nước ta là một
nước nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, Đảng ta đã đưa ra
định hướng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể trong từng giai đoạn
cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, chưa thể và cũng không thể đi xa hơn
trên con đường thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Chúng ta
có thể có mua được công nghệ và đầu tư mạnh vào các ngành công nghiệp lớn
với những công nghệ hiện đại, nhưng nguồn lực con người chưa sẵn sàng thì
điều đó sẽ không mang lại hiệu quả và chỉ làm chậm thêm sự phát triển.

11



Chính vấn đề này là bài học quan trọng cho việc định hướng để phát triển khu
vực miền núi và vùng chậm phát triển ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ, mục tiêu và nội dung cơ
bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần thiết phải có nguồn nhân lực
tương xứng, đáp ứng nhu cầu cấp thiết trước mắt và đảm bảo cho sự phát triển
bền vững lâu dài. Nguồn nhân lực đó phải có chất lượng ở mọi trình độ từ
những người tham gia lao động giản đơn cho đến cán bộ kỹ thuật và người
quản lý. Ở vùng sâu, vùng xa như khu vực miền núi phía Bắc nước ta càng
cần phải tính đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực. Điều đó chỉ có thể được
đáp ứng thông qua phát triển giáo dục và đào tạo
1.2. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, có thể nói
mọi hoạt động của con người và xã hội hàng ngày đều trực tiếp tác động đến
chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, có những yếu tố chỉ có vai trò ảnh
hưởng gián tiếp, nhưng có yếu tố giữ vai trò quyết định đối với chất lượng
nguồn nhân lực, vì vậy chúng tôi lựa chọn và chỉ nêu lên một số yếu tố cơ bản
có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực để từ đó chọn hướng
giải quyết vấn đề này ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta hiện nay.
1.2.1. Ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế
Trình độ phát triển kinh tế là trụ cột của mọi sự phát triển nói chung,
trong đó phát triển nguồn nhân lực không thể là ngoại lệ.
Sự phát triển của kinh tế một mặt vừa là điều kiện tiên quyết để phát
triển về sức lực cơ bắp, vừa là điều kiện để phát triển về trí tuệ của nguồn
nhân lực. Phát triển kinh tế mang lại cho đời sống của nguồn nhân lực ổn định
cả về vật chất và tinh thần. Các mặt của đời sống như: sức khoẻ, tuổi thọ,
trình độ dân trí, trình độ chuyên môn nghề nghiệp;v.v. chỉ có thể được đảm
bảo và phát triển trên cơ sở điều kiện về kinh tế đạt ở một mức độ nhất định.
Khi điều kiện kinh tế chưa đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của con người thì
các mặt khác cũng chưa được quan tâm. Đồng thời sự phát triển về kinh tế sẽ

tự nó kéo theo sự phát triển các yếu tố của nguồn nhân lực. Bởi vì khi sản

12


xuất phát triển, các yếu tố thuộc về tư liệu sản xuất sẽ buộc nguồn nhân lực
phải phát triển theo cho phù hợp với nó.
Hiện nay, trong các hoạt động sản xuất, công nghệ thường được thay đổi
rất nhanh chóng nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, điều này đã thúc
đẩy vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cường độ ngày càng
nhanh. Bởi vì chỉ có con người có một trình độ nhất định và sự sáng tạo của
họ mới có những công nghệ mới đó và những công nghệ này được sử dụng
một cách hiệu quả trong sản xuất vật chất. Đồng thời khi có điều kiện về kinh
tế thì con người mới có điều kiện để tự bồi dưỡng, tham gia vào các hoạt động
nâng cao trình độ về mọi mặt. Khi kinh tế phát triển Nhà nước cũng có điều
kiện để giải quyết tốt hơn những vấn đề như: y tế, giáo dục, văn hoá, thực
hiện các chính sách xã hội ;v.v. nhờ đó các mặt của đời sống xã hội được đảm
bảo, vấn đề chất lượng nguồn nhân lực cũng được nâng lên.
Nguồn nhân lực và trình độ phát triển kinh tế có quan hệ biện chứng với
nhau, vấn đề phát triển kinh tế phải được giải quyết ở một mức độ nhất định
thì vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mới có cơ sở vật chất để khắc
phục. Ở những nơi như khu vực miền núi phía Bắc nước ta chưa giải quyết tốt
mối quan hệ này, do đó cả vấn đề kinh tế và chất lượng nguồn nhân lực đều
đang kìm hãm lẫn nhau làm cho cả hai yếu tố đó cùng chậm phát triển. Để
giải quyết mối quan hệ này ở miền núi phía Bắc nước ta, theo chúng tôi nếu
chỉ thực hiện bằng cách giải quyết từng yếu tố thì hiệu quả mang lại sẽ không
cao, ngược lại thực hiện bằng các giải pháp đồng bộ thì rất tốn kém, chúng ta
chưa đủ điều kiện kinh tế để giải quyết một lúc tất cả những yêu cầu của cả
hai yếu tố đó. Vì vậy, cần phải tìm nguyên nhân ở nhiều yếu tố khác nhau,
trên cớ đó chọn đúng, chọn trúng những mắt khâu cơ bản để cùng làm cho

