Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh của tổng công ty bảo hiểm dầu khí việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.06 KB, 91 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp
bảo hiểm nói riêng vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, mọi hoạt động đều mang
đặc trưng kinh doanh, lấy lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. Chiến lược kinh
doanh của DNBH đều đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu.
Năm 2008 chứng kiến cơn khủng hoảng kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn
cầu, ảnh hưởng sâu sắc tới nền kinh tế nước ta, khiến thị trường chứng khoán
suy thoái, hoạt động đầu tư giảm sút, thị trường bất động sản đóng băng, lãi
suất biến động… gây ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh
của nhiều doanh nghiệp…Trong bối cảnh bất lợi của kinh tế thế giới, GDP
của Việt Nam vẫn tăng trưởng ở mức 6.18%, tuy thấp hơn so với năm 2007
nhưng vẫn tạo ra những nhân tố ảnh hưởng tích cực đối với sự tăng trưởng
của thị trường bảo hiểm. Môi trường Bảo hiểm tại Việt Nam hiện đang là
mảnh đất rất màu mỡ, để các tập đoàn tài chính tiếp tục chia sẻ thị phần.
Trong năm 2008, thị trường vẫn tiếp tục được mở rộng và phát triển với sự ra
đời của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, môi giới, bao
gồm cả doanh nghiệp trong và nước ngoài. Tăng trưởng doanh thu của thị
trường vẫn duy trì ở mức cao. Không nằm ngoài sự phát triển chung đó, PVI
cũng đạt được những thành tựu đáng khen ngợi và hứa hẹn sẽ gặt hái được
thêm nhiều thành công mới trong những năm tiếp theo.
Trong quá trình thực tập tại phòng tài chính - kế toán của PVI, cùng với
sự hướng dẫn và giúp đỡ của các anh chị trong Phòng, em đã lựa chọn đề tài
“Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty bảo hiểm dầu
khí Việt Nam”.
Nội dung khoá luận được chia làm ba chương:
Chương I: Tổng quan về bảo hiểm và công tác đánh giá kết quả, hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm.
1


Chương II: Phân tích kết quả và hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty


bảo hiểm dầu khí Việt Nam.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của
PVI.
Trong quá trình thực tập và thực hiện bài viết này em đã nhận được sự
hướng dẫn rất tận tình của cô Phạm Thị Định cũng như của các anh chị trong
phòng tài chính kế toán của PVI. Tuy nhiên do thời gian và điều kiện có hạn
nên bài viết của em sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được
sự góp ý của các thầy cô và các anh chị trên công ty để bài viết của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2009
Nguyễn Ngọc Quỳnh

2


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ CÔNG TÁC ĐÁNH
GIÁ KẾT QUẢ, HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DNBH
1.1

Khái quát chung về bảo hiểm

1.1.1

Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm

Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy
cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân:

- Các rủi ro thiên nhiên gây ra như: bão, lụt, hạn hán, động đất, sét… làm
ảnh hưởng đến sản xuất, đến đời sống và đến sức khoẻ của con người.
- Các rủi ro do biến động của khoa học và công nghệ. Khoa học kỹ thuật
và công nghệ phát triển làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người; nhưng mặt
khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như: tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, tai nạn ôtô… và làm tăng nguy cơ mất việc làm của người lao động.
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Những rủi ro này chịu tác động của
nhiều yếu tố và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi thành viên trong xã hội như: ốm
đau, dịch bệnh, mất việc làm, trộm cắp, hoả hoạn.
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường gây cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều
tài sản, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp,
cá nhân và làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khắc phục
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả của rủi ro gây ra. Hiện nay, theo
quan điểm của các nhà quản lý rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi
ro và hậu quả do rủi ro gây ra – đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và
3


nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro.
- Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh
rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được
sử dụng để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
+ Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc
sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện
pháp thích hợp để né tráng rủi ro có thể xảy ra, tức là loại trừ cơ hội dẫn đến
tổn thất. Chẳng hạn, để tránh tai nạn giao thông người ta hạn chế đi lại…để
tránh tai nạn lao động người ta chọn những nghề không nguy hiểm…Tránh né

rủi ro chỉ với những rủi ro có thể tránh được. Nhưng cuộc sống có rất nhiều
rủi ro bất ngờ không thể tránh né được.
+ Ngăn ngừa tổn thất – các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành
động nhằm làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví
dụ, để giảm thiểu các tai nạn lao động, người ta tổ chức các khoá học nâng
cao chất lượng các hoạt động đảm bảo an toàn lao động…
+ Giảm thiểu tổn thất - người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các
biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, như khi có
hoả hoạn, để giảm thiểu tổn thất, người ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng
được.
Mặc dù biện pháp kiểm soát rủi ro có hiệu quả trong việc ngăn chặn hoặc
giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường hết
được hậu quả.
- Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi
ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với
mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do các rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro – đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất tự chấp
nhận khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự
bảo hiểm. Có nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro, tuy
4


nhiên có thể phân chia làm hai nhóm:
* Chấp nhận rủi ro thụ động: là khi tổn thất xảy ra, người ta không có sự
chuẩn bị trước và có thể vay mượn để khắc phục hậu quả tổn thất.
* Chấp nhận rủi ro chủ động: là khi người ta lập ra quỹ dự trữ, dự phòng
và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy nhiên,
việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu hoặc
nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất…
+ Bảo hiểm - đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý

rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý
rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm
xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do
việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về tổn thất do
rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách
quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và
không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày
nay, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia càng phát triển thì bảo
hiểm cũng ngày càng mở rộng.
Vì vậy, khái niệm “bảo hiểm” trở nên gần gũi, gắn bó với con người, với
các đơn vị sản xuất kinh doanh. Có được quan hệ đó vì bảo hiểm mang lại lợi
ích kinh tế - xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị có tham gia bảo
hiểm.
1.1.2

