Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 đến 6 tuổi ở trường mầm non hùng vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.47 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
“Chăm sóc sức khỏe ban đầu là chìa khóa để toàn thể các dân tộc trên
thế giới vào năm 2010 đạt được một trình độ cho phép họ sống một cuộc sống
phong phú về mặt xã hội và kinh tế”.
(Tuyên ngôn Alma - Ata 1978)[1]
Trẻ em là nguồn hạnh phúc to lớn của gia đình, là tương lai của mỗi
quốc gia dân tộc. Vì vậy, việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em đã trở thành nghĩa vụ
và trách nhiệm của toàn xã hội, là mối quan tâm hàng đầu, là trung tâm chú ý
của nhiều ngành khoa học, của các nhà nghiên cứu trẻ em trên nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam, việc quan tâm, chăm sóc đến trẻ
em đã được đề cập trong điều 21,22 Luật giáo dục (2005) đã xác định nhiệm
vụ và mục tiêu của giáo dục mầm non “Giáo dục mầm non thực hiện việc
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi” , “ Mục tiêu
của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
em vào học lớp một”.[9]
Có thể cho rằng, giáo dục mầm non sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình
phát triển nhân cách con người. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong lứa tuổi này là
phải quan tâm đầy đủ đến giáo dục thể chất trí tuệ và tinh thần cho trẻ như
C.Mác đã từng khẳng định: “Việc kết hợp giáo dục, trí tuệ và thể chất không
chỉ là một phương tiện tăng thêm sản xuất xã hội mà con là phương tiện duy
nhất để phát triển con người toàn diện”.[2]
Cơ thể trẻ đang trên đường hoàn thiện và phát triển, vì thế sức đề
kháng, sự dẻo dai của cơ thể còn yếu. Trong các mặt giáo dục trẻ thì việc giáo
dục thể chất phải là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, phải được tiến hành thường
xuyên, mạnh mẽ, toàn diện dưới sự quan tâm, là tránh nhiệm của toàn xã hội.

1



Ở lứa tuổi này cần hình thành kỹ xảo và thói quen vệ sinh, tổ chức chế
độ ăn uống hợp lý, đảm bảo ngủ ngon, phát triển các kỹ năng vận động,…[8].
Như vậy, một trong những biện pháp nâng cao thể lực cho trẻ là đảm bảo giấc
ngủ cho trẻ.
Giấc ngủ là một hiện tượng sinh lý, là một nhu cầu hết sức tự nhiên và
chính đáng của con người. Giấc ngủ là một hiện tượng ức chế mang tính chất
phòng chống hay bảo vệ tế bào thần kinh trên vỏ não. Một giấc ngủ sâu, đủ độ
dài là phương tiện cơ bản ngăn ngừa tình trạng quá mệt mỏi của hệ thần kinh
và của cơ thể. Những đứa trẻ ngủ theo qui luật bình thường, ngủ đủ thời gian,
ngủ ngon giấc thì tinh thần luôn sảng khoái, phát triển tốt. Còn những trẻ ngủ
bất thường, ngủ ít thì sự mệt mỏi thái quá càng dồn lại và sự hưng phấn xúc
cảm tiêu cực càng dễ phát sinh, điều đó thường thể hiện ở sự trái tính trái nết
của đứa trẻ. Giấc ngủ tốt vừa là một trong những điều kiện căn bản, vừa là
một trong những dấu hiệu của sức khỏe trẻ em.
Ở trẻ 5-6 tuổi, nhu cầu ngủ còn lớn hơn (12giờ/ngày), và giấc ngủ
thường diễn ra vào 2 thời điểm: ngày và đêm. Vai trò của hai giấc ngủ này rất
quan trọng. Thời gian dành cho giấc ngủ trưa tuy chỉ chiếm một lượng nhỏ,
bằng 1/5 thời gian giấc ngủ đêm, song nó lại mang một ý nghĩa đặc biệt đối
với cơ thể. Giấc ngủ trưa có tác dụng làm giảm bớt sự mệt mỏi do hoạt động
khôi phục lại tinh thần sức lực sau 1/2 ngày làm việc . Nhờ ngủ trưa như một
bước đệm, một quá trình chuyển tiếp mà các cơ quan nội tạng của trẻ được
nghỉ ngơi một cách đầy đủ, tạo điều kiện tốt cho quá trình sinh trưởng và phát
triển của cơ thể, giúp trẻ thực hiện tốt các hoạt động trong chế độ sinh hoạt
tiếp theo của một ngày. Vì vậy, việc tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ ở trường
mầm non là đáp ứng một nhu cầu hết sức tự nhiên và chính đáng của trẻ. Đây
cũng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của cô giáo mầm non
góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.

2



Nhưng trên thực tế trong các trường mầm non, việc tổ chức giấc ngủ trưa
cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn: khó khăn về cơ sở vật chất, khó khăn về số
lượng trẻ, cá nhân trẻ hiếu động, khó ngủ, giáo viên quá bận rộn…nên giấc
ngủ trưa của trẻ chưa đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ những lí do trên, tôi
mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng
cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Hùng Vương
thị xã Phúc Yên – tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ
5 - 6 tuổi ở trường mầm non Hùng Vương.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ
5 - 6 tuổi ở trường mầm non.
3.2. Khách thể nghiên cứu.
Giấc ngủ trưa của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Hùng Vương thị xã
Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
4.2. Tìm hiểu thực trạng ngủ trưa của trẻ và phát hiện một số nguyên
nhân làm ảnh hưởng đến giấc ngủ trưa của trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
4.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức góp phần nâng cao hiệu quả giấc
ngủ trưa cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
5. Giả thuyết khoa học.
Hiệu quả giấc ngủ trưa của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non có thể được
nâng cao nếu trong quá trình tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ, các cô giáo mẫu
giáo tiến hành đồng bộ một số biện pháp sau: cho trẻ tích cực tham gia vào

3



các hoạt động trong chế độ sinh hoạt từ lúc đón trẻ đến giờ ngủ trưa; chuẩn bị
giấc ngủ cho trẻ để loại trừ các tác nhân kích thích có ảnh hưởng đến giấc ngủ
trưa của trẻ; hàng ngày cho trẻ ngủ đúng giờ.
6. Phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài, tôi xin chỉ đề cập đến một số
biện pháp tổ chức nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường
mầm non Hùng Vương thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Phương pháp nghiên cứu.
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Đọc, phân tích, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề
tài để làm cơ sở lý luận của đề tài như: đặc điểm của hệ thần kinh trẻ, các qui
luật của quá trình thần kinh, khái niệm giấc ngủ, các thuyết về giấc ngủ,
những điều kiện làm xuất hiện và khuyếch tán ức chế ngủ, các giai đoạn
chuyển từ thức sang ngủ, những đặc điểm đặc trưng của giấc ngủ, nhu cầu về
thời gian ngủ của trẻ, ý nghĩa của giấc ngủ đối với sự phát triển thể lực của
trẻ.
7.2. Phương pháp quan sát.
Quan sát giấc ngủ trưa của trẻ và cách tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ của
giáo viên.
7.3. Phương pháp điều tra.
Sử dụng phiếu thăm dò đối với giáo viên về vấn đề liên quan đến giấc
ngủ cho trẻ.
7.4. Phương pháp thực nghiệm.
Áp dụng một số biện pháp tổ chức nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho
trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non.
7.5. Phương pháp thống kê toán học.
Thu thập, xử lý và phân tích số liệu nghiên cứu.