nguồn nhân lực ở đây phát triển và đỡ tốn kém nhất về mặt kinh tế, sau đó
chính nguồn nhân lực có chất lượng của vùng này sẽ tìm ra con đường để phát
triển kinh tế của vùng này.
1.2.2. Truyền thống văn hoá ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Văn hoá là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Từ
góc độ văn hóa của cộng đồng, nó thôi thúc từ đáy lòng con người, làm cho

13


con người trong cộng đồng đó mong muốn được hoạt động. Văn hóa vừa có
chức năng giáo dục, vừa có chức năng hướng con người đến hoạt động thẩm
mỹ, vì vậy, nó là động lực vô hình nhưng có sức mạnh tiềm tàng đối với chất
lượng nguồn nhân lực.
Văn hoá là tập hợp tất cả những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen,
lối sống, cách ứng xử và phương thức tư duy của mỗi con người hoặc cộng
đồng người. Văn hoá được hình thành trên cơ sở hoạt động sản xuất vật chất
của con người, mà hoạt động sản xuất vật chất phụ thuộc rất lớn vào điều kiện
tự nhiên của từng vùng. Khu vực miền núi phía Bắc nước ta có điều kiện tự
nhiên đa dạng và phức tạp, đó cũng là vùng có nhiều đồng bào các dân tộc
thiểu số sinh sống, vì lẽ đó, đây là vùng có nền văn hoá đa dạng phong phú
nhất nước ta. Nhiều nét văn hoá đặc sắc của khu vực đã và đang trở thành
những nguồn lực quan trọng cho sự phát triển toàn vùng: phong cách độc đáo
trong các nét văn hoá kết hợp với ưu đãi của thiên nhiên đã hình thành nên
những vùng du lịch sinh thái hoang sơ, hấp dẫn các du khách; một số sản
phẩm văn hóa vật chất và tinh thần đã mang lại hiệu quả kinh tế cho nhân dân
trong toàn vùng;v.v. Qua đó người dân bản địa có cơ hội giao lưu, học hỏi và
chất lượng nguồn nhân lực tự được nâng cao về mọi mặt. Tuy nhiên, ở vùng
này còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán lạc hậu, bảo thủ, kết hợp với địa
hình hiểm trở, giao thông, liên lạc khó khăn đã trở thành những rào cản rất

lớn đối với việc giao lưu văn hóa, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, nhất
là việc tiếp thu những tiến bộ khoa học, điều đó đã làm cho sự phát triển của
toàn vùng còn chậm chạp.
Tiềm năng của con người là vô cùng to lớn, nhưng không phải lúc nào, ở
đâu cũng phát huy hết được những tiềm năng này trong cuộc sống. Văn hoá
sẽ giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của con người, nhận thức được vai trò
của văn hoá vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội,
Đảng ta đã luôn quan tâm đến phát triển văn hoá; nhất là từ khi thực hiện theo
đường lối đổi mới đến nay. Tại các kỳ Đại hội Đại biểu của Đảng đều có nội
dung quan trọng bàn đến vấn đề phát triển văn hoá và có các Hội nghị bàn về
chiến lược phát triển văn hoá của đất nước nói chung và vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số phía Bắc nói riêng. Qua đó càng cho chúng ta thấy vai trò to