Tác dụng của bảo hiểm

Bảo hiểm nói chung hay bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thương mại nói riêng
mang lại lợi ích thiệt thực về kinh tế xã hội.
- Bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước tổn thất
do rủi ro gây ra.
Rủi ro do thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây thiệt hại về kinh tế, ảnh
5


hưởng đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của các cá nhân, doanh
nghiệp tham gia bảo hiểm, chưa kể có lúc gây thiệt hại về người. Tổn thất đó
sẽ được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để người tham gia
nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh. Từ

đó, họ khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác một
cách bình thường. Tác động này phù hợp với mục tiêu kinh tế nên thu hút
được số đông người tham gia.
- Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống
con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân,
mỗi doanh nghiệp.
Khi tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ cùng với
người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất rủi ro đã
gây ra. Cơ quan, công ty bảo hiểm đóng góp tài chính một cách tích cực để
thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng dẫn các biện
pháp phòng tránh tai nạn, mua sắm thêm các dụng cự phòng cháy chữa cháy,
cùng ngành giao thông làm các biển báo, các đường lánh nạn…
- Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước.
Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan, công ty
bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho
người tham gia để họ khôi phục đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy, ngân
sách Nhà nước không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh
nghiệp khi gặp rủi ro, trừ trường hợp tổn thất có tính thảm hoạ, mang tính xã
hội rộng lớn.
Mặt khác, hoạt động bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại có trách
nhiệm đóng góp vào ngân sách thông qua các loại thuế, tức tăng thu cho ngân
sách.
- Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế
xã hội.
6


Dưới hình thức phí bảo hiểm, ngành bảo hiểm đã huy động được một số
lượng vốn khá lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài chi trả trợ cấp hay
bồi thường thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế xã hội.

Đặc biệt đối với bảo hiểm nhân thọ, nguồn vốn huy động được tích luỹ
thời gian dài mới sử dụng để chi trả. Do đó, các công ty bảo hiểm có thể sử
dụng để kinh doanh bất động sản, mua trái phiếu… nghĩa là dùng đầu tư và
hoạt động kinh tế để sinh lời. Và như vậy, góp phần tăng nguồn vốn cho nền
kinh tế, làm cho hệ thống tài chính sôi động hơn.
- Bảo hiểm góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước
thong qua hoạt động tái bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm nội địa và thị trường bảo hiểm quốc tế có mối quan
hệ qua lại, thúc đẩy nhau phát triển thông qua hình thức phân tán rủi ro và
chấp nhận rủi ro – hình thức tái bảo hiểm giữa các công ty của các nước. Như
vậy, bảo hiểm vừa góp phần phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước, vừa góp
phần ổn định thu, chi ngoại tệ cho ngân sách.
- Bảo hiểm thu hút một số lượng lao động nhất định của xã hội, góp phần
giảm bớt tình trạnh thất nghiệp cho xã hội. Đồng thời hoạt động bảo hiểm
cũng góp phần giải quyết đời sống cho bộ phận lao động làm việc trong ngành
bảo hiểm, góp phần tạo ra một bộ phận tổng sản phẩm quốc nội.
- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế - xã
hội, giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Bởi vì, với một giá khiêm tốn (phí bảo hiểm), bảo hiểm có thể giúp đỡ
các gia đình, các tổ chức khắc phục hậu quả những rủi ro khôn lường.
1.1.3

Bản chất

1.1.3.1 Định nghĩa về bảo hiểm
Cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về bảo hiểm mà người
ta chỉ đưa ra các quan niệm khác nhau về bảo hiểm theo các góc độ tiếp cận
7



khác nhau.
Về mặt pháp lí:“Bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền
do những người có cùng khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp nên”.
Định nghĩa này mới đề cập đến phương thức lập quỹ dự trữ bảo hiểm, mà
chưa rõ phương thức sử dụng nó.
Về mặt quản trị rủi ro:“Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm
cam kết bồi thường (theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm
trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện
người tham gia bảo hiểm nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người
thứ ba”. Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người
bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham
gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc
bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo
hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm.
Về mặt cơ chế hoạt động: Có định nghĩa chỉ rõ đặc trưng riêng của một
loại bảo hiểm. Chẳng hạn “Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo đời sống vật chất
cho người lao động và gia đình họ khi có nguy cơ mất an toàn về kinh tế do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động thông qua sử dụng nguồn quỹ huy động từ
người tham gia và sự tài trợ của Nhà nước”. Định nghĩa này chỉ rõ mục đích
của bảo hiểm xã hội là đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình
thông qua sử dụng quỹ huy động từ người tham gia (người sử dụng lao động
và người lao động) và sự tài trợ của Nhà nước để trợ cấp cho người lao động
bị giảm sức lao động (do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…),
hoặc mất sức lao động.
1.1.3.2 Quan niệm về bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm thương mại còn được gọi là bảo hiểm rủi ro hay bảo hiểm kinh
doanh - được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh với việc quản lý
các rủi ro. Xã hội càng phát triển với các cuộc cách mạng công nghiệp, cách
8