4


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Lược sử nghiên cứu vấn đề.
1.1. Những nghiên cứu trên thế giới.
Việc nghiên cứu một cách khoa học về giấc ngủ đã được bắt đầu từ giữ
thế kỷ XIX với những nghiên cứu về lý thuyết của giấc ngủ. Trong đó có lý
thuyết vỏ não của I.P.Paplôp mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Theo kết quả của một nghiên cứu của Viện sức khỏe quốc gia Mỹ
(NIH) thì những đứa trẻ ngủ đủ thời gian mỗi ngày sẽ ít bị béo phì, ít bị tai
nạn bất thường, có tâm trạng vui vẻ thoải mái và kết quả học tập tốt hơn.
Những đứa trẻ ngủ ít thuờng bị hiếu động thái quá, thiếu tập trung tư tưởng
trong học tập, hay cáu kỉnh vô cớ và đôi khi có biểu hiện rối loạn hành vi.
Ông Carl Hunt - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu về rối loạn giấc ngủ thuộc
NIH còn khẳng định: “Bất kể làm việc gì trẻ em cũng sẽ làm tốt hơn nếu
chúng có một giấc ngủ tổt”. NIH khuyên nên cho trẻ ngủ nhiều hơn, đồng thời
cung cấp nhiều thông tin để trẻ ngủ ngon hơn như: không nuôi động vật trong
phòng ngủ, trước lúc đi ngủ không nên xem ti vi, không nên ăn hoặc uống
nước có ga trước khi đi ngủ….[10]
Theo báo cáo của bác sĩ Brett R.Kuln, trường đại học Nebraska tại hội
nghị thường niên của Hiệp hội nghiên cứu giấc ngủ: khuyến khích trẻ ngủ
nhiều có thể trừ ác mộng và mộng du. Mặc dù người ta cho rằng tình trạng
này có liên quan đến một số yếu tố di truyền, nhưng tác giả cho rằng nhũng
trẻ bị rối loạn này có thể bị giảm các biểu hiện bệnh lý nếu tăng tổng số thời
gian ngủ. Tác giả khuyên các bậc cha mẹ, các cô giáo nên cho trẻ ngủ trưa,
cần cho trẻ ngủ nhiều hơn bằng cách không để ti vi và trò chơi điện tử trong
phòng ngủ của trẻ. Tăng tổng số thời gian ngủ làm giảm rõ rệt tần xuất các
cơn ác mộng.[10]
Trong thời gian gần đây, bác sỹ Mare Weissbluth - chuyên gia hàng


5


đầu về giấc ngủ của Mỹ đã đưa ra những tư liệu nghiên cứu về giấc ngủ của
trẻ từ sơ sinh đến tuổi vị thành niên. Trong nghiên cứu của mình ông đã đề
cập đến những vấn đề: “Để trẻ có giấc ngủ ngon”với phương pháp tìm ra
nguyên nhân và giả thuyết những rối loạn giấc ngủ ở trẻ.[11]
Với những nghiên cứu trên ta thấy: vấn đề giấc ngủ và chất lượng giấc
ngủ được các tác giả quan tâm từ rất sớm, song đối tượng chính của họ
thường là những trẻ em có vấn đề về giấc ngủ với hoàn cảnh kinh tế xã hội
khác nhau. Chính xuất phát từ đối tượng trên mà một số biện pháp đảm bảo
giấc ngủ ngon cho trẻ còn chưa mang tính toàn thể và khả thi đối tượng
nghiên cứu của đề tài này.
1.2. Những nghiên cứu trong nước.
Về giấc ngủ của trẻ đã có những công trình nghiên cứu như sau:
-“Báo cáo kết quả điều tra tình hình giấc ngủ của trẻ ở một số nhà trẻ ở
Hà Nội” - Vũ Thị Chín, Nguyễn Thị Thanh Vân, Nguyễn Văn Lai, Nguyễn
Sinh Thảo - Kỷ yếu NCKH về NDT lần thứ III - 1986.
- “Tổ chức ăn, ngủ trưa ở trường mẫu giáo” - Đỗ Xuân Hòa -Khoa
giáo dục mẫu giáo - 1982.
- “Sự cần thiết đảm bảo giấc ngủ cho trẻ” - Lê Thị Ngọc Ái - Tập san
GDMN 4/1990.
- “Báo cáo tổng kết phần: vệ sinh chăm sóc và vệ sinh phòng bệnh” Lê Thị Ngọc Ái.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề này không
nhiều và chủ yếu là tổng kết, đánh giá tình hình giấc ngủ trưa của trẻ ở trường
mầm non, chưa quan tâm, đi sâu vào cách thức tổ chức giấc ngủ trưa như thế
nào để đạt hiệu quả cao. Hơn thế nữa, đó là nghiên cứu được thực hiện từ
những năm 1975 - 1991, cho nên giá trị thực tiễn cũng giảm dần.
Do tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu và những nảy sinh trên thực