14


lớn của văn hoá đối với nguồn nhân lực và như vậy muốn nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực khu vực này không thể không tính đến định hướng về
văn hoá và dựa vào các yếu tố văn hoá vùng miền.
1.2.3. Tốc độ gia tăng dân số ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Quy mô và tốc độ gia tăng dân số có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
nguồn nhân lực. Bởi vì quy mô và tốc độ gia tăng dân số là vấn đề sản sinh
trực tiếp ra nguồn nhân lực, nó thể hiện mức độ đáp ứng sức lao động cho xã
hội cả hiện tại và tương lai, đồng thời nó còn là vấn đề cộng sinh, liên kết sức
mạnh vật chất và trí tuệ để cải tạo tự nhiên và xã hội của một cộng đồng
người trong một thời điểm và của một vùng hay một quốc gia. Như vậy, sự
gia tăng dân số vừa đáp ứng nhu cầu số lượng nguồn nhân lực của xã hội, vừa
là điều kiện để tăng trưởng, phát triển kinh tế và đào tạo phát triển nguồn
nhân lực.
Nếu quy mô dân số và sự tăng trưởng của nó phù hợp với tăng trưởng

kinh tế thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển chất lượng nguồn nhân lực nói
riêng. Ngược lại, nếu dân số tăng nhanh, làm cho số lượng nhân khẩu ăn theo
trên mỗi lao động cao thì sẽ có tác động tiêu cực đến việc hoạch định chính
sách cũng như những đầu tư cho chất lượng nguồn nhân lực. Ngày nay, ở một
số quốc gia và vùng lãnh thổ, quy mô và tốc độ gia tăng dân số bị suy giảm,
số người trong độ tuổi lao động bị thiếu hụt, cũng là một cảnh báo đối với các
chiến lược gia về nguồn nhân lực.
Đối với những khu vực kinh tế - xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất
chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp và phần lớn phụ thuộc tự nhiên thì sự
gia tăng dân số rất phức tạp. Bởi vì, ở những vùng đó lao động chủ yếu dựa
vào sức lực cơ bắp, những lao động truyền thống của họ cần hàm lượng trí tuệ
không nhiều, do đó họ cần nhiều nhân khẩu và lao động, chính điều đó làm
cho vấn đề kiểm soát mức độ gia tăng dân số và quy mô ở những vùng này là
rất khó khăn. Trong đời sống xã hội vẫn còn một số phong tục rất lạc hậu,
chất lượng vật chất để đáp ừng nhu cầu hằng ngày của con người rất thấp, cho
nên tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn chiếm phần lớn, làm cho khi trưởng

15


thành, chất lượng lao động không cao, nhất là về trí tuệ. Điều này cũng là
nguyên nhân chính của tuổi thọ bình quân ở những khu vực này thấp hơn các
vùng khác.
Điều kiện tự nhiên trong từng vùng cũng ảnh hưởng đáng kể đến quy mô
và mức độ gia tăng dân số. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, thì dân số sẽ dễ
được kiểm soát ở khía cạnh mức sinh và tỷ lệ sinh, nhưng sự gia tăng tự nhiên
vẫn nhanh hơn vì những vùng khác sẽ di cư tự nhiên đến; nếu điều kiện tự
nhiên khó khăn thì cũng dẫn tới tình trạng sinh đẻ không theo kế hoạch, di cư
tự do đi, tất cả những điều đó đều làm cho mọi chiến lược dân số và phát triển

nguồn nhân lực không có tính khả thi. Những vấn đề được nêu trên đều là
“Vấn đề có vấn đề” ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta hiên nay và cần
được giải quyết trong chiến lượng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói
chung và phát triển giáo dục và đào tạo vùng này nói riêng.
1.2.4. Các chính sách vĩ mô tác động đến chất lượng nguồn nhân lực
Chính sách vĩ mô của nhà nước có tác động đến mọi mặt của đời sống xã
hội như: Kinh tế; giáo dục và đào tạo; chính sách tiền lương; chính sách sử
dụng nguồn nhân lực; chính sách bảo hộ lao động;v.v. Với hệ thống chính
sách xã hội, nhà nước có thể thiết lập được một môi trường pháp lý cho sự
vận hành và phát triển của tất cả các lĩnh vực, trong đó có cả những yếu tố
trực tiếp và những yếu tố giáp tiếp tác động đến chất lượng nguồn nhân lực.
Hệ thống chính sách thể hiện quan điểm, nguyện vọng, ý trí của Đảng,
Nhà nước trong việc điều hành, quản lý xã hội, hướng tới những mục tiêu đã
được hoạch định trước. Qua đó có thể nhằm vào từng hoạt động, từng công
việc cụ thể, nó có thể kích thích sự phát triển nhanh chóng ở một lĩnh vực nào
đó, tuy nhiên nó cũng có thể làm tụt lùi hay kìm hãm sự phát triển một lĩnh
vực cụ thể trong một thời gian nhất định. Nếu như hệ thống chính sách này
không phù hợp với quy luật khách quan thì tự nó sẽ bị các quy luật phát triển
phá vỡ. Như vậy, việc hoạch định các chính sách vĩ mô cần phải xuất phát từ
những điều kiện cụ thể của từng lĩnh vực, mặt khác phải phù hợp với quy luật
khách quan.