mạng thông tin, bảo hiểm càng khẳng định sự có mặt không thể thiếu được
trong mọi hoạt động của con người bởi rủi ro nhiều hơn, các nhu cầu an toàn
cũng lớn hơn.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về bảo
hiểm thương mại mà người ta chỉ đưa ra các quan niệm khác nhau về BHTM
theo các góc độ tiếp cận khác nhau. Nhìn nhận bảo hiểm như một cơ chế
chuyển giao rủi ro, một tập đoàn bảo hiểm lớn của Mỹ cho rằng “Bảo hiểm là
một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doing nghiệp hay một tổ chức
chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm đó sẽ bồi
thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và
phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm”. (AIG).
+ Dưới góc độ kỹ thuật bảo hiểm, BHTM là biện pháp chia nhỏ tổn thất
của một hay một số ít người khi gặp một loại rủi ro dựa vào một quỹ chung
bằng tiền được lập bởi sự đóng góp của nhiều người cùng có khả năng gặp rủi
ro đó thong qua hoạt động của công ty bảo hiểm. Bằng cách chia nhỏ tổn thất
như vậy, hậu quả lẽ ra rất nặng nề, nghiêm trọng với một hay một số người, sẽ
trở nên không đáng kể, có thể chấp nhận được đối với cộng đồng nhưng
người tham gia bảo hiểm.
+ Dưới góc độ pháp lý, bảo hiểm là một thoả thuận qua đó người tham
gia bảo hiểm cam kết trả cho công ty bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo
hiểm cho mình hoặc cho người thứ ba. Ngược lại, công ty bảo hiểm cũng cần
dựa vào đó cam kết trả một khoản tiền bồi thường khi có rủi ro xảy ra gây tổn
thất”.
BHTM, ở một phương diện khác, chính là tổng thể các mối quan hệ kinh
tế giữa các đơn vị và các cá nhân tham gia bảo hiểm với các công ty bảo hiểm
nhằm khắc phục hậu quả do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra để ổn định đời
sống, khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong một phạm vi nhất định,
bảo hiểm cũng có thể coi là một hoạt động tiết kiệm.

9


Cùng với BHXH, BHTM ra đời là một tất yếu khách quan. Hoạt động
của BHTM mang lại cho các cá nhân, tổ chức và cả cộng đồng những tác
dụng rất to lớn.
1.1.3.3 Bản chất của bảo hiểm
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người
tham gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn
vốn cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thực chất của hoạt động bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản
xuất trong nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính
phát sinh khi tai nạn rủi ro bất ngờ gây tổn thất đối với người tham gia bảo
hiểm.
Phân phối trong bảo hiểm là phân phối không đều, không bằng nhau,
nghĩa là không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân phối với số tiền
như nhau. Phân phối trong bảo hiểm là phân phối cho số ít người tham gia
bảo hiểm không may gặp rủi ro bất ngờ gây thiệt hại đến sản xuất và đời sống
trên cơ sở mức thiệt hại thực tế và điều kiện bảo hiểm. Điều đó cũng có nghĩa,
phân phối trong bảo hiểm không mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia
đóng góp vào quỹ bảo hiểm nhưng không tổn thất thì không được phân phối
(trừ một số sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hưu trí).
Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc “Số đông bù số ít”. Nguyên tắc
này được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù bảo hiểm cũng như quá
trình phân phối bồi thường, quá trình phân tán rủi ro.
Hoạt động bảo hiểm còn liên kết , gắn bó các thành viên trong xã hội
cùng vì lợi ích chung của cộng đồng vì sự ổn định và phồn vinh của đất nước.
Bảo hiểm với nguyên tắc “Số đông bù số ít” cũng thể hiện tính tương trợ, tính
xã hội và nhân văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của mỗi thành viên.
1.2


Đặc điểm kinh doanh bảo hiểm thương mại

KDBH là hoạt động của DNBH vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, mọi hoạt
10


động đều mang tính đặt trưng kinh doanh, lấy lợi nhuận làm mục tiêu phấn
đấu. Chiến lược kinh doanh của DNBH đều đặt mục tiêu lợi nhuận lên hang
đầu. Để đạt mục tiêu đó, hoạt động KDBH phải có những đặt điểm sau:


Đối tượng kinh doanh đa dạng

Khác với BHXH, bảo hiểm thương mại có đối tượng là tài sản, trách
nhiệm dân sự, và con người.
Bảo hiểm tài sản là bảo hiểm giá trị tài sản có thực, ví dụ: bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, bảo hiểm xây dựng lắp đặt,
bảo hiểm xe cơ giới…
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là bảo hiểm trách nhiệm bồi thường của
một chủ thể (chủ tài sản, chủ doanh nghiệp, chủ nghề nghiệp) khi đưa tài sản,
doanh nghiệp hay nghề nghiệp vào hoạt động gây thiệt hại cho người thứ ba.
Chẳng hạn, BHTNTS chủ xe cơ giới, BHTNDS chủ sử dụng lao động…
BHCN có đối tượng bảo hiểm là tính mạng, tình trạng sức khoẻ của con
người, đó là các nghiệp vụ: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn hành khách,
bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật…
Mỗi đối tượng bảo hiểm bao gồm rất nhìều nghiệp vụ cụ thể. Mỗi nghiệp
vụ là một hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp bán sản phẩm
bảo hiểm ra thị trường và thu về phí bảo hiểm. phí đó được tính toán trên cơ
sở khoa học đảm bảo thu bù chi, làm nghĩa vụ đối với nhà nước và có lãi cho

doanh nghiệp.
Với đối tượng bảo hiểm đa dạng như vậy, quy luật số lớn trong KDBH
càng phát huy tác dụng, do đó mục đích lợi nhuận sẽ đạt được.


Hoạt động kinh doah bảo hiểm có vốn pháp định lớn

Nguồn vốn của DNBH bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm thu được, lãi
đầu tư… Trong đó, vốn điều lệ phải đảm bảo như: mức vốn pháp định do luật
quy định. Theo nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2007 quy
định chế độ tài chính đối với DNBH, MGBH, vốn pháp định của DNBH
11


Nhân Thọ là 600 tỷ VNĐ,DNBH Phi nhân thọ là 300 tỷ đồng, DNBH MGBH
là 4 tỷ đồng. Vốn pháp định lớn như vậy là do đặc thù của KDBH – kinh
doanh rủi ro.
•Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn phải có dự phòng nghiệp vụ bảo
hiểm
Doanh nghiệp KDBH phải trích lập DPNV từ phí bảo hiểm của từng
nghiệp vụ (hoặc hợp đồng bảo hiểm đối với bảo hiểm nhân thọ) đối với phần
trách nhiệm giữ lại của doanh nghiệp. Bởi lẽ kinh doanh bảo hiểm có sự tích
luỹ rủi ro, phí bảo hiểm thu được các DNBH phải trích lập dự phòng bồi
thường, dự phòng dao động lớn và dự phòng toán học.
DPNV bảo hiểm của BHNT và phi nhân thọ có khác nhau.
- Đối với DNBH Nhân thọ, dự phòng nghiệp vụ bao gồm:
+ Dự phòng toán học, đây là quỹ dự phòng lớn nhất và quan trọng nhất.
Bởi vì, HĐBH Nhân thọ dài hạn sau khi thu phí, DNBH không được sử dụng
hết mà phải trích lập dự phòng, để trả cho khách hàng khi đáo hạn hợp đồng
hoặc khi người được bảo hiểm bị tử vong.

+ Dự phòng phí chưa được hưởng áp dụng đối với các hợp đồng BHNT
ngắn hạn để trả tiền bảo hiểm sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của
hợp đồng ở năm tiếp theo.
+ Dự phòng bồi thường, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm nhưng chưa được giải quyết cho đến cuối năm tài chính.
+ Dự phòng chia lãi, được sử dụng để chia lãi theo thoả thuận với bên
mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.
+ Dự phòng đảm bảo cân đối được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỉ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật.
- Đối với DNBH Phi nhân thọ, DPBH bao gồm:
+ Dự phòng phí chưa được hưởng dùng để bồi thường cho trách nhiệm,
sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trong năm
12


tiếp theo.
+ Dự phòng bồi thường cho khiếu nại chưa được giải quyết
+ Dự phòng bồi thường cho các dao động lớn. Cụ thể để bồi thường khi
có dao động lớn về tổn thất hoặc tổn thất lớn xảy ra sau khi đã trừ hai loại
DPNV trên không đủ để trả tiền bồi thường thuộc phần trách nhiệm của
DNBH.
•Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn gắn kết với hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư vừa góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều kiện mở
rộng quy mô của doanh nghiệp, tăng quỹ phúc lợi, vừa tăng thu nhập cho
người lao động vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn vốn đầu tư phát triển gồm có vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và
tự nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng, vốn nhàn rỗi từ
DPNV bảo hiểm.



Các DNBH hoạt động kinh doanh phải tuân thủ quy định của

Luật kinh doanh bảo hiểm, các quy định khác của pháp luật có liên quan và
các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Tuân thủ pháp luật cũng như các điều ước quốc tế nhằm đảm bảo kinh
doanh đúng hướng, đạt hiệu quả cao, đảm bảo lợi ích của người tham gia, lợi
ích của DNBH và Nhà nước.
1.3