6


tiễn, tôi thấy việc nghiên cứu “ Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu
quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non” là cấp thiết.
2. Đặc điểm của hoạt động thần kinh cấp cao ở trẻ mẫu giáo.
Trên cơ sở sự phát triển của hệ thần kinh mà hoạt động thần kinh cấp
cao của trẻ em được phát triển theo lứa tuổi. Sự phát triển của hệ thần kinh có
liên hệ chặt chẽ với sự phát triển thể chất, phụ thuộc vào ảnh hưởng của ngoại
cảnh, của giáo dục và đặc điểm cá thể trẻ.
Hệ thần kinh có vai trò vô cùng quan trọng trong cơ thể. Nó là trung
tâm điều khiển hoạt động của các cơ quan và hệ cơ quan trong cơ thể, giúp
chúng hoạt động thống nhất, nhịp nhàng. Giấc ngủ trẻ em hình thành và ổn
định dần dần theo sự phát triển hệ thần kinh của trẻ. Với trẻ nhỏ, hệ thần kinh
chưa hoàn thiện. Đến cuối tuổi mẫu giáo, hệ thần kinh mới hoàn thiện về cấu
tạo cơ bản, chưa hoàn thiện về chức năng: quá trình hưng phấn lớn hơn quá
trình ức chế, quá trình phân tán lớn hơn quá trình tập trung cho nên trẻ dễ mệt
dưới ảnh hưởng của những tác động mạnh, không liên tục và trẻ dễ bị ảnh
hưởng của môi trường bên ngoài. Trẻ càng nhỏ thì hệ thần kinh càng non nớt
và nhanh chóng bị mệt mỏi. Trong các công trình nghiên cứu về hoạt động
thần kinh, PapLôp đã nhấn mạnh đến một điều là các trung khu thần kinh đặc
biệt chóng mệt. Nếu không kịp thời cho các trung khu đó nghỉ thì sẽ gây ra
những rối loạn nghiêm trọng của hệ thần kinh. PapLôp cũng đã chứng minh là
trong trường hợp này sẽ diễn ra quá trình bảo vệ thần kinh, đó là quá trình ức
chế; sự ức chế đó còn gọi là ức chế bảo vệ. Hiện tượng ngủ là một thí dụ về
ức chế bảo vệ. Những công trình nghiên cứu của các nhà sinh lí học khác
cũng chứng minh là hệ thần kinh trung ương phải được nghỉ ngơi trước tiên,
sự nghỉ ngơi theo chu kỳ đối với hệ thần kinh có một ý nghĩa rất lớn để bảo vệ
các tế bào thần kinh khỏi bị suy nhược. Do vậy cần tổ chức cho trẻ giấc ngủ

ngon.

7


Như vậy ở lứa tuổi này, hệ thần kinh là một cơ quan chưa hoàn thiện
phải điều khiển các cơ quan khác chưa hoàn thiện, trong khi đó vẫn liên tục
chịu những tác động mới từ môi trường là vô cùng bất lợi. Vấn đề vệ sinh hệ
thần kinh - giữ cho hệ thần kinh luôn ở trạng thái hưng phấn thích hợp thông
qua tổ chức chế độ sinh hoạt hợp lý (trong đó có tổ chức giấc ngủ) cho trẻ là
vô cùng quan trọng.
3. Các qui luật của hoạt động thần kinh cấp cao.
Toàn bộ hoạt động thần kinh cấp cao được xây dựng trên cơ sở sự hoạt
động của hai quá trình thần kinh cơ bản là hưng phấn và ức chế. Sau đây là
một số quy luật cơ bản:
3.1. Quy luật chuyển từ hưng phấn sang ức chế.
Theo PapLôp, bất cứ một kích thích nào khi đã chạm đến một điểm
nhất định của bán cầu đại não, dù ý nghĩa của nó lớn hay nhỏ đối với đời
sống, nhưng nếu kích thích ấy không đi đôi với kích thích đồng thời những
điểm khác thì nhất định sớm hay muộn nó sẽ dẫn đến tình trạng thái buồn ngủ
và dẫn đến giấc ngủ. Trong cuộc sống hàng ngày, qui luật này được thể hiện
rất rõ ràng: tiếng ru nhè nhẹ, kéo dài của người mẹ làm đứa trẻ ngủ dần.
Quá trình chuyển từ hưng phấn sang ức chế có thể diễn có thể diễn ra
nhanh chóng, đột ngột, hoặc xảy ra dần dần qua một giai đoạn quá độ.
Quy luật này có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ các tổ chức thần
kinh ở vỏ não và toàn bộ cơ thể.[7, trang 60, 61]
3.2. Quy luật tương quan giữa cường độ kích thích và cường độ
phản xạ.
Trong một phản xạ có điều kiện, kích thích có cường độ càng mạnh thì
cường độ của phản xạ càng lớn. Nhưng khác với quy luật chuyển từ hưng

phấn sang ức chế, quy luật này chỉ có tính chất tương đối, nghĩa là không
đúng trong mọi trường hợp. Nếu kích thích quá yếu (dưới ngưỡng), hoặc quá

8


mạnh (trên ngưỡng) thì kích thích càng tăng, phản xạ càng giảm (do xuất hiện
lực ức chế vượt hạn).[7, trang 61].
3.3. Quy luật lan tỏa và tập trung.
Khi nghiên cứu quy luật hình thành quá trình hưng phấn và ức chế trên
vỏ não, PapLôp đã thấy rằng những quá trình đó không dừng lại ở tại điểm
mà tại đó chúng sinh ra, mà chúng lan rộng ra mọi hướng trên vỏ não
(khuyếch tán hay lan tỏa). Mức độ lan rộng phụ thuộc vào hưng tính của các
tiêu điểm trên vỏ não và vào cường độ kích thích tác động. Sau khi đã lan
rộng ra xunh quanh chúng ta lại thu hẹp dần phạm vi hoạt động, cuối cùng rút
về vị trí xuất phát, đó là hiện tượng tập trung.
Sự lan tỏa tập trung của hưng phấn và ức chế trên vỏ não là hiện tượng
mang tính chất quy luật - qui luật lan tỏa và tập trung.[7, trang 61].
3.4. Quy luật cảm ửng qua lại.
Cảm ứng là khả năng gây ra quá trình đối lập ở xung quanh (không
gian) hoặc tiếp sau (thời gian) của các quá tình thần kinh cơ bản (hưng phấn
và ức chế).
Theo PapLôp, trên vỏ não có hai loại cảm ứng:
- Cảm ứng dương tính: xảy ra khi sự phát sinh ức chế gây nên hưng
phấn.
- Cảm ứng âm tính: xảy ra khi sự phát sinh hưng phấn gây nên ức chế.
Như vậy, một quá trình thần kinh (hưng phấn hoặc ức chế) có thể vận
động theo qui luật lan tỏa và tập trung, hoặc theo qui luật cảm ứng qua lại,
điều đó tùy thuộc và nhiều yếu tố, nhưng trước hết nó phụ thuộc vào trạng
thái hoạt động của trung tâm bị kích thích. Nếu trạng thái hoạt động của trung

tâm đó yếu, thì kích thích vào trung tâm ấy sẽ gây ra hiện tượng lan tỏa. Nếu
trạng thái hoạt động của trung tâm ấy mạnh hơn, tập trung hơn thì khi kích
thích sẽ gây hiện tượng cảm ứng. Nếu hoạt động của trung tâm ấy mạnh quá