16


Chính sách vĩ mô có hai dạng cơ bản, một dạng là những chủ trương,
đường lối chung của Đảng và Nhà nước về kinh tế - xã hội, có tầm chiến lược
phát triển chung cho đất nước trong một thời gian dài.Với loại chính sách này,
có tầm ảnh hưởng rộng, có thể không có những nội dung thể hiện cụ thể về
nguồn nhân lực, nhưng trong đó đã bao gồm những điều chỉnh để phát triển

nguồn nhân lực và hỗ trợ để phát triển nguồn nhân lực nói chung. Dạng thứ
hai là những chiến lược cụ thể cho phát triển nguồn nhân lực, đó là những
chiến lược có tính lâu dài trong vấn đề quy hoạch, phát triển theo giai đoạn,
theo vùng miền;v.v. vẫn được coi như chính sách vĩ mô. Loại chính sách này
là những nội dung cụ thể, định hướng trực tiếp vấn đề phát triển nguồn nhân
lực, đồng thời nó có thể nó phù hợp với sự phát triển của các mặt khác trong
xã hội, nhưng có thể chỉ sau một thời gian nó đã không còn phù vì sự phát
triển quá nhanh hoặc quá chậm của một số mặt trong đời sống xã hội, điều
này càng xảy ra nhiều hơn trong thời đại công nghệ hiện đại nhanh chóng
được ứng dụng vào đời sống và sản xuất như ngày nay, và nó cũng là một
trong những nguyên nhân dân đến tình trạng phải đổi mới thường xuyên chiến
lược nguồn nhân lực, trong đó có đòi hỏi đến những thay đổi về giáo dục và
đào tạo của các quốc gia. Tuy nhiên, để những chính sách này phát huy hiệu
quả, có những ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nguồn nhân lực còn phụ
thuộc đến nhiều yếu tố, chẳng hạn như: Nó phụ thuộc vào năng lực tổ chức
thực tiễn của các cấp, các ngành; phụ thuộc vào việc tuyên truyền, phổ biến
những chủ trương, chính sách đó và phụ thuộc mức độ hiểu biết, ủng hộ thực
hiện chính sách của mọi tầng lớp nhân dân trong khu vực.
1.2.5. Giáo dục và đào tạo là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân
lực
Con người là yếu tố quyết định đối với lực lượng sản xuất. Ngày nay,
khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và là yếu tố
quyết định sự phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội thì nguồn nhân lực càng cần
được quan tâm phát triển, sự phát triển này sẽ là yếu tố quyết định đối với quá
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước.
Giáo dục và đào tạo là hệ thống chặt chẽ nhất, bài bản nhất và hoạt động
theo một trình tự hợp quy luật nhất nhằm hình thành và phát triển về nhân

17



cách, thể lực và trí tuệ của nguồn nhân lực. Vì vậy, giáo dục có vừa có chức
năng văn hoá xã hội, vừa có chức năng kinh tế.
Trong đó, chức năng nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài là trọng tâm
của chức năng văn hoá xã hội. Dân trí là hàm lượng hiểu biết về khoa học, kỹ
thuật và văn hoá của một cộng đồng dân cư, bởi vì qua giáo dục mỗi cá nhân
mở mang được tri thức, tích luỹ được kinh nghiệm, rèn luyện trau dồi đạo
đức, giúp cho xã hội bảo toàn và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống.
Cũng qua giáo dục, có thể làm bộc lộ và phát triển hết tài năng con người,
nhờ đó, phát hiện nhân tài, bồi dưỡng phát triển họ để họ có những cống hiến
to lớn cho cộng đồng ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Một khi giáo dục và đào tạo
thực hiện tốt chức năng này, sẽ tạo ra một nguồn nhân lực năng động, sáng
tạo, biết ứng phó với những biến đổi của đời sống xã hội, tìm ra con đường,
cách thức để đưa các mặt của xã hội phát triển một cách phù hợp nhất.
Chức năng kinh tế của giáo dục cũng chính là chức năng đào tạo nguồn
nhân lực. Qua giáo dục, người lao động được tiếp thu những tri thức, kỹ năng
lao động trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt trong xã hội hiện đại, nền sản xuất có
trình độ khoa học và công nghệ cao, nhu cầu của con người cũng ngày càng
đòi hỏi phải được đáp ứng bởi những sản phẩm đa dạng và tinh vi;v.v. buộc
người lao động phải có học vấn rộng, tri thức sâu, tay nghề vững và giàu tính
sáng tạo, có khả năng giải quyết linh hoạt mọi yêu cầu của thực tiễn. Do đó,
đòi hỏi mọi quốc gia phải thường xuyên phát triển giáo dục để nó giải quyết
được chính yêu cầu từ đời sống xã hội, từ việc phải thường xuyên nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực.
Với vai trò to lớn của giáo dục và đào tạo đối với vấn đề chất lượng
nguồn nhân lực như trên, từ cuối những năm thế kỷ XX, hầu hết chính phủ
các nước đã có những chiến lược và hành động cụ thể với giáo dục và đào tạo
của quốc gia mình, tăng đầu tư cho giáo dục và đào tạo ở mức ngày càng cao.
Nước ta đang trên đường hội nhập và phát triển cũng đã và đang có những
bước đi phù hợp trong chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo. Hiến pháp