Đánh giá hiệu quả và kết quả kinh doanh của DNBH

1.3.1

Đánh giá kết quả kinh doanh

Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm, một loại hình bảo hiểm
và của cả DNBH được thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là doanh thu và lợi
nhuận.
Doanh thu của DNBH phản ánh tổng hợp kết quả kinh doanh trong một
thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Nó là cơ sở để tính các chỉ tiêu khác có
liên quan phục vụ phân tích hoạt động kinh doanh trong DNBH. Chỉ tiêu này
13


bao gồm các bộ phận cấu thành: doanh thu về hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, và tái bảo hiểm; thu nhập từ đầu tư và các khoản thu khác.
Chi phí của DNBH là toàn bộ số tiền DNBH chi ra trong kì phục vụ cho
quá trình hoạt động kinh doanh trong vòng 1 năm.
Dựa vào kết quả thu, chi sẽ tính được lợi nhuận mà DNBH thu được

trong năm. Có 2 chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận

=

trước thuế
Lợi nhuận

Tổng

-

Tổng

doanh thu
=

sau thuế

Lợi nhuận

chi phí
-

trước thuế

ThuếTNDN
phải nộp

Các chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận cũng có thể tính riêng cho

từng nghiệp vụ bảo hiểm. Nhưng khi tính toán cần đảm bảo nguyên tắc:
Những khoản thu, chi nào có liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ phải được
tính trực tiếp cho nghiệp vụ đó (như: phí bảo hiểm, chi bồi thường, STBH chi
trả…). Những khoản thu, chi gián tiếp (chi quản lí kinh doanh, thu nhập đầu
tư…) phải được phân bổ theo tỉ lệ giữa doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ so
với tổng doanh thu phí bảo hiểm nói chung
Kết quả kinh doanh từng nghiệp vụ và của cả DNBH có thể phân tích
theo các hướng sau:
-

Phân tích cơ cấu doanh thu và chi phí

-

Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu và lợi nhuận

-

Phân tích sự biến động của doanh thu, chi phí và lợi nhuận theo thời

gian…
-

Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận…

Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận là một trong
những hướng phân tích chủ yếu, nhưng phải xác lập được mối liên hệ giữa
các nhân tố (nguyên nhân), ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận (kết quả).
Sau khi xác lập được mối liên hệ sẽ lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp.
14



Có nhiều phương pháp phân tích song các phương pháp: hồi quy và tương
quan, chỉ số, thay thế liên hoàn được sử dụng khá phổ biến
1.3.2

Đánh giá hiệu quả kinh doanh

1.3.2.1 Khái niệm
Hiệu quả kinh doanh của DNBH là thước đo sự phát triển của bản than
doanh nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết
quả kinh doanh nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
- Với tư cách là thước đo sự phát triển của DNBH, hiệu quả kinh doanh
thể hiện ở các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế, xã hội khác nhau. Nhưng không phải
tất cả các chỉ tiêu kinh tế, xã hội đều là chỉ tiêu hiệu quả. Các chỉ tiêu hiệu
quả kinh doanh chỉ có thể được phản ánh bằng tỉ lệ giữa kết quả và chi phí.
Nếu lấy mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so với một chỉ tiêu phản
ánh chi phí, ta được một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh. Khi đánh giá tốc độ
phát triển kinh doanh của DNBH có thể dùng nhiều chỉ tiêu để phản ánh như:
Tốc độ tăng doanh thu, tốc độ tăng lợi nhuận…nhưng đó chỉ là những chỉ tiêu
bề nổi
Các chỉ tiêu “bề sâu” phải là những chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Bởi vì tốc
độ, tăng doanh thu hay lợi nhuận chỉ nói lên động thái của kết quả kinh
doanh, chứ chưa đề cập đến chi phí trong kinh doanh. Nếu chi phí tăng nhanh
và sử dụng lẵng phí thì về lâu dài, tốc độ tăng đó sẽ không có ý nghĩa và hoàn
toàn không có hiệu quả.
- Việc phản ánh tình hình sử dụng các loại chi phí trong việc tạo ra
những kết quả kinh doanh là nội dung cơ bảo của hiệu quả kinh doanh nói
chung và hiệu quả KHBH nói riêng. Nội dung này được phản ánh bởi nhiều
chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu này lại mang tính tương đối, tức là nó phản ánh mức đạt

được của một năm để từ đó so với năm trước hoặc những năm trước nữa xem
nó tăng, giảm, biến động như thế nào. Xu hướng biến động nhanh hay chậm
cho thấy sự tốt lên hay xấu đi trong quá trình sử dụng chi phí hoặc các nguồn
15


lực.
- Hiệu quả kinh doanh của DNBH luôn gắn với những mục tiêu kinh tế xã hội. Trước hết, là những mục tiêu của doanh nghiệp, sau đó là của ngành
bảo hiểm và toàn bộ nền kinh tế xã hội. Bởi vì bảo hiểm không chỉ mang tính
kinh tế, mà còn mang tính xã hội. Cho nên, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh
của một DNBH không chỉ xét trên góc độ kinh tế mà còn phải xét trên góc độ
phục vụ xã hội. Nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” trong KDBH càng làm cho
tính chất xã hội của nó rõ nét hơn. Từ đó, làm cho công tác xã hội hoá của bảo
hiểm ngày càng sâu rộng. Bởi vậy, hiệu quả xã hội của DNBH cũng phải
được phản ánh ở trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả
phục vụ xã hội của doanh nghiệp.
- Mỗi DNBH không chỉ đơn thuần kinh doanh bảo hiểm, mà còn kinh
doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi
của mình. Những doanh nghiệp hoạt động lâu năm, quy mô lớn ,. đặc biệt là
doanh nghiệp BHNT thì nguồn vốn nhàn rỗi thường rất lớn, nguồn vốn này
rất thực chất là quỹ dự trữ, dự phòng, quỹ chi trả bảo hiểm chưa dùng đến.
Việc đưa số vốn này vào kinh doanh là cần thiết để khắc phục tình trạng lạm
phát, tạo thêm lợi nhuận, góp phần tăng trưởng quỹ dự trữ và quỹ chi trả.
Ngoài ra, nếu sử dụng có hiệu quả, còn bổ sung thêm vào quỹ điều hành để
tăng thu nhập cho người lao động. Thậm chí còn dùng để thưởng cho người
tham gia bảo hiểm liên tục với STBH lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
khai thác bảo hiểm sau này.
1.3.2.2 Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của