9


mức bình thường thì lại gây ra lan tỏa.[7, trang 62, 63]
3.5 .Quy luật hoạt động của hệ thống vỏ não.
Trong đời sống, các kích thích không tồn tại một cách riêng lẻ, thường
chúng tạo thành một tổ hợp kích thước đồng thời hoặc nối tiếp. Mỗi sự vật là
một tổ hợp đồng thời của nhiều kích thích: thị giác, xúc giác, khứu giác, thính
giác …
Để thích ứng với môi trường não bộ cần phải hình thành khả năng phản
ứng lại toàn bộ những hệ thống kích thích. Phản ứng của cơ thể cũng không
diễn ra một cách riêng lẻ, mà bất kỳ một hoạt động nào đều là những tổ hợp
hay hệ thống hoạt động của nhiều hệ thống.
Vậy: hoạt động tổng hợp của vỏ não cho phép hợp nhất những kích
thích riêng lẻ, những phản ứng riêng lẻ thành một tổ hợp hoàn chỉnh hay
thành những hệ thống, gọi là hệ thống trong hoạt động của vỏ não.
Một trong những biểu hiện quan nhất của tính hệ thống trong hoạt động
của vỏ não là hình thành “định hình động lực”. Định hình động lực là một hệ
thống phản xạ có điều kiện được lặp lại theo một trình tự nhất định và theo
một khoảng thời gian nhất định trong một thời gian dài. Sau đó, chỉ cần một
phản xạ đầu xảy ra là toàn bộ những phản xạ tiếp theo sẽ xảy ra theo lối “dây
chuyền”, nghĩa là một kích thích có thể đại diện cho toàn bộ các kích thích
khác để gây phản xạ. Định hình động lực (động hình) là cơ sở của những
hành động tự động hóa. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong công tác giáo
dục, chăm sóc trẻ.[7, trang 63, 64].
4. Giấc ngủ và ý nghĩa của giấc ngủ.

4.1. Khái niệm và bản chất sinh lý của giấc ngủ.
4.1.1. Khái niệm về giấc ngủ.
Ngủ là một trạng thái nghỉ ngơi của cơ thể, khi đó các quá trình sinh lý
đều giảm mức độ. Giấc ngủ đảm bảo khôi phục khả năng phân tích và tổng

10


hợp của vỏ não, khả năng làm việc của tế bào não nói riêng và cơ thể nói
chung. Chính vì vậy, giấc ngủ là nhu cầu sinh lý của con người.[7, trang 72].
Một giấc ngủ ngon phải đảm bảo các yếu tố:
- Ngủ nhanh.
- Ngủ say (ngủ sâu).
- Ngủ đủ thời gian cần thiết.
4.1.2. Bản chất sinh lý của giấc ngủ.
Ngủ là một nhu cầu sinh lý bình thường của cơ thế, có tác dụng bảo vệ
hệ thần kinh.
Theo PapLôp, tế bào thần kinh làm việc kéo dài và căng thẳng sẽ mệt
mỏi, suy nhược. Nếu làm việc thái quá thì các tế bào sẽ bị tổn thương và hoạt
động của chúng sẽ bị rối loạn trầm trọng. Lúc này vỏ não sẽ có một phản ứng
tự vệ chống lại sự mệt mỏi và suy nhược của tế bào thần kinh: Trong vỏ não
phát sinh một quá trình ức chế, ức chế này lan rộng dần khắp vỏ não và lan
xuống cả phần dưới vỏ, làm xuất hiện giấc ngủ
Như vậy cơ sở sinh lí của giấc ngủ là hiện tượng khuyếch tán của một
quá trình ức chế lan truyền trong toàn bộ vỏ não và các phần dưới não.
4.2. Ý nghĩa của giấc ngủ.
Trước kia, người ta chỉ chú ý đến sự thức mà ít nói đến sự ngủ. Mãi vài
chục năm gần đây, khi điện não ra đời,sự ngủ mới được nghiên cứu tương đối
đầy đủ. Thực ra ông cha ta nói đã từ lâu: “Ăn được, ngủ được là tiên. Không
ăn, không ngủ mất tiền thêm lo”.

Thức và ngủ là hai trạng thái có liên quan mật thiết với nhau.Sự luân
phiên đều đặn giữa ngủ và thức là điều kiện cần thiết của hoạt động sống bình
thường của cơ thể con người. Thức tích cực sẽ đảm bảo cho giấc ngủ say,
ngược lại giấc ngủ say và đủ độ dài lại đảm bảo trạng thái tích cực khi cơ thể
chuyển sang trạng thái thức. Vì trong giấc ngủ, quá trình đồng hóa, thu nạp

11


các chất vào cơ thể chiếm ưu thế, phục hồi sức làm việc của cơ thể, đặc biệt là
vỏ não.
Giấc ngủ trưa cũng như giấc ngủ đêm là một loại nghỉ ngơi cơ bản và
không có gì thay thế được.Thiếu ngủ còn có hại cho cơ thể hơn thiếu ăn.
Người ta chỉ có thể không ngủ tối đa 4-5 ngày, sau đó có muốn hay không
cũng ngủ thiếp đi.
Trẻ mẫu giáo, thời gian thức được kéo dài hơn so với các lứa tuổi
trước. Trong thời gian thức này của trẻ dần xuất hiện ngày càng nhiều các
hoạt động ăn - chơi - học tập… Điều đó đồng nghĩa với mật độ vận động, sự
phát huy năng lượng - năng lực cá nhân ngày càng lớn. Song nếu không tổ
chức các hoạt động trên một cách hợp lý, khoa học thì sẽ mâu thuẫn với khả
năng về sức lực của trẻ còn nhiều hạn chế. Trẻ chưa thể tham gia liên tục vào
các hoạt động một cách tích cực, có hiệu quả mà không cần có những phút
nghỉ ngơi với đúng nghĩa của nó. Ngay cả đối với bản thân của chúng ta những người trưởng thành và đang ở trong sung mãn nhất về thể lực cũng cần
những giờ phút nghỉ ngơi đó biết bao.
Trong cuốn sách bất hủ “Nghiên cứu di truyền các thiên tài” của mình
tiến sĩ Liwis M.Terman đã trình bày một phương pháp thử trí thông minh do
chính ông tìm ra vào năm 1925. Khi so sánh 600 trẻ có chỉ số IQ >140 và
2700 trẻ khác với IQ < 140, ông nhận thấy trẻ thiên tài có giấc ngủ dài hơn.
Một khảo sát khác của ông tiến hành trên 5500 trẻ em Nhật vào hai năm sau
cũng có kết quả tương tự. Sau này, những nghiên cứu riêng biệt về giấc ngủ

của Terman cũng cho thấy thông minh đi đôi với giấc ngủ. Năm 1983, phòng
thí nghiệm giấc ngủ ở Canada đã khẳng định nghiên cứu của Terman là
đúng:Trẻ có chỉ số IQ lớn thì tổng lượng thời gian ngủ của chúng dài. Các
nghiên cứu của Canada và Mỹ đều thống nhất rằng trẻ thông minh có giấc
ngủ dài hơn so với trẻ cùng lứa tuổi.