của Nhà nước đã chỉ rõ “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”; coi đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; ngoài ra hầu hết các kỳ Đại hội Đại
biểu của Đảng đều có những nội dung định hướng, chỉ đạo vấn đề phát triển

18


giáo dục và đào tạo của đất nước. Tuy nhiên, những cố gắng của nước ta
trong cải cách giáo dục vẫn còn nhiều vấn đề phải được quan tâm giải quyết
một cách quyết liệt và sâu sát hơn, nhất là ở khu vực miền núi phía Bắc, đó
cũng là nội dung trong khuôn khổ của đề tài này cần phải làm rõ.

19


Chương 2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO Ở KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng nguồn nhân lực ở miền núi phía Bắc nước ta hiện
nay
- Khái quát kinh tế xã hội – Quan điểm đánh giá
Khu vực miền núi phiá Bắc nước ta gồm 14 tỉnh: Hà giang, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ,
Bắc Giang, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình và một số tỉnh có miền
núi như: Vĩnh Phúc, Quảng Ninh;v.v.. Khu vực này được xác định là địa bàn
chiến lược đặc biệt quan trong về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối
ngoại của cả nước; cũng là nơi có vai trò quyết định đối vấn đề môi trường
sinh thái của cả vùng phía Bắc. Tổng diện tích tự nhiên chiếm gần 28,8%, với
13% dân số so với cả nước và có gần 30 dân tộc khác nhau cùng sinh sống.
Do địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi các dãy núi cao, có độ dốc lớn, xen
giữa các dãy núi là khá nhiều sông, suối, nên vùng địa lý – tự nhiên miền núi
phía Bắc nước ta có những đặc điểm đặc biệt cả về đất đai, khí hậu và chủng

loại động thực vật…nhờ đó, có tiềm năng, lợi thế để phát triển nông, lâm
nghiệp, thủy điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu. Căn cứ vào điều
kiện tự nhiên, người ta thường chia miền núi phía Bắc thành hai vùng: vùng
Đông Bắc và vùng Tây Bắc với những đặc điểm cơ bản sau:
Vùng Tây Bắc gồm các tỉnh: Lai châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình và
một số huyện miền núi của các tỉnh Hà Tây, Ninh Bình. Đây là vùng địa hình
đồ sộ và cao nhất nước ta, điển hình có dãy núi Hoàng Liên Sơn cao hơn 2.000
m và có một số đỉnh núi cao hơn 3.000 m so với mặt biển. Do ở độ cao như vậy
nên nhiều tiểu vùng có khí hậu á nhiệt đới và ôn đới. Kể từ khi có thuỷ điện
sông Đà và thủy điện Sơn La, các hồ chứa nước ở đây đã tạo độ ẩm đáng kể và
có những tác động đến khí hậu của toàn vùng.
-

Vùng phía Bắc và Đông Bắc gồm các tỉnh còn lại. Đây là vùng có độ
cao trung bình dưới 1.000 m so với mặt biển, là vùng sinh thuỷ của nhiều con
sông lớn như sông Lô, sông Chảy, sông Đáy, sông Gâm, có địa hình thấp dần
từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam. Do cấu tạo của địa hình và vị trí địa
-

20


lý, đã tạo nên một hệ thống khí hậu hai mùa rệt: mùa đông khô hanh nhiệt độ
trung bình 8 – 150C, có nơi 00C; ngược lại, mùa hạ nắng ấm, nhiệt độ trung
bình 22- 350C. Mặt khác, ở vùng này có lượng mưa tương đối cao (lượng mưa
trên 1.500 mm) và chỉ tập trung trong vài tháng nên hàng năm hay có lũ lụt và
hạn hán xảy ra.
Với những điều kiện tự nhiên như kể trên của cả hai vùng đều là những
rào cản đôi với hoạt động kinh tế - xã hội toàn vùng, trong đó có giáo dục và
đào tạo. Trong đó, mật độ dân cư thưa, địa hình phức tạp làm cho giao thông