DNBH

Xét trên phương diện thống kê, để biểu hiện và đo lường hiệu quả kinh
doanh của DNBH, không thể dung một chỉ tiêu, mà phải có một hệ thống chỉ
tiêu. Bởi vì, nội dung của phạm trù hiệu quả kinh doanh rất rộng, và rất phức
tạp. Tính chất phức tạp thể hiện ở ngay bản chất mối quan hệ giữa kết quả và
16


chi phí. Chi phí với tư cách là những yếu tố đầu vào của hoạt động kinh
doanh rất đa dạng và bao gồm nhiều loại. Ở góc độ kinh tế vĩ mô, nếu hiểu
theo nghĩa rộng, chi phí bao gồm toàn bộ nguồn nhân tài, vật lực huy động
vào hoạt động kinh doanh. Còn đaị lượng kết quả lại được thể hiện ở nhiều
chỉ tiêu khác nhau. Việc tính toán và xác định mỗi chỉ tiêu, việc lựa chọn chỉ
tiêu nào để phán ảnh hiệu quả là những vấn đề phức tạp. Vì thế, để đánh giá
hiệu quả kinh doanh của DNBH phải sử dụng một hệ thống chỉ tiêu. Mỗi chỉ
tiêu phản ánh một mặt, một quá trình kinh tế nào đó.
Nếu kí hiệu một chỉ tiêu chi phí nào đó là C và một chỉ tiêu kết quả kinh
doanh nào đó là K , thì chỉ tiêu hiệu quả H được tính từ hai chỉ tiêu trên sẽ là:
K

C

H= –

hoặc H = —

C

K

Như vậy, về nguyên tắc cứ mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so

sánh với một chỉ tiêu chi phí nào đó sẽ tạo ra một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
kinh doanh tính theo chiều thuận K/C hoặc chiều ngược lại C/K. Nếu có n chỉ
tiêu kết quả mà m chỉ tiêu chi phí thì số lượng chỉ tiêu hiệu quả sẽ là 2m.n
a) Nếu đứng trên góc độ kinh tế: Hiệu quả kinh doanh của DNBH được
đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí chi ra trong kỳ:
Hd = D/C

(1)

He= L/C

(2)

Trong đó:
Hd, He : Hiệu quả kinh doanh của DNBH tính theo doanh thu và lợi
nhuận
D

: Doanh thu trong kỳ

L

: Lợi nhuận thu được trong kỳ

C

: Tổng chi phí chi ra trong kỳ.

Chỉ tiêu (1) nói lên cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu
17



đồng doanh thu, còn chỉ tiêu (2) phản ánh cứ 1 động chi phí chi ra trong kỳ thì
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho DNBH. Các chỉ tiêu trên càng lớn càng
tốt, vì với chi phí nhất định, doanh nghiệp sẽ có mức doanh thu và lợi nhuận
càng tăng.
b) Nếu trên góc độ xã hội: Hiệu quả kinh doanh của DNBH được thể
hiện ở 2 chỉ tiêu sau:
KTG
Hx = –—

(3)

CBH
KBT
Hx =
Trong đó:

—–

(4)

CBH

Hx: Hiệu quả xã hội của công ty bảo hiểm
CBH: Tổng chi phí cho hoạt động KDBH trong kỳ
KTG: Số khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ
KBT: Số khách hàng được bổi thường trong kỳ
Chỉ tiêu (3) phản ánh một đồng chi phí chi ra trong kỳ đã thu hút được
bao nhiêu khách hàng tham gia bảo hiểm. Còn chỉ tiêu (4) nói lên cùng với

đồng chi phí đó đã góp phần giải quyết và khắc phục hậu quả cho bao nhiêu
khách hàng gặp rủi ro trong kỳ nghiên cứu. Tất cả các chỉ tiêu trên phản ánh
tổng hợp nhất mọi mặt hoạt động kinh doanh của DNBH.
Nếu xem xét ở từng mặt, từng khâu và từng nghiệp vụ bảo hiểm có thể
tính được các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau để phục vụ cho quá trình đánh giá
và phân tích hoạt động kinh doanh. Tuy vậy, tất cả các chỉ tiêu hiệu quả đều
phải đảm bảo nguyên tắc khi xây dựng, điều đó có nghĩa là mỗi chỉ tiêu phải
phản ánh được trình độ sử dụng loại chi phí nào đó, trong việc tạo ra những
kết quả nhất định.
18


1.3.3

Các nhân tố tác động đến kết quả, hiệu quả kinh doanh

•Nhân tố quản trị doanh nghiệp.
Nhân tố quản trị doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp chú trọng đến
việc xác định cho doanh nghiệp một hướng đi đúng đắn trong môi trường
kinh doanh ngày càng biến động. Định hướng đúng là cơ sở để đảm bảo hiệu
quả lâu dài của doanh nghiệp.
Đội ngũ quản trị mà đặc biệt là các nhà quản trị cao cấp lãnh đạo doanh
nghiệp bằng phẩm chất và tài năng của mình có vai trò quan trọng, có tính
chất quyết định đến sự thành đạt của doanh nghiệp. Kết quả và hiệu quả hoạt
động của quản trị doanh nghiệp đều phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên
môn của đội ngũ các nhà quản trị cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị
doanh nghiệp, việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ
phận, cá nhân và thiết lập các mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ
chức đó.