12


Mới đây, một nghiên cứu khác của Đại học Lousville về giấc ngủ đối
với trẻ sinh đôi trẻ có kiểu ngủ dài và điểm số cao hơn về tập đọc, từ vựng,
đọc hiểu…so với trẻ có kiều ngủ ngắn.Rõ ràng, giấc ngủ với trẻ em là rất
quan trọng.Các nghiên cứu đều chứng minh có sự liên quan chặt chữ giữa
giấc ngủ và khả năng học tập.
Giấc ngủ trưa với thời gian chỉ bằng khoảng 1/5 thời gian của giấc ngủ
đêm, tuy khá ngắn ngủi nhưng lại rất cần thiết và có ý nghĩa lớn lao đối với
sức khỏe, tâm lý, trí tuệ của mỗi con người, đặc biệt với trẻ em ở lứa tuổi mẫu
giáo. Trẻ có thời lượng ngủ đủ thì tỉnh táo, tiếp thu hết các thông tin xung
quanh như một miếng bọt biển khô kiệt thấm nước. Đối chiếu tổng thời lượng
ngủ với khí chất của trẻ thấy: các em nhóm dễ quản lý có thời lượng ngủ lớn
hơn các em nhóm khó quản lý là 1h30’, gần tương đương một giấc ngủ ngắn
ban ngày, trong khi giấc ngủ đêm có thể coi như bằng nhau. Như vậy giấc ngủ
trưa có liên quan đến khí chất của trẻ. Rối loạn giấc ngủ có ảnh hưởng nhiều
đến các kiểu ngủ: tư chất thông minh; đến sự rèn luyện; học tập và đến cả
hiệu suất ở nhà trường của các em.
Chúng ta không thể coi giấc ngủ trưa là giấc ngủ phụ, là phần bù cho
giấc ngủ đêm. Giấc ngủ trưa là giấc ngủ độc lập nếu xét cả về mặt thời gian
và chức năng. Nó tuân theo qui luật tự nhiên, theo nhịp điệu sinh học. Hơn thế
nữa, nó còn là một nhu cầu bản năng, nhu cầu xã hội vì nó thỏa mãn sự phát
triển của con người, góp phần nâng cao sức tái sản xuất xã hội. Giấc ngủ

giống như việc nuôi con. Có nhiều cách nuôi con, nhưng trẻ chỉ cần một cách
nào đó giúp có nhiều calo để chóng lớn. Chế độ ăn nào không cung cấp đầy
đủ dinh dưỡng hoặc gây mất cân bằng dinh dưỡng thì chế độ ăn đó không tốt,
có ảnh hưởng xấu đến sức lớn và phát triển của trẻ em. Điều này cũng đúng
với các kiểu ngủ không ngon giấc. Điều quan trọng là phải tập cho trẻ ngủ
đúng phương pháp, phải có biện pháp tổ chức ngủ khoa học.[11,7 (trang 75).

13


4.3. Các thuyết về giấc ngủ.
4.3.1.Thuyết độc tố Lêzan và Pêzôn.
Theo thuyết này, trong quá trình trao đổi chất, cơ thể tích lũy nhiều chất
gây ngủ.Khi nồng độ các chất đó đạt tới một mức độ nhất định, nó sẽ tác động
tới tế bào thần kinh gây buồn ngủ.Trong khi ngủ, độc tố gây ngủ sẽ được thải
dần ra ngoài cơ thể và từ đó sẽ làm giảm ảnh hưởng đối với cơ thể, dần dần
nó cũng hết tác động đến hệ thần kinh. Khi đó, khả năng làm việc của não bộ
sẽ được khôi phục dẫn đến hiện tượng tỉnh giấc.[7, trang 72, 73].
4.3.2. Thuyết trung khu ngủ.
Vào những năm 1916 - 1917, ở Châu Âu nạn dịch về viêm não gây
ngủ. Vụ dịch này gây ra hai hiện tượng mâu thuẫn: ngủ liên miên và không
ngủ được. Do vậy gây ra hiện tượng tử vong cao.
Khi mổ não của người chết vì nhiễm dịch trên, người ta thấy ranh giới
của não giữa và não trung gian bị tổn thương. Từ đó người ta đi đến kết luận
rằng: ở vùng này có trung khu điều khiển trạng thái thức - ngủ của cơ thể.
Chẳng hạn khi bị tổn thương ở trung khu gây ngủ thì cơ thể sẽ không ngủ
được và ngược lại.[7, trang 73].
4.3.3. Thuyết về giấc ngủ của PapLôp.
Các tế bào thần kinh của vỏ não hoạt động trong ngày dần dần mệt mỏi
và làm xuất hiện ức chế.Lúc đầu ức chế xuất hiện ở một nhóm tế bào hay một

vùng nào đó, hoặc khuyếch tán ra các vùng xung quanh. Và nếu không có gì
cản trở thì ức chế đó lan tỏa ra khắp các cơ quan dưới vỏ và dẫn đến giấc ngủ.
Trong quá trình ngủ, các tế bào của vỏ não không phải ngừng hoạt
động hoàn toàn mà nó chuyển sang dạng hoạt động khác nhằm đảm bảo cho
quá trình chuyển hóa đặc trưng của tế bào vỏ não với mục đích khôi phục khả
năng làm việc của tế bào thần kinh. Khi tế bào thần kinh đã khôi phục được

14


khả năng làm việc thì vỏ não chuyển sang trạng thái hoạt động, cơ thể tỉnh
giấc.[7, trang 73, 74]
4.4. Những điều kiện để xuất hiện và khuyếch tán ức chế ngủ.
Trong điều kiện tự nhiên của giấc ngủ, sự khuyếch tán có thể xảy ra do
3 nhân tố:
- Hoạt động thiên biến vạn hóa trong ngày của các vùng phân tích quan
trên vỏ não đã làm giảm sút khả năng làm việc, gây trạng thái mệt mỏi trong
các vùng đó, làm cho các vùng đó có xu hướng chuyển sang trạng thái ức chế.
Chính vì thế ở người lao động mệt mỏi thì đêm dễ ngủ thiếp đi và ngủ ngon.
Ở những trẻ em khỏe mạnh, giấc ngủ hay là sự ức chế trước hết phát sinh
trong các cơ quan phân tích vận động và vận động ngôn ngữ khi chúng mệt
mỏi.
- Sự loại trừ các kích thích bên ngoài làm cho tính cường (trương lực)
của các tế bào thần kinh giảm sút và dễ chuyển sang trạng thái ức chế. Vì vậy,
khi chuẩn bị cho trẻ ngủ nên cởi bớt quần áo, đặt trẻ ở tư thế thoải mái, tắt bớt
đèn, vặn nhỏ đài…
- Giấc ngủ còn là kết quả của một quá trình phản xạ có điều kiện, thành
lập trên các tác nhân thời gian và chế độ sống của động vật và con người. Nói
cách khác là xây dựng trên sự xen kẽ đều đặn và đúng kì hạn của hoạt động
ban ngày và sự ngừng hoạt động ban đêm, kèm theo một số động tác quen