đi lại khó khăn là hai yếu tố gây ảnh hưởng lớn nhất. Bởi vì phải có một
lượng dân cư nhất định mới có thể tổ chức hoạt động giáo dục theo quy mô
một cơ cở giáo dục và mới có thể đầu tư cũng như đầu tư mới có hiệu quả.
Hơn nữa, chính những khó khăn này là nguyên nhân cơ bản làm cho tỷ lệ học
sinh bỏ học trong vùng còn cao, các em đi học không đúng tuổi bởi vì ở lứa
tuổi học trò chưa đủ ý thức tự giác và sự kiên trì để đưa các em đến trường
khi quá nhiều khó khăn do điều kiện tự nhiên gây ra, lúc đầu học trò chỉ bỏ
học một số buổi do thời tiết bất thường hoặc dư âm của nghỉ tết, nghỉ hè, nghỉ
lễ hội của dân tộc, sau đó chán nản và bỏ học luôn. Cũng vì lý do cách trở về
địa hình, các hộ dân sống tương đối độc lập, cho nên khi gặp bài khó, không
hiểu bài học sinh không biết hỏi ai, trong cộng đồng lại thiếu tính ganh đua
trong học tập, nên đã rất ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh.
Về mặt kinh tế - xã hội, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng
Cộng Sản Việt Nam đề xướng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay,
miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc đã có nhiều thay đổi về
mọi mặt.
Về kinh tế trong nhưng năm qua vùng này đã có mức tăng trưởng bình
quân khoảng 6 - 7 %/ năm. Từ chỗ sản xuất chủ yếu là nông nghiệp và mang
nặng tính chất tự nhiên, tự túc, tự cấp đã dần được thay thế bằng kinh tế hàng
hoá; nhiều ngành nghề mới được mở mang gắn với yêu cầu của thị trường
trong nước và quốc tế. Các ngành nông - lâm - ngư nghiệp và chăn nuôi gia
súc, gia cầm được tập trung theo hướng đầu tư sản xuất hàng hoá và dần phù
hợp với điều kiện tự nhiên của từng khu vực; bắt đầu hình thành nên những
vùng sản xuất với quy mô lớn hơn. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích

21


cực (năm 1995 tỷ trọng GDP nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 52,1%; công nghiệp
dịch vụ 47,9% đến năm 2008 tỷ trọng đã thay đổi, nông, lâm, ngư nghiệp

chiếm 41,6%; công nghiệp dịch vụ 58,4% . Có được những tiến bộ đó trước hết
phải kể đến việc hoạch định đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn của
Đảng ta và sự chỉ đạo trực tiếp, năng động của các cấp uỷ đảng và chính quyền
ở các địa phương; thành tựu đó cũng thể hiện sự tin tưởng vào Đảng, Nhà nước
và tinh thần cần cù, đoàn kết của toàn thể đồng bào các dân tộc ở trong toàn
khu vực này.
Từ những tiến bộ về kinh tế, bộ mặt nông thôn, đời sống xã hội của
đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc nước ta cũng đã có những thay đổi
đáng kể. Dưới ánh sáng của Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII, lần thứ IX, lần thứ X và lần thứ XI là: dành nguồn lực thích đáng
cho việc giải quyết những nhu cầu cấp bách, đặc biệt là về kết cấu hạ tầng
kinh tế- xã hội, để những vùng còn kém phát triển như vùng cao, biên giới,
hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng có
bước phát triển cao hơn, dần dần giảm sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát
triển kinh tế - xã hội giữa các vùng; và đây được coi là nhiệm vụ trọng tâm
trong công tác và chỉ đạo thực hiện của các cấp, các ngành. Kể từ đó, khu vực
miền núi phía Bắc đã được Chính phủ tập trung đầu tư nhiều mặt như: giao
thông, điện lưới, trường học, trạm y tế, nước sạch nông thôn, v.v… Nhờ vậy,
đời sống – xã hội của khu vực này đã có những đổi thay đáng mừng. Tỷ lệ đói
nghèo đã giảm, trẻ em đến trường đông hơn, tất cả các tỉnh đã giải quyết xong
nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến tới phổ cập trung học cơ sở;
nhiều hoạt động sinh hoạt văn hoá đặc sắc của cộng đồng các dân tộc được
khôi phục và phát triển, tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc được củng cố và
tăng cường. Tuy nhiên, ngoài những mặt phát triển kể trên, ở miền núi và
đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc cũng còn nhiều khó khăn và thách
thức rất lớn. Mặc dù kinh tế có sự tăng trưởng nhưng còn chậm, thực chất của
tăng trưởng còn thấp so với mức bình quân theo đầu người trong cả nước.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thu nhập bình quân đầu người của vùng
này ước tính bằng 64,5% bình quân của cả nước tính từ năm 2008. (Năm 2010
thu nhâp theo tháng/ nhân khẩu cả nước là 1387,2 nghìn đồng thì khu vực này