•Nhân tố vốn
Đây là một nhân tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông
qua khối lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh
doanh, khả năng phân phối, đầu tư có hiệu quả các nguồn vốn cũng như khả
năng quản lý các nguồn vốn kinh doanh.
Yếu tố vốn là yếu tố chủ chốt quyết định đến quy mô của doanh nghiệp.
Nó phản ánh sự phát triển của doanh nghiệp và là cơ sở đánh giá hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp trong kinh doanh.
•Môi trường chính trị - pháp lý
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật,… Mọi quy định
pháp luật về kinh doanh đều tác động trực tiếp kết kết quả và hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý đảm bảo tính bình đẳng của

19


mọi loại hình doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh, cạnh tranh nhau một
cách lành mạnh, mỗi doanh nghiệp đều phải chú ý phát triển nội lực, ứng
dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và khoa học quản trị tiên tiến nhằm phát
triển kinh doanh của mình.
Các yếu tố thuộc môi trường chính trị - pháp luật chi phối mạnh mẽ đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự ổn định chính trị được coi là một
tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thay đổi
của môi trường chính trị có thể ảnh hưởng có lợi cho một nhóm doanh nghiệp
này nhưng lại kìm hãm sự phát triển của nhóm doanh nghiệp khác hoặc ngược
lại. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luật trong nền kinh tế có
ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp.
Tóm lại, môi trường chính trị - pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách tác động đến hoạt động của doanh

nghiệp thông qua hệ thống công cụ luật pháp, công cụ vĩ mô…
Bộ Tài chính công bố cam kết gia nhập WTO theo đó, cam kết của Việt
Nam cho phép các công ty bảo hiểm hoạt động tại nước ngoài được cung cấp
dịch vụ bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam, dịch vụ tái bảo hiểm, dịch vụ bảo hiểm đối
với vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ về định phí, tư
vấn…
Theo cam kết, không có hạn chế nào đối việc thành lập pháp nhân của
công ty bảo hiểm nước ngoài, ngoại trừ dịch vụ bảo hiểm bắt buộc sẽ chỉ
được mở cửa cho công ty 100% vốn nước ngoài vào đầu năm 2008. Về chi
nhánh, cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài thành lập chi nhánh bảo hiểm
phi nhân thọ sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO và không cho phép thành lập
chi nhánh bảo hiểm nhân thọ.
•Đối thủ cạnh tranh
20


Nếu doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh thì việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều. Bởi vì doanh nghiệp lúc này có thể
nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm
phí BH để tăng doanh thu, tăng nguồn vốn đầu tư,yêu cầu doanh nghiệp phải
tổ chức lại bộ máy hoạt động tối ưu hơn, hiệu quả cao hơn để tạo khả năng
cạnh tranh về giá cả, chất lượng…Như vậy đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng
rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời tạo
ra sự tiến bộ trong kinh doanh, tạo ra động lực phát triển của doanh nghiệp.
Việc xuất hiện càng nhiều đối thủ cạnh tranh thì việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp sẽ càng khó khăn và sẽ bị giảm một cách tương đối.

21



CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ, HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA TỔNG
CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM DẦU KHÍ VIỆT NAM PVI GIAI
ĐOẠN 2005 - 2008
2.1

Gíơi thiệu chung về PVI

2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam (PVI), thành
viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, được thành lập năm 1996. Sau
hơn 10 năm hoạt động, PVI đã có những bước phát triển vượt bậc, với vốn
điều lệ 851 tỷ đồng, doanh thu năm 2008 đạt 2668 tỷ đồng và hiện thứ hai về
thị phần thị trường bảo hiểm phi nhân thọ và tiếp tục giữ vững vị trí đứng đầu
lĩnh vực bảo hiểm công nghiệp.
Năm 2008 khép lại với bối cảnh nền kinh tế thế giới khủng hoảng, tuy
nhiên kết quả kinh doanh đã thể hiện sự điều hành sáng suốt của Ban lãnh đạo
cũng như nỗ lực của tập thể các thành viên PVI, khẳng định sự phát triển
không ngừng của PVI.
Tiếp nối những thành quả đã đạt được, cùng với những mục tiêu kinh
doanh năm 2009 mà HĐQT & Ban lãnh đạo đề ra, Tổng giám đốc và toàn thể
cán bộ, nhân viên PVI cam kết cùng nhau hoàn thành kế hoạch với tổng
doanh thu là 3.006 tỷ đồng
Trong 5 năm đầu thành lập, PVI đã duy trì và củng cố hoạt động của
mình với tổng doanh thu đạt 514 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước trên 48 tỷ
đồng và 30 tỷ đồng lợi nhuận, đây là giai đoạn Công ty tập trung gây dựng cơ
sở vật chất và đào tạo đội ngũ nhân viên của mình.
Năm 2001, thị trường bảo hiểm có nhiều biến động lớn, hàng loạt các
biến động lớn do thiên tai, khủng bố, khủng hoảng kinh tế khu vực, …Với