thuộc mà ta vẫn gọi là “chuẩn bị đi ngủ”. Vì vậy cần tạo cho trẻ thói quen đi
ngủ đúng giờ với những động tác chuẩn bị quen thuộc.[7, trang 74].
4.5. Các giai đoạn chuyển từ thức sang ngủ.[7, trang 74, 75].
Tùy từng cơ thể, từng hoàn cảnh, giấc ngủ có thể say nhất vào thời gian
đầu, giữa hoặc cuối. Nhưng nhìn chung, việc chuyển từ “thức” sang “ngủ”
đều qua một số giai đoạn giống nhau.
Mỗi giai đoạn của giấc ngủ được qui định bằng sự đáp ứng của cơ thể

15


với mỗi tác nhân kích thích có cường độ khác nhau.Lúc thức với những tác
nhân kích thích khác nhau có thể có phản ứng khác nhau.
4.5.1. Giai đoạn san bằng (thiu thiu ngủ).
Mọi kích thích đều có tác dụng gần như nhau, cơ thể đều có phản ứng
giống nhau.
4.5.2. Giai đoạn trái ngược.
Các kích thích yếu trở nên có tác dụng mạnh và ngược lại.
4.5.3. Giai đoạn cực kỳ trái ngược.
Tác nhân gây hưng phấn lúc thức trở thành gây ức chế, ngược lại kích
thích gây ức chế lại có tác dụng gây hưng phấn.
4.5.4. Giai đoạn ức chế hoàn toàn (ngủ say)
Mọi tác nhân kích thích dù mạnh hay yếu đều không làm xuất hiện
phản ứng, cơ thể không trả lời kích thích.Các tế bào thần kinh trên vỏ não ở
trạng thái ức chế hoàn toàn.
4.6. Những đặc điểm đặc trưng của giấc ngủ.
Giấc ngủ được đặc trưng bởi các điểm sau:
- Giảm tính nhạy cảm của cơ quan cảm giác.
- Giảm nhịp tim, nhịp hô hấp.
- Giảm hoạt động của các tuyến tiêu hóa,bài tiết.

- Giảm trương lực cơ (bắp cơ mềm, đa số cơ xương dãn).
4.7. Thời gian ngủ của trẻ.
Thời gian ngủ chiếm 1/3 đời người, nhưng phân bố không đồng đều ở
các lứa tuổi, và nó phụ thuộc vào khả năng làm việc của tế bào thần kinh. Trẻ
càng nhỏ thời gian ngủ càng nhiều, giấc ngủ ngắn, số lần ngủ nhiều:

16


Thời gian ngủ
Lứa tuổi

Số lần ngủ

3–6
6 – 12
12 – 18
18 – 36
36 – 72

4
3
2
1
1

Ngày
7h30
6h00
4h30

3h00
2h00
[6, trang 89]

Đêm

Một ngày

9h30
10h00
10h30
10h30
10h00

17h00
16h00
15h00
13h30
12h00

Bảng 1: Số lần và thời gian ngủ của trẻ theo lứa tuổi.
5. Thực trạng giấc ngủ trưa của trẻ ở trường mầm non Hùng Vương –
Vĩnh.
Một số nét khách thể nghiên
Phúc Yên là một thị xã đang trên đà phát triển nên việc chăm sóc giáo
dục cho thế hệ trẻ, đặc biệt là trẻ em mẫu giáo ngày càng được quan tâm
nhiều hơn. Qua thời gian thực tập tại trường mầm non Hùng Vương tôi đã
được tiếp xúc và trò chuyện với giáo viên, phụ huynh và trẻ trong trường, đặc
biệt là các giáo viên đâng giảng dạy tại các lớp mẫu giáo lớn; quá trình tìm
hiểu tôi được biết:

- Quá trình thành lậptrường :
Trường mầm non Hùng Vương được thành lập ngày 30/6/ 2006, trường
mầm non Hùng Vương thuộc tổ 10, Phường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc.
- Cơ cấu của trường :
+ Tổng số cháu: 509 cháu
+ Tổng số lớp : - 3 lớp mẫu giáo lớn : A,B,C
- 4 lớp mẫu giáo nhỡ : A, B, C, D
- 3 lớp mẫu giáo bé : A, B, C
- 2 lớp nhà trẻ : A, B

17


+ Tổng số cán bộ giáo viên : 41
+ Ban giám hiệu: 3 người
- Thuận lợi:
+ 12/12 lớp thực hiện chương trình “ Đổi mới hình thức chăm sóc giáo
dục trẻ”. Về đội ngũ 100% giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn nghiệp vụ sư
phạm, số lượng giáo viên giỏi các cấp đều tăng hàng năm, hiện nay trường có
2 giáo viên giỏi cấp tỉnh.
+ Về điều kiện vật chất, trang thiết bị dạy học: Trẻ được học trong ngôi
trường khang trang, thoáng mát, sạch sẽ với đầy đủ phòng học, trang thiết bị
nhằm phục vụ công tác chăm sóc và giáo dục trẻ.
+ Trẻ được đến trường đầy đủ, được học tập và vui chơi cùng bạn bè,
cô giáo. Các cháu ngoan, khoẻ, tích cực tham gia các hoạt động do cô tổ
chức,tỷ lệ Bé ngoan- Bé chuyên cần đạt trên 98%( số liệu năm học 20112012). Đến trường mầm non trẻ được các cô tận tình dạy dỗ, chăm sóc từ việc
học hành, ứng xử trong giao tiếp trong mối quan hệ bạn bè, đến việc chăm lo
cho các con từng giấc ngủ.
- Khó khăn:

Do trang thiết bị phục vụ giấc ngủ cho trẻ còn thiếu: trẻ chưa có phòng
ngủ riêng, hai trẻ dùng chung một chăn, mỗi trẻ chưa có gối riêng, mùa đông
chăn của trẻ còn mỏng,…. nhận thức của giáo viên về cách thức tổ chức giấc
ngủ cho trẻ còn nhiều hạn chế: giáo viên chưa cho trẻ tham gia các hoạt động
trong chế độ sinh hoạt, chưa làm vệ sinh cho trẻ trước khi ngủ, chưa tổ chức
cho trẻ ngủ vào một giờ nhất định…..do đó chưa loại trừ được các tác nhân
kích thích có ảnh hưởng đến giấc ngủ của trẻ.[11].