22


là gần 900 nghìn đồng/ người), tỷ lệ đói nghèo toàn vùng còn cao (chiếm gần
30%), nhiều vùng ở các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Cao Bằng, Hà Giang tỷ lệ
hộ nghèo theo chuẩn mới còn chiếm gần 80%. Sự phân hoá giàu nghèo trên
toàn khu vực ngày càng rõ rệt với khoảng cách ngày càng lớn. Một bộ phận
dân cư do không thoát khỏi đói nghèo, đã du canh, du cư tự do gây ra những
biến động bất lợi cho kinh tế - xã hội kể cả nơi đi và nơi đến. Trình độ hiểu biết
về khoa học – công nghệ của nhân dân trong toàn vùng còn thấp; tỷ lệ học sinh
tái mù chữ vẫn còn là con số đáng kể.
Khu vực miền núi phía Bắc nước ta chiếm một diện tích tương đối lớn,
nhưng sự phát triển lại không đồng đều giữa các tiểu vùng, cho nên Nhà nước
đã chia miền núi thành ba khu vực cơ bản để có chính sách ưu tiên phát triển
thích hợp: khu vực I gồm các thị tứ, thị trấn, miền núi thấp, ở khu vực này
trình độ phát triển đã gần tương đương với vùng đồng bằng; khu vực III gồm
các khu vực vùng cao, vùng sâu, là vùng chiếm diện tích lớn nhất trong khu
vực – cũng là vùng có các chỉ số phát triển thấp nhất, hầu hết các xã đặc biệt
khó khăn đều nằm trong khu vực này, vì vậy mọi dự tính cho sự phát triển
miền núi phía Bắc nói chung, phát triển giáo dục và đào tạo trong vùng
này nói riêng đều phải được bắt đầu và kết thúc từ khu vực này; khu vực
II là khu vực giáp danh giữa hai khu vực nói trên và có các chỉ số phát
triển chưa đều, thấp hơn khu vực I, cao hơn khu cực III. Về cơ bản có thể
hiểu sự phát triển không đều giữa các tiểu vùng cũng phụ thuộc rất lớn
vào điều kiện địa hình và hệ thống giao thông, ở những vùng có địa hình
càng cao, ở vùng càng sâu, đường giao thông kém phát triển, thì ở đó sẽ là
vùng khó khăn hơn. Vì vậy, khi đánh giá giáo dục và đào tạo ở miền núi
phía Bắc, ngoài việc phải xem xét các yếu tố cơ bản, trực tiếp tác động
đến ngành này, còn phải tính đến các yếu tố thuộc về kết cấu hạ tầng cơ

sở như là một mắt xích quan trọng trong chuỗi yếu tố thúc đẩy giáo dục ở
đây phát triển.
Để có thể thúc đẩy giáo dục và đào tạo ở khu vực miền núi phía Bắc
nước ta phát triển, nâng tỷ lệ người lao động qua đào tạo ngày càng cao, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì một đòi hỏi tất yếu đang đặt ra
là: phải xuất phát từ thực tế, đánh giá chân thực, khách quan thực trạng

23


các yếu tố đang tác động đến giáo dục và đào tạo trong toàn khu vực này,
tìm ra khuynh hướng vận động đặc thù của nó, trên cơ sở đó mới có
những giải pháp thúc đẩy nó phát triển một cách thích hợp. Do cấu trúc
của các yếu tố tác động đến giáo dục và đào tạo rất phong phú và phức
tạp, nhất là chúng tồn tại trong mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau,
nên chúng tôi cố gắng khảo sát được nhiều nhất các yếu tố cơ bản đang
tác động đến nó, trên cơ sở đó mới chỉ ra những yếu tố có tính đặc thù,
yếu tố cần thiết phải đầu tư và phát triển nó một cách phù hợp.
- Thực trạng nguồn nhân lực.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, vấn đề con người đã được
Đảng và Nhà nước ta đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển: “tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh
vực văn hoá, xã hội là chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người,
với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng” [9 - Tr.45-46].
Trên tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm phát
huy nguồn nhân lực, để không chỉ khơi dậy những phẩm chất quý báu vốn
có của con người Việt Nam như cần cù, nhẫn nại, đoàn kết tương ái, tương
thân,… mà còn tạo điều kiện để con người Việt Nam năng động, sáng tạo
trong nền kinh tế thị trường, chủ động hoà nhập với quốc tế và việc đó
cũng chính là nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất của đất nước phát triển.