bản lĩnh và chiến lựơc kinh doanh hợp lý, PVI đã khẳng định được vị thế của
22


mình: doanh thu đạt 187 tỷ đồng tăng 167% so với năm 2000, các nhà bảo
hiểm và môi giới Quốc tế nhìn nhận vai trò chủ đạo của PVI trên thị trường
bảo hiểm năng lượng Việt Nam. Điển hình là việc PVI đã thu xếp bảo hiểm
an toàn, cấp đơn bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế cho tài sản, hoạt động của
Xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsopetro. Năm 2002, PVI đã tận dụng lợi thế
thương hiệu và năng lực tài chính của mình để vươn lên thống lĩnh thị trường
ở lĩnh vực bảo hiểm hàng hải và xây dựng lắp đặt.
Từ năm 2005, PVI đã có những bước trưởng thành quan trọng về cung
cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án dầu khí lớn tại nước ngoài và tăng cường
nhận tái bảo hiểm từ Triều Tiên, Trung Quốc… Từ đó PVI thành lập các chi
nhánh khu vực và phát triển mạng lưới đại lý chuyên nghiệp trên khắp các
tỉnh thành trong cả nước. Việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý theo
tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001:2000 từ năm 2002 đến nay đã giúp kiểm soát
chặt chẽ quy trình cấp đơn bảo hiểm và kiểm soát nội bộ đảm bảo chất lượng
dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Năm 2006, PVI đã đánh dấu chặng đường 10 năm hình thành và phát
triển bằng sự kiện đạt doanh thu 1.000 tỷ vào ngày 26/9/2006 cùng với việc
vốn và tài sản được nâng lên đáng kể. Tháng 9/2006, Bộ Công nghiệp và
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã có Quyết định cổ phần hóa PVI với
mục tiêu tăng cường năng lực cạnh tranh và xây dựng PVI trở thành một
Tổng công ty cổ phần mạnh trong định chế Bảo hiểm - Tài chính của Tập
đoàn. Ngày 12/4/2007 là ngày Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt
Nam chính thức ra mắt, đánh dấu sự chuyển mình cho những thành công rực
rỡ tiếp theo
Năm 2008 là năm quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển
thương hiệu Bảo hiểm Dầu khí – PVI và là năm thứ 8 liên tiếp hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ kế hoạch do Tập đoàn giao với tổng doanh thu đạt 2668 tỷ
đồng, lợi nhuận đạt trên 171 tỷ đồng.
23


Chiến lược phát triển PVI đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2025 trở
thành Tổng công ty Bảo hiểm - Tài chính hàng đầu thông qua việc chiếm lĩnh
thị trường trong nước, phát triển ra thị trường quốc tế đối với mảng kinh
doanh bảo hiểm và triển khai mạnh các hoạt động đầu tư Tài chính. (Theo
PVI)
2.1.2 Cơ cấu tổ chức

24


Sơ đồ 2.1: Cơ cấu bộ máy tổ chức của PVI
ĐẠI HỘI ĐỒNG
CỔ ĐÔNG

BAN KIỂM SOÁT

BAN BH
NĂNG LƯỢNG

BẢO
HIỂM
GỐC

HỘI ĐỒNG QUẢN
TRỊ


BAN TỔNG GIÁM
ĐỐC

BAN BH
KỸ THUẬT
BAN BH
HÀNG HẢI
BAN BH
DỰ ÁN

TÁI
BẢO
HIỂM

NHẬN TÁI BẢO HIỂM

NHƯỢNG TÁI BẢO
HIỂM
BAN
TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
BAN
TỔ CHỨC NHÂN SỰ
BAN KẾ HOẠCH VÀ
PHÁT TRIỂN KINH
DOANH

QUẢN



BAN
TỔNG HỢP & PHÁP
CHẾ
VĂN PHÒNG

BAN QUẢN LÝ RỦI RO
& BỒI THƯỜNG
BAN TIN HỌC &
THÔNG TIN
BAN QUẢN LÝ BẢO
HIỂM VÀ ĐÀO TẠO

ĐẦU TƯ
TÀI
CHÍNH

CÁC CÔNG
TY THÀNH
VIÊN

CÁC CÔNG
TY LIÊN
KẾT

VĂN PHÒNG ĐẠI
DIỆN PHÍA NAM

BAN
ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
BAN CHỨNG KHOÁN

& DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
CÔNG TY THÀNH
VIÊN TRONG NƯỚC
CÔNG TY THÀNH
VIÊN VPĐD NƯỚC
NGOÀI
CÔNG TY CP ĐẦU TƯ
TÀI CHÍNH PVI
CÔNG TY CP ĐẦU TƯ
& PHÁT TRIỂN

* Chức năng của các phòng ban trực thuộc Tổng công ty
- Ban bảo hiểm Năng lượng: Kinh doanh bảo hiểm trong lĩnh vực tìm
25


×