CHƯƠNG II - KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

18


I. Thực trạng giấc ngủ trưa và thực trạng việc tổ chức giấc ngủ trưa cho
trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non
1. Tiêu chí đánh giá thực trạng giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường
mầm non.
Tôi đã tiến hành nghiên cứu 90 cháu mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) của trường
mầm non Hùng Vương, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là một trong
những trường có nhiều điều kiện thuận lợi cho chúng tôi tiến hành.
1.1 Cách tiến hành.
Tôi đã tiến hành quan sát các buổi ngủ trưa của trẻ và đánh giá hiệu quả
giấc ngủ trưa của trẻ theo 3 tiêu chí:
- Tiêu chí 1: Ngủ nhanh.
- Tiêu chí 2: Ngủ sâu.
- Tiêu chí 3: Ngủ đủ thời gian cần thiết.
Mỗi một tiêu chí của giấc ngủ được đánh giá theo 3 mức độ:
- Mức độ 1: 3 điểm
- Mức độ 2: 2 điểm
- Mức độ 3: 1 điểm

Cụ thể:
Tiêu chí 1: “ngủ nhanh”
- Mức độ 1: Trẻ ngủ sau 15 phút
- Mức độ 2: Trẻ ngủ sau 30 phút
- Mức độ 3: Trẻ ngủ sau 45 phút
Tiêu chí 2: “ngủ sâu”
- Mức độ 1: Giấc ngủ không bị gián đoạn, không xảy ra hiện tượng bất
thường của giấc ngủ (mộng du, hoảng sợ khi ngủ, giẫy giụa quá nhiều khi
ngủ, xoay lật người nhiều lần).
- Mức độ 2: Giấc ngủ bị gián đoạn hoặc xuất hiện những hiện tượng bất

19


thường của giấc ngủ.
- Mức độ 3: Giấc ngủ bị gián đoạn và có xảy ra những hiện tượng bất
thường của giấc ngủ.
Tiêu chí 3: “ ngủ đủ thời gian cần thiết”
- Mức độ 1: Tổng thời lượng ngủ của trẻ đạt từ 120 phút đến 150 phút.
- Mức độ 2: Tổng thời lượng ngủ của trẻ đạt từ trên 60 phút đến dưới
120 phút.
- Mức độ 3: Tổng thời lượng ngủ của trẻ không đạt 60 phút.
Dựa trên số điểm mà trẻ đạt được ở 3 tiêu chí trên, tôi đánh giá hiệu
quả giấc ngủ trưa của trẻ theo 3 loại:
- Loại tốt: Nếu trẻ đạt từ 7- 9 điểm.
- Loại trung bình : Nếu trẻ đạt được từ 4- 6 điểm .
- Loại yếu: Nếu trẻ đạt 3 điểm.
1.2. Kết quả nghiên cứu.
Sau khi quan sát giấc ngủ trưa của trẻ, tôi thu được kết quả như sau:
- Loại tốt: có 36/90 trẻ (chiếm 40 %).

- Loại trung bình : có 49/90 trẻ (chiếm 54,44%).
- Loại yếu: có 5/90 trẻ (chiếm 5,56%).
Điểm trung bình của trẻ đạt: = 6.04
Kết quả này được thể hiện qua bảng 2:
Loại
Kết quả
Số lượng trẻ
%

Tốt

Trung bình

Yếu

X

36
40

49
54,44

5
5,56

90
100

Bảng 2: Kết quả khảo sát thực trạng giấc ngủ trưa của trẻ 5 - 6 tuổi ở

trường mầm non .
Qua kết quả điều tra trên tôi thấy vẫn có một tỉ lệ đáng kể trẻ có giấc

20


ngủ trưa ở loại trung bình và yếu (54/90 trẻ chiếm 60 %). Kết quả điều tra
trên đã gợi ý cho chúng tôi thấy sự cần thiết phải đưa ra một số biện pháp tổ
chức nhằm nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ ở trường mầm non, qua đó
giúp trẻ phát triển về mặt thể chất và trí tuệ.
2. Thực trạng tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ ở trường mầm non.
Với mục đích tìm hiểu thực trạng tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ ở trường
mầm non tôi đã tiến hành bằng cách sử dụng phiếu thăm dò đối với 25 giáo
viên đang trực tiếp chăm sóc trẻ ở trường mầm non Hùng Vương thị xã Phúc
Yên - tỉnh Vĩnh Phúc. Kết quả như sau:
Câu hỏi 1: Theo chị, giấc ngủ trưa có vai trò như thế nào đối với trẻ?
- Có 22/25 (chiếm 88%) số giáo viên trả lời là rất quan trọng.
- Có 3/25 (chiếm 12%) số giáo viên trả lời là quan trọng.
- Không có giáo viên nào trả lời bình thường và không quan trọng.
Điều tra này thể hiện qua bảng 3:
Bình thường và
không quan trọng
Số phiếu(Tổng 25)
22/25
3/25
0/25
Số phần trăm (%)
88
12
0

Bảng 3: Kết quả giấc ngủ trưa có vai trò như thế nào với trẻ.
Vai trò

Rất quan trọng

Quan trọng

Kết quả đó cho thấy rằng: hầu hết các giáo viên đã hiểu được vai trò
của giấc ngủ trưa đối với cơ thể trẻ. Nhận thức đó là cơ sở và động lực trong
quá trình chăm sóc trẻ.
Trả lời câu hỏi 2:Chị đã tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ như thế nào?
*Cho trẻ tham gia các hoạt động trong chế độ sinh hoạt.
- Có 20/25(chiếm 80%) số giáo viên thực hiện với mức độ thường
xuyên.
- Có 5/25 (chiếm 20%) số giáo viên không có câu trả lời.
* Làm vệ sinh cho trẻ trước khi ngủ.

21


- Có 14/25 (chiếm 56%) số giáo viên thực hiện với mức độ thường
xuyên.
- Có 7/25 (chiếm 28%) số giáo viên thực hiện với mức độ thỉnh thoảng.
- Có 4/25 ( chiếm 16%) số giáo viên không có câu trả lời.
* Cho trẻ ngủ vào một giờ nhất định.
- Có 25/25 (chiếm 100%) số giáo viên thực hiện với mực độ thường
xuyên.
- Không có giáo viên nào trả lời thỉnh thoảng hoặc không bao giờ thực
hiện.
Điều tra này được thể hiện qua bảng 4:

Phương Cho trẻ tham gia
pháp tổ vào các hoạt động
chức trong chế độ sinh
hoạt
Thườn Không
Mức độ
g
có câu
xuyên
trả lời
Số phiếu
20/25
5/25
(Tổng 25)
Số phần
trăm (%)
80
20