Theo tinh thần Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đại biểu của Đảng, các
cấp uỷ đảng và chính quyền ở các địa phương khu vực miền núi phía Bắc
nước ta đã nỗ lực quan tâm, chăm sóc và phát huy nguồn nhân lực ở địa
phương mình một cách tối đa, nhờ đó trong thời gian qua mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội trong toàn khu vực đã được nâng lên đáng kể. Những
vấn đề có ảnh hưởng đến các chỉ số phát triển con người như điều kiện chăm
sóc sức khoẻ, khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất cho sinh hoạt, nâng cao
năng lực, trình độ hiểu biết về mọi mặt của đời sống văn hoá - tinh thần v.v…
đều có những đổi thay đáng mừng. Tuy nhiên, những đổi thay này mới chỉ là
kết quả ban đầu và đó là so sánh với thời kỳ trước khi thực hiện theo đường
lối đổi mới, còn so với các vùng khác cùng thời điểm hiện nay thì sự thay đổi

24


này còn ở mức thấp. Để có thể nhận thức đúng đắn được thực trạng của
nguồn nhân lực trong khu vực này, chúng tôi khảo sát một số mặt cơ bản sau:
2.1.1. Quy mô và tốc độ gia tăng dân số miền núi phía Bắc nước ta
Như đã biết, dân số có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và sự phát triển giáo dục và đào tạo nói riêng đối với tất cả các
quốc gia và các khu vực, bởi vì quy mô và tốc độ gia tăng dân số, thể hiện
mức độ đáp ứng sức lao động cho xã hội ở cả hiện tại và trong tương lai, đồng
thời nó còn là vấn đề cộng sinh, liên kết sức mạnh vật chất và trí tuệ để cải tạo
tự nhiên của một cộng đồng người. Tuy nhiên, để cho quy mô và tốc độ
gia tăng dân số thực sự có ảnh hưởng tích cực đến giáo dục và đào tạo thì
còn rất nhiều cản trở khác như trình độ tổ chức, quản lý giáo dục, số
lượng dân cư sinh sống tập trung đủ để đầu tư cho giáo dục đến bậc học
nào; điều kiện giao thông có thuận lợi để tổ chức hoạt động giáo dục hay
không, v.v… Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ
đã có tác động làm thay đổi mức độ gia tăng dân số, tạo điều kiện để phát

triển của sản xuất xã hội nói chung và điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến
phát triển giáo dục nói riêng.
Miền núi phía Bắc nước ta có khoảng 7,2 triệu người trong độ tuổi lao
động sống rải rác theo từng cụm dân cư nhỏ, đông nhất là vài chục hộ, ít nhất
là 3 - 5 hộ tạo thành từng làng, bản tương đối độc lập. Việc phân bố dân cư
không đều trong khu vực là do điều kiện tự nhiên quy định. Trong đó, vừa do
sự phân cắt mạnh của địa hình, vừa do khu vực này có nhiều dân tộc cư trú,
có cách thức làm ăn sinh hoạt tương đối khác nhau đã tạo nên nhưng cộng
đồng dân cư nhỏ, sống rải rác ở các địa hình cao – thấp, tương đối khác nhau
trong từng vùng lãnh thổ. Đây là một đặc điểm gây cản trở rất lớn tới việc đầu
tư và phát triển nguồn nhân lực nói chung và phát triển giáo dục nói riêng.
Cũng do điều kiện địa hình phức tạp nên mặc dù mật độ dân cư trong khu vực
thấp hơn so với bình quân cả nước (theo số liệu Tổng cục Thống kê năm 2010
mật độ vùng này là 117 người/ km 2 so với cả nước 263 người/ km 2) nhưng ở
đây vẫn thiếu diện tích đất canh tác, nhất là canh tác cây lương thực, dẫn đến
vẫn còn tình trạng du canh, du cư tự do và phát sinh hàng loạt các vấn đề xã
hội khác, gây ra những ảnh hưởng lớn tới việc phân bố và ổn định dân cư

25


×