Làm vệ sinh cho trẻ

Ngủ vào một giờ

Thườn
g
xuyên

Bình
thườn
g


Không
có câu
trả lời

Thường
xuyên

Thỉnh
thoảng

14/25

7/25

4/25

25/25

0/25

56

28

16

100

0


Bảng 4: Kết quả việc tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ
Kết quả này cho thấy: Trong quá trình tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ,
phần lớn giáo viên đã thường xuyên cho trẻ tham gia các hoạt động trong chế
độ (có 20/25 giáo viên, chiếm 80%) làm vệ sinh cho trẻ (14/25 giáo viên
chiếm 56%) và cho trẻ ngủ vào một giờ nhất định (25/25 giáo sinh viên,chiếm
100%).
Trả lời câu hỏi 3:Tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ ở trường mầm non
hiện nay có những khó khăn gì?
- Có 18/25 (chiếm 72%) số giáo viên trả lời là khó khăn về cơ sở vật

22


chất.( số lượng chăn, gối không đủ cho từng trẻ, nhiều chiếu đã hỏng, chăn
mùa đông cho trẻ con mỏng……).
- Có 7/25 (chiếm 28%) số giáo viên trả lời là khó khăn về số lượng trẻ.
(số lượng trẻ quá nhiều)
- Ngoài ra các giáo viên còn nêu lên những khó khăn khác như: cá nhân
trẻ hiếu động, khó ngủ chính là đặc điểm của từng cháu, giáo viên quá bận
rộn…
Điều tra này được thể hiện qua bảng 5:
Khó khăn
Cơ sở vật chất
Số lượng trẻ (nhiều)
Số phiếu (Tổng 25)
18/25
7/25
Số phần trăm (%)
72

28
Bảng 5: Kết quả của việc tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ ở trường mầm
non có những khó khăn gì.
Với kết quả trên thì đa số giáo viên đã chỉ ra rằng: Trong quá trình tổ
chức giấc ngủ trưa cho trẻ ở trường mầm non còn gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt là khó khăn về cơ sở vật chất và số lượng trẻ trong lớp.
Trả lời câu hỏi 4: Những đánh giá của chị về thực trạng ngủ trưa của
trẻ ở trường mầm non.
*Về tiêu chí “ ngủ nhanh”
- Có 10/25 (chiếm 40%) số giáo viên đánh giá mức độ đạt được là tốt.
- Có 12/25 (chiếm 48%) số giáo viên đánh giá mức độ đạt được là trung
bình.
- Có 3/25 (chiếm 12%) số giáo viên đánh giá mức độ là chưa tốt.
*Về tiêu chí “ ngủ sâu giấc”
- Có 16/25 (chiếm 64%) số giáo viên đánh giá mức độ đạt được là tốt.
- Có 7/25 (chiếm 28%) số giáo viên đánh giá mức độ đạt được là trung
bình.
- Có 2/25 (chiếm 8%) số giáo viên đánh giá mức độ là chưa tốt.

23


*Về tiêu chí “ ngủ đủ thời gian cần thiết”
- Có 11/25 (chiếm 44%) số giáo viên đánh giá mức độ đạt được là tốt.
- Có 12/25 (chiếm 48%) số giáo viên đánh giá mức độ đạt được là trung
bình.
- Có 2/25 (chiếm 8%) số giáo viên đánh giá mức độ là chưa tốt.
Điều tra này được thể hiện qua bảng 6:
Tiêuchí


Mức độ
Số phiếu
(Tổng25)
Số phần
trăm
(%)

Ngủ nhanh

Ngủ đủ thời gian cần
thiết

Ngủ sâu

Tốt

Trung
bình

Chưa
tôt

Tốt

Trung
bình

Chưa
tốt


Tốt

Trung
bình

Chưa
tốt

10/25

12/25

3/25

16/25

7/25

2/25

11/25

12/25

2/25

40

48


12

64

28

8

44

48

8

Bảng 6: Kết quả đánh giá về thực trạng ngủ trưa của trẻ ở trường mầm
non.
Như vậy, theo điều tra thì tôi thấymức độ tốt và trung bình ở ba tiêu chí
của giấc ngủ: ngủ nhanh, ngủ sâu, ngủ đủ thời gian cần thiết là tương đương
nhau và được đáng giá cao.
Trả lời câu hỏi 5:Theo chị những nguyên nhân nào dưới đây làm ảnh
hưởng đến giấc ngủ trưa của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non.
- Có 5/25 (chiếm 20%) số giáo viên trả lời là do mức độ hoạt động của
trẻ.
- Có 20/25 (chiếm 80%) số giáo viên trả lời là do tình trạng sức khỏe của
trẻ.
- Không có ý kiến khác
Điều tra được hiện qua bảng 7:
Nguyên nhân

Do mức độ hoạt


24

Do tình trang sức

Ý kiến khác


Số phiếu
(Tổng 25)
Số phần trăm (%)

động của trẻ

khỏe của trẻ

5/25

20/25

0/25

20

80

0

Bảng 7: Kết quả nguyên nhân ảnh hưởng đến giấc ngủ trưa của trẻ .
Kết quả điều tra cho thấy: đa số giáo viên (20/25 giáo viên,chiếm 80%)

cho rằng tình trạng sức khỏe của trẻ là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến giấc
ngủ của trẻ. Số giáo viên cho rằng mức độ hoạt động là nguyên nhân làm ảnh
hưởng đến giấc ngủ của trẻ chiếm tỉ lệ thấp (20%).
Trả lời câu hỏi 6: Theo kinh nghiệm của chị thì tổ chức giấc ngủ trưa
cho trẻ ở trường mầm non như thế nào là có hiệu quả?
- Có 5/25 (chiếm 20%)số giáo viên trả lời là cho trẻ tham gia tích cực
vào các hoạt động.
- Có 9/25 (chiếm 36%) số giáo viên trả lời là tiến hành vệ sinh cho trẻ.
- Có 11/25 (chiếm 44%) số giáo viên trả lời là cho trẻ đi ngủ đúng giờ.
- Ngoài ra các giáo viên còn nêu ra các ý kiến khác như: phải khắc phục
những khó khăn về cơ sở vật chất, quan tâm đến trẻ cá biệt.
Điều tra này được thể hiện qua bảng 8:
Hiệu quả
Số phiếu
(Tống 25)
Số phần trăm (%)

Cho trẻ tích cực
tham gia vào các
hoạt động

Tiến hành vệ sinh Cho trẻ đi ngủ
cho trẻ
đúng giờ

5/25

9/25

11/25


20

36

44

Bảng 8: Kết quả việc tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ ở trường mầm non
như thế nào là hiệu quả.
Với kết quả thu được chúng tôi nhận thấy: để tổ chức giấc ngủ cho trẻ ở
trường mầm non có hiệu quả thì hầu hết giáo viên cho rằng nên vệ sinh cho

25


×